Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 18

TRAU DỒI GIỚI ĐỨC

Link file Word
Thầy thấy nó dễ dàng quá, nó đâu có khó khăn gì đâu? Hồi nãy là có một vị Thánh tăng, là người nam, họ cũng tu cái pháp phòng hộ 6 căn. đây thì không nói pháp phòng hộ 6 căn mà chúng ta thấy rõ ràng là phòng hộ 6 căn, có phải không? Nếu mà cái người không hiểu, đọc cái này không biết là tu cái pháp gì hết. Mà Thầy là người có kinh nghiệm cho nên Thầy đọc qua đây Thầy biết bà này là tu phòng hộ 6 căn, cũng giống như ông kia phòng hộ 6 căn, tức là điều khiển con voi tâm của mình chứ không gì hết, huấn luyện con voi tâm mình chứ không gì hết, cuối cùng thì người ta vẫn thành chứng quả A La Hán. Bà có làm bài kệ nói lên kinh nghiệm tu tập của mình. Đây cái bài kệ của bà cũng hơi dài đây:
Ra khỏi ngôi tịnh xá
Để nghỉ trưa ban ngày
Trên đỉnh núi Linh Thứu
Ta thấy một con voi
Dầm nước xong đi lên
Trên bờ một con sông
Một người cầm cái móc
Yêu cầu nó đưa chân
Con voi duỗi chân ra
Và người nài lên voi
Thấy kẻ chưa nhiếp phục
Đi đến được nhiếp phục
Ta thấy nó vâng chịu
Theo quyền lực của người
Như vậy ta định tâm
Đi vào trong rừng ấy.
Nghĩa là bây giờ bà đi vào trong rừng yên tịnh, thanh vắng để mà điều khiển làm chủ cái tâm của mình đây.
Ta làm chủ được tâm
Sai bảo nó vâng theo
Sống chết ta tự tại
Chấm dứt được luân hồi.
Đó thấy không? Người ta giải thoát, mà bà nói rất rõ, không có nói là chứng Tam minh gì hết. Hồi nãy ông kia thì chứng Tam minh, thì nó cũng là làm chủ được sanh tử luân hồi chứ gì? Còn bà đây nói rất rõ “sống chết ta tự tại” nghĩa là bà đây muốn sống muốn chết lúc nào cũng được rồi, và chấm dứt được luân hồi, tức là Tam minh, tức là Lậu tận minh rồi chứ gì? Cho nên chấm dứt được luân hồi.
Đó, thấy cái bài kệ của ngài. Bà chỉ thấy có con voi và thằng nài thôi mà ngài thức tỉnh được, ngài về ngài tu cái phòng hộ 6 căn chứ không có gì hết, đó, vậy mà người ta chứng đạo. Còn quý thầy tu sao đây? Mình phải lấy những kinh nghiệm đó, cho nên từ bài kia nói rõ ra cái pháp ra là Phật trao cho ông ta cái pháp để mà ông ta tu là phòng hộ 6 căn, nhưng bà này thì ông Phật không có trao. Bà trèo lên núi bà chơi thôi, bà thấy người ta điều khiển con voi thì bà về bà điều khiển tâm bà. Nhưng không ngờ bà lại tu tập cái pháp hộ trì các căn, cũng y như vậy thôi chứ không khác gì hết.
Bà Ubirì:
Thuở tuổi thanh xuân bà rất đẹp và được đưa vào hậu cung của vua Kosala. Sau vài năm bà sanh một đứa con gái rất đẹp đặt tên là Jivà, nhưng rồi đứa con gái bà bị chết. Ngày nào bà cũng ra nghĩa địa than khóc. Bậc đạo sư thấy vậy liền đến và hỏi bà:
- Tại sao ngươi khóc?
Bà đáp:
- Bạch Thế Tôn, con khóc đứa con gái của con.
Thế Tôn nói:
- Tại nghĩa địa này có 84.000 đứa con gái chết, bị thiêu, vậy ngươi có khóc than cho ai?
Rồi đức Thế Tôn chỉ cho bà những chỗ đất mà những người chết bị thiêu. Thế Tôn nói xong đọc một bài kệ:
Hỡi nàng Ubirì,
Nàng khóc trong rừng sâu,
Khóc than ôi Jivà,
Con gái thân của tôi,
Hãy tự mình hồi tỉnh,
Hỡi này Ubirì!
Trong bãi đốt tử thi
Tất cả tám vạn tư,
Người đồng tên Jivà
Nàng khóc Jivà nào?
Nghĩa là đức Phật khuyên ở trong nghĩa địa này nó có 84.000 cái người con gái chết mà cũng đồng tên Jivà như vậy, vậy bây giờ bà đến đây bà khóc cho cái người con gái Jivà nào, hay hoặc khóc cho 84.000 cái người con gái này? Đó, ông Phật chỉ nhắc nhở như vậy thôi, nghĩa là bao nhiêu người chết chứ đâu phải có Jivà chết sao mà bà lại khóc, ý ông Phật nói vậy đó. Bao nhiêu người cũng phải đi vào cái cõi sanh tử đó chứ đâu làm sao mà tránh khỏi, vậy mình khóc là khóc gì đây? Cho nên được nhắc nhở như vậy.
Sau khi được bậc đạo sư chỉ dạy, bà suy tư, xin bậc đạo sư xuất gia tu hành. Chẳng bao lâu với đề tài thiền quán người chết, bà đã chứng quả A La Hán.
Tức là bà lấy ngay cái chỗ đau khổ nhất là cái người thân của bà chết, đứa con gái bà chết đó thì chẳng bao lâu thì bà chứng quả A la hán. Có phải là cái vấn đề mà ngoài cái vấn đề của Phật pháp không? Không phải đâu. Bởi vì trong Phật pháp chúng ta thấy sanh lão bệnh tử khổ mà, mà đây là một cái đề tài về cái chết khổ. Cho nên từ đó bà quán xét cái chết, thấu đạt được cái chết, chứng được cái lý sanh tử của nó, cho nên bà giải thoát chứng quả A la hán. Chúng ta thấy đó là một cái đề mục thiền rất là thực tế và cụ thể cho nội tâm của người mẹ đang thương một người con quá nức nở, quá xót xa. Lấy cái đó mà làm đề mục tu thì tức là nó giải quyết được bao nhiêu cái sự ham muốn, cái sự khổ đau của đời người. Cho nên lậu hoặc bà quét sạch.
Đây bà nói lên bài kệ qua kinh nghiệm tu hành của mình:
Mũi tên khó nhìn thấy,
Ðâm dính nơi tâm ta,
Chắc chắn đã được Ngài,
Nhổ lên khỏi tâm ta,
Sầu muộn vì con gái,
Làm cho ta sầu khổ
Sầu muộn ấy không còn
Ðã được chấm dứt hẳn.
Nay mũi tên được nhổ,
Mọi ham muốn lắng dịu,
Ta đi đến quy y
Bậc ẩn sĩ Mâu-ni,
Quy y Ba ngôi báu
Phật, Pháp và chúng Tăng."
Đó thì chỉ có một cái nỗi đau khổ với đứa con thôi thế mà được bài kệ của đức Phật, bà đã giải thoát được cái sự đau khổ và khi mà đến tu hành, bà lấy cái đề tài đó bà làm cái pháp hướng bà tu tập, cho đến cuối cùng bà chứng được quả A La Hán. Như vậy bà tu pháp môn nào đây? Bà lấy cái chết bà quán để rồi bà phá đi những cái lậu hoặc của bà tức là bà tu Định Vô Lậu đó. Trong khi mà mình thấy cái đề mục đó thì mình biết bà tu cái gì rồi, cái định nào rồi. Đó, còn cái kia người ta tu phòng hộ 6 căn, người ta không có nằm ở trong cái Định Vô Lậu mà người ta điều khiển cái tâm của mình đừng cho nó dính mắc, đừng cho dính mắc, riết rồi nó không dính mắc nữa rồi nó cũng vô lậu mất. Thành ra nó không có thiền quán vô lậu mà nó bằng cái trực tiếp ý thức của chúng ta mà xả tâm. Còn ở đây lấy đề mục người chết tức là nó phải có một sự quá trình thấu suốt được cái lý cho nên nó phải vô lậu, nó phải là đặt niệm đó trước mặt của mình rồi quán xét người chết này đến người chết khác, mỗi cái chết nó đều cũng như nhau, cho nên cuối cùng thì bà không còn đau khổ nữa và những cái tâm phiền muộn của bà, những cái tâm ham muốn của bà nó cũng đều tan biến mất đi. Từ đó lậu hoặc nó sạch, cho nên bây giờ chính là bà mới quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Bậc ẩn sĩ Mâu Ni, tức là đức Phật, là một người ẩn sĩ, rõ ràng đức Phật là người ẩn sĩ, nhưng mà độ chúng sanh đó. Cho nên bà gọi cái chỗ này thì rất là phù hợp. Người ẩn sĩ thì không cần cầu danh cầu lợi mà chỉ ai khổ là Ngài đến Ngài độ đó, nghĩa là thấy bà này mất con bà khổ thì Ngài đi khất thực Ngài đã biết được cái nỗi khổ đó và đức Phật đến nghĩa địa, chứ đi khất thực mà đi vô nghĩa địa làm gì? Nhưng mà biết trong đó có người quá thống khổ và người này có thể độ được, cho nên do đó lấy đề mục thiền đó mà hướng dẫn cho bà qua bài kệ. Đó là những bậc ẩn sĩ thì người ta đi tìm những bậc mà có cái duyên sắp sửa thành tựu được cái chỗ tu hành cho nên người ta chỉ dùng một bài kệ. Còn nếu mà cái người bình thường mà chưa có đủ duyên mà chưa có những sự thống khổ mà đến mức độ vậy dù đức Phật có dùng 100 bài kệ chắc độ người ta cũng không nổi đâu. Người ta còn ham làm giàu, người ta còn ham vợ đẹp con xinh, người ta còn ham nhà lầu thì chắc chắn là bây giờ có nói gì nói họ cũng trơ trơ, họ không tu nổi đâu. Đó thì cái phần mà những gương hạnh để chúng ta lấy đó mà làm cái gương tu hành cho chúng ta.
Trước khi tiếp tục bài học giáo án tu tập, Thầy xin nhắc quý thầy cần lưu ý những bài pháp bổ túc thêm cho giáo án. Những bài pháp mà Thầy bổ túc thêm cho giáo án là nó làm sáng tỏ cho chúng ta thêm một cái phần để chúng ta tu tập cho nó đầy đủ, được đầy đủ lý pháp và hành pháp để quý thầy biết cách tu tập rő ràng sau này khi không có Thầy. Nghĩa là những cái bài mà bổ túc thêm là nhắc nhở khéo léo cho quý thầy, khi mà quý thầy gặp khó khăn thì quý thầy nhớ những bài bổ túc thêm thì quý thầy sẽ sáng tỏ ra. Còn nếu mà quý thầy cứ ở trong giáo án mà Thầy giảng suông suông như là giới hạnh, giới đức, rồi giới tuệ đó thì nó suông suông mà nó không có những cái bổ túc thêm thì quý thầy không có nắm vững cái cách thức mà tu tập được. Cho nên khi mà nghe nó suông suông như vậy thì chúng ta lại thấy có những cái bài bổ túc thêm cho phần giáo án. Những bài bổ túc đó nó làm cho chúng ta thông hiểu rõ cái chỗ mà chúng ta tu tập.
Như vào đầu giáo án đức Phật, tức là chúng ta mới vào đầu mà cái bài học giáo án này thì đức Phật đã dạy chúng ta có bốn điều kiện cần phải thực hành cho đúng và cho nghiêm túc. Đó là bốn điều kiện nào? Thầy nhắc lại nè: “Thông hiểu, trau dồi, dứt bỏ, tu tập”. Thì bắt đầu một - thông hiểu, hai - trau dồi, ba - dứt bỏ, bốn - tu tập. Bốn điều kiện này nó nhắc đi nhắc lại từ bắt đầu mà bây giờ Thầy cũng còn phải nhắc đi nhắc lại. Cái nào mà phải thông hiểu? Tức là mình phải thông hiểu giới hạnh, phải thông hiểu giới đức, phải thông hiểu giới tuệ. Mình thông hiểu rồi thì bắt đầu bây giờ mình mới tới giai đoạn mình thông hiểu rồi thì mình trau dồi. Còn mình chưa thông hiểu, thuở giờ có nghe ai nói giới đức, giới hạnh, giới tuệ bao giờ, mà bây giờ được nghe như vậy, được giảng thông hiểu được rồi thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới trau dồi giới hạnh như thế nào, giới đức như thế nào, giới tuệ như thế nào. Thì trong khi mà trau dồi đó thì nó có những cái mà chúng ta cần phải dứt bỏ. Cho nên cái gì mà dứt bỏ, cái gì mà để lại? Đó thì những bài bổ túc này để chúng ta biết cái nào để dứt bỏ mà cái nào để lại mà chúng ta trau dồi. Rồi còn cái phần mà tu tập nữa. Phải chuyên cần tu tập nữa. Hằng ngày giờ nào chúng ta cũng phải chuyên cần tu tập nữa, chứ không phải trau dồi dứt bỏ rồi thôi, còn phải chuyên cần tu tập những cái cần thiết cho nó căn bản, cho nó thấm nhuần, đó là sự tu tập.
Ở đây quý thầy cần phải biết những pháp nào thông hiểu, những pháp nào trau dồi, những pháp nào dứt bỏ, những pháp nào tu tập. Đó tức là cách thức nào tu tập, cách thức nào dứt bỏ, cách thức nào và cái pháp nào dứt bỏ, cái pháp nào mà tu tập, cái pháp nào mà phải thông hiểu. Đây là một bài kệ mà đức Phật đã dạy chúng tỳ kheo theo đó mà thực hành. Ở đây là có một bài kệ, trước khi mà dạy cái bài này thì đức Phật đã có nhắc cho chúng ta một bài kệ tóm tắt lại để chúng ta thuộc, để chúng ta nhớ mà nhắc mình phải như thế nào. Đây là bài kệ 4 câu:
Ta nói thập thượng pháp
Pháp đưa đến Niết bàn
Diệt trừ mọi khổ đau
Giải thoát mọi triền phược.
Nghĩa là đức Phật nói: Ta nói mười cái thượng pháp, đây là mười cái pháp cao thượng đó, để cho các vị phải lấy đó mà tu tập, mà trau dồi, mà dứt bỏ để cho đến được Niết bàn, dứt trừ mọi khổ đau, giải thoát mọi triền phược, tức là mọi sợi dây trói buộc đó. Qua cái bài kệ này nó có mười pháp tối thượng, nghĩa là mười pháp tối thượng để mà chúng ta tu tập. Vậy thì mười pháp đó là gì mà quý thầy cần phải hiểu rõ để thực hành cho bằng được? Nghĩa là mình phải làm đúng theo mười cái pháp này.
Một, là một pháp có nhiều tác dụng. Nghĩa là một pháp tu tập đó chứ nó có nhiều tác dụng cho cuộc sống của chúng ta hằng ngày. Nó tác dụng rất nhiều mặt chứ không phải là một. Vậy thì cái pháp mà nó nhiều tác dụng đó là cái pháp nào? Chúng ta phải biết, chứ nếu mà không biết làm sao chúng ta tu tập được? Giới luật thì chúng ta, giới đức giới hạnh giới tuệ chúng ta thông rồi đó, mà không biết nó cái pháp nào để mà nó tác dụng cho được, đạt được cái giới luật thì làm sao mà chúng ta tu? Cho nên ở đây Thầy giảng để cho quý thầy thấy rằng từ cái chỗ mà lý pháp cho đến cái chỗ hành pháp thì tức là chúng ta phải biết một pháp, rồi đây rồi hai pháp, ba pháp cho đến mười pháp, rồi đến nhiều pháp nữa chứ đâu phải là một pháp. Nhưng bắt đầu chúng ta chỉ học một pháp. Một pháp đó nó có nhiều tác dụng để chúng ta đạt được ba cái giới này, ba cái giới này.
Hai, là một pháp cần phải tu tập. Nghĩa là có một pháp mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng cần phải tu tập thì chúng ta mới giữ trọn được giới đức, giới hạnh và cái giới tuệ.
Ba, một pháp cần phải biến tri. Chữ biến tri, biến tri tức là biết thay đổi, biết thay đổi ngay ở trong chỗ tu tập của mình, khéo léo thiện xảo đó. Đó là biến tri đó.
Một pháp cần phải đoạn trừ. Nghĩa là chúng ta học một pháp này mà chúng ta đoạn trừ rất nhiều cái đối tượng của chúng ta, chúng ta phải học cái pháp đó. Cái pháp đó nó có cái tên của nó, và cái tên nó như thế nào để mà chúng ta biết đoạn trừ.
Một cái pháp chịu phần tai hại. Chúng ta phải thấy được cái pháp nào mà nó chịu tai hại đối với cái cuộc tu hành của chúng ta, cho nên chúng ta phải biết một pháp đó mà chúng ta hoàn toàn là phải chấm dứt phần tai hại nó. Nghĩa là không cho chúng phải sống ở trong tâm của chúng ta, dứt bỏ cái pháp mà nó làm tai hại chúng ta.
Một pháp đưa đến thù thắng. Chúng ta biết một cái pháp tu nào mà nó đưa đến sự thù thắng, cái sự thành tựu của sự tu tập của chúng ta.
Một pháp rất khó thể nhập. Nghĩa là một pháp đó rất khó nhập vào một pháp rất khó, vậy mà chúng ta biết cái pháp đó khó vậy mà chúng ta phải tu tập như thế nào để mà thể nhập được.
Một pháp cần được sanh khởi. Nghĩa là chúng ta phải hiểu một pháp làm cho tâm mình sanh khởi, sanh khởi cái gì? Sanh khởi ác pháp hay là sanh khởi thiện pháp? Nếu sanh khởi thiện pháp thì chúng ta chấp nhận mà sanh khởi ác pháp thì chúng ta không chấp nhận, mà một cái pháp đó nó sẽ sanh khởi ác pháp và thiện pháp.
Một pháp cần được thắng tri. Nghĩa là một pháp cần được hiểu cho thật rõ, thấu suốt chớ không hiểu lơ mơ được, cho nên gọi là một pháp cần mà chúng ta phải thắng tri.
Một pháp cần được tác chứng. Nghĩa là tác chứng là phải chứng cho được cái lý thâm sâu, bởi vì người ta ngộ, ngộ lý mà còn chứng lý. Còn ở đây tác chứng là chứng cái lý cho thật chứng, nghĩa là một pháp đó chúng ta phải tu tập như thế nào để chứng cho được cái lý.
Đó thì trong mười cái pháp này chúng ta đã được liệt kê ra để được nghe nói vậy. Bây giờ Thầy sẽ giảng ra từng pháp để chúng ta biết được qua những câu hỏi để chúng ta hiểu nó như thế nào là cái pháp mà chúng ta cần phải tu tập đây.
Hỏi: Thế nào là một pháp có nhiều tác dụng?
Một cái pháp mà nó có nhiều tác dụng, tác dụng bên đây tác dụng bên đây, tác dụng bên đây, nó tác dụng đủ thứ hết, nó làm cho chúng ta sanh khởi đau khổ rồi nó làm cho chúng ta không còn đau khổ đó thì một pháp có nhiều tác dụng vậy đó thì Phật đáp: “bất phóng dật, mà nói ngắn gọn thì vậy, đối với các pháp ác, các pháp bất thiện, bất thiện pháp, nghĩa là mình không có phóng dật theo các pháp ác và bất thiện pháp thì đó là cái pháp mà có nhiều tác dụng, nghĩa là mình chạy theo nó, mình phóng dật chạy theo nó thì muôn ngàn thứ khổ, mà mình không phóng dật theo các pháp ác và bất thiện pháp thì muôn ngàn thứ khổ sẽ chấm dứt. Đó thì chúng ta thấy rất rõ ràng, mà cái pháp đó nó có tác dụng rất lớn, cho nên tâm không phóng dật thì chúng ta giải thoát chứ gì? Tâm có phóng dật thì chúng ta không giải thoát, cho nên chúng ta biết được cái tên của nó “bất phóng dật” là không phóng dật, phải không? Quý thầy không phóng dật thì quý thầy sẽ thấy giải thoát liền tức khắc, mà quý thầy phóng dật là quý thầy bị các ác pháp và bất thiện pháp sẽ trì quý thầy xuống địa ngục đó. Đó thì mới vô đầu chúng ta học được cái pháp có nhiều cái tác dụng lắm, nghĩa là không phóng dật là nó không còn cái tác dụng nào mà ác pháp được với chúng ta hết cho nên tâm chúng ta thảnh thơi giải thoát, cho nên Phật dạy thường tâm đừng phóng dật đó. Đó mà đây là một cái pháp mà bất phóng dật là đã giải thoát chớ không còn đòi gì nữa hết.
Hỏi: Thế nào là một pháp được tu tập?
Một pháp được tu tập, đó thì các thầy thấy, có một pháp thôi chớ không có nhiều đó, nếu nói hai pháp thì nó còn lộn xộn đó, chứ nó một pháp thì chắc chắn là quý thầy thấy nó dễ rồi chứ gì? Đầu tiên thì chúng ta nói bất phóng dật, một pháp không phóng dật thì nó có nhiều tác dụng lắm, nó có nhiều cái tốt ở trong tâm hồn chúng ta lắm, mà người nào mà cứ phóng dật ra người đó sẽ ảnh hưởng sẽ đau khổ sẽ nhiều mà người nào không phóng dật người đó sẽ giải thoát đó, cho nên nó tác dụng rất nhiều mặt.
Còn bây giờ một pháp cần được tu tập?
Đáp: niệm thân câu hữu với khả ý.
Cho nên ở đây cái niệm thân câu hữu với khả ý thì các thầy thấy đây là Tứ Niệm Xứ nè, không phải là một cái pháp Tứ niệm xứ sao? Một cái pháp Tứ Niệm Xứ mà trên cái thân này câu hữu với khả ý, nghĩa là mình lấy cái thân của mình mình niệm, bởi vì Phật nói thân hành niệm mà, có một pháp thân hành niệm mà quý thầy sẽ được giải thoát cho nên chỉ có một pháp là niệm thân thôi.
Mà niệm thân câu hữu với khả ý, lúc bấy giờ chúng ta niệm ở trên thân chúng ta niệm mà nó có cái yên ổn, cái không đau đớn, cái này kia thì đó là đúng. Mà nó có cái trạng thái này, trạng thái kia đó là sai, niệm thân như vậy là sai.
Cho nên Phật nói niệm thân câu hữu với khả ý. Nghĩa là lúc nào mình tu á, thì trên thân mình cũng nghiệm xét thấy nó có sự an lạc, có sự yên ổn, có sự thảnh thơi, có sự thanh thản á thì mình tu đúng. Mà nghe nhức nghe nhối, nghe chỗ này nghe tức, nghe lói hay hoặc là nghe nó trạo cử rồi, nghe buồn ngủ rồi thì quý vị đã tu sai rồi. Trên niệm thân của quý vị đã sai rồi. Cho nên nó có chỉ một pháp niệm thân thôi mà kèm theo với khả ý của nó, câu hữu với nó tức là hợp với cái sự an ổn của cái thân của mình thì nó là đúng. Nó đơn giản, rất là đơn giản, nó không có gì hết.
Bởi vì cho nên, tu theo đạo Phật thì nó phải có sự giải thoát chứ. Mà mình tu theo đạo Phật mà mình không có giải thoát gì hết là như thế nào? Cho nên, ngồi mà nghe có gì sai khác, quý thầy khi mà ngồi mà lặn mất tiêu, ngủ gục hay hoặc là thùy miên luôn thì kể như là quý thầy cũng là không có câu hữu với khả ý. Khả ý là cái ý của mình đang biết được cái yên ổn của nó. Biết được cái sự thanh thản của nó, biết được cái sự mức độ của nó ở trong đó, thân tâm của quý vị rất là an ổn thì đó là khả ý.
 Hỏi: Thế nào là một pháp cần được biến tri?
Cần được biến tri tức là phải có cái sự linh động của cái sự hiểu biết đó. Thì đức Phật đáp như thế nào? Xúc hữu lậu hữu thủ. Xúc hữu lậu, hữu thủ. Cái sự va chạm, xúc là va chạm chứ gì, vào những cái hữu lậu, vào những cái đối tượng là hữu lậu chứ gì? Hữu lậu là cái lậu hoặc mà có cái đối tượng của nó mà xúc va chạm với cái vật đó. Ví dụ bây giờ Thầy đụng cái bàn, Thầy đụng cái ghế, Thầy đụng tập vở, Thầy đụng cái máy, Thầy đụng tất cả mọi cái tức là Thầy xúc chạm nó.
Mà mọi cái đều là có cái giữ của nó lại, tức là cái đó là mình phải biến tri để cho đừng có bị dính mắc nó lại. Thì như vậy cái sự hiểu biết của mình phải theo cái nhịp đó mà mình chủ động điều khiển. Thì nãy như các vị thấy rằng phòng hộ sáu căn đó, là cái chỗ xúc hữu lậu hữu thủ này đó là phòng hộ sáu căn đó. Đức Phật muốn nói đó là một pháp phòng hộ sáu căn, đó là xúc hữu lậu hữu thủ. Nghe cái danh từ, thì nếu mà cái người mà không có tu chứng thì họ không có hiểu được cái danh từ này mà giải thích ra như vậy.
Bởi vì cái hữu lậu là nó có 3 cái lậu hoặc: cái hữu lậu, cái dục lậu, cái vô minh lậu. Mà ở đây đức Phật nói xúc hữu lậu hữu thủ nghĩa là mình đụng cái gì mình dính vô mình giữ lại giữ lại đó, thì tức là chúng ta phải phòng hộ 6 căn thì chúng ta mới quét sạch ra. Thì như vậy, nói xúc hữu lậu hữu thủ thì chúng ta biết rằng phòng hộ 6 căn hay Thánh phòng hộ 6 căn. Đó thì 1 pháp Thánh phòng hộ 6 căn mà chúng ta cũng đã được giải thoát, cũng đã được chứng Niết bàn.
Hỏi: Thế nào là một pháp cần được đoạn trừ?
Ờ, bây giờ cái pháp nào cần phải đoạn trừ đây? Cái đầu tiên vô, đầu tiên Phật dạy chúng ta phải đoạn trừ cái gì, dứt bỏ cái gì?
Đáp, ngã mạn. Các thầy thấy ngã mạn, đức Phật nói đoạn trừ. Mỗi một cái tâm niệm mình móng lên, mình hơn người là ngã mạn rồi. Mình hơi hái huých người ta là ngã mạn rồi, mình hơi có cái vẻ, làm cái vẻ mà đặc biệt hơn người, đó là ngã mạn của mình thể hiện ra. Mình tự nhiên theo cái phong độ của mình tự nhiên thì nó không có ngã mạn. Chứ còn mình làm có vẻ gì khác hơn 1 chút, nghe bài học rồi cái mình tỏ vẻ ra khác 1 chút. Đi hổng dám đi á, thì đó là ngã mạn của quý vị theo pháp nó lớn lên rồi đó. Cho nên, ở đây chúng ta phải sáng suốt từng chút để mà đoạn trừ cái ngã mạn của chúng ta.
Bởi vì cái ngã mạn nó thực hiện cái ngã của chúng ta ở trong này này nè. Mà cái pháp đó chỉ có 1 pháp đoạn trừ ngã mạn mà quý thầy cũng đã được giải thoát chứ chưa nói gì. Bởi vì ta nói vô ngã là Niết bàn, mà bây giờ cái ngã mạn của mình làm sao mà Niết bàn được. Đó thì như vậy là chúng ta thấy rằng đức Phật dạy chúng ta một pháp một thôi mà chúng ta làm cái đề mục của nó, chúng ta tu hành thì chúng ta cũng phải đạt được cái sự giải thoát chứ không phải là tu nhiều.
Hỏi: Thế nào là một pháp chịu phần tai hại.
Đó, một pháp mà nó làm cho chúng ta tai hại cái này cái khác đó?
Thì đức Phật đáp: bất chánh tác ý. Nghĩa là cái pháp mà nó làm cho chúng ta phải chịu phần tai hại đó. Thì cái ý mà không có chơn chánh của mình, bất chánh nó tác ý ra. Bây giờ nó khởi ham cái này, khởi ham cái kia là bất chánh chứ gì? Ghét người này, giận người kia là bất chánh chứ gì? Nghi người này nghi người kia là bất chánh chứ gì, sân người này sân người kia là bất chánh chứ gì. Đó là bất chánh tác ý, tác ý ra cái sự bất chánh, không có chơn chánh. Cho nên đó là cái pháp tai hại. Nó làm cho mình hại mình liền. Trước tiên là mình hại mình. Cũng như thấy người ta, mình nghi người ta như vậy, đó là bất chánh tác ý rồi. Cho nên, quý thầy phải ghi những cái này, phải nhớ kỹ những cái này, phải học thuộc lòng những cái này. Để biết từng tâm niệm của mình, để cho mình điều khiển con voi của mình đây. Biết ở trong đầu mình nó tác ý ra những pháp bất chánh rồi, thì đó là con voi của mình nó muốn đi theo cái kiểu rừng rú của nó rồi đó. Nó chưa có phải là con voi thuần để mà mình gác yên gác bành lên để cho mình điều khiển ra trước chiến trận đâu.
Đó thì bắt đầu quý thầy thấy cái pháp tai hại chưa? Bất chánh tác ý là pháp tai hại.
Hỏi: Thế nào là một pháp đưa đến thù thắng? Đó, cái pháp nào mà đưa đến thù thắng? Nghe cái bất chánh tác ý rồi, thì tức là có cái pháp thù thắng. Vậy cái pháp thù thắng là pháp như thế nào?
Đáp: chơn chánh tác ý. Nghĩa là tác ý ra, bây giờ mình không có nghi người đó, không có thấy người đó ăn trộm ăn cắp gì, mình không có nghi người đó tức là mình tác ý cái chơn chánh đó ra. Thì đó là cái pháp thù thắng làm cho tâm hồn mình giải thoát. Mình không tham, không sân, không si thì tức là mình tác ý ra những cái tâm không tham, không sân, không si của mình ra.
Hoặc là mình không ham muốn thì mình tác ý ra. Bây giờ thấy cái đồng hồ, mình tác ý đừng ham muốn thì tức là chơn chánh pháp tác ý đó. Mình thấy cái vật gì đó ham muốn hay hoặc là mình thấy người phụ nữ đi ngang qua: “ồ, đẹp quá”, rồi mình tác ý không chơn chánh là ham muốn liền. Còn mình tác ý, đừng ham muốn tức là tác ý chơn chánh. Cho nên tác ý, cái pháp tác ý tức là như lý tác ý đó, thì các thầy thấy đức Phật đã dạy như lý tác ý tức là pháp ám thị, tức là pháp hướng của chúng ta mà.
Thấy ngang đó, nó khởi tâm lên thì đó là mình biết là bất chánh tác ý rồi. Nó khởi cái tâm lên, thấy cô ta đẹp thì biết là bất chánh rồi. Cho nên mình dẹp, phải tác ý ra liền. Tức là một cái pháp đưa đến thù thắng, là mình chơn chánh tác ý: “Sắc đẹp của người nữ là khổ, là đau”. Tác ý như vậy là chơn chánh tác ý. Đó thì các thầy thấy những cái điều mà đức Phật dạy Thầy thấy rất là tuyệt vời, biết từng tâm niệm của chúng ta để chúng ta từng điều khiển nó, để mà chúng ta thoát ra tất cả những cảnh khổ của cuộc đời chúng ta.
Hỏi : Thế nào là một pháp rất khó thể nhập.
Nghĩa là cái pháp nào mà trong Phật Pháp đó mà khó thể nhập vào?
Thì đức Phật đáp: vô gián tâm định, vô gián tâm định. Bằng chứng là quý vị bây giờ quý thầy nhập vô Nhị thiền hay là Sơ thiền hay hoặc là Tam thiền, nói chung là bóng dáng Tứ thiền. Mà vô gián ở đây có nghĩa là nó liên tục, chữ vô gián nghĩa là liên tục, nghĩa là cái pháp mà nhập vào để mà liên tục ở trong đó, kéo dài từ ngày này đến ngày khác. Thậm chí như 7 ngày, cho đến 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 5 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm mà luôn liên tục như vậy á, đó là cái pháp rất khó thể nhập.
Các thầy hiểu, bây giờ mình nhập nó trong vòng 1 phút thì có thể được, mà 2 phút, 3 phút có thể được. Mà 5 phút là thấy có thể là khó nhập vô rồi đó. Cho nên, ở đây Phật nói, cái pháp mà rất khó thể nhập đó là vô gián tâm định. Nghĩa là nhập nó liên tục, hoài hoài hoài hoài. Như Thầy nhập 2 tháng liên tục ở trong đó. Nó là cái khó, khó thể nhập. Mà cái người nhập được 2 tháng như vậy, không phải là chuyện làm trong 1 ngày, 2 ngày đâu. Mà các thầy phải hiểu, Phật cho đó là cái pháp khó thể nhập. Mà cái người nào nhập được như vậy ngồi suốt 7 ngày không phải là chuyện dễ cho 1 người tầm thường.
Cho nên, các thầy muốn nhập cho được, nghe nói Tứ thiền, muốn nhập cho được thì phải nhập từng phút, rồi ra rồi vô, nhập cho nó quen dần. Chứ quý thầy vô ngồi mà quý thầy nhập mà vô gián tâm định như thế này mà nhập được liền thì cái thân của quý thầy nó tiêu luôn, nó thành thây ma luôn, chớ nó không sống nổi đâu. Cho nên phải nhập vô nhập ra, kéo dài cái thời gian luyện tập nó từng chút, từng chút. Tăng lên thời gian từng chút thì quý thầy không có bị khổ đau, không có bị hoại diệt cơ thể.
Cho nên, cái sức mà thiền định của Tứ thiền, quý thầy đã biết. Có 49 ngày nó còn giữ thân thôi, mà qua 49 ngày, 50 ngày là cái thân của quí vị  hoại diệt liền tức khắc, nó không còn hồi phục lại được. Cho nên, nhập Tứ thiền là tới 49 ngày là tự nó xuất ra, quý thầy muốn kiềm nó cũng không được. Nó còn hồi phục được nó trở ra. Còn quý thầy mà ráng kiềm, mà kiềm cho được, Thầy nói rằng, không ai kiềm được hết. Nghĩa là bây giờ tới chừng đó nó ra rồi, bởi vì nó phải phục hồi cái sự sống của nó, nó phải bung ra. Cũng như bây giờ cái sức của quý thầy có 1 phút à, quý thầy ráng 2 phút nó bung ra. Rồi quý thầy nhắc nó, quý thầy gom lại nữa, quý thầy nhập vô nữa. Thì nó nằm chút xíu nữa nó bung ra, nó chưa được phút nữa đâu. Nó đâu có phải chuyện dễ đâu. Cho nên muốn mà, ở trong này, Phật dạy mà: “Thế nào là một pháp rất khó thể nhập? Là Phât dạy là Vô gián tâm định”. Cái câu nói “vô gián”, mình nghe nói thuở giờ, mình nghe nói cái vô gián địa ngục chứ gì? Có cái vô gián địa ngục là luôn luôn mình luôn luôn liên tục ở trong cái sự đau khổ, nó không có phút giây nào mà hở ra sự đau khổ gọi là vô gián địa ngục.
Các con hiểu không? Bây giờ ở trong cái vạc dầu, mà người ta bỏ mình trong vạc dầu người ta đốt mình á, nó nóng liên tục, nó không có phút nào là nó không nóng. Nên gọi là vô gián địa ngục. Còn có phút mát, phút nóng, phút mát á thì nó không phải là vô gián địa ngục. Cũng như người ta đánh mình, hơi đã rồi người ta cho mình nằm nghỉ. Thì phút mà nằm nghỉ thì nó không đau. Thì không thể gọi đó là vô gián địa ngục.
Mà lọt vào vô gián địa ngục là liên tục từ ngày này đến ngày khác á. Nó liên tục đau khổ, không có phút nào mà nó được không đau khổ, không phút nào là không đau khổ. Đó quý thầy hiểu, cho nên chữ vô gián mà tâm định á, là liên tục ở trong định. Không có phút nào mà kẻ hở ở trong đó mà bung ra, bung vô được. Gọi là vô gián.
Vậy thì hôm nay, Thầy giảng cho quý thầy biết được cái Định vô gián nó như thế nào. Mà bây giờ quý thầy cứ từng phút, từng phút một chứ đâu có lâu được, phải không? Đó, hiểu như vậy thì quý thầy thấy được con đường của đạo Phật vạch quá rõ, không có chỗ nào mà Phật không nói cho chúng ta biết cái khó, cái dễ. Cho nên, bây giờ chúng ta tu được 1 phút, 2 phút chưa chắc đã là chúng ta đã kéo dài 1, 2 ngày nổi. Cho nên, sự tu tập của chúng ta cần phải tu tập nhiều.
Hỏi: Thế nào là pháp cần được sanh khởi? Pháp nào mà cần được sanh khởi?
Phật đáp: “Bất động trí”. Mình muốn mà không có cái tâm mà sanh khởi á, thì phải giữ cái trí của mình bất động không có khởi cái niệm này niệm kia, tức là bất động. Nói như vậy chứ đâu phải dễ đâu. Đó, như vậy muốn đạt được cái pháp này, bất động trí thì chúng ta còn phải tu tập những cái pháp khác.
Kế đây Thầy sẽ cho 2 pháp, 3 pháp rồi 4 pháp. Mỗi cái bài pháp về giới luật về cái giáo án Thầy sẽ cho thêm những cái bài phụ hết. Để chúng ta thấy xen kẽ, xen kẽ để mà chúng ta biết tu tập.
Giờ nói bất động trí, cha, cái chuyện này khó quá. Ngồi đây mà tâm mà không có nghĩ ngợi như là một người nhập sơ thiền, hoàn toàn là thanh thản không có một cái gì hết. Đó là bất động trí. Mà bất động trí, ví dụ như nhập nhị thiền, thì bây giờ suốt thời gian 1 giờ, 2 giờ cho đến 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày, 7 ngày mà cái tâm luôn luôn nó không khởi niệm này niệm kia, im phăng phắc thì đó là bất động trí.
Đó thì như vậy là chúng ta phải có một công trình tu tập dữ lắm mới có đạt được. Cho nên thế nào là pháp cần được sanh khởi. Nó liên tục sanh khởi. Lúc thì sanh cái này, lúc thì sanh cái kia. Cho nên vì vậy mà đức Phật mới dạy, thế nào là pháp cần được sanh khởi? Cần được sanh khởi tức là mình đi ngược lại cái pháp mà tâm mình đang sanh khởi thì đó là bất động trí, phải không? Mình nghe nói, thế nào là pháp cần được sanh khởi? Cái tâm của mình bây giờ nó đang sanh khởi rồi mình sanh khởi nữa sao? Cho nên, cái pháp mà cần cho được nó sanh khởi để cho cái sanh khởi của tâm mình nó đừng sanh khởi. Các con hiểu chỗ đó không?
Cho nên, nghe cái câu này thì chúng ta nghe nó dường như là Phật nói mâu thuẫn. Nhưng mà sự thật là đúng. Bởi vì, mình đang ở trong cái tâm sanh khởi. Mà bây giờ cái pháp cần được sanh khởi, nó không còn được sanh khởi nữa đó. Thì như vậy là bất động trí. Chúng ta phải hiểu như vậy, mới hiểu được, bởi vì trong kinh thường thường cái người dịch và cái người mà hiểu á thì nó có 2 cái hiểu. Thay vì, cái câu này phải đặt như thế này này, thế nào là pháp cần được không sanh khởi thì như vậy nó mới đúng. Nhưng mà vì ở trong kinh người ta dịch như vậy thì Thầy cũng viết ra như vậy để mà chúng ta phải hiểu nó. Bằng cách nhưng mà phải hiểu cho đúng, bởi vì hiểu như thế nào? Các pháp mà cần sanh khởi á là các pháp ở trong tâm của chúng ta. Mà muốn cho tâm nó được sanh khởi thì bất động trí nó mới không sanh khởi. Chớ cái trí mà sanh khởi hoài thì nó làm sao mà đối lại với cái pháp đó được. Đó là cái câu hỏi và cái câu trả lời như vậy.
Hỏi: Thế nào là một pháp cần được thắng tri? Thắng tri tức là phải hiểu cho sâu, hiểu cho thấu triệt cái pháp cần cho hiểu, hiểu cho thấu triệt thì mình mới làm chủ được cái pháp đó.
Thì đáp: Tất cả loài hữu tình do ăn uống mà được an trú. Nghĩa là, mình hiểu cho được cái ăn uống này để cho mình làm chủ được cái ăn uống chứ không phải gì hết. Đức Phật muốn nói tất cả loài hữu tình tức là tất cả con vật, con gì, tất cả những loài mà biết, tất cả loài hữu tình, cái thứ nào cũng phải do ăn uống mà an trú. Nếu không ăn uống thì an trú không được. Chúng ta bây giờ không ăn thì chúng ta có an trú nổi không. Có ăn no như thế này chúng ta mới an trú được.
Cho nên, cái pháp, một pháp mà cần được thắng tri á, thì cái pháp đó là cái pháp phải thấu suốt được cái trí hiểu biết của mình. Thấu suốt được lý do ăn uống và an trú của chúng ta. Cho nên, chúng ta ăn một ngày 1 bữa là chúng ta đã thấu suốt được cái lý ăn uống. Cho nên, Phật dạy chúng ta ăn ngày 1 bữa đó, không ăn uống phi thời đó. Mà ăn ngày 1 bữa là chúng ta đã an trú được yên ổn nhất, ăn nhiều chưa chắc đã an trú được. Bởi vì ăn nhiều chúng ta phải giành giật, cũng như loài vật chúng sanh á, ăn nhiều nó phải đánh nhau, giành giật đồ ăn. Cũng như mình, con người cũng vậy. Ăn nhiều rồi sanh ra đấu tranh, nó mới có chuyện này chuyện kia, nó mới có làm những cái điều ác.
Cho nên chúng ta ăn ngày một bữa và 1 bữa đó chúng ta thấy nó an ổn, chuyên trú. Thân và tâm chúng ta rất là an ổn. Đó là cái pháp cần phải được thắng tri.
Hỏi: Thế nào là một pháp cần được tác chứng. Bây giờ chứng cái lý á thì pháp đó cần phải được tác chứng.
Thì đáp, bất động tâm giải thoát. Bất động tâm giải thoát thì quý thầy thấy hiểu chưa, mà Thầy nói cái mục đích của đạo Phật á. Một cái pháp này thôi để giữ cái tâm mình làm sao cho bất động tâm giải thoát thì đó là cái mục đích của đạo Phật, thì đó là cái sự thành tựu của đạo Phật. Muốn được vậy thì chúng ta phải nỗ lực hết sức mình trên bước đường tu tập mới có đạt được mục đích bất động tâm giải thoát.
Bây giờ chúng ta tiếp tục học giáo án trong phần giới đức cho xong để còn phải học giới tuệ và giới bổn nữa. Nó còn rất nhiều cái phần mà chúng ta phải học. Mà Thầy thấy về học cái giới thì nó quá là tuyệt. Cho nên chúng ta phải học cho nó kỹ hơn một chút để chúng ta biết cái đường lối tu tập.
Bây giờ Thầy xin nhắc lại để cho nó nối tiếp với bài pháp vừa rồi về cái giới hạnh, giờ nó tới phần giới đức.
« Ở đây vị tỳ kheo phải hộ trì các căn », nghĩa là vị tỳ kheo phải giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Bước qua cái giới đức, thì quý thầy thấy rằng cái pháp hộ trì các căn là pháp là đầu tiên. Mà chính đó là giới đức của chúng ta. Quý vị có mắt, đi ra đường mà nhìn xuống á, mình hộ trì con mắt mình không có nhìn thấy vật gì hết, thì cái tâm nó không ham muốn. Thì tức là giới đức của chúng ta chứ gì. Cái đức ở trong tâm của chúng ta, còn cái kia là hành động mà, các con hiểu điều đó không? Cho nên người ta nhìn cái đức của cái người tu sĩ, đi mà không ngó qua ngó lại thì người ta thấy ông này giữ gìn đức nghiêm chỉnh, tâm không bị dao động. Bởi vì mình đâu có ngó qua ngó lại, mình đâu có thấy vật gì. Cho nên tâm mình đâu có dao động. Mà phải là phòng hộ giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình, đó là cái giới đức đầu tiên mà cái vị tỳ kheo cần phải học.
Thế nào là vị tỳ kheo hộ trì các căn? Bây giờ chúng ta nêu lên hộ trì các căn, hồi nãy trước khi mà học cái bài này, Thầy đã nêu lên có những vị mà Thánh tăng đã hộ trì các căn đó. Đó là người ta tu ở trong giới đức đó. Quý thầy thấy nêu lên 1 cái bài pháp là phải có sự thực hiện ngay cái bài pháp đó liền tức khắc để chúng ta lấy gương hạnh đó mà chúng ta tu tập.
«Thế nào là tỳ kheo hộ trì các căn? Vị tỳ kheo, khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng chung tướng riêng, những nguyên nhân gì khiến cho nhãn căn không được chế ngự, khiến cho tham ái ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên, tỳ kheo phải chế ngự nguyên nhân ấy. Hộ trì nhãn căn và nỗ lực thực hành sự hộ trì nhãn căn ấy ».
Đó thì quý thầy thấy, có những cái nguyên nhân nào mà khi con mắt thấy các vật mà không được chế ngự nó thì nó sanh ra ham muốn chứ sao. Cho nên mình phải chế ngự nó, mà khi con mắt thấy một cái vật mà nó sanh ra tham ái, ưa thích thì nó ưa thích thì nó sanh ra, mình về mình nhớ mình nghĩ mình thương, mình thấy như cái này ra. Ví dụ Thầy đặt vấn đề thí dụ, mình đi ra đường, mình thấy một cô gái đó, họ nhìn mình, mình nhìn họ, họ cười mím chi, mình cười mím chi. Về cái bắt đầu cái tâm tham ái của mình bắt đầu nó nổi lên, mình không có chế ngự con mắt của mình được. Mình thấy những hành động đó, những cử chỉ đó, về đó mình nằm bắt đầu mình buồn rầu phải chi gặp cô ta nữa, thôi để ngày mai mình đi ra ngoài đường mình đón cô ta, cô có đi chợ không để mình gặp nữa. Làm cho mình đêm đó ngày đó mình sầu tư ưu bi, người ta gọi là tương tư đó. Tương tư bóng dáng thôi chỉ sơ sơ đó, người ta chỉ cười tình với mình, liếc háy với mình chút xíu thôi mình về thôi sầu não gần chết, có phải là khổ không?
Cho nên vì vậy đó cái người biết rằng những cái nguyên nhân gì khiến cho nhãn căn không được chế ngự, mình thấy được cái sắc pháp đó nó làm cho nhãn căn mình không được chế ngự. Khiến cho tâm tham ái ưu bi chúng ta khởi lên. Đó là nó làm cho tâm chúng ta tương tư đó. Thì đó là chúng ta phải biết đó là các ác bất thiện pháp khởi lên, vị tỳ kheo phải biết rõ cái nguyên nhân đó. Cho nên chúng ta trừ diệt, hộ trì cái nhãn căn, thực hiện sự hộ trì nhãn căn không có cho nó dính cái hình ảnh đó nữa. Quét sạch cái nụ cười đó ra, quét sạch cái đôi mắt mà liếc tình đó ra. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy thanh thản trở lại, không có ưu bi không có tương tư nữa.
Đó thì, ở đây đức Phật dạy cho chúng ta hộ trì các căn làm cho chúng ta thoát khỏi cái dòng mà lôi cuốn, cái dòng mà nó trói buộc chúng ta bằng những sợi dây vô hình mà rất là vĩ đại đó, chứ không phải thường đâu. Người ta thất tình, tương tư cũng vì ba cái này mà tiêu hết đó. Mà người tu sĩ đạo Phật mà chúng ta không có rõ được cái nguyên nhân đó, mà cứ để nằm lên, thở dài thở xuống thì cái kiểu đó tiêu ma luôn chứ đừng có nói chuyện tu.
« Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, thân cảm xúc, ý nhận biết các pháp. Vị tỳ kheo ấy không nhận biết tướng riêng, tướng chung nhờ hộ trì cao quí các căn ấy. Do sự hộ trì các này, mà tâm không đắm trước, đắm nhiễm các pháp thế gian nên nội tâm thanh thản. Nên nội tâm thanh tịnh, thanh thản, không cấu uế, tham dục. Do vậy thân tâm hưởng lạc trọn vẹn của giới đức này ».
Nghĩa là khi mà chúng ta hộ trì các căn thì ngay cái giới đức đó chúng ta thực hiện được thì chúng ta hưởng trọn vẹn của cái sự học giới này. Đó thì quý thầy thấy cái sự phòng hộ sáu căn của chúng ta rất là quan trọng cho cái vấn đề của một người mà trau dồi cái giới đức của họ. « Vị tỳ kheo trau dồi, tu tập phòng hộ giữ gìn 6 căn không cho dính mắc 6 trần như vậy, được tâm thanh tịnh, trong sạch, không cấu uế trần cảnh. Như vậy là giới đức của vị ấy thứ nhứt trong giới luật của đức Phật ».
Nghĩa là chúng ta hộ trì các căn của chúng ta mà được thanh tịnh như vậy á. Đó là thứ nhứt ở trong giới luật của đức Phật, tức là giới đức của vị ấy thứ nhứt ở trong giới luật của đức Phật. Đó chúng ta thấy cái đó là cái thứ nhứt á, cái phần thứ nhứt mà chúng ta tu tập cái giới đức của đức Phật, của giới luật của đức Phật.
« Ở đây vị tỳ kheo phải chánh niệm tỉnh giác », đó bây giờ tới thứ hai nữa.
« Ở đây vị tỳ kheo phải chánh niệm tỉnh giác, thế nào là vị tỳ kheo chánh niệm tỉnh giác? ». Chánh niệm tỉnh giác là một giới đức của vị tỳ kheo mà cần phải trau dồi, tu tập hằng ngày, không được biếng trễ. Nghĩa là chúng ta thấy đức Phật có nói phòng hộ 6 căn, rồi Phật còn gọi cái tên phòng hộ 6 căn , Phật còn gọi là Thánh phòng hộ 6 căn. Cho đến cái định mà gọi là Chánh niệm tỉnh giác định đó thì Phật còn gọi là Thánh chánh niệm tỉnh giác, dùng cái tên nghe mà mình thấy các bậc Thánh tu hành chứ không phải người tầm thường.
Vậy thì, thế nào là chánh niệm tỉnh giác, Thánh chánh niệm tỉnh giác là 1 giới đức của vị tỳ kheo mà cần phải trau dồi tu tập hàng ngày không được biếng trễ. Đây là Phật dạy ra cái hành động mà chúng ta tu tập cái Thánh chánh niệm tỉnh giác này. « Tỳ kheo khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác ». Nghĩa là mình tỉnh giác ở trên cái hành động đi tới đi lui của mình đó. « Khi nhìn thẳng khi nhìn quanh đều tỉnh giác».  Nghĩa là mình nhìn qua thì mình tỉnh giác trong cái sự nhìn qua của mình. Nhìn tới, nhìn lui, nhìn qua, nhìn lại, những cái nhìn của mình đều phải tỉnh giác ở trong đó. Tỉnh giác để làm gì? Các thầy nghĩ tỉnh giác để làm gì đây? Tỉnh giác để phòng hộ 6 căn của mình chứ làm gì, để cho nó đừng dính mắc chứ gì. Nếu mà không tỉnh giác thì nó sẽ dính à. Cho nên, mình lúc nào mình cũng tỉnh giác nó, giữ gìn trong cái hành động của mình, liếc nhìn, ngó quanh ngó quất đều là tỉnh giác.
« Khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác. Khi mang y kép, bình bát, y thượng đều tỉnh giác. Khi ăn uống, nhai nuốt đều tỉnh giác. Khi đi đại tiểu tiện đều tỉnh giác. Khi đi đứng nằm ngồi, thức nói yên lặng, thầm lặng đều tỉnh giác . Nói chung là tất cả các hành động trong thân khẩu ý đều coi sự tỉnh giác, đều lúc nào cũng coi sự tỉnh giác, đều lúc nào cũng có sự tỉnh giác. Luôn luôn niệm hành động không mất », tức là không thất niệm, nghĩa là luôn luôn mình giữ cái niệm hành động của mình đừng có mất, thì tức là mình không thất niệm, còn nếu mà nó mất thì tức là mình bị thất niệm. Thí dụ mình đương ngó qua cái mình quên đi tức là mình thiếu tỉnh giác thì đó là mình thất niệm rồi đó. Cho nên, đức Phật thường nhắc chúng ta là thất niệm đó, khi tu một cái phần nào, luyện tập trau dồi cái phần nào thì tức là mình phải luôn luôn phải đừng để cho thất niệm. Mà thất niệm thì đó là không tốt rồi. « Như vậy là giới đức của vị tỳ kheo thứ 2 trong giới luật của đức Phật ».
Đó chúng ta thấy từng cái giới, mà giới đức thứ nhứt rồi giới đức thứ 2, nó có tuần tự. Nếu quý vị tu Chánh niệm tỉnh giác trước mà không  phòng hộ 6 căn trước thì cái đó là quý vị tu ngược. Lớp 1 mà không tu lại tu lớp 2 đó. Cho nên bây giờ vô Thầy dạy quý thầy “đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, đó là tu lớp 2 chứ không phải tu lớp 1. Còn dạy mà chúng ta phòng hộ 6 căn thì đó là bước đầu chúng ta tu lớp 1 rồi đến tu lớp 2. Cho nên khi mà tỉnh giác để chúng ta làm gì? Để chúng ta giữ gìn phòng hộ 6 căn của chúng ta đó.
Khi nó thấy, khi nó nghe, khi này kia đó. Mắt nhìn ngó, hoặc là cái gì động dụng gì của ý đều là mình quan sát, mình tỉnh thức. Cho nên mình tỉnh thức thì mình ngăn cái lòng ham muốn của mình ngay liền tức khắc. Mình không tỉnh thức, cái lòng ham muốn của mình xâm chiếm mình ngay liền. Ác pháp vô đó mà xâm nhập tâm hồn của chúng ta. À, chúng ta thấy từ cái lớp 1 chứ, đó là cái lớp 1 chúng ta phải tu Thánh phòng hộ 6 căn. Lớp 2 của giới đức thì chúng ta lại tu Chánh niệm tỉnh thức.
Cho nên, chúng ta tu cái này rồi. Nó thấy được cái phòng hộ rồi, từ phòng hộ ăn uống, tới phòng hộ mặc y áo, phòng hộ tất cả mọi vật nó không còn dính mắc rồi, thì bây giờ tu Chánh niệm tỉnh thức nó rất là tỉnh thức. Các thầy thấy rất rõ, trên con đường của đạo Phật vạch cho chúng ta đi, cứ từng bước một, bước một của chúng ta đi mà nó làm cho chúng ta tỉnh thức, rất là tỉnh thức.
« Nhờ giới đức tỉnh thức này, nên ngũ triền và ngũ kiết sử không xâm chiếm được tâm của vị ấy ». Nghĩa là tỉnh thức rồi thì ngũ triền cái với ngũ kiết sử, ngũ kiết sử hay là thất kiết sử, sau này tới phần giới tuệ Thầy sẽ dạy cho quý thầy cái phần ngũ triền cái, ngũ kiết sử và thất kiết sử để cho quý thầy biết những cái đó là những cái gì mà chúng ta cần phải quét sạch nó ra. Còn bây giờ thì chúng ta lướt qua để chúng ta biết rằng, nhờ giới đức tỉnh thức này nên ngũ triền cái và ngũ kiết sử không xâm chiếm được tâm của vị ấy. Vị ấy hoàn toàn sống thanh thản, an lạc. Tâm vị ấy lần lần thanh tịnh, trong sạch.
« Ở đây, vị tỳ kheo ít muốn ít biết, đây tới giới đức thứ ba đây. Chánh niệm tỉnh giác là giới đức thứ hai. Giới đức thứ ba ».
« Ở đây, vị tỳ kheo ít muốn ít biết đủ ». Ít muốn là thiểu dục tri túc đó. Đó là một cái giới đức của một vị tu sĩ, họ phải cần tập luyện đây. « Thế nào là ít muốn biết đủ? Ít muốn biết đủ tức là thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc là 1 giới đức của vị tỳ kheo nên cần phải trau dồi tu tập hàng ngày. Nếu không trau dồi tu tập hàng ngày thì khó mà sống được với cái đức này ». Nghĩa là phải luôn luôn trau dồi nó. Vậy thì trau dồi nó như thế nào đây?
«Ở đây vị tỳ kheo phải chấp nhận, phải bằng lòng với 3 y, 3 tấm y để che thân. Với đồ ăn đi xin để nuôi bụng. Đi đến chỗ nào, cũng chỉ mang theo 3 y, 1 bát không được thêm cũng không được bớt. Cũng như con chim bay đến chỗ nào nó cũng mang theo 2 cái cánh và 1 chiếc mỏ để sống, bữa đói bữa no mà vẫn không quan tâm. Chỉ quan tâm đến cuộc sống thiểu dục tri túc của giới đức, giới đức của người tu sĩ ». Nghĩa là mình quan tâm tới giới đức của mình, cho nên luôn luôn mình sống thiểu dục tri túc, không có đòi hỏi. Bữa đói bữa no cũng không quan trọng nữa, mà chỉ cần mình giữ cái giới đức của mình.
Đó là mình đi đâu cũng chỉ mang 3 y, 1 bát của mình đến đó. Và cái bát của mình đó là cái mỏ của mình để mình đi xin ăn mà sống. Bữa thì người ta cho ăn thì no, bữa mà người ta không cho ăn thì đói mà vẫn biết giữ đói thì cũng vẫn là ít muốn biết đủ. Chứ không phải đói là bắt đầu mình muốn cho ăn nhiều á. Thì cái đó không phải là tri túc thiểu dục. Ở đây cái tri túc thiểu dục là nói bây giờ đồ ăn mình dư dả quá nhiều rồi, mình ăn ít thôi. Nhưng mà sự thật khi đói rồi mới biết được chỗ chúng ta có thiểu dục tri túc hay không? Đó là cái khó đó.
Ở đây nói tới cái giới đức thứ 3 của Phật dạy. Cho nên nó khó chớ hổng dễ đâu. Nói thiểu dục tri túc, khi mà chúng ta đói rồi chúng ta mới biết thiểu dục tri túc chúng ta ở chỗ nào. Khi mà quần áo chúng ta, y áo chúng ta rách nát hết rồi, không còn có mặc nữa hay hoặc là ướt át hết rồi chúng ta mới thấy là cái chỗ thiểu dục tri túc của chúng ta nó mới có biết được chỗ đó. Chớ hổng phải nghe nói thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ như vậy là đơn giản cái danh từ vậy đâu. Khi mà trường hợp và hoàn cảnh chúng ta có đói, có khát chúng ta mới biết chỗ tri túc thiểu dục chúng ta ở chỗ đó, ở chỗ đói khát đó. Ở chỗ, mà người đời mà người ta gọi là không thể làm được cái tri túc thiểu dục đó. Chớ còn bây giờ, ví dụ như mình nghèo đó, họ nói tui cũng biết đủ rồi, tui đâu có gì đâu, tui đâu có ham giàu nữa. Sức ông ta ổng làm giàu không được nữa nên ông đâu làm sao ông ham được nữa. Cho nên ông nói ông biết đủ rồi.
Đó thì cái đó là cái mà không thể nói rằng tri túc thiểu dục giới đức của cái người tu sĩ được. Mà giới đức của người tu sĩ căn cứ vào cái chỗ mà đói, mà khát, mà rách, mà rưới, mà khi đau bệnh mà không thuốc thang đó mà vẫn tri túc thiểu dục được trong lúc đó, đó mới gọi là tri túc thiểu dục.
Nếu mà Thầy không giảng như vậy, thì quý thầy chỉ hiểu sơ sơ chỗ tri túc thiểu dục đó thì không thấu suốt được đạo Phật đâu.
 « Như vậy là giới đức của vị tỳ kheo thứ 3 trong giới luật của đức Phật ».
Đó, cái chỗ mà thiểu dục tri túc này mà sống như vầy đó thì đức Phật coi nó là giới đức của một vị tỳ kheo trong giới luật của mình. Người tu sĩ nào sống ngược lại những giới đức này là vị tỳ kheo phạm giới đức, phạm phải giới đức của đạo Phật. Vị ấy là trùng trong lông sư tử. Nghĩa là mình không giữ được tâm của mình khi mà trong cảnh khó, mà mình không giữ tâm của mình thiểu dục tri túc. Cho nên, hầu như người ta không giữ được cái thiểu dục tri túc đó, mà người ta phải để dành thuốc, để dành thang, để dành 2 cái y, để dành 2 cái cục xà bông, để dành 2 cây kim, để rủi cây này có gãy còn cây kia nó còn mà vá. Mà bây giờ mình gãy sạch hết rồi, mà quần áo thì rách hết rồi, lấy gì vá đây? Thì không phải lúc bấy giờ mới là lúc thiểu dục tri túc sao? Chớ đâu phải lúc còn cây kim đó là lúc thiểu dục tri túc đâu. Quý thầy phải hiểu cái chỗ khó khăn là cái chỗ đó đó. Mà cái chỗ đó mới nói lên cái đức của cái người tu, thiểu dục tri túc đến mức đó đó.
Vị tỳ kheo khi đã thành tựu giới hạnh và 3 giới đức cao quý trên đây, đó phải được xem là 3 giới đức cao quí của họ chứ không phải là tầm thường. Nếu mà giữ gìn được 3 cái giới đức này, thật là một vị tỳ kheo đáng để cho người ta cúi đầu mà người ta đảnh lễ. Người ta cúng dâng tất cả những cái thực phẩm để coi như đương nhiên là một vị Phật sống ở tại thế gian này rồi.
Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là các giới hạnh chúng ta tu tập ở trên, nghĩa là các giới hạnh chúng ta đã học ở trên cộng với 3 cái giới đức mà chúng ta vừa học á thì 2 là giới đức hộ trì các căn, 3 là giới đức chánh niệm tỉnh giác, 4 là giới đức thiểu dục tri túc. Có 3 cái giới đức này, nó quan trọng trong bước đầu của cái người mà tu tập về cái giới đức của đạo Phật.
Khi đã thấy giới đức, giới hạnh, khi đã tu tập giới đức, giới hạnh này viên mãn thì nên lựa 1 cái chỗ thanh vắng, khi mà chúng ta giới đức, giới hạnh tức là những giới hạnh 25 cái giới hạnh ở trên và 3 cái giới đức dưới này mà chúng ta tu tập, chúng ta sống được như vậy rồi, thì bắt đầu chúng ta mới đi đến 1 cái chỗ thanh vắng, tĩnh mịch như rừng cây, ngoài trời, đống rơm, chòi lá, hay khe suối, hang đá, hang động. Bắt đầu chúng ta mới đi đến đó chúng ta thực hiện những giới đức kế tiếp để chúng ta tu tập.
« Sau khi khất thực ăn cơm xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chánh niệm trước trước mặt ». Đó, bây giờ mới đi vào giới đức kế tiếp. Còn nếu mà 3 cái giới đức và những giới hạnh ở trên mà chưa thực hiện được, thì cái chuyện mà đi làm cái chuyện này á, thì không thể nào mà làm tới giới đức kế tiếp được. Bởi vì từ cái lớp thấp, phải học cho nó xong thì mới đến cái lớp cao. Và đến cái lớp cao này thì chúng ta phải đầy đủ giới hạnh và đạt được 3 cái giới đức như Thầy đã giảng ở trên.
Thì bắt đầu, bây giờ chúng ta mới vào rừng, để rồi chúng ta tu tập giới đức gì tiếp theo đây. Chúng ta thấy coi thử coi cách thức tu như thế nào đây? « Vị tỳ kheo sau khi ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, vị ấy đặt niệm tham ái trước mặt ». Đó, mặc dù là phòng hộ giữ gìn, chánh niệm tỉnh thức như vậy rồi nhưng chưa hẳn đã là quét sạch tham ái trong lòng của mình. Cho nên, vị đó phải đi vào cái nơi thanh vắng yên tĩnh ở trong rừng, trong núi á rồi mới đặt cái lưng thẳng, ngồi kiết già, rồi mới đặt cái niệm tham ái trước mặt mình, quán xét tận tường tham ái, vị ấy từ bỏ tham ái.
Quán xét cho nó thấu suốt của nó rồi, tức là tu Định vô lậu đây. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta mới từ bỏ cái lòng tham ái của chúng ta được. Đó thì quý thầy thấy cái chỗ tu của đạo Phật có từng bước, từng bước rất rõ ràng. Chớ không phải là nói mà cái chuyện tu mù mờ như bây giờ cứ ngồi thiền hít thở không á. Đó là tu mù, tu mờ chứ tu không đúng cách thức mà tu tập.
« Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gọt rửa tâm hết tham ái, từ bỏ ». Đó bắt đầu các thầy thấy không, khi mà đặt cái niệm như vậy đó thì bắt đầu vị ấy mới quán xét tức là dùng cái pháp quán mà quán xét các tham ái của mình. Nó như thế nào, nó khổ như thế nào, nó sao sao, để cho mình quét sạch nó ra những cái tâm mà từ lâu tới giờ mình có những cái tham ái, nó làm cho mình giành giật(  đau khổ trong lòng của mình.
Mặc dù là qua cái giới hạnh và cái giới đức ở trên á, nó làm cho mình được tỉnh thức được cao, được xả ly rất nhiều rồi đó. Bây giờ nó còn quét sạch những cái tham ái mà vi tế ở trong lòng chúng ta. Còn cái thô thì chúng ta hết rồi. Những cái giới đức, giới hạnh ở trên đã quét sạch hết cái thô rồi. Còn bây giờ cái thô của mình chưa có tu tập cái này á, mà nó còn thô mà ngồi đây quét sạch tham ái thì chắc chắn chỉ là quét cái sơ, cũng như là mình xoa cái da của nó, chứ nhằm nhò gì tới cái tâm của nó đâu, nó làm sao mà nó hết được.
Cho nên, bắt đầu bây giờ đó mới là quán xét nó, từ đó cái trí tuệ chúng ta nó phóng ra những cái tri kiến giải thoát, nó làm cho chúng ta thấm, thấu suốt được cái tâm tham ái, cho nên chúng ta ly nó ra, gọt sạch hết cái tham ái này ra. Bắt đầu cái tham ái mà chúng ta gọt sạch nó hết tham ái này ra rồi thì bắt đầu chúng ta từ bỏ sân hận. « Vị ấy sống với tâm không sân hận ». Tức là chúng ta đặt cái niệm sân trước mặt chúng ta nữa. Nghĩa là tâm tham ái đã quán xét nó rồi, thấu suốt nó rồi, xả ly nó rồi, từ bỏ nó rồi. Thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới đặt cái niệm sân ở trước mặt nữa.
Chúng ta tiếp tục, không có nghĩa là trong thời gian mà ngồi ở tại khu đó đó, mà thời gian này quán xét tham ái rồi, tiếp tục cái sân nữa được đâu, không phải đâu! Nghĩa là tham ái chúng ta quét sạch rồi bắt đầu chúng ta xả nghỉ. Chơi cho nó khỏe, rồi một lúc nữa chúng ta đặt chúng ta tu cái tham ái nữa, quét cho thật sạch, chúng ta thấu suốt được cái lý mà ly cho hết cái tham ái trong 1 ngày, 2 ngày, 1 tuần lễ, 2 tuần lễ. Chúng ta thấy cái tâm tham ái của chúng ta nó quét sạch được rồi. Bắt đầu, chúng ta mới đặt cái niệm sân, đặt cái niệm sân rồi chúng ta cũng quán xét cái niệm sân như vậy. Để chúng ta quét sạch cái sân ra.
Khi mà chúng ta quét sạch, từ giã cái tâm sân của chúng ta thì lòng từ mẫn, thương xót tất cả chúng sanh hữu tình. Đó thì lúc bấy giờ chúng ta quét sạch cái tâm sân của chúng ta thì cái tâm từ mẫn của chúng ta nó thương xót chúng sanh nó hiện ra. « Đây là giới đức của vị ấy thứ 4 trong giới luật của đức Phật ». Nghĩa là khi mà quét sạch cái tâm tham ái, cái lòng sân hận cái tâm từ bi của vị ấy phát triển ra được thì đó là cái giới đức thứ 4 ở trong cái giới luật của đức Phật.
À không ở đây cái tâm sân, ở đây Thầy lộn ở chỗ này. Các thầy nhớ kỹ, chỉ quét sạch cái tâm tham ái đó là cái giới đức của chúng ta thứ 4 ở trong cái giới luật của đức Phật. Còn cái tâm sân nó lại nằm riêng ở cái phần khác rồi đó, nó không ở trong cái phần của tâm tham ái. Bởi vì tham ái nó là một cái giới đức, quét sạch cái tham ái nó là một cái giới đức ở trong cái giới luật của Phật.
Ở đây Thầy tiếp tục vì hồi nãy Thầy bị ghi lộn chứ không phải gì hết.
Khi đã gọt rửa tâm tham ái, gọt rửa tâm tham ái xong rồi thì vị ấy mới đặt lưng ngồi thẳng, ngồi kiết già đó thì mới đặt cái niệm sân trước mặt quán xét. Bây giờ tới cái tâm sân á. « Quán xét cái tâm sân, vị ấy từ bỏ tâm sân ở đời, sống với tâm thoát ly sân hận, gọt rửa hết tâm sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh. Không chỗ nào mà tâm từ bi không biến mãn đến ». Đó thì bắt đầu bây giờ quét sạch hết tâm sân á, thì cái lòng thương xót chúng sanh thì bắt nó mới phủ trùm ra, nó mới thương xót tất cả chúng sanh.
Còn cái tâm sân thì không bao giờ mà thương xót tất cả chúng sanh đâu. Người ta còn giận một chút xíu á thì chưa chắc đã là thương xót. Cái thương của chúng ta là cái thương đối đãi, cái thương mà của thường tình chớ không phải là cái thương của từ bi đâu. Cho nên, khi mà chúng ta quét sạch được tâm sân thì cái tâm từ bi chúng ta mới thực hiện ra được. Vì vậy á, mà muốn cho cái tâm sân của chúng ta mà đối trị nó thì người ta tu Tứ vô lượng tâm đó. Để thực hiện cái tâm từ để rồi từ bi nó mới có, nó mới quét sạch tâm sân.
Nhưng bây giờ ở đây chúng ta lại dùng cái Định vô lậu chúng ta quét cái tâm sân của chúng ta ra, thì từ bi nó sẽ thể hiện ra. Nó đi lại ngược lại. Hồi đó chúng ta còn là chiếc áo cư sĩ á, thì chúng ta không thể tu cái này được bởi vì chúng ta chưa có sống cái đời sống mà thoát ly, xuất gia được. Chúng ta chưa có đời sống mà Chánh niệm tỉnh thức, phòng hộ sáu căn được cho nên chúng ta phải lấy tâm từ mà tu, Tứ vô lượng mà tu, để cho cái tâm của chúng ta phủ trùm lòng thương yêu mà từ đó nó đối trị cái tâm sân của chúng ta, để chúng ta không còn sân hận nữa.
Nhưng chưa phải quét sạch cái tận gốc của sân hận. Cho nên chúng ta phải đi tới cái giai đoạn này, là chúng ta dùng cái Định vô lậu, đặt niệm sân, quán xét sân rồi phá vỡ tâm sân. Từ bi chúng ta bây giờ, tâm từ bi hỷ xả chúng ta bây giờ mới thực hiện chân thật của từ bi hỷ xả.
Đó, hai bên thì chúng ta thấy có khác nhau, nhưng mà nó cũng giúp cho hỗ trợ cho nhau. Nếu mà cái người cư sĩ còn sân mà vào tu chưa chắc đã là giữ được phòng hộ 6 căn, giữ được tất cả mọi cái. Cho nên, chúng ta phải hiểu thấu suốt được, trau dồi cái lòng từ bi hỷ xả của chúng ta trong chiếc áo cư sĩ. Khi đến với đức Phật thì chúng ta quét sạch cái tâm sân hận của chúng ta rất dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và từ đó tâm từ bi của chúng ta lại còn thấm nhuần sâu hơn và cao hơn nữa.
« Đây là giới thứ 5, tâm sân đó, là giới thứ 5 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ». « Khi đã gọt rửa tâm sân hận hết sạch,  vị ấy đặt niệm hôn trầm thùy miên trước mặt ». Hồi nãy có 1 vị thánh tăng đặt cái niệm buồn ngủ trước mặt để mà tu đó. Thì bây giờ đức Phật cũng dạy chúng ta ở chỗ này này. Tu cái giới đức này phải đặt cái niệm hôn trầm thùy miên ở trước mặt của mình rồi mình quán xét cho thống suốt cái niệm thùy miên từ đâu đến, do đâu mà có mà sanh ra lười biếng mà tham ngủ như vậy? Do đó mình quán xét thấu suốt được, cái lý mà thấu suốt được á thì mình sẽ từ bỏ thùy miên, từ bỏ hôn trầm thùy miên ở đời.
«Sống với tâm thoát ly hôn trầm thùy miên, sống cố gắng gọt rửa cho hết tâm hôn trầm thùy miên, với tâm tưởng về ánh sáng, luôn luôn phải giữ tâm chánh niệm tỉnh thức ». Nghĩa là luôn luôn lúc nào bây giờ mình muốn quét sạch tâm hôn trầm thùy miên á, mình mới dùng cái tưởng của mình, mình tưởng cái tâm của mình sáng suốt, đêm thì như ngày chứ không có đen tối như đêm nữa. Nghĩa là luôn luôn mình phải dùng cái tưởng kèm theo để cho cái tâm hôn trầm thùy miên của mình. Bởi vì nó ham ngủ á, nó thấy chỗ nào mờ mờ, tối tối là nó ham lắm. Mà nó sáng chừng nào thì nó ghét lắm, cái tâm mà lười biếng nó thấy sáng nó ghét lắm.
Cho nên vì vậy đó mà mình phải tưởng cái tâm của mình sáng như ánh sáng, sáng như ban ngày làm cho cái hôn trầm thùy miên nó phải mất đi. Cho nên, ở đây luôn luôn phải giữ chánh niệm tỉnh thức. Chánh niệm tỉnh thức ở đây là giữ cái tâm sáng suốt chứ không phải là chánh niệm tỉnh thức ở đây là giữ cái hành động của chúng ta như ở trước nữa. Các thầy phải hiểu cái chỗ chánh niệm tỉnh thức này là cái niệm chơn chính của ánh sáng và thức tỉnh nơi ánh sáng để làm cho cái hôn trầm thùy miên chúng ta không có. Cho nên phải biết áp dụng, phải biết sử dụng nó ở trong cái chánh niệm tỉnh thức nào, mà ở trong cái chỗ pháp tu thì nó mới có kết quả. Còn ví mà sai chúng ta chẳng biết đường mà chúng ta tu tập. Thì mới mong gọt rửa hết tâm hôn trầm thùy miên. «Từ đó muốn hết hôn trầm thùy miên vị ấy phải trau dồi lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh, chỗ nào mà tâm từ bi không biến mãn đến. «Đây là giới đức thứ 6 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ». Đó thì quý thầy thấy rằng, trong cái sự tu tập của chúng ta mà xả bỏ được cái hôn trầm thùy miên là cái giới đức thứ 6 của giới luật của đức Phật. Đây là giới đức thứ 6 của vị ấy trong giới luật của đức Phật.
« Khi vị tỳ kheo đã gọt rửa hết hôn trầm thùy miên thì vị ấy đặt niệm trạo cử, hối tiếc trước mặt, quán xét cho thấu đáo, tường tận, sống tâm không còn trạo cử, hối tiếc, từ bỏ trạo cử, hối tiếc, sống với nội tâm trầm lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, luôn luôn hân hoan, vì thế lòng từ mẫn thương yêu tất cả loài chúng sanh, chỗ nào cũng có tâm từ bi hỷ xả biến mãn khắp cùng, nhờ thế trạo cử, hối tiếc mới quét sạch, mới gọt rửa hết . Đây là giới đức thứ 7 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ».
Đó thì cái trạo cử. Trạo cử là cái gì? Mà hối tiếc là cái gì? Trạo cử là tâm lăng xăng nghĩ cái này đến cái kia, nó liên tục. Phật gọi nó là tùy miên, tùy miên chứ không phải là thùy miên. Thùy miên là ngủ, còn tùy miên là nó liên tục. Trạo cử là có cái dòng liên tục nó nhớ cái này, nhớ đến cái kia, nó nhớ đến cái nọ. Người nào mà có độc cư thì mới thấy được cái trạo cử. Rồi nó hối tiếc hồi nhỏ mình làm cái này, cái kia, cái nọ, rồi làm cho cha mẹ buồn, làm cho anh em giận; làm cái này, cái kia nó nhớ ra hết. Ðó là nó tùy miên theo cái trạo cử, theo cái dòng tư tưởng của nó gọi là trạo cử đó. Vì vậy cho nên khi mà có cái dòng tư tưởng mà trạo cử như vậy, nó hối tiếc như vậy đó thì chúng ta phải đặt cái niệm, quán xét nó từ đâu sinh ra. Nó ở trong những quá khứ, những sự kiện xảy ra ở trong quá khứ, nó thường thường trào dâng lên một cách rất là tràn trề, nó không bao giờ dứt.
Cho nên có lần Minh Tông nói với Thầy là sống độc cư rồi chúng ta mới thấy nó tuôn tràn, nó tuôn tràn riết mãi, nó tuôn tràn sạch hết rồi thì nó mới hết tuôn tràn. Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta biết rằng cái độc cư đó làm cho cái tâm trạo cử của chúng ta tuôn tràn sạch. Còn ở đây đức Phật lại phòng ngừa chúng ta đặt cái niệm cho nó, rồi chúng ta quán xét cái trạo cử này, cái hối tiếc này, mà người ta dùng danh từ là trạo hối. Nó vừa khởi lên mà vừa hối hận ở trong đó, nó vừa hối tiếc cái này, hối tiếc cái kia. Như trước kia mình làm sĩ quan, tướng tá, bây giờ ở trong cái chế độ XHCN thì mình chỉ làm cái thằng xích lô vậy thôi thì nghe nó buồn tủi, nó hối tiếc hồi mình lên voi đó, mình ra lệnh, mình sai thằng này, thằng kia, kẻ hầu, người hạ đầy đủ. La một tiếng là ai cũng chạy mù, còn bây giờ đi ra đường nhiều cái bà mà chửi xiên, chửi xỏ mình đủ cách hết, mà cũng không dám nói họ nữa. Cho nên những cái nỗi mà nuối tiếc lại thời mà vàng son của mình nó làm cho mình đau lòng, nó làm cho mình khổ sở. Cái tư tưởng đó nó tuôn tràn ra, cái tư tưởng đó gọi là trạo cử hay hoặc là trạo hối hay là trạo cử hối tiếc.
Vì vậy mà chúng ta tu tập để cho nó không còn cái trạo cử hối tiếc đó nữa thì chúng ta phải quán xét tường tận những cái trạo cử hối tiếc đó từ đâu sinh ra, nó có thật hay là không? Hay hoặc là một cái nhân quả nào đó mà chúng ta phải trả với một cái giá rất đắt? Hay hoặc là chúng ta phải hưởng một cái thời vàng son nào đó là hết phước rồi thì chúng ta phải trở về vị trí quá là khổ sở như thế này.
Trước kia mình giàu sang, bây giờ qua giải phóng rồi, mình không còn hai bàn tay trắng không, mà mình luôn luôn mình cứ hối tiếc lại những chuyện vàng son của mình giàu có hồi trước. Bây giờ mình đâm ra mình đau khổ thì tức là mình quá ngu si. Cho nên mình quán xét như vậy, cho nên mình thấy đó là cái luật nhân quả. Người ta nói : « không ai giàu ba họ mà cũng không ai khó ba đời »thì đó là nhân quả. Cho nên câu tục ngữ nói vậy là đúng chứ không có sai được. Cho nên đâu có ai mà giàu hoài được mà cũng đâu có ai mà nghèo hoài, thì có lúc lên voi, có lúc xuống chó chứ. Do cái chỗ đó chúng ta chỉ an ủi chúng ta nhưng tâm trạng của con người khó mà hết cái trạo cử hối tiếc này. Vì vậy đó mà đạo Phật dạy chúng ta phải quán xét, quét sạch cái trạo cử hối tiếc ra khỏi cái tâm tư của chúng ta. Nhờ cái sự mà trau dồi như vậy đó thì chúng ta mới gọt rửa sạch hết cái trạo cử hối tiếc. Nó là cái giới đức thứ 7 của sự tu tập của chúng ta. Nó không phải thường đâu, nó không phải dễ đâu, cho nên phải nỗ lực tu tập ở trong cái Định vô lậu chúng ta mới quét sạch được cái trạo cử hối tiếc này.
« Khi vị tỳ kheo đã gọt sạch hết trạo cử hối tiếc xong, vị ấy đặt niệm trước mặt, quán xét cho thấu đáo tường tận mạn ». Mạn là ngã mạn đó. « Vị ấy từ bỏ ngã mạn ở đời, sống với tâm thoát ly ngã mạn, gọt rửa cho sạch hết tâm ngã mạn, nhờ thế lòng từ mẫn thương yêu tất cả chúng sanh, loài hữu tình. Với tâm từ, bi, hỷ, xả vô bờ bến biến mãn khắp tất cả muôn phương nhờ thế vị ấy mới gọt rửa sạch tâm cống cao ngã mạn của mình. Đây là giới đức thứ 8 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ». Đó là cái giới đức thứ 8 của tâm ngã mạn, mình quét sạch nó ra.
Ngã mạn coi vậy chứ khó lắm, bởi vì khi mà chúng ta đặt cái niệm trước mắt rồi chúng ta quán xét suy tư lại hằng ngày mình có những hành động ngã mạn ở trong đó? Nó vi tế, rất vi tế do đó chúng ta quán xét chúng ta mới thấy được hành động ngã mạn. Từ đó hành động ngã mạn của mình, mình chỉ sơ xuất thôi, mình thấy nó không có, nhưng rồi người khác người ta nhận xét mà người ta không dám nói ra. Chẳng hạn nào như mình lơ đễnh một chút cái ngã của mình lộ ra người ta thấy, mà mình không thấy cái ngã của mình. Mà hễ người ta nhắc mình thì mình đỏ mặt lên liền, cho nên người ta ít có muốn nhắc là như vậy. Nhưng mình phải là quán xét, mình đặt cái niệm ngã mạn của mình mình quán xét. Ngày hôm đó mình có hành động nào mà ngã mạn, mình quán xét mình suy tư. Mình vô tình chứ không phải mình hữu ý nhưng cái ngã của mình nó vẫn còn cho nên cái hành động của mình nó có cái vẻ ra ta đây đó, thì tức là ngã mạn. Nhất là khi chúng ta tu được một chút ít nào đó, coi chừng mà cái ngã mạn của chúng ta theo đó. Cũng như chúng ta học được một ít gì đó hay hoặc là chúng ta học giỏi hơn mọi người trong lớp rồi, tuần này chúng ta được hạng nhất rồi. Coi bộ vô trong lớp, coi bộ mình đạp thiên hạ dưới chân hết, hiu hiu tự đắc lắm á. Cho nên vì vậy mà tuần sau nó xuống cái hạng 10 cái hoảng hồn rồi, lật đật. Bởi vì mình nghĩ rằng mình hạng nhất thì phải hạng nhất luôn, nhưng mà không ngờ lại người ta lại dở hơn mình thì người ta lại cố gắng học hơn, còn mình lại ngã mạn mình không lo học cho nên mình lại thua. Mình thua bắt đầu cái mặt mình buồn so à. Buồn so tức là cũng ngã mạn của mình đó, chứ không phải nói mình hiu hiu tự đắc đó là ngã mạn mà lại buồn không phải ngã mạn. Chính cái buồn cũng là cái ngã mạn, buồn vì mình thua người ta mình ngã mạn, tức là cái mặt ngã mạn của mình. Cho nên mình phải xét nhiều khía cạnh để cho mình diệt cái ngã mạn của mình.
Từ đó cái oai nghi tế hạnh của một người mà giới đức đó họ không bao giờ để kẽ hở cho người khác thấy ngã mạn của họ. Còn nếu mà thiếu xét như vậy thì cái ngã mạn của chúng ta càng ngày nó càng lừng lẫy, nó càng lộ ra những cái tướng, coi như mặt vác hất ở trên trời á. Mới có dự thi được vào cao đẳng Vạn Hạnh thôi, nghĩa là chưa học Vạn Hạnh ngày nào hết à. Mới có tốt nghiệp qua trường cơ bản Phật học thôi, rồi được thi vô cao đẳng Vạn Hạnh thì Thầy thấy cái mặt đã vác hất ở trên trời rồi. Mà chưa học được ngày nào ở trong Vạn Hạnh, chưa được cấp bằng cử nhân nữa mà đã vác mặt đi coi nghênh nghênh rồi. Coi như mình là sinh viên đại học rồi. Thì thấy cái đó là cái ngã mạn mà là một tu sĩ chứ đừng nói chi cái người ngoài đời. Đó là những cái chúng ta phải biết cái vi tế của cái ngã mạn của chúng ta, nó là một cái tâm rất là làm cho chúng ta đau khổ trong bước đường tu tập của chúng ta.
« Khi vị tỳ kheo đã gọt rửa hết tâm ngã mạn, cống cao xong; vị ấy đặt niệm nghi ngờ trước mặt quán xét thấu đáo, tường tận ». Bây giờ chúng ta hết tâm ngã mạn cống cao rồi thì chúng ta lại đặt cái niệm nghi ngờ. Bởi vì nghi ngờ chúng ta nhiều lắm. Thấy người đó như vầy mình nghi ngờ người đó là như vầy khác, nói xấu mình hoặc thế này thế khác. Thấy người đó vầy mình nghi ngờ họ là không ưa mình, hơi có một cái gì đó mình thấy không ưa. Do cái tâm nghi ngờ đó mà nó sinh ra những cái giận, cái hờn, cái phiền não, rồi cái không ưa với nhau, tất cả mọi cái. Cho nên cái nghi ngờ đó là cái phải đặt cái niệm mình phải quán xét. Nó làm cho tâm mình chướng lắm. Ai mà làm gì mặc, mình chả biết thì cái nghi ngờ mình không có, chứ còn không chút chút mình sẽ dễ nghi ngờ. Thấy thằng đó hơi liếc liếc ngó nhà mình, nghĩ thằng này ăn cắp. Đó, mình nghi ngờ kiểu đó, người ta ngó người ta thấy nhà mình có cây ổi, hoặc là có gì đó lạ lạ, người ta ngó, người ta liếc liếc ngó, mình nói thằng ăn cắp. Người ta chưa từng ăn cắp mà mình cũng nghi người ta nữa. Cái đó là có tội không? Cái nghi ngờ là cái, chẳng hạn như đâu tất cả là những bậc Thánh hết cho nên có những cái tốt, mà có những cái xấu. Do đó mình xét qua cái người đó, mình xét phần nhiều xét qua cái xấu của họ, cho nên mình nói ông này tu hành chẳng ra gì. Nhưng mà mình không xét cái tốt của người ta, ít ra người ta 10 cái, có 10 cái người ta cũng được 5 cái tốt, còn 5 cái xấu. Mình xét 5 cái xấu mình nói rằng, ông này tu chẳng ra gì hết. Đó là cái sai của mình, bởi vì những cái đó là nghi, nghi người ta tu chẳng ra gì hết. Nhưng mà người ta tu thì phải có được cái xấu, cái tốt của người ta chớ, chứ đâu phải là không. Cho nên cái nghi đó là cái làm cho chúng ta ngã mạn chúng ta trở lên, mà nó không triệt tiêu cái ngã mạn. Cho nên ở đây Thầy nói mình tu thì mình tìm cái sự giải thoát, không có khen chê người nào hết. Mà lỡ mình khen chê, mình thấy người đó sai đúng, coi chừng cái sai đúng của mình chưa hẳn đã là cái sai đúng đâu. Cho nên đó là cái nghi của mình đó.
« Vị ấy từ bỏ tâm nghi ngờ ở đời, sống với tâm thoát ly nghi ngờ, gọt rửa hết nghi ngờ đối với các thiện pháp . Đối với giới luật, đối với thiền định của đạo Phật, đối với trí tuệ của Phật phải gọt rửa hết tâm nghi ngờ ». Nghĩa là đối với Phật, Pháp, Tăng, Giới của đức Phật mà đã dạy chúng ta, chúng ta không có nghi ngờ nó, chúng ta nghĩ rằng đó là những cái pháp mà đưa chúng ta đến giải thoát hoàn toàn. Còn nếu chúng ta nghi ngờ Phật pháp thì chẳng làm gì được hết đâu, thôi. Đó là mình đã nghi rồi thì không bao giờ mình tu tập được đâu. Cho nên mình phải nghĩ rằng trước đức Phật đã làm được, sau đức Phật còn nhiều bậc Thánh tăng làm được, kế đó trong thời đại này còn có những người làm được chứ không phải không! Cho nên chúng ta phải quét sạch cái tâm nghi ngờ đó, cho nên chúng ta tin, chúng ta rất tin ở Phật, ở thiền định của Phật, ở giới luật của Phật, ở pháp của Phật và ở trí tuệ của Phật.
Cho nên chúng ta gọt rửa hết cái tâm nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng và Giới luật. « Nhờ gọt rửa hết tâm nghi ngờ đối với các pháp, nhờ thế mà lòng từ bi lân mẫn của chúng ta đối với chúng sanh với tâm từ bi hỷ xả vô bờ bến, biến mãn phủ trùm tất cả sinh linh vạn vật mười phương. Đây là giới đức thứ 9 của vị ấy trong giới luật của đức Phật ». Đó thì đây là cái giới đức thứ 9 mà khi xả hết cái tâm nghi ngờ. Đó thì quý thầy sẽ học được những cái giới như vậy thì quý thầy thấy tâm hồn của mình như thế nào? Thanh thản vô cùng, vô lượng. Như vậy là giới đức của vị tỳ kheo thứ tư trong giới luật của đức Phật.
***Bây giờ Thầy bắt đầu tiếp tục cái bài giảng bữa trước.
Trau dồi cái kia, tu tập cái nọ thì quý vị sẽ vứt bỏ những hỷ lạc ngon ngọt của thế gian thường tình xong thì mới có thể nếm được mùi vị hỷ lạc xuất thế gian. Bây giờ quý vị mới rõ chớ không phải con đường tu hành theo đạo Phật khô cằn, khô cỗi như bãi sa mạc toàn là cát và nắng nóng bức khó chịu.
Vì thế có người hỏi Thầy: Nếu tất cả mọi người đều tu theo đạo Phật thì thế gian này đâu còn có con ngườ? Đó là đứng núi này mà trông núi khác hoặc là muốn hiểu núi khác thì không thể nào hiểu được. Như con cá ở dưới nước làm sao biết được sự sống trên đất bằng. Cho nên con người thường sống hằng tưởng nên thường tưởng sai. Thậm chí ngay trong thân tâm này của họ, họ còn hiểu không nổi hết huống là họ hiểu cảnh giới của các bậc Thánh Hiền.
Đó thì các thầy muốn mà để hưởng được cái hỷ lạc của các bậc Thánh Hiền, của bậc xuất gia thì phải dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian. Bởi vì nếu mà không có dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian thì không thể nào mà hưởng được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian được. Bởi vì cái hỷ lạc đó là cái hỷ lạc dục cho nên phải ly dục, ly ác pháp của thế gian ra, thì cái dục lạc của thế gian nó không còn có nữa thì cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian nó mới có. Vì vậy bây giờ chúng ta còn ôm ấp cái dục lạc của thế gian, làm sao chúng ta biết được cái mùi vị của xuất thế gian được. Cho nên hầu hết là quý vị ngồi thiền nhập định mà có trạng thái hỷ lạc, khinh an, điều đó đều là sai hết. Bởi vì chính mình chưa có ly được cái dục lạc của thế gian, tâm mình còn dính mắc cái này, cái kia cái nọ, mặc dù là mình là một vị tu sĩ nhưng mà vẫn còn dính cái chùa chứ chưa đâu phải là mình là một vị du tăng khất sĩ, ba y một bát, không còn chùa không còn cái vật gì gọi là của mình hết như vậy mình mới thấy được cái hỷ lạc của bậc xuất thế. Còn mình chưa có được như vậy mà mình tưởng tượng ra nào là khinh an, nào là hỷ lạc, nào là thế này thế kia, thì cái đó toàn là thứ dục lạc chứ không phải hỷ lạc.
Bởi vì tu hành chúng ta phải biết được cái hỷ lạc nào là chơn chánh, cái hỷ lạc nào mà nó không chơn chánh. Cái hỷ lạc mà đem đến chúng ta muôn thứ khổ đó là hỷ lạc của dục, còn hỷ lạc mà đem chúng ta yểm ly, xa lánh tất cả các sự ham muốn, sự lôi cuốn của thế gian, của các pháp thế gian nó làm cho chúng ta xa lìa được những cái khổ đau đó, thì đó là cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian. Nhưng muốn nếu nếm được mùi vị của nó thì chúng ta phải tách lìa, xa lìa cái hỷ lạc của thế gian thì chúng ta mới thọ hưởng được cái đó. Còn nếu mà không xa lìa, không tách lìa thì chắc chắn là chúng ta không có thọ hưởng được. Cũng như con cá mà muốn biết được ở trên đất bằng sống như thế nào thì ít ra nó cũng phải lìa khỏi cái sông, cái hồ nước của nó, mà nó lên đất bằng nó mới biết được. Còn bây giờ nó ở dưới nước mà nó muốn biết được ở trên đất bằng thì làm sao nó biết được. Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải ly được thì chúng ta mới thấy được.
Vì vậy khi mà chúng ta phải thấy được 2 cái lộ trình mà đức Phật đã vạch ra thì chúng ta biết điều đó rất là rõ ràng. Nếu mà chúng ta không thấy được 2 lộ trình này thì chắc chắn khó mà chúng ta có thể đạt được kết quả của cái sự tu hành theo đạo Phật. Vì cái lộ trình của đạo Phật là xuất thế gian, ly tất cả các dục, các ác pháp của thế gian, thì chúng ta mới thực hiện được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian. Đó thì như vậy không có nghĩa là con đường mà đi tu theo đạo Phật nó khô cằn khô cội, mà cho đến khi không còn có người Không có thai sanh thì tức là chúng ta phải có hóa sanh, mà hóa sanh là nó phải lìa cái dục, nó mới hóa sanh được. Còn nếu mà chúng ta chưa lìa dục làm sao chúng ta hóa sanh được. Cũng như bây giờ chúng ta còn ở trong dục mà chúng ta muốn có thần thông thì thần thông đó là thần thông gì? Thần thông huyễn hoặc, thần thông như là một cái trò ảo thuật gạt người ta. Còn cái thần thông thực là chúng ta phải có một cái sự ly tất cả các dục này thì chúng ta mới sống được hóa sanh. Hóa sanh thì tức là chúng ta muốn như thế nào ? Như là Tứ như ý túc, Dục như ý túc là chúng ta muốn như thế nào nó phải thành tựu như thế ấy. Chúng ta muốn sanh là sanh mà chúng ta không muốn sanh là không sanh. Chớ không phải là bây giờ chúng ta muốn sanh nó cũng không được, mà chúng ta muốn chết cũng không được, muốn sống cũng không được. Đó là chúng ta không có quyền. Còn khi mà cái người mà ly được cái dục lạc thế gian này rồi thì người ta có quyền sống chết, người ta muốn sanh như thế nào là theo cái ý của người ta muốn, muốn người lớn là lớn mà nhỏ là nhỏ. Bởi vì khi mà chúng ta lìa khỏi dục lạc thế gian rồi thì chúng ta có cái sự tự tại như vậy đó.
Cho nên đạo Phật nhắm vào cái chỗ mà chúng ta ly thế gian, ly các pháp thế gian ra thì chúng ta mới đạt được cái kết quả của cái sự làm chủ. Mà cái sự làm chủ đó nó không có nghĩa là làm cho hoại diệt, làm cho tiêu diệt con người ở trên thế gian này. Mà thể hiện con người trên thế gian này càng cao đẹp, càng tốt đẹp hơn và tâm hồn mỗi con người đều có những cái lòng thiện biết thương nhau, biết chan hòa với tình thương nhau, chơn thật không biết ganh đua, không biết tỵ hiềm, không biết tham sân si mạn nghi, không có ngũ triền cái, không có ngũ kiết sử, không có thất kiết sử ở trong đó. Cho nên toàn là hạnh phúc của mọi người với nhau. Vì vậy mà chúng ta thấy con đường của đạo Phật là con đường rất rõ ràng, thực hiện nó một cách là chúng ta lìa xa khỏi cuộc đời ham muốn của thế gian là chúng ta đã đạt được đạo Phật chớ đâu có gì khác hơn.
Như trước kia Thầy đã dạy 25 giới hành thuộc về thân hành, còn 13 giới đức thuộc về tâm hành.
Trạng thái tâm hành là gì? Trạng thái tâm hành là thiền định cho nên thân thuộc về giới hành (à, giới hành hay là giới hạnh) còn tâm thuộc về giới định. Vậy 13 giới đức tức là 13 định trong giới luật của đạo Phật, cho nên có chỗ Phật gọi là giới tâm tuệ. Nghĩa là thay vì Phật gọi Tam vô lậu học đó, Phật gọi Giới - Định -Tuệ, thì có chỗ Phật lại gọi là Giới – Tâm - Tuệ. Cho nên tâm tức là giới đức của chúng ta, vì vậy mà chúng ta hiểu rõ được cái con đường đi của chúng ta chia làm ba cái giới rất rõ. Mà ba giới rất rõ này nó chỉ cho chúng ta nằm ở trong cái vị trí của tam vô lậu học Giới - Định -Tuệ.
Vậy thì giới hạnh tức là giới bổn Pātimokkha, mà giới đức tức là định, mà giới tuệ là huệ. Đó là những điều mà hôm nay quý thầy mới thấy rõ được điều kiện của đạo Phật Giới – Định – Tuệ hoàn toàn thuộc về giới, chớ không có gì khác hơn hết. Nhưng mà vì vị trí của giới nào nó ở vị trí nấy, nó có cái phận sự ở đó, nó làm cho tâm, làm cho hành động của chúng ta thanh tịnh, làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, làm cho trí tuệ chúng ta thanh tịnh thì gọi là Giới. Cho nên lúc đầu Thầy có giới thiệu đó:
Giới làm cho trí tuệ thanh tịnh mà trí tuệ làm cho giới thanh tịnh.
Các thầy nhớ cái chỗ đó, vì ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật, mà ở đâu có giới luật thì ở đó có trí tuệ. Cho nên cái trí tuệ của giới hạnh, nếu mà chúng ta có trí ở trong cái giới hạnh thì cái hành động hằng ngày của chúng ta nó phải thanh tịnh. Mà cái hành động được thanh tịnh như vậy thì ở đó phải có trí tuệ.
Cũng như giới đức: Ở đâu mà có tâm thanh tịnh thì ở đó nó sẽ có trí tuệ, mà có trí tuệ ở đó thì phải có giới đức ở đó.
Cũng vậy, cái giới tuệ nó cũng vậy: Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới tuệ, mà ở đâu có giới tuệ thì phải có trí tuệ.
Đó thì đến đây thì quý thầy đã thấy rõ được cái con đường đi của Phật toàn là những pháp thiện, cho nên gọi là sơ thiện là giới hạnh, mà trung thiện là giới đức, mà hậu thiện là giới tuệ, rất là rõ ràng. Bởi vì đạo Phật là đạo thiện pháp, cho nên tất cả đều nằm ở trong giới, mà giới tức là thiện pháp chớ không phải là một pháp môn nào xa lạ. Nhưng muốn thực hiện được những điều đó thì chúng ta có những 37 phẩm trợ đạo để mà chúng ta thực hiện con đường tu, để thành tựu được cái con đường thiện pháp này, con đường thiện pháp này tức là Giới – Định – Tuệ.
Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có sự an lạc, tuyệt tĩnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Quý thầy hiểu, bởi vì cái thiền định nó có những cái hỷ lạc của nó. Cho nên, Phật có so sánh 2 cái hỷ lạc, hỷ lạc của dục thế gian, chúng ta ăn miếng ngon chúng ta biết ngon, đó là dục lạc của hỷ lạc thế gian. Có một sự êm ấm làm chúng ta thích thú, đó là cái dục lạc của thế gian. Còn ở đây chúng ta ly cái đó ra, cho nên chúng ta đạt được cái sức thiền định thì nó có cái hỷ lạc tuyệt đỉnh hơn là cái dục lạc của thế gian. Nó làm cho chúng ta thấy có một cảnh giới rất là tuyệt diệu ở trong đó.
Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có hiện chớ không phải là không có hiện. Nơi trong trạng thái tâm hồn chúng ta chứ đâu. Chớ không phải là cảnh giới nào ở xa xôi đâu, nó ở trong cái tâm trạng chúng ta ở đây. Chỉ chúng ta ly dục là chúng ta sẽ có nó liền. Mà chúng ta không ly dục là chúng ta không có nó mà thôi. Thực tại có sự an lạc tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Đức Phật đã xác định điều này rất là rõ ràng qua bài so sánh bốn hỷ lạc thế gian của phàm phu và bốn hỷ lạc của xuất thế gian của bậc Thánh.
Tiếc rằng, kẻ phàm phu tu hành chưa tới nơi tới chốn, cứ tưởng tượng ra hỷ lạc thế này thế kia làm sai con đường tu hành theo đạo Phật. Làm cho Phật Pháp gần như mất gốc, người tu thời nay hết biết đường tu. Tu tầm bậy, tầm bạ, đời đạo lẫn lộn. Đạo Phật mà bây giờ lại giống như các tôn giáo khác trên thế gian này, thật rất đau lòng! Kinh sách nguyên gốc của đức Phật còn đó, mà người hiểu theo tâm dục lạc thế gian của mình nên thành sai lệch, quá sai.
Đó thì lấy cái tâm dục lạc của mình hiểu qua kinh của Phật thì làm sao hiểu cho nổi. Ít ra mình phải hiểu được cái kinh sách của Phật là cái tâm của mình phải ly dục lạc của thế gian mà thọ hưởng cái dục lạc của pháp xuất thế gian thì chừng đó mình hiểu từng chữ, từng nghĩa rất rõ ràng không sai. Mà bây giờ nhìn lại, ai là người mà đã ly được dục lạc thế gian, mà đã thọ hưởng được dục lạc pháp xuất thế gian? Mà để nhìn lại kinh sách để dẫn chúng ta đi con đường này? Tức là phải là những bậc A la hán, những bậc mà có thể phải là có những cái kinh nghiệm tu hành chính xác ở trong giới luật của Phật và sống đúng phạm hạnh, đức hạnh của Phật, của đạo Phật thì mới có thể giải nghĩa và diễn giải nghĩa pháp của Phật mới có thể đem lại cho chúng ta thấy rõ con đường tu tập.
Còn những bậc phàm phu có kiến thức học hỏi, nhưng làm sao hiểu được nghĩa lý này cho thông suốt? Cho nên làm sao vạch ra cho được, từ đó tưởng ra thế này, tưởng ra thế khác làm cho con đường của Phật Pháp quá xa xôi, quá xa lạ. Làm cho chúng ta chẳng biết đường nào mà đi vào cho đạt được kết quả giải thoát. 13 giới đức trong giới luật của đạo Phật, của đức Phật đã xác chứng thiền định của đạo Phật là giới luật nghiêm chỉnh mà thành thiền định. Nghĩa là thiền định của đạo Phật phải là lấy giới luật nghiêm chỉnh nó mới có thiền định. Bởi vì thiền định của đạo Phật, mà muốn có thiền định của đạo Phật thì không thể một cái người mà tu thiền định đó mà còn sống ở trong dục lạc thế gian được. Như quý vị bây giờ ăn 3, 4 bữa làm sao quý vị có thiền định được, còn chưa có ly cái dục ăn mà. Quý vị còn ham ngủ làm sao quý vị thực hiện được con đường thiền định này? Quý vị thấy rất rõ. Cho nên từ cái kiếp sống của quý vị, quý vị còn ham thích từ cái nhà, từ cái cửa, từ cái vật dụng, từ phật tử, từ cái danh, cái nhỏ nhỏ làm trụ trì, hoặc làm ông này bà kia, thì thử hỏi cái đó là cái dục lạc của thế gian mà, mà chưa có ly được hết thì làm sao mà quý vị thực hiện được con đường thiền định chơn chánh của đạo Phật?
Cho nên, hầu hết là cái sự tu hành của quý vị đều sai hết. Không có còn cái chỗ nào gọi là đúng. Bởi vì từ cái chỗ Sơ thiền của Phật chúng ta thấy rõ ràng ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ thiền, từ đó nó mới có cái hỷ lạc của ly dục, chớ đâu phải khi không mà có được, tức là mình phải ly cho sạch. Đó thì thấy, qua một cái Sơ thiền, một cái thiền thứ nhứt của đạo Phật mà chúng ta đã thấy được cái điều kiện mà Phật đã xác định như vậy.
Chớ không phải ngoài giới luật mà đi tìm thiền định có được. Bởi vậy, ly dục ly bất thiện pháp mới nhập được Sơ thiền. Điều này quá rõ ràng, giới luật sanh ra thiền định. Nghĩa là từ ở trong cái giới hạnh của chúng ta mới có được cái giới đức chứ không phải là tự dưng mà không có giới hạnh mà giới đức có được. Nghĩa là quý vị mà không dẹp bỏ tất cả những cái nghề nghiệp của thế gian mà sống, mà còn có 1 bình bát, 3 cái y mà đi xin ăn á thì chắc chắn là quý vị có làm một cái nghề gì đi mà sống trong cuộc đời này, mà quý vị chẳng bao giờ xa lìa được cái dục lạc.
Mà chẳng xa lìa được cái dục lạc thì giới hạnh của quý vị chưa xong thì quý vị không bao giờ mà có thể nếm được cái mùi vị của giới đức được. Do đó làm sao có thiền định được nếu không có giới hạnh thì không bao giờ có giới đức. Mà giới hạnh, quí thầy đã biết, một vị tu sĩ chỉ còn 3 y, 1 bát không còn có một nghề nghiệp gì sinh sống, chỉ đi xin ăn mà thôi. Đời sống không nhà không cửa, không người thân thuộc, ruột thịt. Giữa mọi con người tình thương bao la, rộng mở. Có sống như thế thì định kia mới sanh ra, tức là giới đức mới tròn đủ. Giới hạnh được Phật xem là sơ thiện, còn giới đức được xem là trung thiện. Vậy quý thầy học được đến đây là chúng ta đã học được sơ thiện và trung thiện trong giới luật của đạo Phật. Đến đây Thầy dừng lại.
Bây giờ để tiếp tục chương trình học của giáo án, trước khi mà học đến giới tuệ thì Thầy xin thuật lại một vài mẩu chuyện của các bậc Thánh tăng, để bước qua cái giới tuệ chúng ta biết giới tuệ là như thế nào.
Nếu mà không có những gương hạnh này thì chắc chắn là chúng ta chưa biết được cái giới tuệ của Phật là như thế nào bởi vì hầu hết là các thầy cũng có học giới luật không phải không, nhưng mà các thầy chưa có được nghe những cái lời giảng mà do từ kinh nghiệm bản thân của Thầy, mà Thầy thấy đó là một cái điều cần phải lưu lại qua cái giáo án này. Cho nên qua những cái điều kiện mà nêu lên những cái gương hạnh của những bậc Thánh tăng trong thời đức Phật để quý thầy lấy cái đó mà thấy được khi mà bước sang qua giai đoạn mà giới tuệ là nó như thế nào? Chớ không khéo là quý thầy tưởng như là giới hạnh, hoặc là giới đức nữa, nó là khác rồi, nó không giống rồi.
Để tiếp tục học chương trình giáo án này ta nên noi gương các bậc Thánh tăng thời đức Phật để lấy đó mà làm gương hạnh sách tấn tu hành cho mình. Bây giờ Thầy thuật lại ông Phú Lâu Na, chắc ai cũng nghe cái ông này hếtKhi đến tuổi trưởng thành, hình như là ông Phú Lâu Na Thầy đã thuật lại rồi phải không các con? Ông ngài Niép Ta đã có thuật rồi, ngài Vasapala cũng đã thuật rồi. Bây giờ tới Ngài Gavampati.
Ngài Gavampati, Ngài theo Phật xuất gia và chứng quả A la hán. Một hôm Đức Thế Tôn và một số đông tỳ kheo trên đường du hành vượt sông Sarabhu. Nhưng đến đó trời tối, mọi vị tỳ kheo phải nằm nghỉ trên bãi cát sông Sarabhu. Đến nửa đêm nước sông dâng lên và các thầy tỳ kheo trẻ tuổi la ồn náo.
Thế Tôn nghe vậy bảo Gavampati can thiệp, vị trưởng lão dùng giới tuệ thần túc thông của mình làm theo lời Phật dạy, dừng dòng nước lại từ xa. Khiến cho dòng nước dựng đứng lên như ngọn núi mà không tràn vào bãi cát được. Do vậy, mọi người biết ngài có thần thông siêu việt. Hôm sau, chúng và Thế Tôn được ngài đưa sang sông an lành.
Sau khi Đức Phật và đại chúng đi xong thì người ta không còn thấy ngài nữa, ngài đã ẩn bóng. Do vậy, Bậc Đạo Sư dùng kệ tán thán công đức của ngài:
Với tuệ thần túc thông
Dựng đứng nước Sarabhu,
Chính Gavampati,
Không ỷ lại, không động,
Ẩn bóng giấu tung tích,
Vượt qua mọi trói buộc,
Chư thiền đều đảnh lễ,
Bậc Ðại sĩ Mâu-ni
Ðã vượt qua sanh hữu.
Đó là cái bài kệ của đức Phật tán thán cái vị tu sĩ này. Đó thì khi mà đến giới tuệ thì các thầy thấy sức thần thông của họ đến cái mức độ nào. Nước sông tràn như vậy mà dùng thần thông chặn đứng nước sông cao như núi mà không tràn xuống được. Đó là cái ý muốn của người ta muốn như thế nào được như thế nấy. Đó gọi là tuệ giải thoát đó, chứ không phải tri kiến giải thoát đâu.
Ở đây chúng ta lầm tưởng, lấy cái chỗ mà tuệ của định sinh ra, là cái tuệ nó không phải là cái tuệ tầm thường của phàm phu, không phải là trí tuệ tầm thường. Cho nên chúng ta thấy ở trong kinh sách thường nói, khi mà chúng ta niệm hương á, có cái bài hương mà đầu tiên đó: Giới hương nè, định hương nè, dữ huệ hương. Thì cái huệ hương đó nó thuộc về nằm ở trong giới định tuệ thì nó khác rồi. Nhưng mà tri kiến và tri kiến giải thoát hương thì 2 cái hương mà sau cùng này, cái hương tri kiến và cái hương tri kiến giải thoát nó không phải là tuệ đâu.
Nhưng mà, cái hương tri kiến giải thoát nó nằm trong góc độ của tuệ thứ nhứt, của giới tuệ thứ nhứt, thì một lát nữa quý thầy sẽ học đến giới tuệ thứ nhứt, giới tuệ thứ nhất thì quý vị biết đó là tri kiến giải thoát. Còn cái tri kiến mà chúng ta dùng đây nó không phải là tuệ đâu, nó là cái tri kiến cho nên nó là cái sự kết tập những sự hiểu biết, chứ không phải là như các vị mà đã giảng, thường giảng cho chúng ta biết là văn, tư, tu. Nó có 3 cái tuệ gọi là: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
Những điều đó là những điều kiến giải của bậc học giả, không phải là của những bậc tu hành chứng. Cho nên họ không có biết tri kiến như thế nào và tri kiến giải thoát như thế nào. Cho nên họ gồm cho đó là trí tuệ của họ, sự thật ra chưa phải, họ chưa hiểu. Bởi vì cái trí tuệ của đạo Phật mà khi từ định sinh ra trí tuệ vô cùng siêu việt, không phải là cái trí tuệ tầm thường. Họ ở trong cái Tứ như ý túc mà họ sử dụng cái trí tuệ đó chứ không phải là tầm thường.
Còn khi mà họ ra bình thường mà họ sống như bình thường chúng ta, họ dùng tri kiến giải thoát cho nên gọi là tri kiến giải thoát. Nhưng tri kiến giải thoát nó chỉ nằm ở trong 13 cái giới tuệ của đức Phật. Mà cái giới tuệ đầu tiên đó là cái tri kiến giải thoát của họ, còn tất cả những cái tuệ sau cùng, tới sau cùng đều là những cái tuệ do từ định mà sanh ra. Cho nên cái tuệ siêu việt chớ không phải là tuệ tầm thường.
Để rồi học tới đó thì quý thầy mới thấy được cái giới tuệ của đức Phật tuyệt diệu chớ không phải cái thứ mà tri kiến mà kết tập, tích hợp lại những cái sự hiểu biết của kinh sách của các vị kim cổ, hiểu biết của các bậc thánh hiền để lấy làm của mình đó thì cái tri kiến đó gọi là cái tri kiến chứ chưa được gọi là trí tuệ, chưa được gọi là cái gì cả hết, mà cũng chưa được gọi là cái tri kiến giải thoát nữa.
Thì đủ biết rằng cái con đường của đạo Phật nó dạy cho chúng ta rất rõ ràng và cụ thể. Cho nên ở đây chúng ta thấy cái vị này họ đạt được cái giới tuệ Thần túc thông. Ở đây người ta dùng cái danh từ giới tuệ thần túc thông. “Dựng đứng nước Sara”, tức là dựng đứng nước sông Sarabhu. “Chính Gavampati”, tức là ngài Gavampati, ngài dựng đứng nước sông, không có cho nước tràn vào bờ, vào bãi cát để cho chúng tỳ kheo yên ổn mà ngủ suốt đêm đó để mà sáng mà lên đường đi.
Khi mà làm được những cái hành động như vậy thì ngài không có ỷ lại, ngài không có ngã mạn cho nên không ỷ lại không động. Tâm ngài không có thấy đó là mình hơn ai hết, nghĩa là bình thường như mọi người. Rồi khi mà đưa chúng tỳ kheo đi xong rồi thì ngài lại ẩn bóng, ngài giấu tung tích của mình. Chẳng bao giờ ai thấy ngài ở trong cái đoàn đó nữa. “Vượt qua mọi trói buộc”, ở đây mọi trói buộc không có nghĩa là, nghĩa là vượt qua cái sự khen tặng của các tỳ kheo, của các vị cư sĩ trong cái thời đó. Cho nên ngài đã ẩn bóng, ngài không để cho lộ tung tích nữa. Đó là ngài đã vượt qua cái sự mà khen của các vị đó. “Chư thiên đều đảnh lễ”. Hồi nãy cái chỗ câu này là “Chư thiên” chứ không phải là “chư thiền”, “Chư thiên đều đánh lễ” nghĩa là các chư thiên đều thấy cái sự ẩn bóng, và thấy cái hành động mà ông ta làm mà tâm không có ngã, không ỷ lại. Thì cho nên chư thiên ở trên các cõi trời đều đến đảnh lễ ngài.
“Bậc đại sĩ Mâu ni”. Những người đó gọi là đại sĩ Mâu ni. “Đã vượt qua sanh hữu” - nghĩa là không còn dính mắc cái sự sanh hữu, tức là khen chê, hoặc cái này cái kia. Họ đã vượt qua hết những cái đó rồi. Đó là qua bài kệ, như vậy chúng ta thấy khi mà cái trí tuệ, mà giới tuệ của họ, thần túc thông như vậy, siêu việt như vậy đó thì họ là những con người siêu việt mà không thể nào mà tưởng tượng được. Khi mà chúng ta tu hành tới mà giới tuệ thì chúng ta cũng như vậy, nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà, muốn cửa, muốn chùa to tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh ông này ông kia đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác, chứ không phải, muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi …





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét