KẾT LUẬN GIỚI BỔN VÀ GIỚI HÀNH
KẾT LUẬN GIỚI BỔN
Bốn tháng để xem coi ông đó như thế nào, trong
kinh điển của Phật nói rất rõ mà, đâu có phải muốn vô là vô đâu? Còn cái người
cư sĩ hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh đến nghe pháp rồi xin đức Phật xuất gia
là ĐứcPhật chấp nhận liền tại vì ông ta không có kiến giải, không có cái kiến
chấp, cho nên do đó mà đức Phật nhận liền. Còn cái loại mà ngoại đạo là có cái
kiến chấp của họ rồi, họ có đầy ắp ở trong cái đầu họ thế này, thế kia rồi. Cho
nên bốn tháng coi họ sống được hay không. Mà nếu sống được thì mới sống trong
cái giới pháp của Phật được, mới chấp nhận, còn sống không được trong giới pháp
thì mời họ ra đi liền chứ đừng có mong là cho ở trong đó.
Cho nên cái Lục quần Tỳ kheo tăng với cái Lục quần
Tỳ kheo ni này ấy, là những cái bọn này làm sao mà sống được ở trong cái giáo
pháp của Phật được, cái hành động mà phạm như vậy thì trong một ngày thôi cũng
không được nữa chứ đừng nói chi là ở trong đó suốt đó để mà chế cả giới bổn như
vậy.
Đáp:
Nhóm Lục quần Tỳ kheo tăng và ni này đều là đại
quyền thị hiện tuyên thông Phật giáo, trong làm rường cột các pháp môn, ngoài
làm đại hộ cho Phật giáo.
Nói dóc không! Thầy thấy hầu như là cái này nói
như vậy thì cái thời gian mà từ khi có giới bổn này có phải là đại vọng ngữ
không, quý thầy xem thì thấy này. Từ khi cái giới bổn này ra đời thì thử hỏi có
vị thanh tịnh tăng nào không hay là tất cả toàn bộ là phạm giới hết? Tìm lại
một ông tăng mà thanh tịnh giới, chúng ta có thấy không? Nhưng mà trước kia
chưa có giới bổn, mười hai năm mà trở về trước đó, chúng ta thấy có những bậc
Thánh tăng thanh tịnh giới. Còn trở về sau này chúng ta thấy giới bổn ra đời
rồi có không mà nói rằng rường cột của Phật giáo? Rường cột cái đó kiểu là chôn
Phật giáo chứ rường cột gì?
Lục quần Tỳ kheo
ni, tăng - ni đều là đại quyền thị hiện tuyên thông Phật giáo. Tuyên thông cái khỉ gì, đem Phật giáo mà chôn xuống đất chứ
ở đó mà tuyên thông! Trong làm rường cột
các pháp môn, rường cột cái khỉ gì, phá giới luật vậy mà rường cột với ai?
Ai mà nương theo mấy cái bà, mấy cái ông này được? Ngoài làm đại hộ cho Phật giáo, hộ cái gì? Thầy nói thật sự mấy ông
này miệng lưỡi dữ lắm, coi như là các vị này đều là Bồ tát cho nên là hộ Phật
giáo lắm, hộ riết rồi cho nên bây giờ nhìn Phật Giáo chúng ta thấy sa đọa, ông
nào cũng ở chùa to, tháp lớn hết, không bao giờ ở cái nhà tranh vách lá. Ông
thầy nào cũng cưỡi xe Dream, lái xe hơi chạy vù vù. Ông nào cũng ăn uống phi
thời. Ông nào cũng hút thuốc cán chứ không cần phải hút thuốc lá nữa.
Đó là những cái đại bộ phận mà bây giờ chúng ta
đã nhìn thấy, không phải là trong cái thời chúng ta mà trước đây cũng vậy nữa.
Thậm chí còn rất tệ nữa là ông thầy còn có vợ, có con ở trong chùa sinh hoạt
cũng như một cái gia đình cư sĩ, không ra gì hết. Đó là cái Giới bổn ra đời đó!
Lúc nào người ta cũng đọc Giới bổn, một tháng hai lần tụng Giới bổn, thế mà
nhìn ông thầy có ra cái quái ôn gì không? Vậy mà nói là Lục quần Tỳ kheo tăng
và ni này đã làm rường cột, đã hộ pháp như vậy, để cho Phật giáo được trường
tồn. Đó là trườn ở dưới, dưới hầm, dưới hố chứ không phải trường ở trên đâu!
Như Lai ở đời là bọn Lục quần đều làm dậy sóng
trong tăng đoàn huống gì riêng tôi ngày nay. Họ đâu biết các bậc thiền xưa
chính vì hậu lai mở giáo lại trở nên sai. Nghĩa là nói như thế này, ý là nói
các cái vị Lục quần Tỳ kheo Tỳ kheo ni này làm cho dậy sóng ở trong tăng đoàn,
để do đó bây giờ chúng ta mới có cái Giới bổn này. Còn nếu không có quậy sóng
như vậy chắc chắn là chưa bao giờ có Giới bổn hết. Nhờ mấy người này mới có
Giới bổn! Mà thử hỏi từ khi mà cái giới bổn này ra đời có đem lại cái gì ích
lợi cho Phật giáo không? Chúng ta thấy hoàn toàn là đem lại cái số tu sĩ phạm
giới không, chạy theo dục lạc không chứ không có một cái gì mà gọi là thanh
tịnh toàn bộ. Thay vì ví gọi các vị này là Bồ tát hạnh đi, làm những cái hạnh
nghịch đi để cho Phật nương vào đó chế giới thì bây giờ ít ra quý thầy, tất cả
tăng - ni của chúng ta phải thanh tịnh giới chứ, sao lại phạm giới hết vậy? Vậy
có phải là nương theo ba cái hạnh sai lầm này để mà phá giới, phạm giới đủ cách
không?
Hỡi ôi! Pháp Phật đã đến hồi vận mạt như thế làm
nhiều người biếng nhác, chẳng giữ nỗi giáo pháp Như Lai, trở sanh chê báng, tạo
nhiều thứ nghiệp nên kinh Bách Dụ nói: Người đời chẳng biết Như Lai pháp dương
vì chúng sanh mà lập nhiều phương tiện chỗ vắng khuyết bèn sanh lòng hủy báng,
bắt chước điều chẳng phải ấy. Do có đó ở trong Phật pháp mất hẳn sự lành, đọa
ba đường dữ. Kinh Phương Đẳng Đại Vấn nói: Đề Bà Đạt Đa khai mở bài giúp người
khiến A tăng kỳ vô lượng chúng sanh an trụ căn lành, bao nhiêu cảnh giới Đề Bà
Đạt Đa thật chẳng phải là chỗ Thinh văn, Duyên giác biết được. Nhóm Lục quần Tỳ
kheo cũng là Đại Bồ tát, Đề Bà Đạt Đa với họ đồng hàng. Nếu ai biết công đức Đề
Bà Đạt Đa, tỏ rõ không nghi, thời phải biết người ấy thật là đệ tử Phật, đặng
một trong hai phần công đức Phật, đặng một mắt của Phật, đặng nửa thân của
Phật. Đừng nói Đề Bà Đạt Đa là tệ ác phá hại chúng ta! Hãy biết đó tức là khéo
phương tiện vậy!
Nghĩa là Đề Bà Đạt Đa toàn phá hoại cái hòa hợp
tăng, chia rẽ tăng đoàn ra. Còn các Lục quần Tỳ kheo thì tạo đủ điều kiện phạm
giới để cho đức Phật chế giới ra, do đó còn gọi là nào là công đức thế này thế
khác. Nhưng thời gian xác minh rằng chúng ta là cái thời sau của các Ngài quá
lâu, chúng ta xác minh từ cái ngày mà Đề Bà Đạt Đa phá tăng đoàn rồi các vị Lục
quần Tỳ kheo tăng và ni này, nhờ đó mà chế ra giới, thì cái thời gian mà từ đó
trở về chúng ta đâu có phải một thế kỷ, hai thế kỷ đâu, rất nhiều thế kỷ mà tu
sĩ chúng ta ra gì, có ra gì không? Từ các bậc Hòa thượng cho đến các vị tu sĩ
Sa di nhỏ chúng ta vẫn thấy hoàn toàn là không đúng chánh pháp của Phật, họ
sống bừa bãi, họ sống không có đúng giới hạnh của người tu, hoàn toàn là chạy
theo sống trong dục lạc. Đó là chúng ta thấy cái thời gian để xác định rằng Đề
Bà Đạt Đa có phải là Bồ tát, Đại Bồ tát không? Có phải là Lục quần Tỳ kheo Đại
Bồ tát không? Nếu là Đại Bồ tát đã thể hiện pháp như vậy thì đời của chúng ta
đâu có phải là thiếu giới thanh tịnh? Cho nên những cái bọn phá này mà còn dùng
mồm mép gọi là Đại Bồ tát thì Thầy thật sự ra Thầy làm sao mà tin được! Nhìn
trong cái thời gian trải dài chúng ta đã xác định được Phật giáo ở cái tầm vóc
nào rồi, cho nên những cái bọn này đâu có nghĩa là bọn Đại Bồ tát, mà đó là cái
bọn danh, bọn lợi. Ngay trong đức Phật là Đề Bà Đạt Đa đã chạy theo danh lợi
chứ chưa phải là Bồ tát gì cả hết. Thỏa mãn cái tâm danh lợi, cho nên mới tìm
cách hại Phật để đoạt cái tăng giáo đoàn chứ đâu phải là cái người tốt? Hạng
này là cái hạng rất xấu mà chính bây giờ chúng ta nhìn thấy Phật giáo chúng ta
chia rẽ, mà từ cái chia rẽ này cho đến cái chia rẽ khác cũng vì cái danh, cái
lợi làm mờ mắt họ do thiếu chánh pháp. Những cái pháp mà gọi là giới luật của
họ, tại sao họ gọi là chánh pháp mà sao không thể sống được, họ không tu được
để họ giữ thanh tịnh giới đi, mà họ lại phạm như vậy?
Hỏi: Giới pháp và nhân quả đối với Sa môn, Đại -
Tiểu thừa thế nào?
Đáp:
Tự vì có ưa giới pháp nên mới ưa Sa môn. Vì giới
pháp là nhân - quả của Sa môn, nếu nhân chẳng ra thì quả không do đâu mà lập.
Người đời nay chẳng học giới pháp Sa môn mà xưng là Sa môn - thật lầm rất lớn lắm
vậy! Hoặc có người nói tôi không vì tôi… Ôi! Nếu mình chưa thông mà muốn thông
người cũng như không biết lội mà nhảy xuống biển cứu người chết chìm há không
đều chìm hết sao? Hoặc nói: Tự có Đại thừa cần gì học Tiểu thừa? Thấy vậy mà
chưa thấu Đại thừa nên mới nói lối đó. Như nhóm lục quần kia, vốn Đại Bồ tát
sao còn bày ra hạnh Tiểu thừa? Đâu biết hộ mình, hộ người chính là bổn hoài của
Bồ tát. Một việc lành nhỏ chẳng bỏ là hoằng tâm của Đại sĩ huống chi là Đại -
Tiểu thông thường đều về nghĩa đế đệ nhất, trang nghiêm cái thân, muôn đức, nếu
bỏ đây còn đâu nữa?
Ở đây, cái người mà viết giới này muốn hòa hợp
giữa Đại thừa và Tiểu thừa. Đó, muốn hòa hợp cả hai cái pháp này lại, nhưng mà
họ không xét rằng cái Đại thừa là như thế nào và cái Tiểu thừa là như thế nào?
Ai đã gọi là Tiểu thừa, mà ai đã gọi là Đại thừa? Cái nào lớn và cái nào nhỏ
đây? Cái nào được giải thoát và cái nào không giải thoát đây? Từ ngày có Đại
thừa ra đời thì con người có giải thoát hay không? Chúng ta đặt câu hỏi để
chúng ta thấy từ cái ngày mà có kinh phát triển mà gọi là Đại thừa thì đến bây
giờ con người có giải thoát không? Có đúng giới luật không và có sống đúng cái
phạm hạnh, giới hạnh không? Đó, thì như vậy chúng ta sẽ hiểu biết được Đại thừa
và Tiểu thừa nó ở cái mức độ nào mà của người sau chúng ta đã làm ra.
Hỏi: Xét về kinh luật Đại thừa và Tiểu thừa có
liên quan ra sao?
Đáp:
Xét rõ kinh luật Đại thừa di quở tâm nhỏ Thinh văn tự độ, chẳng phải các giới hành
Thinh văn nghiêm trì mà là lớn - nhỏ song tu, tánh giá điều hộ mới thuận gốc giải thoát, chẳng trái lời dạy của
đứcTừ tôn, nên trên hội Bát nhã, các Bồ tát tu Bát nhã ba la mật đa phải khéo
biết tu học các oai nghi giới hạnh Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát. Nếu thấy
người oai nghi chẳng xứng chúng bèn hãy lánh xa. Nếu có Sa môn giới hạnh oai
nghi thì nên thân cận. Trong kinh Đại Bảo Tích nói: Bồ tát nếu nghĩ ngợi như
vầy pháp này rất sâu, pháp kia chẳng sâu, pháp này là sạch, pháp kia chẳng sạch,
đây là pháp của chư Phật, này là pháp Duyên giác, này là pháp Thinh văn, pháp
này nên làm, pháp kia chẳng nên làm, đây là pháp sâu, đây là pháp cạn, ấy gọi
là mạn tăng thượng! Lại kinh Bồ Tát Giới nói: Nếu Bồ tát thấy như vầy, nói lời
như vầy, Bồ tát chẳng nên nghe, kinh pháp Thinh văn chẳng nên thọ, chẳng nên
học, Bồ tát dùng pháp Thinh văn làm chi? Ấy gọi là phạm rất nhiều phạm! Nội
phát triển nói: Nếu lễ Bồ tát đọc kinh Đại thừa gọi là lớn chẳng làm việc này,
gọi đó là nhỏ. Tiếng gọi Đại thừa thông qua hai thứ, một là Trung quán, hai là
Du già. Trung quán thì trong tục, có chân, không thể rỗng như huyễn. Du già thì
ngoài, trong không có diệt điều di thức. Đấy đều là dòng thánh giáo, chỉ thị
chi phí, đồng hiệp Niết Bàn, nào chân nào vị, nói nơi dứt hoặc phiền não, cứu
giúp chúng sanh đâu muốn rộng sinh phân vân thêm chìm kết nữa, y theo làm thì
nên bỉ ngạn, trái bỏ thì chìm cả bốn sinh, đây kia đều làm, lý không trái cãi,
đã không mắt huệ, ai xét phải quấy tùy quen lâu mà tu đi, xin đừng nhọc tâm
chia cắt như lời trên nói, hãy tự nghĩ lấy, chẳng cần luận nhiều khác nữa.
Ở đây cũng cái lý luận của một luật sư muốn hợp
giữa Tiểu thừa và Đại thừa, cho nên bởi vì có một số người ở trong góc độ của
Đại thừa thì chê Tiểu thừa là tiêu nha bại chủng, còn có những người mà ở trên
cái góc độ của Tiểu thừa thì cho rằng đó là Phật giáo phát triển Bà la môn. Do
cái sự mà phân chia như vậy đó, cho nên cái mà ông luật sư này ông ấy viết ra
thì ông có cái ý muốn là kết hợp lại. Nhưng sự thật ra thì không thể nào mà
chúng ta nghĩ rằng kết hợp lại, nó đúng thì chúng ta kết hợp, mà nó sai thì làm
sao chúng ta kết hợp được? Giáo pháp của Phật còn rành rành kia mà làm sao
chúng ta kết hợp với những cái chuyện mà nó không đúng? Giới luật của Phật nó
còn rành rành kia mà bắt buộc chúng ta phải chấp nhận Giới bổn của họ thì làm
sao mà chúng ta chấp nhận được? Vì giới luật của Phật là một cái pháp hành, còn
cái Giới bổn của họ là một cái pháp luật thì hai cái này nó khác xa với nhau,
làm sao mà hợp lại được?
Cho nên ở đây chúng ta hợp, chúng ta không có cái
sự chia cắt ra nhưng mà chúng ta phải hợp cho đúng cách, mà hợp không đúng
cách, làm cho nó lệch lạc Phật pháp, làm rất sai lệch thì từ đó cái giới hạnh
và oai nghi của người tu sĩ càng hợp thì nó lại càng lệch. Vì vậy mà chúng ta
nghe những cái nhà học luật người ta kêu gọi chúng ta đoàn kết lại, Tiểu thừa
và Đại thừa, nhưng mà đoàn kết ở trong cái mục đích nào? Không nêu rõ cái mục
đích để chúng ta đoàn kết, vì vậy mà càng đoàn kết thì chúng ta thấy lại càng
phá giới, càng làm bại hoại Phật pháp ra mà không thấy gì hết, mà nói trên danh
từ đoàn kết nhưng sự thực ra trong thực tế có đoàn kết được hay không? Điều đó
chúng ta cần phải suy nghĩ nữa! Đó là một cái điều người ta nói, người ta mong
muốn, nhưng chính bản thân cái người nói, cái người mà viết ra chưa chắc họ đã
muốn đoàn kết!
Hỏi: Hạng nào mới ưa học giới?
Đáp: Hạng có hổ thẹn mới ưa học giới! Nghĩa là tự
chẳng làm tội, gọi là có hổ, chẳng bảo người khác làm tội gọi là thẹn. Lại nơi
các việc dữ tự hổ gọi là hổ, nơi các việc thẹn với người gọi là thẹn. Thế gian
nếu không có hai pháp hổ, thẹn thì điều trái được Đại thánh Thanh văn hướng tới
đường hiểm sanh tử già chết, nên Đại kinh nói: Chư Phật, Thế Tôn thường nói lời
có hai pháp trắng hay là cứu giúp chúng sanh, một là hổ, hai là thẹn.
Ở đây Thầy thấy cái pháp mà đức Phật đã từng nhắc
chúng ta là mình phải tu tập cái pháp hổ thẹn, mà ở đây chỉ nói hổ, thẹn. Người
nào cũng có hổ, thẹn à! Mới đầu thì người ta chưa phạm lỗi đó thì người ta chưa
có hổ thẹn đâu, cũng như bây giờ Thầy mới đầu khép vô thì ăn ngày một bữa, mà
Thầy ăn một thời gian là Thầy chịu không nổi rồi Thầy lén Thầy ăn cắp Thầy ăn -
ăn phi thời rồi thì Thầy có hổ thẹn nữa không? Cho nên cái hổ thẹn này không
thể tự dưng mà có được đâu! Cho nên cái mà chúng ta đã làm quen rồi thì không
có cái hổ thẹn nào mà chen vô được nữa hết. Cho nên Phật dạy chúng ta phải tu
tập Tàm và Quý. Chữ Tàm có nghĩa là hổ thẹn mà chữ Quý có nghĩa là sợ hãi.
Người ta ghép hai cái chữ này lại, người ta gọi Tàm - Quý là hổ - thẹn thì Thầy
thấy nó không đúng! Chữ Quý là Vô úy - không có sợ hãi đó. Bởi vì khi chúng ta
có sợ hãi một cái lỗi nhỏ nào đó thì chúng ta mới có xấu hổ, còn chúng ta không
sợ hãi thì chúng ta không có xấu hổ đâu, chúng ta cứ làm hoài! Chẳng hạn bây
giờ Thầy ăn ngày một bữa mà lát nữa Thầy thấy cái bánh, Thầy thấy nó thích quá,
Thầy lén Thầy ăn đi, nhưng mà Thầy thấy không có sợ hãi cái lỗi đó đi cho nên
Thầy cứ làm hoài chứ Thầy có hổ thẹn đâu? Chính Thầy sợ hãi nó Thầy mới có sự
hổ thẹn! Cho nên vì vậy gọi Tàm - Quý là hai cái này ghép lại tức là là hổ thẹn
và sợ hãi. Chữ Quý ở đây thường thường người ta hiểu nó qua cái nghĩa khác cho
nên người ta viết cái chữ thành nó không có đúng, chữ Quý ở đây chữ u-y-uy có
nghĩa là sợ hãi đó, chứ không phải chữ quờ uy quy sắc quý đâu. Cho nên ở đây
Thầy thấy những người dùng danh từ như vậy là những người không hiểu, dịch ra
những danh từ như vậy là không hiểu được ý của Phật. Cho
nên trong kinh điển của Phật, cái pháp mà chúng ta đầu tiên vào tu tập là cái
pháp đầu tiên là phải tu tập Tàm và Quý. Đó, như vậy. Cho nên ở đây Thầy khi mà nhắc đến cái điều này Thầy dạy quý thầy phải tập
Tàm, Quý. Luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải tập sợ hãi trước những cái lỗi
nhỏ trước tiên, do đó chúng ta mới thấy được cái sự xấu hổ và cái sự xấu hổ đó
chúng ta thấy người ta không phạm, hằng ngày chúng ở
đây người ta ăn ngày một bữa, còn mình thêm một cái ly nước ngọt rồi thêm một
cái cục đường thì như vậy là mình phải xấu hổ, mình ăn trộm người ta, mình ăn
hơn người ta tức là mình ăn trộm rồi. Cho nên mình sống ở trong chúng mình phải
lợi hòa đồng quân, nghĩa là người ta ăn ra sao thì mình ăn như vậy, mà mình ăn
hơn tức là mình sẽ xấu hổ rồi. Và mình thấy cái chuyện đó mà mình không xấu hổ
tức là mình phạm. Đó là bước đầu vào cái sự học thì chúng ta phải học cái này.
Còn ông này lấy cái chỗ xấu hổ này nói bằng cái danh từ suông chứ không có cái
pháp muốn tu tập cái pháp Tàm - Quý, hằng ngày chúng ta phải đặt niệm như thế
nào trước mặt để mà chúng ta thực hiện Tàm Quý, chứ đâu phải chúng ta nói là
tôi xấu hổ, tôi sợ hãi mà nó có xấu hổ và sợ hãi sao? Ít ra chúng ta phải hằng
ngày thấm, chúng ta phải hằng ngày tu tập cái pháp đó như thế nào để cho thấm
vào tâm hồn của chúng ta luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy sợ hãi những cái
lỗi nhỏ, vì cái vi phạm nào đó làm chúng ta xấu hổ với mọi người. Do đó chúng
ta hằng nhắc nhở mình như thế nào, hằng ám thị, hằng hướng tâm như thế nào, cho
nên nó mới thực hiện được Tàm - Quý, chứ đâu phải nói Tàm - Quý là có Tàm -
Quý.
Quý Thầy muốn nói cái danh từ suông là nói dễ
lắm, nhưng mà thực hiện đến những cái điều đó thì không phải là chuyện dễ. Bởi
vậy cái gì cũng phải có pháp hành mà không có pháp hành thì chỉ là một cái danh
từ suông. Ở đây thì muốn nói suông thôi chứ còn không có cái gì hết.
Thì điều trái dược Đại Thánh thanh tịnh hướng tới
đường hiểm sanh già bệnh chết, nên Đại kinh nói: Chư Phật, Thế Tôn thường nói
lời rằng có hai pháp trắng hay cứu giúp chúng sanh, một là Hổ, hai là Thẹn. Hổ
là trong tự xấu hổ, Thẹn là ngoài phát lồ sự e thẹn với người. Lại có hai thứ
trí, chẳng tạo các điều ác, hay tạo rồi sám hối. Lại có hai thứ ngu, một là làm
tội, hai là che đậy.
Ở đây uốn lượn như vậy, sự thật ra thì một cái
người tu tập theo đạo Phật hoặc là bước vào theo đạo Phật mà hướng dẫn đúng từ
cái bắt đầu của họ thì sau này họ không có phạm lỗi gì nữa. Còn nếu mà không có
hướng dẫn đúng cách cho họ theo cái giáo pháp của Phật thì bắt đầu mà vào tu,
sau này dù muốn dù không đi nữa họ cũng sẽ trở thành phạm giới hết, không bao
giờ mà có thể họ không phạm giới dù nhiều dù ít, dù như thế nào, cố gắng giữ
như thế nào họ cũng vẫn phạm. Còn trái lại, khi mà bắt đầu vào mà nhận một chú
Sa di, một vị Thầy mà vào tu với mình thì mình phải hướng dẫn họ ngay từ cái
ban đầu, cái giới hạnh như thế nào, cái pháp hành như thế nào, tập luyện cái
ban đầu như thế nào để từ đó họ không có vi phạm nữa. Họ không có phạm một cái
giới nhỏ nữa, họ sống đúng với những cái điều kiện mà họ đã tu tập.
“Nay Ba la
mộc xoa đề, tức là cái Giới bổn đó, chẳng phải là người không hổ thẹn và không
trí mà hay ưa tu học vậy, thế nên Đại - Tiểu thừa đều lập Tam học là Giới, là
nói đầu, đồng tu năm phần mà ba học mở trước. Sở dĩ tu học, cái dụng ba pháp mà
chứng ba cái quả, năm phần, hãy biết năm phần pháp thân, ba phần trước là nhân
mà hiển đức, phần sau lấy quả mà bày ra năng”.
Ở đây, luận theo cái kiểu mà Đại thừa á, sự thật
ra mà nói về Tam vô lậu học thì giới không phải là ba cái Giới bổn đâu. Thầy
xác định rằng cái giới không phải là ba cái Giới bổn bởi vì giới bổn ở đây đâu
có làm cho chúng ta hết lậu hoặc, mà nó khép chúng ta thèm ăn, thèm uống đủ thứ
hết, nó khép chúng ta nào là thích cái này, thích cái kia. Nó hạn chế, nó gò bó
chúng ta, nó làm cho cái tư tưởng của chúng ta tan nát ở trong đó hết. Cho nên,
cái giới bổn nó không đúng cách! Mà giới của Phật gọi là Tam vô lậu học, tức là
giới vô lậu thì khi mà chúng ta bước đầu vào học cái giới thì chúng ta có cái
giới hành, cho nên từ đó tâm hồn chúng ta giải thoát hoàn toàn. Cho nên gọi là
vô lậu, chứ không phải đợi chúng ta tu tới ba cái pháp này Giới - Định - Tuệ
xong rồi nó mới hết lậu, không phải! Ngay vô đầu là chúng ta thực hiện ngay cái
giới của Phật liền, gọi là giới vô lậu thì chúng ta có vô lậu rồi, cho nên có
giải thoát rồi chứ không phải mà đòi quả này, kia, nọ như ở
đây nói thì cái đó là cái không đúng, cái luận của cái người không có pháp
hành, chỉ là cái lý luận của người học giả, cái người chỉ có cái học, hiểu biết
rồi tưởng ra mà giảng giải thôi, bằng cái danh từ mà giải cũng không rõ cái từ
nữa…
“Tận trí, chánh lập đều gọi là thân giải thoát, vô sanh trí,
tỏ rõ giác chiếu gọi là tri kiến. Bồ tát gấp diệt độ người nên thân thí nhân
tánh để tu sáu độ. Thinh văn do phần tự độ, di tu, ba học nên trí luận dùng độ,
là pháp chúng sanh, ba học là pháp Niết bàn. Tất cả pháp môn do học mà tới, tam
học chẳng tu thì Niết bàn không nẻo. Giới pháp chẳng phụng trì thì định, huệ
dứt nhân, làm sao vượt qua bốn lưu mà trở lên bờ giác đấy ư?”.
Ở đây cũng là một cái luận lấy như trí luận độ hoặc là Bát
nhã mà luận ở trong Tam vô lậu học này. Hầu hết những
cái người viết giới luật này đều là những nhà Đại thừa, cho nên ảnh hưởng kinh
sách Đại thừa rất nhiều. Cho nên họ luận như vậy thì nó không đúng với
ba cái pháp Giới - Định - Tuệ của Phật. Giới - Định - Tuệ của Phật thì chúng ta
phải biết cái giới của Phật đầu tiên mà chúng ta vào tu là giới Hành, giới Hạnh
gọi là giới mà Định thì nó thuộc về giới Đức của một cái
người, còn Tuệ nó thuộc về giới Huệ của cái người tu. Cho nên Giới - Định - Tuệ
là ba cái giai đoạn của một người tu tập giới
luật Phật. Nó đầy đủ ba pháp môn này gọi là ba pháp môn vô lậu thì như vậy mới
đúng. Còn cái này luận ở bên này, luận ở bên kia mà nói nó là Niết bàn thì
không đúng, bởi vì ba cái này nó không phải là Niết bàn. Ba cái pháp này nó
hoàn toàn đưa chúng ta đến cái chỗ tâm bất động giải
thoát, giải quyết cho chúng ta cái phạm hạnh, cái mục đích phạm hạnh của chúng
ta chứ không phải là Giới - Định - Tuệ là Niết bàn.
Hỏi: Vì ý gì mà sắp Niết bàn, sắp nhập Niết bàn
Thế Tôn ân cần lượt nói Tỳ nại gia.
Đáp: Để sau khi đức Đạo sư diệt độ cho đến thánh
giáo chưa mất trở lên không khiến ngoại đạo có thể phê bình. Thế Tôn là người
có đủ tất cả trí mà thế gian có diệt chẳng mở, chẳng ngăn để bọn đệ tử sẽ làm
thế nào. Bởi lẽ đó nên Phật dạy: Vì ngăn ngừa lời nạn vấn ấy nên ta xét lại vị
lai mà chế giới, lại còn muốn khiến các đệ tử nơi các việc không ngại, được an
vui mà ở nên không cần phải nói”.
Nghĩa là đức Phật khi mà nhập Niết bàn thì di
chúc chúng ta lấy giới luật làm thầy, lấy làm cái chỗ nương tựa, mà ở đây nói
rằng ở đây cái người mà luận cái chỗ này thì Thầy đọc trong kinh nay không
thấy cái lời mà đức Phật di chúc cái lời nói này bao giờ hết, thế mà họ làm mà họ đặt ra được cái này mà họ nói như
thế này? Nghĩa là đức Phật mà sắp sửa Niết
bàn, vì ngăn ngừa cái lời nạn vấn của người khác mới chế giới ra. Thầy chẳng
bao giờ nghe cái câu kinh mà di chúc
cuối cùng của đức Phật có cái lời này bao giờ hết! Lại còn muốn khiến cho các
đệ tử nơi các việc không có ngại, được an vui nên mới chế cái giới này ra. Sự
thật ra Thầy không biết mấy cái lời nói này ở đâu mà mấy cái ông này lấy cái
lời nói này trong cái kinh nào Thầy không biết mà đem đút vô chỗ này đây, ba
cái kinh Đại thừa chứ cũng không có ai vô đây hết à. Cho nên vì vậy mà Thầy thấy họ đặt điều đủ thứ hết. Nó không có làm đúng cái con đường mà của
Phật mà nó muốn đặt như thế nào là nó nói ông Phật nói như thế này? Những cái
lời nói này làm cho chúng ta thấy sao nó xót xa vô cùng. Vì ngăn ngừa cái nạn
vấn của người ta nên mới chế giới ra chứ không vì đệ tử của mình giải thoát mà
chế giới! Các con thấy không, sợ người ta cật vấn, sợ người ta này kia cho nên
mới chế giới. Ờ, ông là người có trí tuệ, bây giờ ông chết rồi thì ông để cái
đám đệ tử của ông nó lộn xộn như thế này, nó không có giới luật, cho nên Đức
Phật mới chế ra giới luật để theo đó mà nó giữ giới. Mà thử hỏi bây giờ chế ra
cái đám đệ tử của ông Phật có giữ giới không? Bây giờ
giới bổn nó đầy đó, có không? Như vậy là có phải cái lời di chúc đó đúng không?
Đâu có đúng! Đức Phật nói giới luật ta còn là Phật pháp còn, giới luật ta mất
là Phật pháp mất. Giới luật còn là ta còn, giới luật mất là ta mất. Cái lời nói
đó rất đúng! Bây giờ nhìn chúng Tỳ kheo mà giữ gìn giới luật là Phật pháp còn
đó, mà giới luật không còn chúng Tỳ kheo mà không giữ gìn giới luật đó thì thử
hỏi nó có đúng không, có phải Phật pháp mất không? Chúng ta xét thấy lời ông
Phật nói từ cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm tới bây giờ cái lời nói đó
không có mất chút nào, vẫn còn giá trị, còn giá trị rất lớn. Còn cái lời nói
này có không? Có giá trị không. Bây giờ có ai cật vấn mấy ông thầy đâu? Mà thế
mà bây giờ chúng ta phá giới mà bịt mồm, bịt miệng không cho ai nói hết, nói là
đọa địa ngục vậy nên chẳng có ai dám nói hết, vì vậy cuối cùng thì bây giờ nó
ra sao? Cho nên vì ngăn ngừa lời nạn vấn nên ta mới xét lại mà chế giới. Cái
câu nói này có đúng không? Đâu có đúng? Nó đặt điều ra như vậy đó! Thì Thầy
thấy nó phỉ báng ông Phật đến cái mức độ không thể ngờ được, với cái người sau
này, họ nhiều mồm, nhiều mép đặt điều như thế nào cũng cho ông Phật nói như vậy,
trong khi đức Phật xác định cho chúng ta những cái lời di chúc đó. Chắc chắn ai
đọc ở trong kinh Nguyên thủy, ai cũng thấy được cái lời nói của đức Phật rất là
tha thiết và chỉ cho chúng ta biết lấy giới luật mà làm hòn đảo, làm cái chỗ
nương tựa vững chắc để mà chúng ta tu hành. mà chính Thầy, Thầy nương tựa cái
giới luật mà Thầy thấy Thầy cũng được giải thoát đó. Cũng như bây giờ này quý
thầy thấy mình ăn ngày một bữa mình có giải thoát không? Cụ thể và rất rõ ràng
mà tại sao chúng ta lại không thấy được cái điều này?
Hỏi: Thế Tôn nói, nếu việc thuận, chẳng tịnh,
trái với tịnh, có việc thuận tịnh, trái với chẳng tịnh, nên làm, chẳng nên làm
ấy. Chưa biết lời ấy có nghĩa gì?
Đáp: Nếu có sự vật, trước kia Phật chẳng phải
hứa, chẳng phải ngăn, đời nay nếu làm, người đời họ chê bai ấy là chẳng tịnh,
ta chẳng nên làm, ví dụ như bên Tây Trúc, các nơi người đời sang hèn đều ăn
trái cam, lá trầu, vôi trắng vật thơm lộn nhau để làm mỹ vị, các Tỳ kheo tăng -
ni vì nhân duyên bệnh dùng thứ ấy để trừ hôi miệng, thầy thuốc bảo ăn thì không
có lỗi. Trái lại nếu vì muốn nhuộm miệng đỏ, môi tốt mà ăn thì chẳng hợp, bị
người đời chê cười, không nên dùng lại như ngày xưa. Phật không cấm hút thuốc,
cấm dùng á phiện vì thời ấy không có thuốc lá, á phiện, sau này người đời bày
ra để hút, người tu cũng bắt chước hút thuốc, khiến cho thế gian chê cười tại
mất oai nghi, làm hại sức khỏe, làm tổn phước vì hoang phí của đàn na thí chủ,
do đó ta không nên dùng.
Bây giờ thực sự ra Phật cấm không có cho uống
rượu, mà cái thứ uống rượu là say sưa, là này kia, thì tất cả những cái thứ gây
nghiện ngập cho chúng ta. Bởi vì ngay cả cái ăn kia mà đức Phật còn dạy chúng
ta phải quán xét để mà chúng ta xả cái ăn, coi như là bất tịnh, chúng ta còn
không chạy theo ham thích, huống hồ là những cái chất mà nó không có lợi ích
cho bản thân của chúng ta thì chắc chắn là tuy rằng giới luật Phật không có chế
cấm thuốc phiện, thuốc hút, nhưng mà chúng ta ít ra một cái người mà khi đứng
trong cái giới thứ năm này chúng ta cũng biết được cái điều này là cái điều
không phải cho một người tu sĩ mà sử dụng. Cho nên chúng ta đâu có để mà cho
chúng ta nghiện ngập cái đó. Vì vậy chúng ta không có giới đó nhưng chúng ta
vẫn lấy nó làm giới thứ năm chứ đâu cần phải chế giới thứ sáu, thứ bảy hoặc thế
này kia ra nữa đâu, đâu cần phải chế ra. Nhưng mà chúng ta vẫn lấy giới thứ năm
mà làm cái chỗ không có say đắm, nghiện ngập, không có trở thành những nghiệp
của những cái thứ mà say đắm cho chúng ta thì nó cũng đủ rồi chứ đâu còn gì
nữa?
Lại như xưa kia Phật chỉ dùng muỗng múc ăn thay
cho tục lệ ăn bốc ở Ấn Độ vốn không nói đến đũa nhưng đời nay xứ ta quen dùng
đũa để ăn nên Phật cũng lược giáo cho.
Nghĩa là thời ông Phật Thầy nghe là bốc ăn chứ
ông Phật nào có muỗng bao giờ đâu? Thế mà bây giờ ông này ông ấy viết là Phật
có muỗng ăn. Bây giờ nói Việt Nam mình có đũa ăn thôi thì cứ dùng đũa. Ông thầy
này ông ấy muốn ăn đũa cho nên mới nói kiểu đó, để ăn bốc thì nó cũng không
được. Con người ta sao nhiều chuyện lắm! Đó, những cái này chúng ta thấy là cái
đặt điều rõ ràng! Bởi vì cái người tu của đạo Phật là mình phải ly tất cả những
cái vật dụng, cho nên ví dụ như bây giờ hai bàn tay của mình rửa sạch mình bốc
mình ăn vẫn tốt thôi đâu có gì đâu? Ăn rồi mình lại rửa tay đâu cần phải rửa
cái muỗng? Mà có cái muỗng thì chúng ta lại mang thêm một cái vật nữa, thì do
đó có đôi khi cái muỗng này là muỗng sành này, muỗng này là muỗng cây này,
muỗng này là muỗng inox này, muỗng này muỗng nhôm này. Chọn cái muỗng inox đồ
đẹp không hoặc là muỗng vàng, muỗng ngà nữa chứ đừng nói! Nó có một cái rồi cứ
theo đó mà dính nó đó, cho nên đức Phật muốn chúng ta xả ly để mà chúng ta ly
ra để giải thoát chứ không phải là một cái điều gì khác. Lại hiểu là bây giờ
Phật hồi đó là còn ăn muỗng, cho nên bây giờ chúng ta quen dùng đũa, thôi thì Phật
cũng lược chế cho chúng ta cũng dùng đũa được chứ đâu có sao? Thực sự ông Phật
ông ấy cũng chẳng biết đũa như thế nào mà ông ấy lược chế cái này Thầy chả
biết. Ông này ông thật là đặt điều. Ông này chắc cũng là giới sư Việt Nam chứ
cũng không ai vô đây mới có cầm đũa, chứ còn nếu mà sư Tây phương thì phải dao,
phải nĩa rồi và ổng cũng chế luôn có dao, nĩa ăn à.
Hoặc như ngày xưa Phật và chư Tăng thọ trai trải
chiếu ngồi dưới đất, ngày nay phong tục ngồi bàn, ghế mới hợp thời nên Phật
cũng lược chế cho để mà mình ngồi ghế mà ăn.
Trời đất! Ông Phật đâu có như vậy, hồi đó Phật
chỉ tìm gốc cây, bụi cỏ nào đó ông ngồi ông ăn cho rồi. Còn bây giờ mình có
bàn, ghế bây giờ mình ngồi rồi cũng chế ra cái giới đó, thôi ngồi ghế thì cũng
được, ông Phật cũng cho chứ không có gì, cũng hợp, bởi vì hồi trước thì không
có bàn ghế, còn bây giờ thì có bàn, ghế, chiếu rồi. Cái này cũng thật là nhiều
chuyện, thiệt là nhiều chuyện! Mấy ông giới sư này họ đặt điều lắm bởi vì họ
muốn sao là họ chế giới ra họ nói vậy rồi đổ thừa ông Phật à! Thế nên, rõ ràng
là chữ nghĩa hẳn hòi chứ Thầy không có thêm bớt chỗ nào hết! Rõ ràng là chữ
giấy trắng, mực đen đàng hoàng chứ Thầy không có nói thêm ông ta chút nào hết!
Ông ấy dám chế như vậy. Bây giờ người ta dám chế như vậy thử hỏi các Tổ chúng
ta cách đây sau đức Phật một trăm năm rồi mà các đại đệ tử của đức Phật chết
rồi mà những cái người đó họ chạy theo dục lạc thì họ nghĩ thế nào khi mà họ
đặt cái giới ấy ra? Đâu có thua gì người bây giờ. Ngay bây giờ chúng ta còn
thấy mấy cái ông giới sư này họ còn dám đặt như vậy rồi thì trước kia mấy ông
kia có dám không? Cũng dám như thường chứ? Hồi đó mấy ông làm được thì bây giờ
tôi cũng làm được! Bây giờ tôi làm được thì hồi đó mấy ông cũng làm được! Suy
cái chỗ này mà chúng ta xét ra mấy cái ông Tổ kia cũng vậy!
Cho nên không có kinh sách nào mà họ không dám
thêm trong đó được hết! Ý họ muốn chạy theo dục lạc là họ thêm vô à! Họ thêm
cái phần này, phần kia mà họ đâu có nói họ, họ nói Phật! Nãy giờ Thầy đọc các
con nghe họ nói Phật không à chứ không có nói họ đâu! Mà chính họ viết rõ ràng!
Nếu một khi mà chúng ta không có nghiên cứu kỹ ở trong cái giới kinh của Phật
mà trong những cái bộ kinh A Hàm, kinh Nguyên thủy thì chắc chắn chúng ta mờ
mịt ở chỗ này hết, không có biết. Bởi vì cái người mà người ta nghiên cứu kỹ
người ta biết rõ ràng! Cho nên, thậm chí như từ cái bài kinh ở trong kinh
Nguyên thủy cũng như kinh A Hàm, một cái bài kinh thôi mà nó có hai cái đoạn,
một đoạn của chính Phật nói, một đoạn của người sau thêm vào. Cái người mà có
trí, cái người mà chỉ cần nghiệm xét là đã thấy hai cái lời văn đã khác nhau
rồi, là đã biết cái người sau thêm liền. Còn bây giờ chúng ta là cái người
không có nghiệm xét, chúng ta đọc thấy đó là lời Phật nói toàn bộ chứ không
phải đâu. Họ thêm vô, gặn ra một chút thôi là đã biết rồi, người sau đã thêm vô
cái bài kinh đó. Thí dụ bài kinh đó mười trang thì họ đem một cái câu chuyện
nào đó gài thêm vô cái chỗ đó có lý lắm, nhưng mà sự thật ta xét ra thì cái lý
đó nó không có đúng đâu! Cho nên biết cái người sau đã kèm theo một cái đoạn đó
vô đó để mà luận cho nó đi qua một cái góc độ khác để mà họ phá giới đó! Thì
chúng ta biết những cái pháp đó hầu hết là không có pháp hành thì hầu hết là
nhờ người đời sau thêm vô. Còn những cái pháp nào mà Phật có kèm theo những cái
pháp hành thì chúng ta biết cái đó là của Phật, cũng như ví dụ như cái pháp nào
mà viết ở trong cái bài kinh mà thấy Phật nói Như lý tác ý là phần nhiều là cái
pháp đó là của Phật, mà không thấy có cái pháp hành nào mà chỉ nói suông suông
thì không phải là của Phật đâu, coi chừng những cái bài kinh đó nói là của Phật
nhưng không phải đâu! Phật luôn luôn bao giờ dạy chúng ta bao giờ cũng có cái
pháp hành theo hết! Cho nên cái bài kinh nào mà chúng ta đọc thấy có pháp hành
tức là của Phật, mà không có pháp hành là không phải của Phật. Bởi vì có pháp
hành mới làm chúng ta chứng được cái pháp đó, mới làm cho chúng ta thâm sâu
được cái pháp đó. Còn thiếu pháp hành là cái người sau thêm. Vì người sau không
phải là người tu cho nên không biết hành, vì vậy chỉ có cái lý luận suông thôi,
cho nên đặt ra mà nói.
Hỏi: Thế nào chỉ trì tác phạm và tác trì chỉ
phạm? (Cái này Thầy đã có giảng ở phần trước rồi)
Đáp: Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác
quyết giữ gìn không có gây tội lỗi, mà tác phạm là nói về phương diện các điều
ác đáng lẽ phải giữ gìn mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi. Tác
trì là nói về phương diện các điều thiện có làm được mới gọi là giữ giới. Chỉ
phạm là nói về phương diện các điều thiện, đình chỉ, không làm, nếu đình chỉ
không làm là phạm giới. Ví dụ về tội trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm là
tác phạm. Trái lại về hạnh bố thí, nếu mà làm là tác trì, nếu không làm là chỉ
phạm. Tóm lại người chân tu phải nghiêm trì giới luật, trong khi đó hành giả
nên luôn luôn quán sát mỗi hành vi hằng ngày của mình, xem xét một cách sáng
suốt thế nào là trì, thế nào là phạm. Nói cách khác, khi đã thọ giới thì phải
trì, nếu không trì thì bị phạm.
Họ nói cái danh từ suông không à! Họ đâu có biết
trì và phạm như thế nào? Tu làm sao mà gọi là trì và tu như thế nào mà gọi là
phạm? Bởi vậy, muốn không phạm thì chúng ta phải tu như thế nào, thì chúng ta
phải thực hiện cái giới hành như thế nào? Hằng ngày chúng ta phải trau dồi,
luyện tập như thế nào? Bảo mình quan sát, nhiều khi mình đâu có biết cái đó là
thiện, cái đó là ác? Mình làm rồi mình mới biết đó là cái phạm lỗi của mình chứ
hồi đó mình có biết được đâu mà gọi là quan sát? Quan sát cái gì? Cho nên hằng
ngay chúng ta muốn tập như vậy thì chúng ta phải tập cái định nào? Chúng ta
phải thường xuyên tập luyện cái chánh niệm tỉnh thức của chúng ta, luôn luôn
phải ý tứ. Người ta nói ý tứ chứ sự thật thì có người nào có ý tứ đâu? Mà không
trau dồi, luyện tập thì làm sao có ý tứ? Mà chính ý tứ đó mới gọi là chánh niệm
tỉnh giác. Vì cái chánh niệm nó mới là ở trong cái giới luật của Phật, mà nó có
tỉnh giác thì nó mới ở được trong chánh niệm! Cho nên hằng ngày chúng ta phải
trau dồi cái pháp chánh niệm tỉnh thức, do đó chúng ta mới thấy được cái tâm
giải thoát đúng ở trong cái giới hành của Phật. Nếu mà nói suông suông như vậy
mấy ông hổng biết chánh niệm tỉnh thức ở ngay cái chỗ này thì mấy ông nói trì -
phạm trì -phạm, cái danh từ trì, phạm của mấy ông bây giờ có nói một ngàn lần
nó cũng trì cũng phạm nó cũng phạm hoài chứ nó đâu có trì được gì đâu?
Đó là nói lý mà không có cái hành thì không thể
nào mà có thể nói rằng có thể đi đến cái chỗ giải thoát được.
Ta nên nhớ rằng mục đích giới luật, đức Phật muốn
cho chúng đệ tử đều được thanh tịnh ba nghiệp, giác ngộ trong hiện tại và được
giải thoát thành Phật ở tương lai, cho nên luật Tôn có cốt nhằm ở mục đích ấy.
Phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu, còn luật Tôn trái lại chủ
trương hãy vừa học vừa tu rồi lần lần sẽ hiểu, hãy giữ gìn giới luật. Ở đây nói
một cách là ngược ngạo lại đạo Phật. Đức Phật đã nêu cho chúng ta biết những gì
chưa thông hiểu phải thông hiểu. Còn ở đây chúng ta chẳng cần thông hiểu, mà
chỉ vừa học rồi vừa tu rồi lần lần sẽ hiểu. Tu cái kiểu đó là tu mù. Như vậy là
không có đúng cái đường lối của đạo Phật. Cho nên bây giờ cấm không có cho ai
hiểu giới luật hết, không có cho mấy người hiểu, chừng nào mấy người thọ rồi
bắt đầu mấy người mới vừa học vừa tu thì mới vừa hiểu sau. Còn bây giờ hiểu,
nói bậy nói bạ, đọa địa ngục hết đó.
Đó là cái miệng của mấy ông giới luật để mấy ông
ấy phạm giới cho dữ đó, cho nên mấy ông đặt ra như vậy. Cái gì mà trước khi
người ta muốn học cái đó, muốn tu cái đó thì người ta phải hiểu cái đó rồi, coi
đúng hay sai người ta mới tu, coi người ta giữ nổi hay không giữ nổi. Còn cái
này bắt người ta vô thọ giới rồi bắt người ta học, bắt người ta cật lực tu, tu
rồi mới hiểu nó thì sau khi hiểu được thì thôi thôi cái giới này chắc chết tui
luôn tui không có tu nổi đâu. Như vậy
bây giờ lỡ rồi thì làm sao? Thì thôi bây giờ ở chùa rồi thì cứ việc phạm giới
đi chứ có sao? Đó là cái kiểu của mấy ông ấy đó.
Hãy giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh thì tâm sẽ
được tỉnh, thanh tịnh, tâm đã thanh tịnh thì trí huệ sáng suốt, chân tâm sẽ
hiện bày, Phật tánh sẽ hiển lộ. Nói láo, thiệt là nói láo. Nếu mà giữ giới như vậy,
mình ăn ngày một bữa, Phật tánh nó hiện ra thì ngồi đống đống đây hết rồi, phải
không? Các thầy thấy mấy người ăn ngày ba bữa thì nó không hiện ra, còn bây giờ
chúng ta ăn ngày một bữa thì nó phải hiện chứ? Mà Thầy có thấy ông Phật nào
hiện đâu? Rõ ràng là chẳng có hiện ông nào hết. Vậy mà dám nói là thanh tịnh,
giữ giới rồi thanh tịnh. Giữ giới nó tức tối gần chết chứ ở đó. Người ta ăn
ngày ba bữa, mình ăn ngày một bữa, không có được ăn thêm cái gì hết, nó tức
bụng ở trong này gần chết, sung sướng gì lắm sao? Bởi vậy cho nên phải giữ giới
như thế nào để mà thấy được cái sự giải thoát đó thì mới là thanh tịnh. Còn
đằng này bảo mình cứ cố gắng giữ đi, giữ đi cho nó thanh tịnh, thanh khỉ họ.
Người ăn ngày ba bữa mà người ta ngồi đó nhai me, mình chảy nước miếng đay mà
biểu thanh tịnh, thanh cái gì? Cái chuyện mấy ông nói là mấy ông nói, chứ mấy
ông không biết cách tu nên mới nói, mấy ông nói bậy.
Những kẻ học rộng, biết nhiều mà không giữ giới
cũng chẳng khác gì ngọn đèn trước gió, có thể sáng lắm nhưng cũng rất dễ bị
tắt. Bởi vì khi mà người ta học hiểu nhiều người ta mới biết được cái chỗ đó có
thể người ta chấp nhận cái giới đó hay không. Còn nếu mà không cho người ta
biết làm sao người ta chấp nhận được? Con người sống bằng trí mà? Ít ra trước
khi người ta muốn theo tôn giáo nào người ta phải hiểu tôn giáo đó, không hiểu
rồi nhảy vào tu, tu bậy tu bạ, tu tới chừng nó điên khùng, ma nhập vào đó, chạy
điên chạy khùng, lột quần áo chạy ra ngoài chợ, nhảy xuống sông tự tử rồi chừng
đó ai nói cái gì? Cho nên tu mà tu ngu như vậy ai mà tu? Cho nên ít ra người ta
phải hiểu. Ở đây nói mình, nói kẻ nào học rộng, hiểu nhiều mà không giữ giới.
Tôi hiểu nhiều tôi mới thấy cái giới đó nó có lợi ích cho tôi tôi mới giữ, mà
tôi thấy nó không có lợi ích thì tôi không giữ, tôi không có theo thì như vậy
tôi phải hiểu chứ. Còn ông ông biểu tôi không có học, cứ vô đó nhắm mắt mà giữ,
giữ cho thật thanh tịnh rồi Phật tánh nó ngồi ở đó cho, nó thanh tịnh cho, cái
chuyện đó là ông gạt tôi đấy chứ ông nói đúng đâu.
Cái đó là nói không đúng sự thật, nó không cụ
thể, cái đó là nói gạt người khác. Đó là cái lối lý luận của các nhà mà viết
luận. Họ lý luận cái kiểu đó là lý luận gạt người khác. Tôi hiểu biết rồi tôi
mới thực hiện được cái điều mà tôi hiểu biết đó, nó mới làm cho tôi thanh tịnh,
nó mới làm cho tôi giải thoát, nó mới thấy được Phật. Còn cái này ông biểu gộp
như vậy là ông đã dạy sai.
Trái lại, kẻ học ít, biết sơ sơ thôi mà giữ giới
một cách chân thành thì cũng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp còn lu mờ
nhưng không tắt mà càng cháy lâu lại càng sáng tỏ hơn. Nói láo, hết sức nói
láo! Bây giờ tôi học sơ sơ, tôi biết sơ sơ thôi, tôi cứ giữ giới luật, nhiều
khi tôi ăn lén, ăn lút hoặc là tôi làm cái chuyện dâm dục tầm bậy, tới chừng đó
công an bắt ra rõ ràng là mấy ông này hết ráo rồi chứ không ai hết. Bởi vì học
sơ sơ mà, cho nên đâu có biết rõ đâu? Cho nên phạm giới đâu có nghĩ đó là tôi
phạm mà cứ bảo là phải giữ cho kỹ, giữ cho kỹ. Nhưng mà cái lòng ham muốn của
tôi chưa có diệt được thì làm sao mà tôi giữ kỹ được? Cho nên mấy ông trói buộc
tôi sao được? Cho nên cuối cùng tôi phạm mà mấy ông lại càng nói đó là như cái
ngọn đèn mà có cái ống khói mà chụp thì gió nó không có dao động mà nó càng
sáng tỏ, không có sáng cái thứ gì được đâu! Mấy ông luận như vậy chứ nó không
bao giờ có cái điều đó được.
Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người
có căn trí lanh lợi, hiểu nhanh, biết lẹ, nhưng vì hay ỷ lại vào sức mình,
không chịu đặt mình vào khuôn phép, kỷ luật nên cuối cùng chẳng thu hoạch được
kết quả gì tốt đẹp. Thầy hỏi một cái giới luật mà có giới hành thì làm gì mà
người ta hành cái pháp hành đó, làm gì mà người ta phạm giới? Còn mấy ông đặt
ra cái pháp luật như thế này, không có cái pháp hành thì mấy ông gò bó tôi, ép
tôi, nén tâm tôi tới cái mức độ này mà cái tâm tôi ham muốn thế này mà bắt buộc
cứ lấy cái giới này mà cứ đè tôi thì làm sao mà tôi chịu nổi? Cho nên tôi phải
phạm thôi chứ? Cho nên nói, ờ càng học nhiều, càng biết nhiều này kia thì cái
kết quả nó chẳng có tốt đẹp gì hết, đó là mấy ông luận như vậy. Trái lại những
kẻ có căn trí tầm thường, hay chậm lụt, lại dễ thành công trên đường đời cũng
như trên đường đạo.
Những đệ tử của Phật có ai có một địa vị xã hội
hạ tiện và căn trí thấp kém như Ngài Upali thế mà Ngài Upali đã trở thành một
bậc hiền thánh, một vị quan trọng trong thập đại đệ tử của Phật chỉ vì Ngài
nghiêm trì giới luật đệ nhất. Chúng ta đây địa vị xã hội và căn trí chắc chắn
không kém Ngài Upali lẽ nào chúng ta không thu hoạch thành quả tốt đẹp như
Ngài? Nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới luật như Ngài. Ngài Upali nghiêm
trì giới luật bằng cách nào? Ông này không có nói ra! Nếu mà không có cái pháp
hành, cái giới hành của Phật thì…
(Hết mặt A)
Vì vậy mà ông có nhiều cái hạnh, giữ gìn đúng
những cái giới luật là khi ông hành, ông dùng những cái giới hành mà ông thực
hiện từ cái sơ thiện, đến cái trung thiện và hậu thiện là những cái pháp giới
hạnh,… chuyên môn về cái sở trường đó. Vì vậy mà những cái khác ông đều thuộc
về sở đoản. Do như vậy, qua những cái hành động sống của ông, qua cái sự nghiêm
chỉnh của cái giới hạnh của ông cho nên đức Phật gọi ông là đệ nhất trì giới.
Người khác thì người ta đệ nhất là cái sở trường của người ta, còn ông chỉ sở
trường ở cái phần này chứ đâu phải ông là toàn bộ hết. Cho nên ở đây là cái
phần từ khi mà ông bắt đầu tu là ông phải thực hiện những cái giới hành, do
những cái giới hành đem đến sự cứu cánh giải thoát cho ông, cho nên ông thích
thú vào những cái hành động đó. Những cái oai nghi, tế hạnh của một cái người
tu sĩ như vậy cho nên ông mới được gọi là nghiêm trì giới hạnh đệ nhất của đạo
Phật, của đức Phật, là đệ của Ngài. Nhưng mà lấy cái sự cùng đinh, lấy cái sự
mà hạ liệt của xã hội mà ghép vào đây thì Thầy thấy không đúng! Đâu có phải ông
Ubali ông ngu như vậy, mặc dù cái giới của ông phải nói rằng người ta cho rằng
cái giới của ông là cái giai cấp của xã hội của ông là nó có thể thậm tệ
đi nữa, nhưng mà cái sự thông minh vẫn
phải có chứ? Đâu có lý một người mà không thông minh? Do đó mà so sánh ông ấy
với chúng ta thì ông ấy là người u tối, còn chúng ta là người thông minh hơn
ông mà chúng ta không giữ gìn giới luật được, còn ông ấy u tối, ông ngu si, ông
trì độn nên ông ấy giữ gìn được. Cái này luận để mà nói xấu ông ấy thôi!
Thầy thấy nói ông Bàn Đặc thì Thầy còn tin chứ
nói ông Upali mà như vậy thì Thầy không tin bao giờ hết! Phải nói là cái vị Tỳ
kheo nào mà có thể u tối, mà cái vị Tỳ kheo nào mà không thể nói là u tối được,
thì ở đây không thể nào nói. Mà cái ông Upali đâu phải là cái giai cấp cùng
đinh, ông chỉ là một người thợ chứ chưa phải như là ông Ca Chiên Diên. Ông Ca
Chiên Diên mới là giai cấp cùng đinh, ông ấy là người hốt phân, còn ở đây đâu
có giai cấp mà như vậy đâu? Thế mà người ta lại lấy ông Upali ra mà nói chỗ này
thì chẳng qua là cái ông này chẳng hiểu cái đám đệ tử của đức Phật là như thế
nào hết, các bậc Thánh tăng như thế nào hết, nói không có hiểu rõ. Bởi vì khi
mà nghiên cứu về Phật giáo thì các bậc Thánh tăng, cái người nào ở trong giai cấp
nào chúng ta đều hiểu biết, và cái độ thông minh của họ như thế nào chúng ta
biết, thời gian họ đến họ tu với Phật bao lâu, họ làm những gì, chúng ta nghiên
cứu về những bậc Thánh tăng. Bởi vì chúng ta là những người mà nương vào ba cái
Tam bảo mà chúng ta tu Phật - Pháp - Tăng, mà Phật thì chúng ta đã không nói
rồi, Pháp thì chúng ta đã biết rồi, mà Tăng thì không phải là tăng trong thời
chúng ta mà phải là những bậc Thánh tăng trong thời đức Phật. Vì vậy cho nên
những đệ tử của đức Phật là những nơi mà chúng ta lấy những cái gương hạnh tu
tập đó mà chúng ta làm cái gương hạnh tu tập cho chính mình. Vì vậy mà chúng ta
không nghiên cứu những cái bậc Thánh tăng này thì chúng ta còn thiếu khuyết!
Một vị tu sĩ Phật giáo mà nói ra cái điều này, Thầy nghĩ rằng cái ông mà viết
cái giới luật này chẳng hiểu các bậc Thánh tăng như thế nào! Như vậy là ông ấy
quy theo ai? Ông ấy quy theo các vị Thánh tăng trong thời hiện tại của chúng
ta, các bậc Tôn túc Hòa thượng của chúng ta bây giờ, những ông phạm giới, những
ông phá giới thì thử hỏi làm sao chúng ta theo mấy ông đó được, chúng ta nương
vào cái ông tăng đó được, mặc dù bây giờ ông ấy ở trong hàng giáo phẩm nào đi
nữa chúng ta cũng vẫn thấy cái sự phá giới của ông ấy thì chúng ta không thể
nương ông ấy được! Vì vậy cho nên chúng ta phải luôn nương vào cái hàng Thánh
tăng là những đệ tử của đức Phật ngày xưa. Cho nên chúng ta không nghiên cứu
như ông Xá Lợi Phất này, ông Mục Kiền Liên này, ông La Hầu La này, ông Upali
này, ông Ca Chiên Diên này… Tất cả những cái bậc Thánh tăng đó chúng ta đều
phải nghiên cứu coi qua những cái hạnh của các ông ấy tu như thế nào, để từ đó
chúng ta rút tỉa những cái hạnh đó mà chúng ta thực hiện cho cái đời tu hành
của mình, gọi là mình quy y Tăng. Chứ còn quy y Tăng là nương vào tăng bây giờ
là nương làm sao được?
Nói như vậy là chúng ta đã thấy được cái cách
thức và chúng ta đã hiểu biết được qua cái quyết nghi của cái giới bổn mà cái
nhà mà soạn ra giới bổn đã có những cái luận, cái luận sai, cái luận không
đúng. Cho nên ở đây khi mà đã đọc lại cái quyết nghi này rồi Thầy kết luận tất
cả giới bổn, một ngày nào đó chúng ta có đủ duyên mà quý thầy ít ra cũng phải
mười người tu đạt được giải thoát, tâm bất động giải thoát, mục đích phạm hạnh
chúng ta đã đạt được, sanh - tử của chúng ta đã chấm dứt, ngày đó chúng ta sẽ
hội họp, lập lại cái giới bổn, không có
để cái giới bổn này được đối với đạo Phật nữa! Chúng ta hiện giờ đang tu hành
thì chúng ta lấy cái giới kinh mà làm Thầy cho chúng ta đang tu chứ không phải
cái loại giới bổn này vì cái giới bổn này không phải là Thầy của chúng ta mà là
do người sau viết lại, dám bịa đặt thế này, thế khác, đủ cách, đủ loại ở trong
này, thêm - bớt ở trong này, cho nên chúng ta chẳng bao giờ chấp nhận cái giới
bổn này! Mà chúng ta chấp nhận cái giới kinh mà chúng ta đã đọc ở trong kinh A
Hàm, ở trong kinh Nikaya, kinh Nguyên thủy. Đó là chúng ta chấp nhận những cái
giới ở trong đó, chúng ta lấy cái giới ở trong đó để làm cái pháp hành cho
chúng ta, để làm cái giới hành chúng ta thực hiện cái đời tu hành của
chúng ta.
Còn toàn bộ những cái giới bổn mà chúng ta đã học rồi chúng
ta để đó, một ngày nào đó chúng ta thực hiện được sự giải thoát tâm bất động hoàn toàn, phạm hạnh của chúng ta đạt
được thì chừng đó chúng ta sẽ họp lại năm người, mười người mà chúng ta đã có
cái sự giải thoát như nhau thì chúng ta họp lại, chúng ta làm lại, xây dựng lại
cái giới bổn này cho người sau có cái đường lối tu tập rất rõ ràng, không có để
cho người sau mất lối như thế này được!
Đó là cái nhiệm vụ và trọng trách của quý thầy khi quý thầy
biết được, mà theo Thầy tu hành thì quý thầy thấy được cái trọng trách của mình
không hề nhỏ. Vì nhìn qua cái tạng giới bây giờ mà
nằm trong Phật giáo thì chúng ta thấy điều đó là cái điều sai, rất sai!
Không thể nào đem cái giới mà này áp dụng cho
đời sống tu hành của người tu sĩ trong cái con người ở trên thế gian này được.
Vì cái giới này là cái pháp luật, là cái sự gò bó, không có cái giới hành cụ
thể và rõ ràng. Cho nên chúng ta để đó, chúng ta chưa có nói tới nó, một ngày
nào đó khi mà quý thầy đã tu hành xong, chúng ta sẽ họp lại, làm lại một cuộc,
coi là một cuộc cách mạng cho cái giới bổn
này, không có để mà cái này nó còn dính dấp
trong đạo Phật nữa.
Thầy xác định và quyết định cái điều này, nếu mà Phật pháp
còn đủ duyên thì quý thầy trong một sớm một chiều quý
thầy thực hiện được thì chúng ta sẽ làm lại được tất cả những cái này, dựng lại
những gì của Phật giáo mà người ta đã ném xuống, người ta không còn để cho nó
một chút gì là hơi ấm của Phật giáo. Bây giờ chúng ta hãy cố gắng và cố gắng
trên bước đường tu tập chúng ta hơn, còn chúng ta nói nhiều mà chúng ta không
làm được thì cái nói nhiều đó cũng chẳng ích lợi gì cho cuộc đời của chúng ta.
GIỚI HÀNH
Chúng ta đã kết luận cái giới bổn qua cái lời mà
Thầy đã nói xong thì sau khi học xong giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề bây giờ quý
thầy tiếp tục học giới hành, bắt đầu chúng ta chuyển qua giới hành liền. Đây là
những cái điều mà rất quan trọng cho cái giai đoạn cuối cùng cho giáo án này,
đây là cái giới hành của chúng ta.
Vậy giới hành là gì? Giới như quý thầy đã được
học là pháp thiện, là pháp lành. Giới là thiện pháp, hành là trau dồi, tu tập,
rèn luyện. Giới hành là trau dồi, rèn luyện, tu tập thân - tâm mình trong thiện
pháp. Đó, Thầy giải thích như vậy để chúng ta biết rằng giới luật không phải là
một cái giáo điều khô khan, cằn cỗi đâu, mà đây là một cái pháp thiện để chúng
ta trau dồi thân tâm của chúng ta trở thành sống trong thiện pháp hoàn toàn để
được giải thoát cho mình và cho người chứ không phải chỉ riêng có mình không
đâu.
Như vậy là quý thầy đã hiểu biết khi mà học qua
cái giới hành thì phải hiểu cái nghĩa của nó.
Trước khi trau dồi thân, tâm trong pháp hành, các
thầy phải trau dồi cách thức ăn, uống đúng cách thiện pháp mà trong kinh Jivaka
Phật đã dạy. Khi mà chúng ta muốn trau dồi cái giới hành thì đầu tiên là chúng
ta phải trau dồi cái cách thức ăn, uống của chúng ta như thế nào cho đúng. Tại
sao phải trau dồi nó, bởi vì ở trong đạo Phật của chúng ta qua cái ăn uống chưa
có đúng cách, hầu hết tu sĩ của chúng ta ăn uống chưa có đúng cách, ăn uống phi
thời này. Thậm chí có những nhà sư gọi là ăn uống không phi thời mà lại là uống
sữa, uống bơ, uống này kia, chỉ ăn một bữa mà còn ăn thịt, ăn cá nữa thì cái đó
chúng ta đem bài kinh này ra chúng ta mổ xẻ coi xem ông Phật dạy như thế nào mà
cái giới tu sĩ hiện giờ họ lại ăn uống như vậy mà họ lại cho đó là đúng Phật
pháp? Cho nên trước khi mà hành động giới hành thì chúng ta phải hiểu được cái
này để chúng ta tu tập cái giới hành về cái ăn, uống của chúng ta đã.
Cư sĩ Jivaka hỏi: “Bạch Thế Tôn! Con nghe người
ta nói như sau, vì Sa môn Gotama mà họ giết hại các sinh vật và Sa môn Gotama
tuy biết thế mà vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình
ăn. Bạch Thế Tôn, những người ấy nói như vậy có đúng lời Thế Tôn không? Họ
không xuyên tạc Thế Tôn, họ nói như vậy là sự thật?”
Đó là vị cư sĩ đó hỏi đức Phật như vậy thì đức
Phật trả lời: “Này Jivaka! Những ai nói
như vậy là nói không đúng lời của ta, họ xuyên tạc ta, nói không như thật!”. Nghĩa
là đức Phật xác định để cho chúng ta biết rằng họ nói như vậy là nói không có
đúng lời của Phật nói.
“Này Jivaka! Ta
nói trong ba trường hợp thịt không được thọ dụng nếu thấy, nghe và nghi”. Đó, thì Đức Phật xác
định cho chúng ta thấy rằng khi mà chúng ta thấy, nghe và nghi thì chúng ta
không được thọ dụng!
“Này Jivaka! Ta
nói trong ba trường hợp thịt được thọ dụng không thấy, không nghe và không
nghi”. Đó, thì đức Phật nói như vậy thì chúng ta thấy
bây giờ chúng ta thọ dụng thịt mà không thấy, không nghe, không nghi. Nghĩa là
bây giờ có một cái mâm cơm để mà người ta cúng dường cho Phật, trong khi Phật
không thấy có thịt thì tức là Phật ăn, nghĩa là bây giờ ở trong cái đĩa đồ ăn
này mà không thấy có miếng thịt heo, không thấy có con cá hoặc con vật mà chết
ở trong đó thì tức là đức Phật ăn liền, còn có thấy miếng thịt, còn có thấy con
cá nằm, còn có thấy có cái đùi gà, còn có thấy một cái cục sườn ram thì nhất
định là không ăn. Tại vì thấy làm sao ăn? Cho nên không thấy thì ăn mà thấy thì
không ăn! Đó là đức Phật chỉ cho chúng ta thấy cái chỗ mà chúng ta thọ cái thịt
mà không thấy.
Bây giờ không nghe, bây giờ trong cái đĩa đồ ăn
này thịt, cá gì họ bằm nát ra rồi họ làm thành chả họ chiên thành chả cũng như
cái bánh vậy đó, thì lúc bấy giờ đó nghe người ta nói lúc nãy họ bằm cá thái
lát ra rồi bây giờ họ chiên ra thành chả đó, Phật đừng có ăn, Phật mà ăn đó thì
toàn thịt chúng sinh ở trong đó. Nghe như vậy là đức Phật cũng không ăn nữa. Đã
nghe người ta nói ở trong đó có thịt mà, có chúng sinh chết ở trong đó mà, đâu
có ăn. Đó là nghe không ăn!
Bây giờ, trong khi đức Phật không nghe, không
thấy rồi cầm một cái bánh lên hoặc là lấy tay bốc cái món đồ ăn đó lên, bỏ vào
trong miệng nghe nó tanh cá quá thì đức Phật nghi cái này có cá rồi, không được
ăn, do đó đức Phật không ăn cá! Bị ngửi mùi tanh, bây giờ ngửi mùi bò, ở đây có
thịt bò rồi nhất định là không ăn! Bây giờ nghe thấy nó có mùi thịt heo, nghe
mùi thịt gà, do đó nghe mùi gà, mùi heo Đức Phật không ăn, bởi vì nghe tức là
khi mà kê cái mũi mình ngửi lên là mình đã nghi cái đó là có thịt gà, cái đó là
có thịt heo, cái đó là có thịt bò, nhất định là Phật không ăn! Bởi vì nghi, mà
nghi là không ăn. Cho nên, dù trong đó không có đi nữa, người ta làm không có
đi nữa mà nghi thì cũng không ăn!
Ví dụ như bây giờ có người họ lấy đậu hũ, họ làm
như thế nào đó nó giống những mắm bằm lắm, chúng ta ăn thấy nghe cái mùi nó y
như mắm vậy, mà khi kê lên vậy chúng ta nghe cái mùi tanh tanh hôi hôi giống
mắm thì nhất định là không ăn. Tại vì chúng ta nghi ở trong đó là có mắm ở
trong đó, có cá chết ở trong đó nên không ăn. Đó là chúng ta nghe cái mùi tanh
rồi nên chúng ta không ăn, chúng ta biết là có cá hay con vật chết ở trong đó,
mặc dù là đậu hũ họ ủ cho thối để làm đó, nhưng chúng ta đã nghi rồi thì chúng
ta không ăn!
Cho nên do những cái điều kiện này, tuy rằng nói
cái danh từ nghe thì nó dễ thấy, thấy - nghe và nghi nó dễ dàng lắm, nhưng mà
sự thật thì nó quá là sâu sắc khi mà đức Phật viết ra cái giới này, cái bài
kinh này tức là muốn nói nên cái giới luật rất là nghiêm chỉnh cho cái sự mà thọ
thực thịt chúng sanh. Nếu mà một người biết pháp tu thì người ta nghe những cái
lời nói này người ta mới thấy được cái thâm ý của đức Phật sâu xa vô cùng.
“Ở đây, này Jivaka, Tỳ kheo ấy dựa vào một làng,
hay một thị trấn, vị ấy luôn luôn biến mãn một phương với tâm có lòng Từ và an
trú tâm Từ đó ở đó. Phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng vậy, Từ
tâm của vị ấy biến mãn khắp cùng thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương
xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy luôn luôn biến mãn với tâm câu hữu với Từ
quảng đại vô biên, không hận, không sân và an trú với lòng thương yêu chúng
sanh rộng lớn vô bờ bến”.
Chúng ta thấy ở đây đức Phật nói về cái vấn đề mình ăn là
thấy, nghe, không nghi ở đó rồi, mà bây giờ
đức Phật lại đem một cái bài này nói: Này Jivaka, khi một vị Tỳ kheo mà ở một làng hay một thị trấn nào đó và khi bây giờ
được sự cúng dường một cái món ăn đó thì cái người đó đã luôn luôn người ta đã
tu tập cái lực từ - bi - hỷ - xả của người ta, người ta đã thực hiện cái lòng
Từ biến mãn khắp mười phương rồi thì cọng cỏ người ta cũng không đạp cho nó héo
nữa thì thử hỏi làm sao người ta có thể bỏ cái miếng thịt trong miệng mà người
ta ăn được? Ý đức Phật muốn nói như vậy! Vì vậy cho nên bây giờ cái tâm Từ của
họ đã biến mãn khắp cùng như vậy rồi thì cái lòng thương yêu rộng lớn đối với
chúng sanh vô bờ bến như vậy thì một người cư sĩ hay con của người cư sĩ đến vị
Tỳ kheo ấy mà mời rằng ngày mai mà thọ trai thì đức Phật hỏi Jivaka vậy thì khi
vị Tỳ kheo đó nhận lời mời như vậy mà khi đến
khất thực ăn cái bữa ăn đó thì người đó cái tâm Từ có không? Họ luôn luôn họ
phải sống ở trong cái tâm Từ biến mãn khắp cùng, thì như vậy là trước khi ăn
của cái người cư sĩ hay con của người cư sĩ mà cúng
dường thì họ còn mê cái thức ăn đó không? Dù cái thức ăn đó ngon họ có mê
không? Nếu mà thức ăn đó bằng thịt, cá, làm cho ngon thật ngon họ có mê không?
Ở đây, Thầy sẽ đọc lại: “Một người cư sĩ hay con của người cư
sĩ đến Tỳ kheo ấy mời ngày mai thọ trai, và này Jivaka, vị Tỳ kheo ấy nhận lời khi vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy
với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai hại, ý
thức rõ sự xuất ly…” Đó, khi ăn mà người ta thấy rõ sự tham đắm của chúng ta có
không. Như vậy không tham đắm là thấy cái vật đó bằng thịt chứ có ham không? Không
có ham đâu! Còn bây giờ chúng ta tham đắm ăn rồi thì thấy miếng thịt chúng ta
nói đây là miếng đậu hũ đó, ăn đi, chứ đừng nói, mình cứ nói nó là đậu hũ mình
cứ ăn đi chứ mình đừng có nói thịt, mình nói thịt mình không dám ăn? Cho nên
nói nó là đậu hũ đi. Mình nghe cái mùi thịt heo mình nói không phải đâu, cái
mùi này là mùi đậu hũ đó, mình gạt mình ở trong đó để mình ăn cho đã cái miệng,
tức là còn tham đắm đó! Cho nên, do cái tâm tham của mình mà mình không có xuất
ly ra khỏi cái này!
“Này Jivaka, ông
nghĩ thế nào, Tỳ kheo kia trong thời gian thọ thực, ông ấy có nghĩ đến tự làm
khổ mình hay nghĩ đến làm khổ chúng sanh, hay nghĩ đến làm khổ cả hai?” Đó, thì các thầy thấy, khi mà ăn cái miếng ăn (...) nghĩa là một cái vị Tỳ kheo đó khi mà
họ thọ thực như vậy đó họ có nghĩ rằng họ sẽ làm khổ họ hoặc làm khổ chúng sanh
không hoặc là làm khổ cả hai? Cho nên ở đây, họ nghĩ một người tu sĩ bây giờ ăn
một cái miếng thịt này, mình nuôi vào cái thân mạng của mình là cái chánh
mạng hay tà mạng? Trong khi họ học Bát chánh đạo không lẽ nào họ lại
không thông suốt cái điều này? Bởi vì nuôi cái chánh mạng thì làm sao mà nuôi
thịt cá ở trong thân này được? Cho nên đây là hại mình rồi! Mình ăn cái món ăn
này là thịt, cá rồi thì mình hại cái thân của mình rồi! Cho nên đó là làm khổ
mình rồi Vì vậy mà khi mình nhét trong miệng cái món ăn tức là làm khổ chúng
sinh rồi! Chúng sanh phải có chết mình mới có ăn chứ? Cho nên, do như vậy mà
câu nói này chúng ta thấy, hiểu qua cái bài kinh rất rõ ràng! “Này Jivaka, ông nghĩ thế nào, Tỳ kheo kia
trong thời gian thọ thực, ông ấy có nghĩ đến tự làm khổ mình hay nghĩ đến làm
khổ chúng sanh, hay nghĩ đến làm khổ mình, khổ cả hai?”.
Cái câu nói này Thầy thấy quá là tuyệt diệu,
không có còn chỗ nào mà một người mà ăn thịt chúng sanh mà nuốt cho trôi hết!
cái Câu này Phật dạy nghĩa là ăn chay trên ăn chay! Tại sao vậy? Tại vì ông
Phật ông ấy không dạy chúng ta ăn chay, vì ăn chay nó giống như Bà la môn,
giống như kiểu Đại thừa. Vậy giống kiểu Đại thừa như thế nào? Thầy nói cho quý
thầy thấy rõ, người ta ăn chay mà người ta làm đùi gà như thế này, lấy đậu hũ,
lấy củ sả mà đút vô làm cái đùi gà, ngồi đó tưởng ra cái đùi gà mà ăn, mà thực
sự ra toàn là ăn đậu xanh với đậu hũ không, không có gì hết. Làm đồ chay mà làm
như là thịt heo vậy đó. Đó, thì cái đó là cái ăn chay của Đại thừa. Còn cái ăn
chay mà của ông Phật là ăn chay trên ăn chay do tâm từ của chúng ta thực hiện ở
trên biến mãn đó. Vì vậy mà ở trong cái thực phẩm của chúng ta ăn là chúng ta
luôn luôn có cái tâm Từ nằm ở trên đó hết!
Cho nên ở đây, rõ ràng là ăn không thấy, không
nghe, không nghi, vậy mà có một số nhà sư ăn thịt, ăn cá, ăn thịt chúng sanh mà
vẫn an nhiên mà nói thịt họ làm ở đâu, tôi đâu có nghe, tiếng heo la tôi đâu có thấy? Cho nên ở đây
bây giờ người ta đem cúng dường là tôi cứ ăn, chứ tôi đâu có nghe con vật kêu
đâu? Mà tôi đâu có cầm dao tôi giết nó đâu? Ai giết chứ tôi đâu có giết? Người
ta làm đâu ở nhà chứ đâu phải tôi làm? Cho nên tôi cứ ăn! Cho nên thịt không
thấy, không nghe, không nghi… Bây giờ tôi muốn ăn thì bây giờ dù tôi có nghi
tôi cũng không thèm nghi làm chi nữa để mà tôi ăn cho thích cái khẩu của tôi.
Cho nên, do đó mà một cái giới tu sĩ của chúng ta lầm lạc và lầm lạc, đến vì
vậy mà cuối cùng họ có thể cầm gươm, cầm súng họ giết lẫn nhau được, họ giết
con người được! Ăn thịt chúng sanh được như vậy thì họ có sá gì mà không giết được con người? Cho nên chúng ta
thấy rõ ràng là Phật giáo Nam tông cầm súng giết người một cách rất rõ ràng! Mà
họ diệt chủng họ chứ chưa phải là diệt ai đâu! Chứ không phải là diệt nước khác
chúng ta cũng không nói đâu, mà họ diệt dân tộc họ! Mà đó là Quốc giáo ở cái
nước đó gọi là Phật giáo, Phật giáo là quốc giáo của họ mà họ còn làm như vậy
đó, thì chúng ta thấy cái việc truyền giáo đó có đúng là của Phật giáo không?
Cho nên ngay cái bài kinh này đã xác định là
những cái người này chưa phải là cái người đúng là Phật giáo, tà giáo xen vào
trong đó mà họ tự gọi họ là Phật giáo Nguyên thủy. Họ nguyên cái gì, họ đi lạc
đường nào đâu chứ đâu phải Phật giáo ở trong đó? Cho nên càng đụng tới, Thầy
càng thấy cái sai lệch của Phật giáo bao nhiêu, thì Thầy muốn dựng nó lại bấy
nhiêu thì lại Thầy lại thấy rằng chúng sinh quá mê muội, đi lạc lầm con đường
của đạo Phật. Từ cái pháp thiện của Phật đi đến cái
pháp ác mà không thấy rằng mình sống trong cái ác mà không thấy.
Đó, thì hôm nay các thầy nghe được cái bài kinh này mới thấy
được cái lời Phật dạy quá rõ ràng chứ gì?
Cho nên vị cư sĩ này mới thưa: “Thưa không, bạch Thế Tôn”,
làm sao có thể Nghĩa là khi mà như vậy thì làm sao mà có cái tâm ác ở
trong đó được?
“Này Jivaka, Tỳ kheo kia
trong thời gian thọ dụng các món ăn, không có lỗi lầm”.
Nghĩa là bây giờ thọ dụng các món ăn đó họ có còn thấy có tội không? Họ đã có cái sự không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm
khổ chúng sanh, mà không làm khổ cả hai thì khi họ ăn như vậy bây giờ một cái
mâm cơm này toàn là thịt cá không thì họ ăn như thế nào các thầy có biết không?
Họ ăn cơm không, ăn cơm với muối không họ không thèm ăn ba cái đồ ăn đó đâu!
Thì như vậy họ có lỗi không? Họ ăn xong rồi họ đi về họ có lỗi không? Còn mình,
ngồi thấy ba cái thịt cá làm đồ coi bộ ngon quá, làm hủ tíu, cháo lòng này kia,
lòng nó bỏ trên đó đầy quá, trời ơi ngon quá! Thôi ních đi cho nó đã đi! Khi mà
ních rồi thì nó có lỗi lầm không? Lỗi lầm chứ sao không lỗi lầm?
Còn khi một vị Tỳ kheo khi người ta đã biến mãn
tâm Từ Bi của người ta rồi thì người ta đâu có ăn được? Còn mình cắn cái đầu gà
vậy mà nhai ngón ngáo cho được rồi nhả một đống xương mà không thấy cái tâm từ
của mình ở chỗ nào hết. Thử hỏi mấy ông sư có không? Cho nên hòa thượng Huệ
Hưng nói với Thầy đến mấy cái chỗ của sư Nam tông, trời ơi cái sát khí của họ
ăn thịt chúng sanh, chúng ta thấy xương đống đống, thấy ghê gớm! Đúng vậy! Họ
ăn gà, ăn vịt, ăn thịt heo, ăn sườn, họ bỏ sườn heo đống đống đây chứ đâu có
phải ít đâu? Cho nên Hòa thượng nói với Thầy đến mấy cái chỗ mấy ông Tiểu thừa,
mấy ổng nguyên thủy, trời ơi! Thôi thôi, vô cái chùa của ổng là mình nghe cá,
nghe thịt hôi rồi chịu không có nổi! Đó là những bằng chứng cụ thể! Chúng ta là
những người ăn chay mà chúng ta đến chùa mấy ông đó là chúng ta không có chịu
nổi cái mùi cá, mùi mắm của mấy ông đó! Cái y, cái áo của mấy ông đó nghe nó
tanh mắm, tanh cá hôi rình à. Tại chúng ta không có chịu ngồi gần bên chứ ngồi
gần bên chúng ta nghe thấy hết chứ không có trật chỗ nào, nhất là cái tâm chúng
ta tịnh thì chúng ta nghe rất rõ những cái mùi hôi đó. Còn cái tâm chúng ta
chưa thanh tịnh, tại vì cái tâm chúng ta nó lộn xộn ở trong này, nó còn nghĩ
này kia mặc dù chúng ta đã ăn chay nhiều năm nhưng mà cái tâm chúng ta nó chưa
an tịnh, chúng ta chưa có nghe được cái mùi hôi của họ. Họ ăn bò chúng ta nghe
bò, họ ăn chó chúng ta nghe chó, họ ăn gà chúng ta nghe gà, họ ăn vịt chúng ta
nghe vịt, ăn cá chúng ta nghe tanh cá. Khi nào cái tâm quý vị thanh tịnh rồi,
quý vị ngồi gần người nào ăn cái gì quý vị biết liền, cái mùi mồ hôi của người
đó toát ra chúng ta biết liền. Ăn tỏi chúng ta cũng biết cái mùi tỏi liền, ăn
hành chúng ta cũng biết nữa, ăn rau diếp chúng ta cũng biết nữa. Cái thứ đó là những
cái thứ hôi, cho nên khi ăn rồi nó ra mồ hôi là hôi. Mà cái người đã thanh tịnh
tâm rồi người ta nghe cái mùi đó người ta biết liền. Còn cái người mà không
thanh tịnh tâm, bởi vì cái tâm của chúng ta nó chưa có an cho nên nó làm cho
chúng ta không có lắng được cái mùi đó.
“Thưa không, bạch Thế Tôn”. Đây là cái vị cư sĩ
nói. “Thưa không, bạch Thế Tôn, cao thượng thay, an trú với lòng Từ, thương xót
chúng sanh như loài thực tế, thưa Thế Tôn, xin Thế Tôn diện kiến thân chứng cho
con hiểu ở điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng từ vô bờ bến”. Nghĩa là
cái vị cư sĩ Jivaka này nói với đức Phật chứng nhận cho người đã là thấy được
cái lòng Từ của đức Phật vô bờ bến, một vị tu sĩ thọ thực như vậy là không có
cái tâm từ nào vô bờ bến hơn được hết. Nghĩa là ăn với cái tâm Từ như vậy,
trước các món ăn dù có ngon đi chăng nữa cũng không tham đắm đâu, cho nên ăn
cơm lạt hoặc là không ăn nữa. Đó là người ta ăn như vậy không bao giờ có lỗi
lầm, vì vậy mà những lời mà vị cư sĩ này trước kia hỏi Phật đó là những cái lời
phỉ báng Phật, nói sai cái ý của Phật, không có đúng!
“Này Jivaka, cái gọi là tham, là sân, là si, thấy
được Như Lai loại trừ, chặt đến tận gốc, làm cho như thân cây Tha La, khiến cho
không thể tái sanh được, không thể tái sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka,
nếu như vậy là ý nghĩ ông muốn nói, thời ta đồng ý với ông”. Nghĩa là đức Phật
nói cái tâm tham, sân, si mình không còn có nữa thì làm sao mình thích cái món
ăn ngon này. Các con hiểu điều đó chứ? Tại sao đức Phật nói mình ăn chay này
kia mà đức Phật nói tại vì cái ý muốn nói với chúng ta là lòng Từ của chúng ta
đối xử với chúng sanh như vậy, tại vì cái tâm tham, sân, si của chúng ta hết
rồi, Phật hết rồi, cho nên vì vậy bây giờ trước cái món ăn này, dù là có ngon
cách gì đi nữa cũng không cám dỗ được đức Phật. Bởi vì tham nó không còn. Các
thầy hiểu chỗ đó không? Cho nên cái bài kinh rất là giá trị. Cho nên bước đầu
vào mà chúng ta đọc đến cái bài kinh này thì chúng ta không phải thuộc cái loại
Đại thừa Bà la môn mà ăn chay đâu, mà chúng ta phải biết rằng ăn cái món ăn của
chúng ta là ăn ở trên cái tâm Từ Bi của chúng ta, tâm Từ Bi của chúng ta bao
giờ cũng phủ trùm tràn đầy thế giới chúng sanh hết. Chúng ta phải hiểu được cái
bài kinh như vậy vì vậy mà chúng ta mới thấy được chúng ta thanh tịnh được thân
tâm, nuôi được cái chánh mạng của chúng ta chứ? Còn không khéo mà không thấy
được như vậy thì chúng ta nuôi tà mạng mất rồi! Ăn mà còn chế ra đùi gà, ăn mà
còn chế ra đồ mặn, nào là chế ra y như là đồ mặn thì thôi để đồ mặn ăn cho rồi
đi còn bày đặt cái thứ này ra chi? Cho nên, bên những nhà Đại thừa, có nhiều
cái bữa đi thọ trai Thầy thấy họ làm đồ chay thật, nhưng mà họ bày ra những cái
món chay này kia. Vô tiệm cơm chay cũng vậy, kêu họ đem cái dĩa thịt, họ đem
cái dĩa y như là thịt heo mà họ làm bằng bột không à. Họ cũng nhuộm nào là da
heo, nào mỡ rồi nào nạc, họ làm tùm lum ra. Thật sự là thôi, dẹp cái đó đi!
Thấy nó như vậy mà còn nuốt được thì nuốt làm sao được? Vậy mà người ta ngồi đó
người ta nuốt, gọi là ăn chay! Phật nói thấy là không ăn mà, mặc dù thấy cái đó
là không thật đi nữa mà thấy là miếng thịt con heo, con gà là nhất định không nuốt được.
Còn các con biết không, người ta lấy mỳ căn,
người ta xé xé ra giống như là thịt gà mà xé vậy, người ta trộn ba cái rau răm
vô người ta nói làm gỏi gì đó. Trời đất! Thực sự mình ăn chay, đừng có làm cái
điều đó! Làm như là xé thịt gà mà trộn gỏi vậy đó! Thiệt là những cái người đời
họ ham ăn thịt chúng sanh, rồi bây giờ ăn chay rồi không dám nín, bây giờ mới
làm ra những cái đó để làm những cái ảo giác chứ gì? Chính chúng ta nuốt vô cổ
của chúng ta, cái ngon ở miệng chúng ta là cái ảo giác thực phẩm rồi. Nó đâu có
thật? Nó là thứ bất tịnh, nó là những món ăn bất tịnh cho chúng ta. Cho nên
hằng ngày chúng ta đặt những cái thực phẩm trước mặt chúng ta tu là vì chúng ta
quán xét bất tịnh cho nên chúng ta không còn chấp nữa. Còn quý thầy không chịu
đặt cái niệm bất tịnh, cái thực phẩm bất tịnh thì quý thầy nay thèm cái này,
mai thèm cái kia, mốt muốn ăn cái kia, cái nọ, đều là chúng ta thiếu tu tập. Nếu
mà chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu mà đặt cái niệm đó trước mặt, hằng ngày thực
phẩm đến với chúng ta chúng ta không thèm đâu. Chúng ta coi nó như là một cái
món thuốc để cứu cái bệnh đói của chúng ta. Đúng là Phật đã dạy chúng ta tu tập
như vậy đó! Nhưng vì chúng ta không biết pháp hành cho nên bây giờ đến cái ngày
giờ này chúng ta vẫn thèm, vẫn ăn, vẫn khát, muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia.
Hầu hết là quý thầy, các Hòa thượng đều là bây giờ đang sống trong cảnh đó, cho
nên khi mà biết các vị kia nào là bệnh thế này thế khác, ung thư đủ thứ cũng
đều là nuốt ba cái đồ độc, cái ảo giác ngon ngọt vào trong cổ họ chứ gì. Làm đồ
ăn bỏ ba cái bột ngọt đầy ở trong đó, nuốt cho ngon cái miệng chút mà cuối cùng
để mang cái thân rất là khổ sở. Hầu hết là các bậc Hòa thượng, các bậc Tôn túc
của chúng ta chứ ai. Ông nào cũng méo miệng, nhăn răng hết khi mà sắp sửa chết.
Thầy nói đây, các thầy cứ để mắt mà nhìn coi có không? Tại sao mà chúng ta tu
hành mà bây giờ tay chân chúng ta run run thế này, như giò gà vậy? Có phải
chúng ta nuốt ba cái đồ độc không bây giờ gân nó mới giật, chứ nếu chúng ta
không nuốt ba cái đồ độc thì làm sao mà giật chân, giật tay như vậy? Bởi vì cái
miệng háu ăn cho ngon mà tạo cho cái thân chúng ta tội biết bao nhiêu. Người ta
không có thấy được! Bởi vậy đức Phật nói dục là khổ, ham nó là khổ mà không
thấy, ly nó ra đi, tại sao không ly? Cho nên vì vậy không ly thì làm sao nhập
được sơ thiền? Cho nên không thể nhập được sơ thiền, nội cái ăn thôi của chúng
ta làm sao mà nhập sơ thiền không
“Này Jivaka,
người nào vì Như Lai hay đệ tử của Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất
chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân”. Đó,
người nào mà vì Như Lai, vì đệ tử của Như Lai mà giết vật để cúng dường thì đó
gọi là phi công đức. Ta thấy bài kinh này rất rõ ràng. Phật nói đừng có giết
hại chúng sanh mà đem cúng dường được phước đâu. Người nào mà làm cái điều đó
là phi công đức đó! Nó có năm cái nguyên nhân, năm cái nguyên nhân nào, thế
nào? Năm cái điều kiện mà xảy ra, một cái người đó mà tạo cái điều ác đó.
Cái nguyên nhân
thứ nhất là: “Khi người ấy nói như sau: - Hãy đi và dắt con
thú này đến. Đó là nguyên nhân ác thứ nhất, người ấy chất chứa nhiều phi công
đức.” Ờ, lúc bấy giờ mình muốn làm thịt một con vật chứ gì, vậy thì phải bắt
con gà, trói chân nó lại. Lúc bấy giờ bắt con gà, trói chân nó lại thì nó có
đau không? Đau chứ! Nó đang đi như vậy mà bây giờ chúng ta làm như vậy. Cho nên
Phật nói là “Hãy đi và dắt con thú này đến chỗ đó”. Bây giờ chúng ta làm thịt
con bò hay con heo tức là chúng ta phải cột cổ nó, lôi nó đi chứ gì? Thì đó là
cái phi công đức, tức là cái nguyên nhân ác thứ nhất, nó là cái phi công đức
thứ nhất.
Cái thứ hai là “Con thú ấy đã bị dắt đi, vì bị kéo, lôi nơi cổ nên nó cảm
thọ bao nhiêu đau khổ, nhức nhối. Đó là nguyên nhân ác thứ hai, người ấy chất
chứa nhiều phi công đức”. Không có công đức gì hết, nghĩa là bây giờ chúng ta
muốn làm thịt con bò để đãi Phật và đệ tử của Phật chứ gì, bây giờ bắt đầu phải
nắm cái dây cột cổ con bò lôi đi, lôi lại cái chỗ mà chúng ta đập nó chết rồi
mới cạo lông nó được. Do đó, khi mà lôi con vật thì thử hỏi các thầy thấy con
vật có đau không? Đó là Phật nói cái phi công đức thứ nhất. Đó, nó có công đức
gì không? Phi là đâu có công đức gì đâu, mà nó là sự chất chứa những cái ác,
nhiều cái phi công đức chứ không phải là một!
Phần thứ ba: “Khi người ấy nói hãy đi và giết con thú này, đó là nguyên
nhân ác thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức”. Như vậy là bây giờ dẫn
con thú ấy đi rồi bây giờ mới đâm vào cổ con thú ấy cho chết, cho máu nó ra đi
rồi mới làm thịt nó đi, thì đó là cái phi công đức, cái ác thứ ba, nhiều cái
phi công đức, không có công đức gì hết!
Thứ tư: “Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ đau khổ, đây là nguyên nhân
ác thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức”. Nghĩa là, làm cái hành động
đó là chất chứa nhiều cái phi công đức. Nghĩa là đem cúng dường cho Phật hay
cúng dường cho chư tăng đệ tử của Phật thì cái người đó đương nhiên là không có
công đức gì hết, mà lại còn chứa nhiều cái ác nữa.
Cái thứ năm: “Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử của Như Lai một
cách phi pháp như vậy, đó là nguyên nhân ác thứ năm, người ấy chất chứa nhiều
phi công đức”. Đó, các thầy đã thấy chỗ này chưa?
Bài kinh này rõ ràng là ở trong kinh Trung Bộ,
rất là rõ ràng, Phật dạy rất rõ ràng, không phải là Thầy đặt ra. Để khi có dịp
quý thầy sẽ nghiên cứu lại bài kinh này. Ở đây, toàn bộ những cái kinh điển của
giáo lý của đức Phật, Thầy đã thấy được cái pháp hành và cái pháp mà dạy từ cái
ăn chay, từ cái mà chúng ta tu Tứ vô lượng tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả, ngay từ cái
chỗ chúng ta ăn, đức Phật đã dạy cái này thì Thầy thấy thật là tuyệt vời vì đem
lại cho chúng ta có được cái lòng thương yêu rất là rộng lớn và cái người nào
mà làm sai.
Cho nên cái hàng Phật tử mà hằng ngày họ đem cúng
dường, họ sớt bát cho quý sư, cho các vị sư bên Nguyên thủy, hằng ngày họ làm
thịt, làm cá, họ giết hại như vậy. Đọc trong cái bài kinh này thì có phước báo
không? Không có phước báo gì hết! Như vậy là hoài công của họ đến với đạo Phật!
Hằng ngày phải tốn mồ hôi, nước mắt mà như là bỏ cái hạt giống ở trên cái vùng
đất dầu ấy, làm sao mà lên được? Các con thấy không? Các thầy thấy rất rõ cái
bài kinh này nói phi công đức, là năm cái điều kiện mà đưa đến cái miếng ăn
cúng dường Phật rồi thì nó không có công đức gì ở đó hết, hoàn toàn là tội ác
và phải chịu tội ác thôi, không bao giờ mà có thể chạy trốn đâu khỏi cái tội ác
đó!
“Này Jivaka, người nào vì Như Lai hay đệ tử của
Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm
nguyên nhân này”.
Bây giờ đó thì các thầy thấy bài kinh nói tới đây
là nó sẽ chấm dứt đó, nhưng mà cái người mà được nghe bài kinh này họ tán thán
và cơ ngợi Phật hết sức và hết sức và Thầy đọc đến cái chỗ này Thầy thấy đúng
là cái người tu Tứ vô lượng tâm đúng cách. Vì đạo Phật có Tứ vô lượng tâm Từ -
Bi - Hỷ - Xả, thế mà thực hiện thiếu cái Từ - Bi - Hỷ - Xả đó và Phật có một
cái nẻo là Chánh mạng, nuôi cái thân mạng của chúng ta chân chánh thì không thể
nào mà đem những cái thực phẩm ác mà nuôi thân mạng của chúng ta được.
Đó, chúng ta thấy qua cái bài này, đây là kết
luận của cái bài kinh do vị cư sĩ Jivaka này tán thán. “Thật vi diệu thay, bạch
Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, các Tỳ kheo thật sự thọ
dụng các món ăn không có khuyết phạm. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi
diệu thay, bạch Thế Tôn! Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ từ nay cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng”. Đó là kết luận của cái bài kinh đó.
Như vậy thì quý thầy thấy rất rõ ràng là khi các
vị Tỳ kheo thọ cái món ăn đó, không bao giờ có cái khuyết phạm trong cái tội
lỗi nào hết. Nghĩa là người ta để thịt cá dẫy đầy nhất định là không ăn, không
ăn là không ăn. Mình ăn những cái vật gì mà không có làm cho chánh mạng của
chúng ta trở thành tà mạng, còn không nhất định là chúng ta không ăn. Còn Cái
gì chúng ta ăn mà nuôi được cái chánh mạng thì chúng ta ăn. Cho nên, thực sự
khi đọc qua bài kinh này, Thầy nghe nói trong cái thời đức Phật người ta cho
thịt, cho này kia, chắc chắn là đức Phật không có mang về đó, bây giờ cái ngày
đó Phật nhịn đói chứ không phải là Phật trả cho cái người cư sĩ đó liền đâu.
Nếu bỏ vào thì Phật vẫn cứ mang vào bát, nhưng đến khi mà Phật đến cái chỗ để
thọ thực mà thấy toàn là thịt của chúng sanh thì Phật bỏ ra ngoài đất trắng,
cũng không bao giờ bỏ lên cỏ, bởi vì lòng Từ của đức Phật không bao giờ làm cho
một cái lá cỏ héo mà, cho nên Phật bỏ ở trên mặt đất trắng đó để rồi ai ăn hay
con vật gì ăn, mặc tình, chứ đức Phật không bao giờ thọ dụng cái đó để nuôi cái
chánh mạng của mình đâu!
Đó, qua cái bài kinh này, chúng ta thấy được cái
điều kiện tiên quyết đầu tiên để cho chúng ta thấy từ cái ăn uống của chúng ta
mà hầu hết là quý thầy đã sai, nhất là bên Nguyên thủy gọi là tu theo gốc của
đạo Phật mà cái ăn uống này họ luận theo cái kiểu của họ và thường lẻo mép để
lợi dụng cái thịt của chúng sanh mà ăn, cho nên ông sư nào cũng mập ú bằng cái
thịt, xương, máu của chúng sanh hết! Cho nên cuối cùng ông nào cũng chẳng ra
ông nào hết! Thậm chí là mấy ông ấy cũng nói là thiền định, trong cái thời mạt
pháp này chẳng có ai nhập định được hết, đó là cái gạt người ta. Nếu người ta
tu đúng chánh pháp của Phật, ly dục, ly ác pháp, người ta tu Tứ vô lượng tâm
thì không bao giờ nuôi cái tà mạng thì cái thiền định của Phật đâu phải là
chuyện khó khăn. Thầy nói đâu có phải là chuyện khó, tại vì chúng ta tu không
đúng cách cho nên nó khó, chứ còn tu đúng cách thì nó không phải khó đâu.
Bây giờ chúng ta tiếp tục, qua cái bài kinh này,
Thầy nhắc lại, đây là cái bài kinh Jivaka số 55 trang 71, tạng kinh Việt Nam,
kinh Trung Bộ tập 2. Đó, Thầy nói như vậy là quý thầy sau này cứ ngay cái số đó
lật ra cái bài kinh đó thì rõ ràng chứ không có một cái gì khác hơn nữa hết.
Phần giới hành chúng ta chia làm bốn giai đoạn tu
tập, nghĩa là trong khi mà chúng ta tiến tới để mà tu tập giới hành thì chúng
ta phải hiểu biết nó có bốn giai đoạn để chúng ta tu tập.
Một là thông hiểu những gì cần phải thông hiểu, cũng như Phật đã dạy đó, chúng ta phải thông hiểu, thông
hiểu rồi mới tu tập chứ đâu phải như là giới bổn mà hồi nãy mấy ông sư đó nói
mình không cần hiểu biết, chỉ cần thọ rồi mình cố gắng mình giữ nó đừng cho
phạm thôi. Sự thật là nếu không thông hiểu thì làm sao mà người ta không phạm?
Cho nên đó là cái lối lý luận của học giả chứ không phải là cái lối lý luận của
Phật pháp được. Cho nên ở đây, đúng là chúng ta phải thông hiểu những gì cần
phải thông hiểu. Lúc này chúng ta phải học, hiểu cho rõ, biết cho rõ
tất cả những gì chúng ta sẽ thực hành, sau này không còn bị mọi tà kiến, kiến
chấp mang đầy ắp trong đầu của chúng ta. Nghĩa là bây giờ
chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, chứ không khéo thì trong đầu óc của chúng ta
bây giờ, một con người làm sao chúng ta không có cái hiểu biết và cái hiểu biết
đó là cái tà kiến, cái kiến chấp của chúng ta ở trong đầu rất nhiều. Từ ngày
Thầy đọc lại trong kinh Nguyên thủy, kinh A Hàm thì tất cả những gì của kinh
Đại thừa nó còn đầy ắp ở trong cái đầu của Thầy. Cho nên nhiều khi Thầy phải
đứng ở trong cái kiến chấp đó mà Thầy luận bằng cách này, bằng cách kia mà Thầy
phải đọc cả cái kinh Nguyên thủy nữa chứ không phải không đâu! Thầy nói cái này
còn thấp, cái này còn nói theo cái kiểu phàm phu tục tử, nhưng cuối cùng Thầy
xét thấy không phải là phàm phu tục tử làm được cái chuyện này đâu. Đó là cái
bước đầu cho người tu phải tập luyện như vậy mới đúng cách, cho nên từ đó những
cái kiến chấp, những cái tri kiến học tập của Đại thừa và thiền Đông độ, Thầy
mới được quét sạch ra khỏi cái đầu của Thầy, còn không thì cái thứ đó là làm
cho đầy ắp cái đầu của Thầy, nhất là Trung quán luận của Ngài Long Thọ, nó làm
cho Thầy cũng đầy ngập ở trong đó, cho nên bao giờ mở ra Thầy cũng đem Bát nhã
với Trung quán luận Thầy quét bên đây, Thầy quét bên kia, nhiều khi Thầy đập cả
kinh Nguyên thủy nữa, Thầy đập xuống hết nhưng cuối cùng Thầy thấy điều đó là
cái điều già hàm, lẻo mép của mấy ông già này chứ không phải. Chính là cái từ
đức Phật dạy chúng ta phòng hộ sáu căn, chúng ta đi đến cái chánh niệm tỉnh
thức làm cho chúng ta thấy rõ ràng con đường giải thoát, chúng ta bước vô là có
giải thoát, còn mấy ông này chỉ có miệng nói chứ chẳng có giải thoát gì được
hết. Cho nên cuối cùng Thầy mới quét ba cái tri kiến, tà kiến ở trong đầu đó nó
mới sạch chứ nếu không Thầy cũng dính đầy ắp ở trong đấy hết.
Cho nên hồi đầu, mở ra cái gì cũng là Phật tánh,
cũng là Bát nhã, cũng này kia không, cái gì cũng là huyễn giả hết, chỉ cần mình
không dính mắc nó là được. Nói như vậy là cái pháp hành không có gì hết. Cho
nên, cuối cùng dính mắc vẫn hoàn dính mắc.
Ở đây, chúng ta là những người với đầy ắp những
tà kiến, những cái kiến chấp ở trong đầu, những cái tà kiến kiến chấp này nó
rất độc, nó rất độc chứ không phải nó không độc đâu, nó dính vô đầu chúng ta mà
buông nó ra cũng không phải dễ đâu, nó phải có một cái trí tuệ sáng suốt là khi
chúng ta phải hành cho được cái gì rồi thì chúng ta mới tin, mới phá nó được!
Còn nếu mà chúng ta không có hành được, chúng ta khó phá lắm! Nghĩa là bây giờ
mà quý thầy tu chưa tới đâu, những kiến chấp về thiền Đông Độ hoặc là Đại thừa
mà quý thầy đã được các vị Tổ mớm cho quý thầy đã hiểu được nghĩa lý của nó rồi
và quý thầy chưa có tu giải thoát được thì quý thầy khó mà giải trừ được những
cái tà kiến, kiến chấp đó lắm! Khó lắm! Khi nào mà quý thầy tu và đã giải thoát
được rồi, quý thầy làm chủ được rồi thì chừng đó quý thầy mới thấy đó là sai
chứ còn bây giờ quý thầy vẫn thấy đó là đúng. Cho nên có nhiều người người ta
cứ luận để mà hòa hợp, hòa hợp, đó là những cái người ta không bỏ được cái kiến
chấp đó, cái tà kiến đó. Người ta muốn hòa hợp giữa Đại thừa và Tiểu thừa là
cái kiến chấp của Đại thừa người ta không bỏ được, người ta thấy đó còn đúng là
vì những cái người này họ tu chưa có tới đâu hết, cho nên họ chưa có biết cái
giải thoát là ở chỗ nào, cho nên họ thấy đó là còn đúng, cho nên họ bỏ cái kiến
chấp của Đại thừa và thiền Đông Độ họ bỏ không được. Họ cứ cho rằng mấy ông tổ
đó là còn đúng chứ không có sai đâu. Nhưng mà sự thật cái làm được hay không
làm được, bây giờ chúng ta tu tập chúng ta làm được rồi chúng ta mới thấy được
cách nói của mấy ông đó là sai. Còn khi mà chúng ta chưa làm được thì chúng ta vẫn
còn dính đó chứ chưa dám bỏ nó ra đâu!
“Những tà kiến, kiến chấp này rất độc ác, phần
nhiều là do pháp tưởng sanh ra của các loại kinh ngoại đạo rồi đầu óc ngu si
của chúng ta mê mờ, không rõ, cứ cho rằng chúng ta hiểu là đúng, nên không chịu
bỏ, không chịu sửa sai. Do thế tu theo đạo Phật mà lại tu theo tà giáo ngoại
đạo, nên cuối cùng luôn luôn phạm giới luật của đạo Phật, đức hạnh không bao
giờ có. Đức hạnh của người tu sĩ chẳng ra gì, nhìn ra thì chẳng giống ai, đời
thì chẳng ra đời mà đạo thì chẳng ra đạo. Chẳng làm chủ được sinh tử mà cứ ngỡ
tưởng là có thể làm chủ được sanh tử, mà cứ tưởng rằng mình có thể nhập vào bản
thể chơn như, Phật tánh là sẽ chấm dứt được sinh tử - luân hồi”. Cứ nghĩ rằng
mình nhập vào đó là mình có thể làm chủ được liền, làm chủ được sanh tử - luân
hồi. Nhưng mà cái nói nhập ấy thực ra là nhập như thế nào thì họ chẳng biết cái
cách thức nào mà nhập hết. Rồi bắt đầu họ tưởng ra như vậy, để rồi họ nghĩ ra
những cách hão huyền của họ, họ tự gạt họ rồi gạt người khác nữa. “Phật tánh do
tưởng nhận ra mà tâm tham, sân, si chẳng lìa được, ngũ triền cái che khuất,
thất kiết sử trói buộc mà chẳng thấy, lại bảo rằng đó là tạp khí chưa hết chưa
hết, Bồ tát còn tạp khí huống hồ là chúng ta”.
Đó là những cái lý luận của họ đó! Nếu mà họ làm
chủ được thì tâm tham, sân, si của họ đâu còn? Ngũ triền cái đâu còn? Thất kiết
sử đâu còn trói buộc họ? Thế mà bây gờ họ đã thấy Phật tánh họ, nhận ra Phật
tánh họ bằng cái tưởng của họ thôi, cho nên tâm tham, sân, si của họ vẫn còn,
triền cái vẫn còn, kiết sử vẫn còn thế mà họ luôn luôn có tham, có sân, có si
thì họ lại bào chữa cho họ rằng đó là tạp khí. Họ lại bảo rằng đó là cái thói
quen của họ lâu đời rồi, bây giờ có thấy Phật tánh thì cái thói quen đó vẫn
chưa hết, phải chờ một thời gian nữa. Không biết phải chờ bao đời nó mới hết?
Thầy cũng chẳng hiểu! Nhưng mà bây giờ họ bảo chờ đi, chờ đi, chờ một thời gian
nữa thì cái tạp khí nó sẽ hết. Bây giờ mình thấy Phật rồi, một thời gian sau
cái tạp khí nó mới hết. Nhưng mà sự thật, đó là cái lý luận của họ để che đậy
cái sự không có pháp hành, cho nên họ còn lập luận Bồ tát còn tạp khí huống hồ
là chúng ta. Họ lấy cái lý luận là Bồ tát còn cái sân, si, còn chúng ta còn cái
sân, si thì chúng ta đâu có đáng kể gì, cho nên cứ cố gắng mà giữ gìn cái Phật
tánh đó đi rồi chúng ta sẽ hết. Nhưng mà cuối cùng thì như thế nào? Hằng ngày
cứ đắm nhiễm, cứ đắm nhiễm ở trên dục lạc thì thử hỏi tham, sân, si càng nuôi
lớn ra chứ có gì đâu mà gọi là giải thoát?
“Thật đáng thương cho những người này, bỏ hết tất
cả cuộc đời, không làm lợi ích cho mình, cho người mà chỉ ôm ảo ảnh để rồi đọa
ở trong Tam đồ khổ, luân hồi mãi mãi mà không biết”. Họ tưởng là đời này họ làm
sư, đời sau họ cũng là tổ nữa, đời kế nữa họ cũng làm tổ nữa, họ tính họ nghĩ
rằng họ làm hoài như vậy để họ đi vào trong sinh tử mà độ chúng sanh. Họ cho
rằng đời nay chỉ có mình họ là độ chúng sanh thôi, còn hoàn toàn không có ai là
có đủ khả năng độ chúng sanh. Thật là tham đắm đến cái mức độ mà Thầy không thể
tưởng tượng được! Cho nên họ nói rằng Bồ tát luôn luôn đi vào trong sanh tử vì
cái lợi hoằng hóa vì cái lợi ích cho chúng sanh lớn cho nên mới thích đi vô, đi
ra sanh tử, cho nên họ chẳng sợ sanh tử. Thật ra họ có làm chủ sanh tử đâu mà
họ không có đi vô, đi ra sanh tử?
Đời sống xuất gia của tu sĩ hiện giờ chỉ có y áo
và chiếc đầu cạo trọc, sinh hoạt tôn giáo, còn tâm của quý vị thì luôn luôn
sống trong dục lạc thế gian. Nghĩa là nhìn cái giới tu sĩ của chúng ta hiện giờ
họ chỉ có được bộ y áo với chiếc đầu trọc mà thôi. Còn cái sinh hoạt tôn giáo
thì cúng bái, lễ lạt này kia là thuyết giảng người vậy thôi, còn cái tâm của họ
là sống trong cái dục lạc thế gian y như người thế gian, không khác chút nào
hết. Lời nói này quý thầy cứ xét xem có đúng không? Cho nên giới luật đều vi
phạm hết, lỗi nhỏ cũng phạm, lỗi lớn cũng phạm, không có lỗi nào mà họ chừa
hết! Đời sống phạm hạnh của một tu sĩ chẳng còn có nữa, nhìn qua cái đời sống
phạm hạnh của người tu sĩ không còn có nữa.
Đây, chúng ta nghe Ratthapàla bạch Phật: “Bạch
Thế Tôn, như con được hiểu, lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình,
sống theo dục lạc, thật không dễ gì thực hiện phạm hạnh”. Nghĩa là cái đời sống
của người thế gian là người ta sống ở trong cái dục lạc, làm sao mình sống ở
trong cái đời sống thế gian mà mình sống cái đời phạm hạnh được? Đó là cái vị
cư sĩ này mới trình lại đức Phật. Thực sự là sống trong cái gia đình mình không
thể nào sống cái đời sống phạm hạnh như những người tu sĩ được. “Hoàn toàn viên
mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc, con muốn bạch đức Thế Tôn cạo
bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, từ bỏ dục lạc thế gian, sống
không nhà cửa. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của
Thế Tôn, cho con thọ Đại giới”. Đó, bây giờ cái ông cư sĩ này ông ấy xin đức
Phật, ông ấy thấy rằng cái đời sống mà ở trong gia đình không có thể nào mà
ly.../…
Hết băng số 46
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét