BẢNG TÓM LƯỢC CHO SỰ TU TẬP BAN ĐẦU
KINH ƯỚC NGUYỆN
90 GIỚI ĐỌA
Mấy ông này chỉ đi tìm y chứ đâu phải là tìm giải thoát. Đó là
những cái giới luật mà cấm đi xin y, cấm kêu là xin y đó. Người nào mà đi xin
như vậy đó gọi là tội xả đọa và tội ác tác.
Giới hai mươi chín, giới Thắng Ca để rời y quá sáu
đêm. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở vườn Cấp Cô Độc, các Tỳ Kheo hạ an
cư xong còn một tháng hậu an cư, ngày mười sáu tháng bảy đến rằm tháng tám là
nơi A-La-Nhã có nhiều bọn cướp giật y. Các Tỳ Kheo sợ sệt đều đến nơi tịnh xá
Kỳ Hoàn. Phật dạy, các Tỳ Kheo ở chỗ A-La-Nhã có nghi ngờ, nhiều sợ sệt, trong
ba y, mỗi y lưu trong nhà dân. Bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo bèn gởi y trong nhân
gian để đi du hành. Phật kêu họ, quở trách rồi họp Tăng, kiết giới. Vì ở trong
cái thời Đức Phật, nó có những bọn cướp, nó hay lấy y phục của Chư Tăng lắm.
Cho nên, vì vậy mà đức Phậtbảo họ mình nên gửi những cái y thượng của mình á
cho những cái người cư sĩ họ cất giùm, sau khi mình đi rồi thì những người cư
sĩ họ tìm đến họ giao lại cho mình, hơn là mình mang đi thì người tu sĩ của
mình thì người ta giựt thì mình chịu thôi còn người cư sĩ họ đi có thể cả đoàn,
cả đoàn họ bảo vệ được. Do đó, cho nên mới gởi vậy. Do cái lợi dụng đó thì Lục
Quần Tỳ Kheo họ lợi dụng cái chỗ đó, họ đi cái chỗ hạ này, hạ kia họ có nhiều y
họ cũng đem họ gửi hết, rồi do đó họ gởi để mà cho họ rất nhiều y đó. Do Phật
mà biết được, Phật chế cái giới mà họ rời y quá sáu đêm thì bị tội xả đọa, bị
tội ác tác.
Ba mươi, giới đem của Tăng Già về mình. Vì sao Phật kiết giới này? Khi
Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, có một cư sĩ muốn cúng Phật và Tăng rất nhiều đồ
trai phạm và y vật. Tỳ Kheo Bạt-Nan-Đà đến nhà cư sĩ ấy nói: “Vấn đề dâng
cúng chúng Tăng nhiều lắm. Ông nên cúng thức ăn cho chúng Tăng, còn y có thể
cho tôi”. Ông đó ông giành y à, ông ham ý lắm. Cư sĩ thuận theo ý, sáng hôm
sau chúng Tăng đến thọ thực. Cư sĩ thấy các Tỳ Kheo oai nghi tề chỉnh đầy đủ
liền nói lớn rằng: “Tại sao chúng Tăng nghiêm chỉnh thế này mà tôi không
được cúng y?”. Các Tỳ Kheo hỏi. Biết rõ vấn đề, đức Phật vì nhân đó mới
kiết giới. Bởi vì ông Bạt – Nan - Đà này ông đã đoán trước rồi, cúng đồ ăn
thôi, còn bao nhiêu y thì cúng cho tôi cất đi, chứ còn đừng có cúng cho mấy
ông. Do đó, khi mà thấy Tỳ Kheo đến tề tựu để mà thọ thực, người nào cũng oai
nghi tề chỉnh, mà sao không có cúng y cho người ta trong cái Hạ như vậy, mà ra
Hạ rồi mà không có y áo gì cúng cho người ta hết. Cho nên mới hỏi ra thì mới
biết rằng, ông Bạt – Nan - Đà ông đã cản mũi
trước rồi. Do đó Phật mới kiết giới này để cho người nào mà phạm cái giới này
á, thì đương nhiên là phạm vào cái tội xả đọa và cái tội ác tác. Vì vậy mà
những người nào mà cản những cái sự cúng y áo như vậy là bị cái tội đó.
Đến đây là ba mươi cái tội mà xả đọa, ba mươi cái giới xả đọa mà
chúng ta đã học xong.
Trước khi học cái giới bổn thì hôm nay Thầy nhắc lại. Vì có một
thầy đến xin Thầy ghi lại cái bảng tóm tắt cho cái sự tu tập mình ở cái lúc ban
đầu. Nhân cái dịp thì Thầy ghi rồi Thầy cũng ghi lại ở trong băng để cho nó
không có quên.
Quý thầy nhớ kỹ:
Người mới tu tập phải sống ba hạnh, nghĩa là mới vào tu tập thì
phải sống đúng ba cái hạnh: Một là Ăn, hai là Ngủ, ba là Độc Cư sống trầm lặng.
Kế đến phải lập ba cái đức: Một là Nhẫn Nhục, hai là Tùy Thuận, ba là Bằng
Lòng. Hằng ngày thì quán xét thân tâm, xa lìa các ác pháp, tăng trưởng các pháp
lành. Cái người mới tu thì chúng ta phải thường xuyên học Thập Thiện, biết Thập
Ác để mà chúng ta xa lìa các pháp ác mà tăng trưởng các pháp lành. Kế đến thì
chúng ta hãy dứt bỏ các thói quen, tật xấu Tứ đổ tường như rượu, chè, bài, bạc
hay hút sách... Tất cả những cái tật xấu đó, hay hoặc là cái tâm mà hay thích
dâm dục thì phải từ bỏ tất cả các tật xấu đó hết thì mới có thể đi vào con
đường của Đạo Phật mới được.
Kế đến thì tu tập các loại định:
- Một là Định Sáng Suốt - giữ tâm thanh thản, tâm vô sự. Đó là cái
thứ nhất mà cái người mới tu nên tu tập cái Định Sáng Suốt giữ tâm thanh thản,
tâm vô sự.
- Cái thứ hai là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, tu tập cái Định Chánh
Niệm Tỉnh Thức á, đó là cái thứ hai, nhưng mà phải đi kinh hành, tức là nương
vào cái đi kinh hành mà tu tập.
- Cái thứ ba đó, Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên bốn Tâm Vô Lượng,
phải thực hiện ở trên cái bốn Tâm Vô Lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Mà tu tập
cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên bốn cái Tâm Vô Lượng đó. Nghĩa là hàng ngày
chúng ta, lúc nào chúng ta cũng phải tập Tỉnh Giác ở trên bốn Tâm Vô Lượng Từ
Bi Hỷ Xả của chúng ta.
- Bốn, Chánh Niệm Tỉnh Giác trong hơi thở, quý thầy chắc biết Chánh
Niệm Tỉnh Giác ở trong hơi thở chứ gì? Tức là lấy cái hơi thở bình thường,
không được thở dài thở ngắn mà phải dụng cái hơi thở bình thường đó, rồi cái
sức Tỉnh Thức của chúng ta ở trên hơi thở, cái niệm của hơi thở: Hơi thở vô tôi
biết vô, mà hơi thở ra tôi biết ra đó. Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên
cái hơi thở.
- Năm, Chánh Niệm Tình Giác ở trong mọi công việc làm. Chúng ta
làm cái gì thì chúng ta phải ý tứ ở trong công việc đó. Thường thường thì chúng
ta phải nhắc cái tâm của mình trên cái pháp hướng, nhắc cái việc làm mình đang
làm đó để cho cái nó tâm nhớ cái việc làm đó mà nó không có quên, không có sinh
ra cái vọng tưởng, hoặc là vô ký.
- Sáu, Chánh Niệm Tỉnh Giác trong ăn cơm. Trong khi mà đang ăn cơm
á, chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong khi đang ăn cơm chứ
không phải là tỉnh giác ở trong các hành động khác rồi ăn cơm ngồi đó ăn cứ lo
ăn mà không có Tỉnh Giác là sai, hoặc là ngồi đó đi tìm món ngon, món ăn dở thì
sai. Mà phải tỉnh giác từng cái món ăn mà chúng ta bỏ từng ở trong miệng, khi
nhai, khi nuốt đều là phải tỉnh giác hết. Đó là tỉnh giác trong khi ăn cơm.
- Bảy, Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong giấc ngủ. Chúng ta cũng phải
tập tỉnh giác ở trong giấc ngủ như vừa rồi Thầy dạy, ngủ mà không mộng mị đó là
tỉnh giác ở trong giấc ngủ đó.
- Tám là Chánh Niệm Tỉnh Giác đối với các pháp. Đối với các pháp
như người ta mắng, người ta chửi mình hoặc là các cái pháp đến làm cho tâm
chúng ta ham muốn, lôi cuốn tâm chúng ta đi vào cái chỗ mà say mê đó, thì chúng
ta phải tỉnh giác các pháp để chúng ta ngăn chặn cái tâm ham muốn của chúng ta,
để chúng ta tránh được sự tham ưu đau khổ của cuộc đời. Vì các pháp nó sẽ đem
đến cho chúng ta nhiều sự đau khổ cho nên chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm
Tỉnh Giác ờ trên các pháp.
- Chín, Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tiếp chuyện. Nghĩa là khi mà nói
chuyện với ai thì chúng ta nên Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tiếp chuyện. Người đó
nói đúng, nói sai chúng ta cũng phải Tỉnh Giác chứ không phải là nghe người ta
nói có lý rồi chấp nhận rồi thành ra cái kiến chấp, thành ra cái tà kiến mất
đi. Cho nên chúng ta không còn thấy cái đúng cái sai nữa. Cho nên khi mà tiếp
chuyện á, thì cũng ta cũng phải Tỉnh Giác ở trong khi tiếp chuyện với người
khác.
- Mười, Chánh Niệm Tỉnh Giác khi tu tất cả các loại định. Nghĩa là
chúng ta tu cái gì chúng ta cũng phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hành
động đang tu. Chứ không phải là nó tôi tu cái đó rồi tôi chỉ biết cái đó thôi,
chẳng phải. Chúng ta phải Tỉnh Giác, coi cái sự tu đó nó có xảy ra cái gì. Thí
dụ như bây giờ mình đang dùng cái hơi thở, mình hướng để mình tịnh chỉ Tầm Tứ
để mình nhập Nhị Thiền, mà bây giờ cái hơi thở đó nó sẽ đứng đó mà nó mà nó
không chậm nữa hay hoặc là nó không nhẹ nữa thì mình phải Tỉnh Giác ở trong
những cái đó để cho mình thiện xảo, mình vận dụng như thế nào hoặc là mình
hướng tâm như thế nào để cho nó đi sâu hơn hoặc là nó phải đi ra như thế nào.
Đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong khi tu các loại pháp như Định
Vô Lậu, Định Sáng Suốt, hoặc là cái Định Hiện Tại An Lạc Trú - nhập từ Sơ Thiền
đến Tứ Thiền - chúng ta đều phải Tỉnh Giác hết.
Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định là cái vấn đề rất là quan
trọng mà người tu, mới tu thì phải tu tập cái này rất nhiều.
Kế đến chúng ta tu tập cái Định Vô Lậu:
- Cái Định Vô Lậu, thứ nhất, đặt niệm thân trước mặt, quán vô
thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Lấy cái thân của chúng ta đặt rồi chúng ta xem
xét, quán xét từ đầu đến chân, từ chân đến đầu coi nó bất tịnh như thế nào, coi
nó vô thường như thế nào, coi nó khổ như thế nào, coi nó vô ngã như thế nào, để
cho nó thấu suốt, nó chứng được cái lý vô thường, khổ, không, vô ngã của nó, và
bất tịnh.
- Hai, đặt niệm thực phẩm ăn trước mặt, quán bất tịnh. Hằng ngày
chúng ta vì cái ăn mà chúng ta có sự tham đắm ở trong đó, do đó chúng ta hãy
đặt cái niệm thực phẩm trước mặt của chúng ta mà quán xét. Chừng nào mà thấu
cái lý chúng ta thấy thực phẩm bất tịnh, chúng ta không còn thích ăn nó nữa, ăn
để sống như một cái liều thuốc thì chừng đó chúng ta không có tu nữa. Nhưng mà
bây giờ chúng ta còn thấy thèm, thấy muốn ăn cái ngon, cái dở, thì lúc bấy giờ
đó chúng ta phải cần đặt niệm để mà quán triệt, để mà xả cái lậu hoặc vì cái
ăn.
- Ba, đặt niệm sắc dục trước mắt, quán bất tịnh, quán rắn độc,
quán khổ. Tức là chúng ta sẽ đặt cái niệm sắc dục trước mặt của chúng ta để chúng
ta quán nó bất tịnh, quán rắn độc, quán khổ. Chừng nào nó thấm cái lý, nó làm
cho cái thân chúng ta không tràn tinh, không xuất tinh, không mộng mị nữa thì
đó là chúng ta đã đạt cái quán vô lậu của sắc dục.
- Bốn, đặt niệm danh trước mặt, quán vô thường, khổ, nguy hại, như
cọp dữ. Chúng ta thấy cái danh, coi vậy chứ nó cũng rất khó vì nghe người ta
khen là mình mừng, nghe người ta chê là mình buồn. Đó là cái danh chứ chưa nói
là cái sự mà chúng ta làm ông này bà kia hoặc là đỗ cấp bằng này, cấp bằng kia,
nó đều làm cho chúng ta có cái chạy theo của cái danh. Cho nên, do đó mà chúng
ta đặt cái niệm danh trước mặt để chúng ta quán, thấy nó vô thường, nó đem đến
sự khổ, nó nguy hại cho đời sống chúng ta, nó giống như là cọp dữ. Đó thì chúng
ta phải đặt cái niệm đó để quán xét cho thấu suốt để cái danh nó được xả đi, nó
không còn được ở trong tâm chúng ta nữa.
- Năm, đặt niệm lợi trước mặt, quán vô thường, khổ, nguy hại như
thuốc độc, như rắn độc. Chúng ta phải đặt cái niệm lợi như tiền bạc, châu báu,
hoặc là nhà cửa, xe cộ, chùa chiền, tháp to, tháp lớn gì đó, tất cả mọi cái
chúng ta đặt rồi chúng ta quán xét để chúng ta thấy nó là như thuốc độc, nó có
thể giết chúng ta hồi nào cũng có thể được. Nó như rắn độc, nó có thể cắn chúng
ta hồi nào cũng được.
- Sáu, đặt niệm hôn trầm, thùy miên, quán tối tăm u mê, ngu muội,
lười biếng, hèn nhát. Chúng ta phải đặt cái niệm hôn trầm vì hầu hết là Thầy
thấy cái vần đề mà hôn trầm thùy miên rất là khó. Phải đặt cái niệm đó, rồi
quán xét, rồi tu tập cái Chánh Niệm Tình Thức. Trong khi ngủ phải tỉnh thức, do
đó nó mới phá được cái hôn trầm thùy miên, chứ không khéo thì cái bệnh hôn trầm
thùy miên là bệnh si này rất là nguy hiểm, nó làm chúng ta không có cái tri
kiến, không có cái tri kiến giải thoát được.
- Bảy, đặt niệm tham trước mặt, quán khổ, nguy hiểm, tai hại,
nghèo khổ, bần cùng. Cái niệm tham của chúng ta thì chúng ta đặt nó trước mặt
để chúng ta quán xét, quán cái tham coi từ đâu đến, nó do đâu mà có mà làm
chúng ta khổ suốt cả đời chúng ta. Rồi từ cái tham đó, nó hễ có cái này rồi nó
đòi hỏi tới cái khác, nó tham tới cái khác. Một đồng nó muốn mười đồng, mười
đồng nó muốn trăm đồng đó. Thì cái tham nó cứ từng bước nó lên, nó leo thang
lên chứ nó không có dừng lại. Do đó chúng ta thấy càng tham thì càng khổ, vì vậy
mà chúng ta phải quán xét để phá cái tâm tham của chúng ta nó trở thành vô lậu.
- Tám, đặt niệm sân trước mặt, quán khổ, hung dữ như cọp, như rắn
độc, hại mình, hại người. Chúng ta phải đặt cái niệm sân, vì cái niệm sân nó
làm chúng ta rất khổ đó, do đó chúng ta phải quán xét cái niệm sân và dùng cái
pháp hướng để đoạn dứt nó đi. Nói chung là mỗi cái niệm mà chúng ta đặt đây đều
là chúng ta phải có cái pháp hướng, pháp hướng sau khi chúng ta quán
xét xong rồi thì chúng ta kế tiếp bồi một cái lệnh truyền tạo thành một cái lực
để mà đoạn dứt nó, đoạn dứt những cái tâm đó. Do đó, nó nhờ cái pháp
hướng đó mà nó sẽ đoạn dứt nhanh chóng hơn. Quán là chúng ta thông suốt, thấu
suốt được cái lý của nó đúng để chúng ta không còn cái tâm đó nữa nhưng dù sao
chúng ta phải có cái sự truyền lệnh làm chủ, thì cái pháp hướng đó nó giúp
chúng ta sẽ làm chủ được.
- Chín, đặt niệm kiêu mạn trước mặt, quán vô thường, khổ, vô ngã.
Thì cái tâm kiêu mạn, cái tâm ngã mạn của chúng ta thường thường là ai cũng có
cái ngã, thấy mình hơn người một chút là mình thấy có cái ngã rồi. Nghe người
ta khen mình là mình nở mũi rồi, đó là cái ngã, nghe người ta chê mình, mình
buồn đó là cái ngã của mình. Vì vậy mà tất cả những cái này chúng ta phải đặt
cái niệm đó trước mặt để từng dùng cái Định Vô Lậu mà quét sạch cái tâm kiêu
mạn của chúng ta ra khỏi cái tâm của chúng ta.
- Mười, đặt niệm nghi trước mặt, quán về cái niệm nghi đó, quán
cái tâm nghi của mình đó, nó hay sinh những tội lỗi và do đó mà đời sống của
chúng ta - cái nghi đó nó sẽ làm cho chúng ta nhức đầu. Ví dụ như mình nghi vị
thầy mình tu chưa chứng, nghi vị thầy mình như thế này thế khác mà mình không
có đủ sức mà mình dò xét vị thầy mình, coi như thế nào là người giới hạnh, giới
đức, giới tuệ như thế nào, mình chưa đủ sức quán xét. Nhưng mà mình sống gần
một vị thầy mình mà mình vội vàng mình nghi thì chưa đúng, mình hãy còn xem
xét. Cho nên nghi không phải là nghi thầy mình không, mà nghi tất ...
Đây là cái sự tóm lược của Thầy, chứ nó còn biết bao nhiêu, có thể
nó từ cả trăm cái điều kiện mà chúng ta có thể chúng ta đặt cái niệm trước mặt
mà chúng ta tu tập. Hằng ngày, nếu chúng ta hằng ngày chúng ta thấy cái tâm của
mình ở cái góc độ nào thì mình nên lấy ở cái góc độ đó, mình đặt cái niệm ra
mình tu, mình thấu triệt được cái độ đó thì nó sẽ phá được cái tâm vô lậu của
mình. Và hàng ngày mình làm những công việc hoặc có những duyên sự gì đó thì
mình lấy cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, mình đặt cái sự hành động của mình ngay
cái chỗ đó mình tu tập thì nó sẽ ngay cái đặc tướng riêng biệt của mình thì nó
đem lại cái kết quả tốt cho cái sự tu tập của mình, nhanh chóng và tỉnh táo
nhất. Và đồng thời thì Thầy thấy qua cái sự tu tập đó, thì Thầy thấy các thầy
nên tập tỉnh thức ngay ở trong giấc ngủ
của mình, phá cái niệm si trước tiên để chúng ta không còn có Vô Minh thì cái
Minh nó thể hiện được, thì cái trí tuệ mà thể hiện được thì tu cái Định Vô Lậu
rất là nhanh chóng. Vì cái tri kiến giải thoát chúng ta phát hiện chứ không
phải là cái tri kiến suông, vì cái tri kiến suông là cái tri kiến được huân học
của kinh sách, của các thầy nhờ đó mà chúng ta làm cái điểm tựa thôi. Còn trái
lại cái tri kiến giải thoát của chúng ta được phóng ra được á thì đó là phải
nhờ cái sức tỉnh thức mới có phóng ra được. Như vậy là quý thầy ghi tạm thời
có mười cái điều kiện để tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và mười cái điều
kiện mà tu tập cái Định Vô Lậu. Bây giờ Thầy xin trả lại cuốn tập cho cư sĩ.
Trước khi mà học tiếp cái Giới Bổn thì Thầy thấy có một cái bài
kinh ở trong cái Kinh Trung bộ, cái bài kinh số sáu, kinh Ước Nguyện. Thầy thấy
cái bài Kinh này nó nhắc đến mọi cái điều kiện mà chúng ta ước muốn một cái
điều gì đó thì cái cần thiết là cái điều kiện là chúng ta phải thành tựu, phải
viên mãn được cái giới luật. Cho nên ở đây học giới luật thì Thầy sẽ đem cái
bài Kinh này ra để chứng minh cho Phật nhắc nhở các vị Tỳ Kheo trong thời đức
Phật (...) thì nhận xét thấy cái bài Kinh Ước Nguyện của Phật trang 79, Kinh
Trung Bộ, Tập 1, của Tạng Kinh Việt Nam. Do thấy cái bài kinh đó nó nhằm chỉ để
chỉ dạy cho chúng ta thấy cái giới luật nó rất là quan trọng trên con đường tu
tập của chúng ta đối với cái sự giải thoát thân tâm và làm chủ sinh tử. Thì
giới luật rất là quan trọng đối với cái người tu tập. Bây giờ quý Thầy sẽ nghe
cái lời Phật dạy, Thầy sẽ đọc lại nguyên bổn của Kinh để quý Thầy thấy đây là
cái lời khuyên của Phật trong cái thời đức Phật còn tại thế.
"Này các Thầy Tỳ kheo, các Thầy hãy sống đầy đủ giới hạnh,
đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi
chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và
học tập các học giới".
Đó thì đức Phật khuyên chúng ta vào giới thiệu về cái giới luật,
thì đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta biết cần phải trau dồi và học tập và
rèn luyện cái giới luật để mà chúng ta được ly lục, ly bất thiện pháp mà sau
này mới có thể nhập được các Thiền định.
"Này các thầy Tỳ
Kheo, nếu các thầy có ước nguyện" - tức là ước mong mình, ước mong một
cái điều gì đó - "mong rằng ta được các đồng Phạm hạnh thương mến, yêu
quý, cung kính và tôn trọng" - đó là khi mà đức Phật dạy, khi mà chúng
ta vào tu theo Đạo Phật, muốn cho các vị mà tu tập trước cũng như sau đồng một
cái pháp môn, đồng một cái Phạm Hạnh, mà thương mến kính trọng mình. Thì muốn
mà được như vậy thì đức Phật Khuyên:
"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy muốn ước nguyện được
như vậy thì các thầy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì giữ gìn giới
luật, nội tâm tịch tĩnh, ly dục – ly ác pháp, không gián đoạn Thiền định, thành
tựu quán hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh vắng lặng".
Đó thì đức Phật khuyên chúng ta nên sống độc cư, nên thành tựu các
quán hạnh, sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh vắng lặng. Nghĩa là một người Tỳ
kheo mà tu tập theo cái Đạo giải thoát thì không nên sống ở cái chỗ ồn náo như
thành thị, nơi mà có đông đúc người mà phải tìm cái sống cái yên lặng, độc cư
tại các trụ xứ yên tịnh, vắng lặng. Đó thì đó là cái bài Kinh của Phật khuyên
chúng ta như vậy, thì chúng ta thích sống như vậy và chúng ta giữ gìn giới
luật, nghiêm chỉnh như vậy thì các vị đồng phạm hạnh của chúng ta đều là kính
trọng chúng ta. Còn quý vị mà sống mà nói chuyện với nhau, tiếp duyên với nhau,
rồi bằng cách này, rồi bằng cách khác nói chuyện y áo, nói chuyện ăn, nói
chuyện mặc, nói chuyện ngủ, nói chuyện nghỉ, nói chuyện tào lao, phiến diện thì
chắc chắn là các vị mà người ta có Phạm Hạnh người ta không có kính trọng mình
đâu, người ta sẽ xem thường mình đó. Mà mình sống đúng Hạnh, đúng giới luật thì
người ta rất kính trọng mình.
Đó là cái lời khuyên thứ nhất đối với chúng ta muốn được các bạn,
các người đồng tu Phạm Hạnh quý trọng mình thì mình hãy giữ gìn giới Luật, thọ
trì giới Luật cho nghiêm chỉnh và ly dục, ly ác pháp. Do cái sự ly dục, ly ác
pháp này chúng ta thiểu dục ít muốn cho nên vì vậy đó mà người ta quý trọng
mình. Rồi Thiền định thì mình liên tục mình tu tập không có bỏ ngày nào hết,
mình tu tập Thiền định Vô Lậu là mình quán được các hạnh, làm cho mình thể hiện
ra cuộc sống người ta thấy được cái Hạnh của mình rất là tốt và đồng thời người
ta xét thấy qua cái Hạnh Độc Cư của mình không có nói chuyện với ai hết do đó
người ta quý trọng mình, và mình lại còn tìm cái chỗ trụ xứ vắng vẻ, đến cái
chùa nào mà yên tịnh, trong rừng, trong núi hơn là ở những cái chùa mà ở thành
phố. Đó là người ta quý trọng những cái vị tu đó đó, còn quý vị mà ở thành phố
vui chơi hoặc thế này thế khác thì người ta không quý trọng đâu. Các vị Phạm
Hạnh người ta không quý trọng.
Tiếp đến, đức Phật đã dạy đến:
"Này các thầy Tỳ kheo, các thầy có ước nguyện mong rằng ta
được các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm
trị bệnh" - Nghĩa là mong cho mình được cái đó để cho đời sống mình
không có đói khổ, không có thiếu thuốc thang khi bệnh đau “thì Tỳ Kheo
ấy cũng phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì giữ gìn giới luật, nội Tâm
tịch tĩnh, ly dục – ly ác pháp, không gián đoạn Thiền định, thành tựu Quán
Hạnh, thích sống độc cư tại các trụ xứ yên tịnh vắng lặng".
Đó thì đức Phật cũng khuyên chúng ta cũng nên phải thực hiện giới
luật trước tiên, kiên trì giữ gìn giới luật. Mà khi chúng ta giữ gìn giới luật
nghiêm chỉnh như vậy thì ước muốn của chúng ta được y phục, được các món ăn,
được dược phẩm để trị bệnh đều là ở đâu chúng ta cũng sẽ được đầy đủ hết, nghĩa
là ước muốn chúng ta sẽ được, đạt được là khi chúng ta giữ gìn được giới luật
nghiêm chỉnh. Chúng ta sống đúng như vậy thì ở đâu cúng ta cũng được đầy đủ
không có thiếu.
"Này các thầy Tỳ Kheo nếu các thầy có ước nguyện mong
rằng, những người cúng dường cho ta, vật dụng, y phục, món ăn khất thực, sàng
tọa nhà ở và dược phẩm trị bệnh sẽ được quả báo tốt đẹp, sẽ được lợi ích lớn"
- nghĩa là mình nhận của cúng dường của người ta, mọi vật để cho mình sống,
mình tu hành được đầy đủ không có thiếu, không có khổ sở trong cái sự thiếu hụt
đó thì cầu cho những người đó, ước mong cho những người mà cúng dường cho mình
họ được những quả báo tốt đẹp và được lợi ích lớn cho họ, thì ước muốn của
chúng ta mà muốn cho họ đạt được thì cái điều kiện đó thì chúng ta phải thế
nào? Phật dạy chúng ta phải giữ gìn cái giới, phải thành tựu cái giới luật
viên mãn, phải kiên trì giữ gìn giới luật, nội tâm phải được định tĩnh, ly dục
– ly ác pháp, không gián đoạn thiền định, thành tựu Quán Hạnh, thích sống độc
cư tại các trụ xứ tịch tĩnh vắng lặng. Đó là Đức Phật dạy chúng ta muốn mà
ước nguyện cho người khác cúng dường cho mình được thành tựu cái lợi ích lớn,
thì mình cũng là một cái người phải thành tựu viên mãn cái giới luật chứ không
thể nào mà thiếu cái thành tựu viên mãn giới luật mà ước nguyện cho người ta được.
Đó là cái ý ở trong cái bài Kinh này là như vậy. Cho nên ở đây quý thầy thấy
mỗi cái mong muốn của chúng ta, cái gì mà có lợi ích đều là ở trong cái giới
luật, cái hạnh của chúng ta sống cho đúng giới luật, thì chúng ta muốn làm sao
cho người khác đều là được mãn nguyện cái ý muốn của chúng ta.
"Này các thầy Tỳ
Kheo, nếu các Thầy có ước mong, mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi
họ chết và mệnh chung, được tâm định tỉnh, không bị hôn mê, không bị cận tử
nghiệp lôi, tỉnh thức, đi thoát sanh. Này các thầy Tỳ Kheo, nếu muốn được như
vậy, các thầy phải thành tựu viên mãn giới luật".
Đó là đức Phật cũng nhắc chúng ta, là những vị mà ước muốn cho
những người thân của mình, chứ không phải là bảo mình về tụng kinh, cầu siêu,
cầu an cho những cái linh hồn đó siêu sanh Tịnh Độ, mà đức Phật bảo mình phải
giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì cái ước muốn của mình, những người thân của
mình có chết đi, mạng chung đó thì họ cũng sẽ đạt được cái ý nguyện của họ,
cũng tỉnh thức để không bị những cái cận tử nghiệp lôi đi, không bị những cái
hôn mê, trong khi bị chết họ vẫn sáng suốt, tỉnh táo hoàn toàn, khi mà chúng ta
giữ gìn giới luật thì chúng ta sẽ ước muốn cái điều đó, bà con huyết thống của
chúng ta sẽ đạt được. Ví dụ như cha mẹ mình mà trong khi mình tu chưa có thành
tựu nhưng mình giữ gìn giới luật và cái lòng ước muốn của mình - cha mẹ mình
chết đi được tỉnh thức, không có bị mê muội, không có bị nghiệp, cận tử nghiệp
lôi đi thác sanh. Do đó thì cái ước muốn của mình sẽ thành tựu đối với cha mẹ
của mình. Nó vi diệu như vậy, lời Phật nói như vậy, Thầy tin rằng một vị mà trì
giới luật thanh tịnh chắc chắn là cái ước muốn đó sẽ thành tựu được chứ không
sai được.
Thì đến đây, cái phần kế nữa:
"Này các thầy Tỳ
Kheo, nếu các thầy có ước nguyện, mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc thọ
chứ không phải lạc và bất lạc thọ nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn
nhiếp phục bất lạc thọ, được khởi lên. Muốn được vậy thì Tỳ kheo ấy phải thành
tựu viên mãn giới luật".
Thì cũng là nhắc chúng ta phải thành tựu viên mãn giới luật. Cho
nên, ví dụ bây giờ trong cái khi tu hành chúng ta tu dễ bị cái lạc lắm, cái thọ
lạc nó lôi chúng ta lắm, rồi cái thọ bất lạc nó cũng lôi chúng ta lắm, cho nên
vì vậy mà chúng ta thấy rất khổ. Khi ăn miếng ăn đó mà chúng ta thấy nó ngon tức
là chúng ta thấy lạc rồi, mà thọ lạc nó làm chúng ta còn thèm ăn nữa. Cho nên
muốn mà cho nó nhiếp phục, cho nó đừng có lôi mình được, nó đừng có làm cho
mình thích nữa, nó không phải là một cái chuyện dễ. Cho nên ở đây cái ước muốn
như vậy, thì muốn được như vậy thì chúng ta cần phải viên mãn cái giới luật của
Phật chứ không thể nào mà chúng ta không viên mãn giới luật của Phật mà ước
muốn vậy được. Mà giới luật thì nó làm cho chúng ta xa lìa cái đó, xa lìa cái
ham ăn, ham uống đó. Cho nên ở đây Thầy nhắc quý thầy phải nhớ rằng cái lời của
Phật dạy là những cái lời vàng, lời ngọc, những cái lời mà chúng ta cần phải
thực hiện. Bởi vì con đường giải thoát của Phật là người đi trước, và Thầy mười
năm trong thất Thầy cũng đã sống từng những cái giới luật của Phật rất là
nghiêm chỉnh đối với mình, khắc phục với mình cho nên Thầy biết cái này. Nếu mà
hôm nay Thầy có được cái sức Thiền định mà làm chủ được cái sống chết của mình,
Thầy cũng biết rằng đó chỉ có giới luật chứ không phải là cái gì khác hơn. Cho
nên Thầy cứ nhắc các thầy là Đạo Phật ly dục – ly ác pháp là quan trọng chứ
không phải ngồi mà hít thở mà quan trọng đâu. Cái thở đó là phụ mà thôi,
nó là mượn cái hơi thở để đi vào nhập cái Định chứ không phải là cái chỗ hít
thở, không phải cái chỗ ức chế tâm; mà cái chỗ ly dục – ly ác pháp. Mà chỉ có
giới luật của Phật mới ly dục – ly ác pháp, còn hoàn toàn ngoài ra làm sao
được, làm sao có pháp nào mà làm được. Cho nên ở đây mới thấy được cái quý giá
của giới luật của Phật là ở cái chỗ này.
Tiếp đến, đức Phật khuyên các thầy Tỳ Kheo:
"Này các Thầy Tỳ kheo, nếu các Thầy có ước nguyện, mong
rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chứ không phải khiếp đảm sợ hãi nhiếp
phục ta, mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi
lên. Muốn được vậy Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật.”
Đó thì các thầy thấy đức Phật cũng nhắc chúng ta cũng phải thành
tựu viên mãn giới luật thì chúng ta mới khắc phục được cái tâm khiếp đảm của
chúng ta, sợ hãi của chúng ta. Hầu hết là chúng ta ở rừng ở núi, những nơi mà
không cơm, không gạo, chúng ta sợ đói lắm, sợ rắn độc, sợ hơi độc, sợ khí độc,
đủ mọi cách có thể làm chúng ta chết người, chúng ta sợ, chúng ta khiếp đảm.
Nhưng mà khi chúng ta giữ gìn giới luật mà thanh tịnh, viên mãn được giới luật,
chúng ta chẳng có sợ cái điều đó nữa. Không sợ cọp dữ mà cũng không sợ rắn độc,
cũng không sợ nước độc, khí thiêng gì chúng ta chẳng sợ gì hết khi mà giới luật
chúng ta đã viên mãn. Đó thì cái lời của Phật dạy rất là hay và rất là tuyệt. Bởi vậy,
giới luật là Thầy, là người bảo hộ cho chúng ta tận cùng trên con đường giải
thoát. Mà chúng ta cứ xa lìa giới luật, không chấp nhận giới luật thì
làm gì cái đời sống chúng ta đạt được đến cái cứu cánh giải thoát được.
Đây quý Thầy nghe tiếp:
"Này các Thầy Tỳ
Kheo, nếu các thầy có ước nguyện mong rằng ta tùy theo ý muốn của ta, không có
khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức ta chứng bốn Thiền một cách dễ
dàng, thuộc về tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú”.
Đó là đức Phật muốn nói đến bốn cái loại thiền mà chúng ta đang
tu tập nương cái hơi thở đó, mà chúng ta quá tu tập khó khăn phải không? Mà phí
sức rất nhiều, nhọc nhằn rất nhiều, mà cũng chưa chứng được. Thì cái ước nguyện
mà chúng ta muốn đạt được bốn cái Thiền này thì cái điều kiện mà tiên quyết là
chúng ta phải giữ gìn, phải viên mãn, phải thành tựu giới luật. Muốn được vậy, "Tỳ
Kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật". Đó, thì đức Phật nói muốn
mà nhập được bốn Thiền thì các thầy Tỳ Kheo cũng phải thành tựu viên mãn giới
luật mới có thể dễ dàng nhập mà không có phí sức, không có khó khăn, không có
mệt nhọc. Còn nếu không thì chúng ta rất là mệt nhọc, rất là phí sức, rất là
khó khăn. Đức Phật nói đúng lắm, bởi vì xét qua chúng ta chưa ly dục, ly hoàn toàn, ly ác pháp hoàn toàn cho nên chúng
ta tu thấy vào bốn Thiền rất là khó.
"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy Tỳ Kheo có ước nguyện,
có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát sắc giới và vô sắc giới, mong rằng ta
có thể cảm xúc với thân và sống an trú cảnh giới ấy".
Nghĩa là cái ước muốn ấy là cái khi mà cái tâm của chúng ta luôn
luôn ở trong cái cảnh mà sắc giới và vô sắc giới đó luôn luôn nó được siêu
thoát, nó được tịch tĩnh ở trong những cảnh giới, tức là cảnh giới Thiền định
đó. Nói ở đây, đức Phật muốn nói rằng cái cảnh giới mà ở trong cái thân này mà
chúng ta luôn luôn giữ cái tâm của chúng ta tịch tĩnh siêu thoát ra ngoài cái
thân mà không có, mặc dù chúng ta đang sống trong cái sắc giới và chúng ta đang
sống ở trong cái vô sắc giới khi mà chúng ta lọt vào trong cái trạng thái tưởng
thì các cái thân mắt tai mũi lưỡi thân ý chúng ta hoàn toàn nó ngưng nghỉ, nó
không tiếp xúc nữa giống như cái người ngủ mà chúng ta cũng vẫn tịch tĩnh siêu
thoát trong cái cảnh giới đó, thì như vậy là chúng ta đã vượt qua coi gọi là
chúng ta ly hỷ trú xả, tức là chúng ta đã nhập được Tam thiền rồi đó. Ở đây mà
chúng ta mong muốn được cái điều này thì cái sự mong muốn đó muốn đạt được thì
tức là chúng ta phải giữ gìn giới luật phải được viên mãn. Chứ còn không phải
là thiếu giới luật mà đạt được cái ước muốn đó đâu. Đó thì ở đây chúng ta cũng
thấy rằng muốn được như vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật.
Tiếp tới nữa:
"Này các Thầy Tỳ
kheo, nếu các thầy có ước nguyện mong rằng ta diệt trừ ba kiết sử, làm cho muội
lược tham sân si, ta chứng được Nhất Lai, chỉ còn trở lại một đời này nữa để
đoạn trừ khổ đau. Nếu muốn được vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới Luật".
Nó cũng là nhắc chúng ta, bây giờ chúng ta muốn mà, muốn diệt trừ
ba kiết sử, ba kiết sử đầu tiên là tham sân si chứ gì, mà muốn diệt nó thì
chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật chứ còn thiếu giới luật mà muốn diệt tham
sân si thì chúng ta diệt không nổi đâu. Ở đây đức Phật từ cái ước muốn này cho
đến cái ước muốn khác, chúng ta thấy tham sân si là ba độc muốn cho nó dứt đi
thì chúng ta cũng phải lấy giới luật mà sống thì chúng ta sẽ dứt được nó.
"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện mong
rằng ta sẽ diệt trừ năm hạ phần kiết sử, ta được hóa sanh, chứng được Niết bàn,
ngay tại cảnh giới ấy, không còn trở lại trong trạng thái này nữa. Muốn được vậy
Tỳ kheo phải thành tựu viên mãn giới luật".
Đức Phật cũng nhắc chúng ta muốn mà diệt trừ năm cái hạ phần kiết
sử tức là tham sân si mạn nghi á, nó không còn có nữa đó, thì để chứng được
Niết bàn ở trong cái tâm trạng của chúng ta và lúc bấy giờ chúng ta không còn
có thai sanh nữa mà chúng ta được hóa sanh, tức là chúng ta sẽ được sanh vào
một cái cõi trời nào đó, cõi trời đó là hoàn toàn hóa sanh chứ không còn thai
sanh nữa. Ngay tại cảnh giới ấy, dù đó là cảnh trời nào thì chúng ta cũng được
tự tại hết. Không còn trở lui cái trạng thái này nữa, tức là chúng ta không còn
tái sanh ở trong cái thế gian này nữa. Mà muốn được vậy thì Tỳ kheo phải thành
tựu viên mãn giới luật. Cho nên nãy giờ chúng ta thấy giới luật rất là quan
trọng, quan trọng cho con đường tu của người tu sĩ.
"Này các thầy Tỳ kheo, nếu các thầy có ước nguyện, mong
rằng ta chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân, ta hiện hình các loại cầm thú, biến hình, đi ngang qua vách,
qua thành qua núi như đi ngang qua hư không. Ta độn thổ, trồi lên, ngang qua
mặt đất liền như ở trong nước. Ta đi trên nước không chìm như đi trên đất liền,
ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay ta chạm và rờ mặt
trăng, mặt trời, những vật có đại oai lực, đại thần lực như vậy. Thân ta có
thần thông bay đến cõi Phạm Thiên. Muốn được vậy Tỳ Kheo ấy phải thành tựu viên
mãn giới luật".
Dù chúng ta có muốn được thần thông được như vậy thì chúng ta cũng
phải giữ gìn giới luật, viên mãn giới luật. Thì đó là những cái điều kiện mà
chúng ta cần phải hiểu. Nếu không hiểu thì chúng ta không có giới luật gì hết
mà cứ niệm chú, niệm bùa để có thần thông, thì cái đó là không đúng của Đạo
Phật.
"Này các Thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện mong
rằng với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng Chư
Thiên và loài người ở xa hay ở gần" - Nếu mình có cái sự ước
muốn như vậy thì muốn được như vậy - "Thầy Tỳ Kheo cần phải thành tựu
viên mãn giới luật". Đức Phật cũng nhắc chúng ta cũng phải thành tựu
viên mãn giới luật. Chứ còn không ngoài không có thành tựu viên mãn giới luật
thì chắc chắn chúng ta không đạt được đâu.
"Này các Thầy Tỳ
Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện mong rằng, với tâm của ta ta biết được tâm của
các chúng sanh và loài người. Tâm có tham ta biết tâm có tham, tâm không tham
ta biết tâm không tham, tâm có sân, ta biết tâm có sân. Tâm không sân ta biết
tâm không sân. Tâm có si ta biết tâm có si, tâm không si ta biết tâm không si.
Tâm chuyên chú, ta biết tâm chuyên chú, tâm không chuyên chú ta biết tâm không
chuyên chú. Tâm tán loạn ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành ta biết tâm đại
hành, tâm không đại hành ta biết tâm không đại hành, Tâm chưa vô thượng ta biết
tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng ta biết tam vô thượng. Tâm thiền định ta biết
tâm thiền định, tâm không thiền định ta biết tâm không thiền định. Tâm giải
thoát ta biết tâm giải thoát, tâm không giải thoát ta biết tâm không giải
thoát. Muốn được vậy Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật".
Đó, muốn mà mình biết mọi cái tâm niệm của chúng sanh, bây giờ họ
ngồi thiền họ có định hay không định thì mình phải thành tựu giới luật thì mình
mới có được cái biết đó. Còn nếu mà không thành tựu giới luật thì chẳng biết gì
hết.
"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy có ước nguyện mong
rằng, ta nhớ đến các đời quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, vô lượng đời,
nhiều kiếp thành kiếp hoại. Muốn được vậy thì Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn
giới luật".
Đó là chúng ta cũng nhớ, nếu mà chúng ta có cái hiểu biết nhiều
đời của chúng ta, tức là Túc Mạng Minh, thì nếu mà chúng ta muốn có Túc Mạng
Minh mà hiểu biết như vậy thì chúng ta cũng phải là giữ gìn thành tựu viên mãn
giới luật.
"Này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy ước nguyện, mong rằng
ta có Thiên Nhãn Minh thấy sự sống chết của chúng sanh, muốn được như vậy Tỳ
Kheo cũng phải thành tựu viên mãn giới luật".
Đức Phật cuối cùng mà chúng ta có những cái Lậu Tận Minh
hoặc là có cái Thiên Nhãn Minh đi nữa thì cũng phải là làm giới luật làm hàng
đầu.
"Này các Thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy có ước nguyện với sự
diệt trừ các lậu hoặc tận gốc, ta phải có Lậu Tận Minh. Muốn được vậy thì các
Tỳ Kheo phải thành tựu viên mãn giới luật".
Đó thì đến đây thì ba cái Minh là xong rồi thì chúng ta ước muốn,
đi tu mà chúng ta không ước muốn quét sạch lậu hoặc thì làm sao giải thoát, làm
sao chấm dứt luân hồi, cho nên đó là sự ước muốn của chúng ta rồi. Mà ước muốn
như vậy thì chúng ta phải lấy cái gì, Phật khuyên là chúng ta phải thành tựu và
viên mãn giới luật chứ không có cái gì khác hơn hết.
"Này các thầy Tỳ Kheo, muốn được vậy, bây giờ, ngay lúc
này, các thầy hãy sống" - nghĩa là muốn được như vậy, muốn được những
cái ước muốn mà đức Phật nêu bên trên đó, chúng ta muốn được như vậy đó, thì
ngay bây giờ "lúc này các Thầy hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới
bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn. Đầy đủ oai nghi, chánh hạnh.
Thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học
giới như vậy. Phàm đã nói gì, chính duyên ở đây mà nói vậy" .
Tức là cái đứng ở chỗ giới mà nhắc nhở cho quý thầy thấy được cái
con đường mà tu tập theo đúng của đạo Phật - là lấy giới luật mà làm đầu. Bởi
vậy Tam Vô Lậu Học, chúng ta thấy học giới tức là cái giới là cái pháp môn học
đầu tiên Giới - Định - Tuệ. Cho nên giới là phải thành tựu viên mãn thì tất cả
những cái khác Định và Tuệ chúng ta cũng sẽ dễ dàng mà thành tựu được. Đó thì
quý thầy thấy rất rõ chứ? Cho nên ở đây, khi mà học giới, nếu mà bỏ cái bài
kinh này thì Thầy thấy quá là uổng, không có thể nào mà thiếu được nó.
Cho nên bây giờ chúng ta lại tiếp tục ở trên cái bài học giới.
Năm, chúng ta tiếp tục giới Bổn.
Năm, Kiết giới Cửu Thập Đọa - chín mươi tội đọa.
Nếu phạm vào một tội nào cũng bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh,
ác đạo, nhận lấy cái khổ thiêu đốt, nếu không ân cần sám hối, bèn có thể trở
ngại cho thiện pháp. Đó thì chúng ta thấy cái bây giờ nó tới chín mươi cái tội
đọa, chín mươi cái tội đoạ này nếu mà nếu chúng ta không có học thì chúng ta
không có biết và ở đây mục đích chúng ta học không có nghĩa là chúng ta chấp
nhận những cái giới luật ở đây là đúng đắn của Phật đâu. Bởi vì hầu hết khi mà
giảng qua những cái giới luật của Phật xong rồi, Thầy thấy hầu như là cái người
sau thêm nó không đúng cái giới luật của Phật, nó giảm đi, nó làm cho cái người
mà chấp nhận giới đó nó có phạm những cái dục lạc của thế gian, nó có chạy theo
những cái dục lạc của thế gian. Như những giới y rồi chế ra để cho nó rộng rãi
ra cho Tỳ Kheo đắm đuối ở trong những cái dục lạc, cái cám dỗ của các pháp thế
gian như y, áo, đồ ăn, đồ uống. Tất cả những cái này đều là do người sau mà chế
ra. Cho nên ở đây chúng ta học, bởi vì Thầy không có cái thời gian mà có thể
soạn lại những cái Kinh giới này đề mà cái nào là của Phật, còn cái nào là của
người sau là chúng ta gạt ra. Vì cái giới luật của Phật là vốn giúp cho chúng
ta để đạt được những cái kết quả giải thoát chứ không phải là cái pháp luật,
không phải là cái điều lệ mà bắt buộc chúng ta, trói buộc chúng ta bằng cách
khô khan để rồi rộng rãi cho chúng ta hưởng từng giọt dục lạc của thế gian.
Chúng ta thấy quá rõ những cái giới luật của Phật mà trong cái giới bổn này mà
gọi là của Phật á hầu như là chế đi chế lại là như là bắt đầu gắt thì không cho
chúng ta thọ hưởng cái dục lạc thế gian, sau đó chế lại để cho chúng ta nhỏ
từng giọt cái dục lạc thế gian để cho chúng ta thọ hưởng cái dục lạc đó. Có
phải là chúng ta thấy cái giới đó, nó không có ly được cái dục lạc, để rồi
chúng ta lại chế ra, cái giới đó nó làm chúng ta không hưởng được cái dục lạc
của thế gian, rồi rộng ra một chút để cho chúng ta nhỏ từng giọt hưởng, hưởng
cho thôi thà hưởng hưởng cho sạch, còn không hưởng thì thôi, hưởng chi từng
giọt, từng giọt để cho nó thèm khát thêm. Chế giới luật cái kiểu đó làm nhấp
nhem, nhấp nhem cho mấy ông tu sĩ càng thèm, càng khát thêm nữa chứ làm cái gì.
Cho nên Thầy đọc giới luật Thầy phát bực với những cái người mà
viết giới mà không thấy được cái pháp của Phật, làm những cái điều sai trái,
làm cho con đường của Phật lệch lạc đi. Nghĩa là cái dục lạc của thế gian nó
đem chúng ta đến cái khổ, thế mà còn nhấp nhem cho nó, cứ no không cho nó ăn
no, mà cứ cho ăn đói, cứ lát nắm nắm cỏ cho đút vô miệng voi, ở trong cái miệng
voi, con voi nó đói gần chết nó thấy nắm cỏ là nó phát thèm, lúc bấy giờ cứ nhử
nhử như vậy, chế giới rộng rãi mà nhử nhử như vậy có phải chết nó không, con
voi lúc đó bây giờ nó chết đói, nó bằng cách mà kiểu đó. Cho nên ở đây chúng ta
phải hiểu được cái tâm lý con người. Dứt thì dứt mà không dứt thì thôi chứ đừng
có nhấp nhem, nhấp nhem nữa. Cái thứ đó là cái thứ nó khổ sở cho người khác
nữa, cho nên hầu hết là cái người phạm giới là vì bị nhấp nhem những cái đó mà
bị phạm giới, rồi lén làm tầm bậy, cho nên có người thì tới bảy tám mươi tuổi
rồi mà tu hành bảy tám mươi tuổi rồi, thọ đến cái tuổi đạo là bốn năm chục tuổi
đạo thế mà còn cõng một bà vợ thì thử hỏi coi có phải bị nhấp nhem không.
Đó là những cái sai của giới luật để làm cho người ta không có giữ
trọn được cái Phạm Hạnh của người ta. Cho nên Thầy không có cái dịp rảnh rang
mà soạn lại cái giới bổn để làm cho nó đúng cái con đường, để khép cái mình của
tu sĩ vào cái khuôn khổ để đi đến cái sự giải thoát hoàn toàn, ly dục – ly ác
pháp. Còn đằng này đọc giới luật gì Thầy thấy thiệt là bày đặt đủ cách, đủ
kiểu. Có một ông Tỳ kheo mà xách tới xách lui có một ông đó à. Không lẽ ông
phạm một lần, ông hoảng hồn hoảng vía rồi bây giờ cũng còn phạm hoài à? Thầy
thấy cái đó là cái đặc biệt, cái đó là đặt ra cái điều kiện đó, nói ông đó như
vậy. Nếu mà một lần phạm thì đã tống cổ ông ấy ra Tu viện còn đâu phạm nữa. Lột
chiếc áo ông ra ông thành cư sĩ còn đâu phạm nữa. Mà để ông đó cứ chế giới, chế
đi chế lại hoài à. Rồi phạm giới này cho đến phạm giới khác, cũng có một ông,
cũng có mấy ông thôi chứ không có nhiều. Thì mấy ông mà phạm giới vậy, tống nó
ra hết rồi còn đâu nữa mà phạm, còn đâu nữa mà chế. Đó là những cái sai của
giới bổn.
Bây giờ chúng ta học.
Giới thứ nhất - giới cố nói dối. Vì sao
Phật kiết giới này? Xưa khi Phật ở nước Thích - Xí-Xậu – Ca – Di – La - Vệ
trong vườn Ni-Câu-Loại. Có Tỳ Kheo dòng họ Thích tên là Tượng Lực có tài nghề
đàm luận. Mỗi khi cùng với ngoại đạo, phạm chí, nghị luận, nếu bị đuối lý liền
nói nghịch lại, phản lại với lời nói trước của mình. Trong chúng Tăng, khi hỏi
đến cũng nói ngược lại như vậy, trong chúng biết mà vẫn nói không thật, Phạm
Chí chê hiềm, Phật nhân đó mà kiết giới. Thật sự ra Thầy thấy cái chuyện này
cũng chỉ là cái chuyện bịa đặt mà thôi. Một cái người mà đã tu hành Phạm Hạnh
thì đâu có cái chuyện mà Đức Phật đã cấm không có tranh luận với người khác,
thế mà ở trong cái Tu viện của mình vậy mà ngoại đạo vô đó để cho một vị Tỳ
Kheo ngồi mà tranh luận với họ. Tranh luận rồi đuối lý. Phật Pháp có cái chỗ
nào đuối lý không? Từ khi mà Thầy xét cái kinh điển của Phật không có một cái
ngoại đạo nào mà có thể đem mà đến mà cật vấn được Phật hết. Cái gì mà nói không
đúng là đức Phật từ chối không nói, cái đó là nói ngoài vấn đề rồi, mà nói
trong cái vấn đề đúng là đem lại cái sự giải thoát cho…
Băng 39 - B
...lại lý luận, lý luận với ngoại đạo đuối lý. Cũng như người ta
hỏi mình từ đâu mà sanh Vô Minh á thì ông này đối đuối lý rồi. Ông không thấy
cái vòng tròn của Thập Nhị Nhân duyên. Cho nên ông không biết đâu ổng trả lời
hết à. Do vì vậy đó mà ông bị đứt đi, vì vậy mà ông đuối lý, rồi ông nói ngược
nói ngạo. Thành ra chế cái giới này nói ông nói dối. Sự thật ra nó đâu có cái
việc Tỳ Kheo mà đệ tử của đức Phậtđâu có đi lý luận với thiên hạ đâu. Người ta
nói không đúng là nói: Cái đó là ngoài vấn đề của tôi rồi, ông nói hỏi đúng
thì tôi trả lời, còn hỏi câu hỏi không đúng thì nhất định tôi không trả lời. Có
đâu mà lý luận với thiên hạ. Có đâu mà tranh cãi với thiên hạ. Còn cái này hầu
hết là theo kiểu tu sĩ của mình, học ba cái Kinh Đại Thừa, học ba cái Thiền
Đông Độ, rống họng với nhau mà tranh luận với nhau cho hơn thua với nhau cho
nên mới có lý luận đó chứ. Vì vậy nó thuộc về loại 62 lập luận của ngoại đạo mà
trong thời đức Phật đã cho chúng ta biết. Cho nên bây giờ hầu hết tu sĩ ngoại
đạo hồi trước cũng hay tranh luận. Rồi bây giờ tu sĩ của chúng ta bây giờ cũng
hay tranh luận như vậy. Muốn hơn, muốn thua. Nhưng mà nhìn giới luật của mấy vị
ê chề không có ra gì hết, thì quý vị có hơn thua ai, cái đời sống của quý vị
chẳng bằng ai hết mà quý vị còn muốn hơn thua người khác thì hơn thua cái gì.
Một đời sống của tu sĩ nó phải ra tu sĩ chứ, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo
mà đi tranh luận hơn người ta. Nói cái gì cũng cao siêu chứ sự thật ra ở dưới
đất cái á, chẳng bằng ai hết. Đó là một cái giới mà chế ra rồi câu chuyện đặt
ra như vậy, làm sao chúng ta tin được cái điều này.
Giới thứ hai, giới nói lời chê bai. Vì sao
Phật kiết giới này? Khi xưa đức Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, Lục Quần Tỳ Kheo đoán tránh
sự dùng chủng loại mắng Tỳ Kheo. Tỳ Kheo xấu hổ quên trước, quên sau không
nói được. Các thầy Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết giới. Kiết giới là
cấm không có cho chê bai người khác. Nhưng ở đây quý thầy thấy có cái đám Lục
Quần Tỳ Kheo nè, có sáu cái vị Tỳ Kheo này à, mà hầu hết Thầy thấy hầu hết
trong giới luật của Phật cứ lôi ba cái ông sáu cái ông Tỳ Kheo này ra là phạm
cái này, phạm cái kia. Theo Thầy nghĩ, đức Phật ngày xưa nếu mà sáu ông này mà
phạm một lần, hai lần mà thấy nó không được là lôi đầu mấy ông đuổi ra chứ đâu
có để cái chuyện ở trong cái Giáo đoàn như vậy, để rồi chế bao nhiêu giới cũng
cái đám Lục Quần Tỳ Kheo này, cũng có mấy cái ông đó nhảy qua nhảy lại à, mà
không đuổi được à? Thì như vậy là các pháp Yết Ma đặt ra làm gì? Cái tập thể
của đức Phật ngày xưa không có người sao? Thập Đại Đệ Tử của đức Phật không còn
ai sao? Đó là những cái bịa ra không có đúng cách. Chế giới ra mà bịa ra không đúng
cách. Ít ra thì cũng có người này phạm, người kia phạm chứ? Sao lại có một đám
đó à? Có một bọn đó, có mấy người đó thôi à? Mà chế được cái giới luật như thế
này. Người ta nói đó là Bồ Tát thị hiện nghịch hạnh để cho chế giới. Còn bày
đặt Bồ Tát nghịch hạnh nữa. Sự thật ra mình tu đúng, mười ba năm đầu đức Phật,
đệ tử không có phạm thì bây giờ còn đặt ra cái đám phạm này để mà chế giới ra
làm gì? Thì bây giờ cho tới khi mà đức Phật mà nhập diệt đi nữa, khỏi cần chế
giới thì ngay trong kinh điển của Phật, cái lời Phật dạy, các Pháp của Phật tu
đó là giới luật chứ còn gì nữa, chứ cần phải chế lại cái giới bổn này sao? Cho nên tất
cả những cái này là những cái sai của người sau, không hiểu được Giáo Pháp của
Phật mới rặng ra cái này, cái kia. Cho nên thậm chí như cái bài đầu
tiên Thầy thuyết giảng: Người ta dám đặt điều là khi mà kiết giới, ông Ưu – Ba
- Ly đọc giới, người ta chỉ đọc để nghe thôi chứ không có ghi chép. Trong giới
bổn nó nói vậy đó. Cho nên bây giờ, cái giới đầu tiên mà cái bộ Kinh giới đầu tiên
mà được ông Ưu Ba Ly đọc thì không có chép lại thành bảng, do đó bây giờ nó
không còn có nữa. Vì vậy mà sau này chia làm hai chục bộ phái, rồi bắt đầu đó
nó có hai chục bộ Luật của các bộ phái này. Thì cho đến sau cùng người ta thấy
giống nhau, người ta bỏ bớt, bỏ bớt giờ còn năm sáu bộ Luật thôi. Cái đó là cái
bày đặt họ chứ, không lý nào ông Ca -Diếp lúc bấy giờ là một Thượng Thủ mà Thầy
đã nhắc lại trong cái lúc trước các con thấy rõ ràng, mà lại thiếu thông minh
như vậy sao. Phật đã chết rồi thì còn ai mà dám đặt giới thêm, giới bớt nữa.
Cho nên chúng ta phải ghi lại những cái gì mà của Phật đã dạy, lý đâu mà có sai
chỗ đó được, chỉ muốn phá giới, đem cái bộ Kinh giới đầu tiên mà kết tập đó,
mấy ông đốt đi, rồi mới tự chế ra chạy theo dục lạc thì có như vậy nó mới đốt
bộ Kinh giới đó. Cho nên, mới nói rằng hồi đó ông Ca - Diếp kết tập không có
ghi chép, cho nên bộ Kinh giới không có. Đó có phải là các vị đó nói láo không?
Đó là nói đại vọng ngữ đó. Ở đây, Phật chế cái giới mà mình không có được chê bai
người thì Thầy thấy cái giới đó đúng chứ không phải sai đâu. Thầy tạm thời cho
nó được.
Cái giới nói lưỡi đôi chiều, thì ở trong cái giới Kinh
thì Phật cũng có dạy cái này rồi, thì bây giờ ở đây thì lấy ra cái này thì cũng
đúng rồi chứ không có sai nữa. Vì sao Phật kiết giới này? Cũng vì khi đức Phật
ở vườn ông Cấp Cô Độc, bấy giờ Lục Quần Tỳ Kheo truyền lời nói riêng của đôi
bên khiến cho trong chúng chưa có đấu tranh sinh ra đấu tranh, đã có đấu tranh
thì không có chấm dứt được sự đấu tranh nữa mà tăng rộng ra cái sự đấu tranh
bằng miệng lưỡi đó nữa. Nhân đó, Phật mới kiết giới này. Không được nói lưỡi
đôi chiều, đem chuyện bên đây nói theo bên đây, bên kia nói theo bên kia để cho
người ta giận hờn người ta đấu tranh nhau. Đó là những cái giới nó cũng ở trong
cái giới Kinh Thầy thấy những cái này đều là có...Phật chế như vậy đều là đúng.
Nhưng mà ở đây, lấy cái câu chuyện của Lục Quần Tỳ Kheo, lấy những cái người
xấu này mà nói như vậy thì Thầy thấy rằng, ngay đó là đuổi mấy ông này hết rồi
còn đâu mà nói chuyện nữa.
Bốn, giới cùng phụ nữ đồng nhà mà ngủ. Vì sao
Phật kiết giới này? Khi xưa Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, ôn giả A-Na-Luật trên
đường đi tại nước Câu – Tác - La, nơi không có trú xứ của Tỳ Kheo, ngủ nhờ nhà
của dâm nữ đầu đêm, cuối đêm dâm nữ đều tha thiết yêu cầu được làm vợ, tôn giả
không trả lời cũng chẳng ngó đến cô ta. Cô ta bèn thoát y, nắm lấy tôn giả. Tôn
giả bỗng hiện người lên trên hư không. Dâm nữ xấu hổ, hướng lên trên hư không
mà ba lần lạy xin sám hối. Tôn giả nói diệu pháp, cô ta đắc nhãn tịnh và cầu
thọ giới Ưu Bà Di. Tôn giả sau khi nhận bữa cơm do cô cúng dường rồi về Tăng
Già Lam kể lại chuyện ấy. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật nhân cái chuyện này mà
kiết giới.
Ở đây thì thuật lại một câu chuyện, thiệt ra, thì Thầy thấy cái
câu chuyện nó không đúng, một bậc Thánh Tăng mà đi vô cái nhà dâm nữ, dâm nữ
tức là cái phải nói lầu xanh hoặc lầu hồng gì đó, nơi mà bán dâm, không phải có
một bà này đâu. Bởi vì bà là dâm nữ, tức là bà phải mở những cái phòng nhà của
bà để mà bán dâm rồi. Thế mà cái ông tu sĩ này lại dám vô trong cái nhà này mà
xin ngủ đêm thì Thầy thấy, thà rằng ngủ rừng, ngủ bụi chứ ai vô cái nhà đó, kỳ
cục vậy. Ở đây, thiệt ra họ đặt những cái chuyện mà Thầy thấy không có, một cái
vị mà tu hành thanh tịnh rồi thì biết cái chỗ nào mình ngủ mà chỗ nào không
mình ngủ. Nhất là cái ông A Na Luật, chứ không phải là một cái vị thường. A Na
Luật là một cái vị có Thiên Nhãn thuần tịnh siêu nhiên chứ không phải là một
cái tay tầm thường - Đệ Nhất Thiên Nhãn đó, mà đức Phật đã từng ca ngợi đó. Thế
mà, ông không có đủ cái trí tuệ để mà đi đến cái nhà dâm nữ mà ở cái nhà dâm
nữ, để rồi bắt đầu cô ta mến thương ông A Na Luật, mà ông phải thể hiện thần
thông trên hư không như vậy. Thì cái điều đó Thầy thấy hoàn toàn là không thể
có được. Cũng giả hạn bây giờ Thầy cũng chỉ là một phàm phu thôi, mà nói cái
chỗ đó là cái chỗ bán dâm là chắc chắn là Thầy không đến đó đâu. Thầy nói bây
giờ quý thầy thôi à, mình mới tu đây thôi à, mà nghe cái chỗ đó cũng chưa chắc
dám đến mà ngủ đó nữa. Người ta là cái chỗ bất tịnh, cái chỗ nhơ uế làm gì một
vị tu sĩ thanh tịnh như ngài A Na Luật mà đến đó, rồi người ta đổ thừa, tại cái
duyên phải độ cái bà đó cho nên ông này phải thị hiện. Cái đó là còn sai nữa.
Nếu mà cái nhân duyên của bà ta đến thì bà ta phải tự đến chứ không phải là tự
mình đến làm cái chuyện đó. Cho nên ở đây, đặt ra những cái này, Thầy thấy nó
nhiều khi nó làm cho cái người mà tu sĩ của Phật Giáo khi mà đến đó mà chúng ta
có độ được đi nữa, thì khi đi ra các cư sĩ nhìn hai bên: Cái nhà của bà đó bán
dâm, mà có ông thầy chùa ổng vô đó đó. Thì thử hỏi các thầy nghĩ sao? Người ta
ở ngoài đời, người ta đâu phải là thánh nhân, người ta thấy cái bước đi cùa
mình vô cái nhà đó, thì người ta đã đặt câu hỏi rồi. Rồi từ đó người ta sẽ nhìn
thấy Phật Giáo ra sao không. Người ta đâu có biết, chính mình làm cái hành
động, mình vô đó bao nhiêu người người ta phỉ báng Phật Pháp. Rồi mình nói,
mình đổ thừa là tại mình độ cái người đó, mình độ cái bà bán dâm đó. Nhưng sự
thật mình độ cái bà bán dâm bằng mình đổ hết bao nhiêu Phật Pháp xuống hết
không? Phải hiểu được cái hành động mình cái nào lợi mà cái nào không. Nếu bà
ta có đủ duyên chắc chắn sớm muộn gì bà ta cũng có được đọc kinh sách hoặc được
nghe cái bài thuyết Pháp nào đó của Phật thì chắc chắn bà ta đến chứ đâu phải
mình đi đến tìm bà ta. Cho nên do vì vậy mà mình đến tìm bà ta bằng cái nhà của
người đó, ai cũng biết cái bà này bà bán dâm hết mà mình dám đến đó mình ngủ
đêm thì tức là người ta đã đánh giá trị ông thầy đó rồi. Dù ông là Thánh đi
nữa, tôi cũng coi ông là thường rồi. Tôi đâu có biết được, ông tốt hay xấu tôi
đâu có biết được. Trong cái nhà bà ta có mình bà ta với ông, ông nói ông tốt
tôi đâu có tin.
Đó cho nên, đó là những cái mà chúng ta thấy rằng, cái lầm lạc của
cái người mà đặt ra cái những cái Kinh giới mà hầu như muốn dìm cái Phạm Hạnh,
dìm Phật Giáo xuống rất sâu. Nếu mình tâm lý mình đặt ra, thử hỏi một ông thầy bước vào
đó, công an nó theo dõi đó, coi ông thầy này làm gì. Thấy không? Mà nếu mà lơ
mơ nó lôi ra nó bỏ tù rồi nó đăng trên báo chí tùm lum ra đó rồi mặc tình mà
biết. Vì vậy cho nên, bởi vậy cho nên bây giờ bao nhiêu thầy mà được công an nó
đăng báo không? Bởi vì nó theo nó thấy ông thầy lủi thủi, lủi thủi tới, vô nhà
đó, nó biết cái nhà đó là cái nhà không tốt rồi. Người không tốt người ta mới
đến đó chứ người mà người lành, người có đạo đức mà bình thường cư sĩ người ta
không đến đó, mà ông thầy chùa đến đó thì thử hỏi như thế nào. Mà đây là rõ
ràng là biết dâm nữ mà đến đó ngủ đêm, đâu phải thiếu nhà cửa, đâu có phải, ông
A Na Luật có thần thông như vậy mà ông sợ ngủ rừng, ngủ bụi sao mà phải đi tìm
nhà vô ở cái nhà đó. Nhất là, cái giới luật như vậy, nó có phản lại giới luật
không?
Chúng ta thấy rõ ràng là có cái bài trong giới luật nó "Gia
vô nam tử, bất khả nhập môn" - nhà không con trai thì không có bao giờ
cái người tu sĩ đến. Thế mà ông A Na Luật là người nam mà đến nhà của một bà nữ
nữa thì thử hỏi có phải là cái giới mà Tỳ Kheo này có phải là sai không,
có đúng không? Cho nên viết tầm bậy, tầm bạ đặt vô không có đúng cách. Vậy mà
cứ đọc kinh giới này, dạy người này dạy người kia, bao đời biết chừng nào mà có
người mà viết lại cái bộ Kinh giới này cho chúng sanh đời sau này để mà
tu tập chưa. Thật sự ra cái nhiệm vụ của Thầy quá nặng nề mà Thầy làm sao Thầy
gánh vác hết. Đọc hết Kinh giới Thầy thấy tan nát hết, không có còn gì nữa hết.
Năm, giới người chưa thọ đại giới cùng ngủ. Vì sao
Phật kiết giới này? Duyên xưa khi Phật ở thành Thắng – Dã, Lục Quần Tỳ Kheo
cùng với trưởng giả ngủ chung tại một nhà giảng. Có một vị trong Lục Quần loạn
ý ngủ mê trở mình lộ hình, Trưởng giả chê hiềm. Đức Phậtnhân đó mà kiết giới.
Nghĩa là có lẽ là ông ngủ mê rồi ông bành da bành thịt, ông lộ những cái thân
thể của ông, nó không có được cái tốt đẹp. Cho nên được người cư sĩ trưởng giả này
chê. Cho nên đức Phật nhân đó mà đặt cái giới. Bởi vì cái thứ nhất là tại sao
chúng ta ngủ riêng một mình, mà đức Phật không cho ngủ chung, là ngủ chung nó
sẽ sinh ra những cái đồng tính luyến ái, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai đó,
ngủ chung nó sinh ra chúng ta không có dạn dĩ, nó luôn luôn nó sợ hãi. Cái ngủ
chung nó sinh ra những cái tình cảm bậy bạ, nó không tốt. Do vì vậy đó mà đức
Phật chế không cho ngủ chung. Và đồng thời ngủ chung, nhiều khi ngủ một mình
mình lỡ nó có hở hang, có gì đó thì cũng không ai thấy. Còn ngủ chung với người
này thì khi mình lỡ mình vô tình xắp xếp y áo của mình á, người ta thấy hoặc là
nước miếng mình chảy ra hay hoặc là gèn cháo hay hoặc là cái gì đó làm bất tịnh
thì người ta thấy không có oai nghi của một người tu sĩ người ta chê. Nhưng ở
đây không phải là chính chỗ đó mà chính chỗ mà hai người mà ở chung, sợ đồng
tính luyến ái, sợ có cái tình cảm qua lại, giữa nam với nữ cũng như nam và nam,
nữ với nữ, nó cũng sinh ra cái tình cảm bậy bạ không tốt. Đó là đức Phật cấm cho
chúng ta không có được ngủ chung là vậy.
Sau đó vì La Hầu La chưa thọ đại giới nên các thầy Tỳ Kheo đuổi ra
ngoài nhà tắm, cầu xí. Đức Phật biết mà vẫn nói các thầy Tỳ Kheo không có lòng
từ nên mới đuổi con nít như thế. Đã là con Phật mà không bảo vệ được, ý như của
Phật từ nay về sau cho phép Tỳ Kheo cùng với người chưa thọ Đại giới ngủ đêm,
đến đêm thứ ba, khi mà mặt trời mọc thì phải đi tránh không có được mà ở lại
đêm thứ tư. Hoặc tự mình hoặc bảo người thọ đại giới đi không được ở lại.
Thì Thầy thấy chế cái giới này Thầy thấy nó không có đúng. Nhiều
khi một vị Tỳ Kheo đó mà ngủ chung với một chú Sa Di nhỏ đó, tự nhiên cái tình
cha con nó thực hiện qua cái tình cảm đó. Nó khó lắm chứ không phải dễ đâu. Nó
thấy rồi từ đó nó thương cái chú đó. Nó không có xa lìa, vì vậy mà cứ quấn quýt
như vậy là làm sao mà ly dục – ly ác pháp được. Cho nên ở đây nhiều khi cái
duyên nó nhỏ mà nó lại trở thành lớn, mà trở thành lớn là nó cản con đường tu
tập không giải thoát được. Cho nên ở đây thật sự ra thì cái thất của La Hầu La,
mặc dù là một Sa Di, vẫn có một cái thất riêng của nó ở, mà Tỳ Kheo không
được đến đó quyền đuổi cái chú Sa Di đó. Còn mình ỷ mình Tỳ Kheo mình đến mình
đuổi người ta thì cái đó là Phật chế cái giới cấm, các vị Tỳ Kheo dù sao đi nữa
mình cũng là con người mà chú Sa Di cũng là một con người mà chú Sa Di là một
cái mầm non tương lai của Phật Giáo, của Giáo Đoàn, của Tăng Già sau này thì
không lý nào một vị Tỳ Kheo lại đuổi một cái chú này. Mình không có nhà thì
mình ngủ rừng, ngủ bụi. Mình lớn rồi, đuổi một chú nhỏ mà đi ra khỏi cái nhà để
cho mình ngủ có phải là phàm phu không? Nó đặt ra như vậy chúng ta thấy ở đây
rõ ràng câu chuyện như vậy rõ ràng câu chuyện như vậy các vị Tỳ Kheo này toàn
là thứ phàm phu, chưa phải là những cái bậc mà tu giải thoát đâu. Những cái bậc
tu giải thoát người ta phải nhìn thấy, người ta phải có trí tuệ chứ. Đặt giới
luật mà không thấy cái chỗ, nêu lên những cái câu chuyện quá là tầm thường, quá
là phàm phu tục tử. Cho nên đối với Thầy, mà những cái sai này, Thầy đập xuống
sạch.
Giới cùng với người chưa thọ Cụ Túc - giới tụng kinh. Vì sao
Phật kiết giới này. Duyên khi Phật cùng ở tại thành Khoáng Dã, Lục Quần Tỳ Kheo
cùng với trưởng giả, cùng đọc lời của Phật - tức là tụng kinh - tại giảng
đường. Như Bà La Môn đọc sách, không khác, làm loạn tâm các vị ngồi thiền ngồi
ở gần một bên. Đức Phật nhân đó mà kiết giới.
Ở đây chúng ta thấy cái sai thứ nhất là rất rõ ràng. Qua cái bài
này, chúng ta thấy ở thời đức Phật, Thầy thấy nó không có kinh điển, nghĩa là
đức Phật dạy tu thôi chứ không có chép, không có ghi không có chép gì hết. Do
đó làm sao mà có những cái bản kinh mà cái Lục Quần Tỳ Kheo này ngồi mới tụng
kinh với các trưởng giả mà làm động người ta tu thiền. Hầu hết là Thầy đọc lại
trong kinh sách của Phật đó. Các vị Thánh Tăng, Thánh Ni thường thường là người
ta sống, người ta đi kinh hành, rồi người ta ngồi thiền người ta đặt niệm trước
mặt người ta phá những cái tham ưu ở đời, ở trong thân tâm của mình. Chứ người
ta đâu có mà tụng niệm. Thế mà ở đây lại đem cái tụng niệm tức là cái người mà
viết giới luật này là phải là trong cái đời của chúng ta. Nghĩa là trong cái
thời của chúng ta, có kinh sách, có sự tụng niệm rồi mới viết ra. Họ lầm tưởng
rằng trong thời đức Phật là luôn luôn có sự tụng niệm. Theo Thầy biết rằng,
trong thời đức Phật không có tụng niệm. Cho nên bốn cái chỗ Niệm, bốn cái chỗ
mà Phật gọi là Niệm, tức là Tứ Niệm Xứ, lấy cái thân mà niệm Phật, thì đâu có
phải là Ứng Cúng Chánh Biến, Tri Minh Hạnh Túc, Thiện Thể Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đâu có đọc được như vậy. Lấy cái thân, làm sao cái thân
mà đọc cái chỗ được, lấy cái miệng mà đọc, lấy cái ý mà đọc thì có thể được.
Nhưng Phật đâu có nói là cái ý niệm Phật, mà cái miệng niệm Phật đâu. Mà Phật nói
Thân, Thọ, Tâm Pháp niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Như vậy là chúng ta mới
thấy tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta mới thấy rõ rằng Phật dạy chúng ta không
có miệng niệm, không phải là ý niệm, mà là Thân niệm, mà là Tâm niệm, mà là
Pháp niệm, mà là Thọ niệm. Đó là bốn cái chỗ để mà chúng ta niệm Phật Pháp
Tăng. Như vậy, mới đúng cái đường lối của Đạo Phật chứ. Còn đằng này chúng ta
dạy tầm bậy, mà giờ tụng kinh là bằng miệng thì cái đó còn sai nữa. Mà kinh
không có lấy gì tụng? Không phải là đặt giới tầm bậy sao? Đặt giới trong cái
thời của chúng ta rồi. Ở đây bây giờ có Kinh rồi, bây giờ đặt như vậy là đúng,
chứ còn thời đức Phật đâu có cái chuyện đó, cho nên đến cuối cùng ông Ca Diếp
mới kết tập Kinh mới có Kinh, lấy cái Kinh gì đọc đây, không lẽ lấy kinh Vệ-Đà
mà đọc tụng sao? Nên chúng ta phải hiểu được cái chỗ sai, sai ở trong cái dòng
lịch sử mà chúng ta đã biết được cái điều này là do chúng ta đọc lại những Kinh
Nguyên Thủy mà chúng ta đã thấy rất rõ.
Giới,
đến người chưa thọ Cụ Túc nói tội thô. Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức
Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật. Có Tỳ Kheo Hàng – Ma - Na - Đõa ngồi nơi hàng dưới.
Lục Quần nói với Bạch Y, tức là nói với các cư sĩ, là các vị ấy phạm tội thô
ác. Tỳ Kheo kia và các vị khác nghe đều xấu hổ. Đức Phật quở Lục Quần Tỳ Kheo
rồi kiết giới này. Khi ấy có Tỳ Kheo không biết mắc tội thô ác, sau mới biết
tác pháp xám Ba Dật Đề. Phật dạy, không biết thì không phạm. Tôn Giả Xá Lợi
Phất được trong Tăng sai đến, Vua và nhân dân nói tội của Đề Bà Đạt Đa nghe
Phật kiết giới này như thế, tâm sinh sợ sệt. Phật dạy, Tăng sai thì không phạm.
Do đó ngài kiết giới lại thêm câu - trừ Tăng Yết Ma cho nói tội thô ác là
Ba-La-Di và Tăng Tàn. Nghĩa là cái người mà được Phật sai, hay Tăng sai mà đến
kiết cái tội lỗi của người ta, thì cái người đó mới chỉ cái người đó tội lỗi.
Còn cái người mà
không được Phật nói, thì không có được chỉ lỗi.
Đây cũng là một cái điều kiện của giới luật đặt ra để mà bịt miệng
thiên hạ đây. Thầy thấy vần đề này là vấn đề của người sau hay đặt ra. Bây giờ
một cái người đó, bởi vì Lục Quần Tỳ Kheo mà nói cái vị Tỳ Kheo Ma - Na này là
phạm cái tội này, phạm tội kia là nói xấu người khác. Là tại sao vậy? Tại vì có
sự hiềm khích hoặc là có sự ganh tị qua cái phạm hạnh của người ta mới nói như
vậy. Cho nên khi Phật mà xét thì cái vị đó không có tội, còn nếu mà cái vị đó
có tội thì người ta nói để cho cái người đó sửa chứ không phải đem nói cho cái
bạch y người ta biết để người ta cười cái vị đó.
Chẳng hạn bây giờ trong Chúng của chúng ta có một cái người mà có
phạm một cái lỗi là tại vì sống độc cư không được, nói chuyện mà bây giờ quý vị
đem ra nói cho các vị cư sĩ ở ngoài biết rằng cái thầy đó đó ở trong Tu viện
không có giữ gìn cái giới luật nghiêm chỉnh được như vậy thì cái đó là cái xấu
của quý thầy. Còn trái lại quý thầy nói Thầy phạm cái giới đó, thầy hay nói
chuyện như vậy thì thầy phương trượng sẽ buồn lắm. Thầy sẽ không có dạy quý
thầy tu đâu. Cho nên quý thầy hãy cố gắng mà giữ đó là cái lời của mình nói cái
lỗi của người đó để cho người đó sửa thì cái đó là tốt. Còn mình đem mình
nói cho người khác cười chê cái vị đó, mà vị đó người ta không có làm cái điều
đó, người ta không có lỗi điều đó thì cái đó là cái sai của mình, là cái không
tốt. Vậy mà cái bọn Lục Quần Tỳ Kheo này luôn luôn có hiện tiền ở trong các bài
Kinh giới hết. Cho nên cứ lấy mấy cái ông này ra mà không có đuổi tống cổ. Đã
một cái lời nói xấu người ta như vậy rồi, Phật đã biết rồi thì sao lại
không tống cổ sáu cái vị Tỳ Kheo này ra
khỏi cái Giáo đoàn. Cứ để cho mà chế giới, chế giới làm cái gì? Có cái gì đâu
mà chế giới. Đó thì như vậy chúng ta thấy rằng cái giới thứ bảy này mà đem cái
câu chuyện này ra Thầy thấy là bịa đặt ra mà thôi chứ không phải đúng đâu.
Nhưng mà cái đúng là người ta nói xấu mình để cho mình sửa cái đó là cái tốt để
cho mình sửa chứ không phải bịt miệng người ta bằng cách này. Đợi Tăng sai,
hoặc là đợi Phật sai đi thì mới nói tội người ta còn không có thì không được
nói tội người ta. Thì cái đó là bít miệng, để cho người ta phạm tội hoài.
Tám, giới đến người chưa thọ đại giới nói Pháp tự chứng. Vì sao
Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở bên sông Nhi - Hầu tập hợp các Tỳ Kheo trong
vườn Bà - Câu lại để quở trách rồi kiết giới này trường hợp nào mà điều bốn của
Ba – La - Di là phạm tội khí, thì ở đây phạm tội đọa, trường hợp nào mà điều
bốn Ba – La - Di, Thôi – Lăng - Giá hoặc là Độc -Tác La thì ở đây phạm tội
Độc-Tác-La. Vì đây là hành vi thuộc ngữ nghiệp, nên cần hội đủ năm yếu tố như
điều một Ba – La - Di Đề và điều bốn Ba – La - Di mới thành tội. Có năm điều:
- Người nói Tỳ Kheo chưa mất bản thể.
- Người khởi tâm vọng cố nói xấu người.
- Ba, nói rõ ràng, và thân khẩu hiện tướng nói dối rõ ràng.
- Bốn, người nghe lãnh hội.
- Năm, người đối tượng chứ không phải có một mình.
Nghĩa là mình nói xấu cái người đó có người chứng, có người hẳn
hoi, đàng hoàng thì mình không có tội. Còn nếu mà không có cái người chứng,
mình nói xấu mà không có ai thấy cái người đó xấu thật đó thì mình sẽ đắc tội
mà thuộc cái tội Ba – La - Di chứ không phải là tội sám hối, tội mà Tăng Tàn.
Đó là cái chỗ này nói thêm để chúng ta biết rằng cái giới mà nói xấu người thì
cái giới đó nó có phạm tội vào cái tội vọng ngữ.
Chín, giới cùng phụ nữ nói Pháp quá lời. Vì sao
Phật kiết giới này? Khi Phật ở vườn Cấp – Cô - Độc, Ca – Lu – Đà - Di - cũng
ông Ca – Lu – Đà - Di này nữa, có mấy ông à. Chắc có lẽ là cái đám Lục Quần Tỳ
Kheo này chứ không ai mà vô đây hết, tên qua tên lại thì cũng có mấy ông này à
– đến nhà trưởng lão khất thực cùng với đàn bà nói Pháp giọng nhỏ, giọng to. Bà
mẹ chồng thấy vậy chê hiềm. Vì vợ của người ta, dâu của người ta mà mình lại
mình nói chuyện, ông thầy gì mà nói chuyện nhỏ nhỏ với dâu người ta. Thì bà mẹ
chồng bà thấy bà coi rẻ cái ông thầy quá. Cho nên, đến trình cho Phật hay, và
Phật nhân đó mà kiết giới này. Sau có người nữ mời thuyết Pháp, các Tỳ Kheo đều
cẩn thận sợ phạm giới cho nên không dám thuyết Pháp. Bắt đầu từ cái ông này
phạm cái lỗi, các thầy nghe cho rõ này: Cái ông này ông nói to, nói nhỏ với bà
ta không biết tình tứ gì đó chứ đâu phải thuyết Pháp, thế rồi cái bà mẹ chồng
thấy vậy đó mới chê ông thầy, mới đến nói với Phật. Phật mới cấm từ đây về sau
các thầy không có được thuyết Pháp. Về hỏi ông thầy này, ông Ca – Lu – Đà - Di
ông nói ông thuyết Pháp cho cái bà đó nghe chứ ông đâu có nói chuyện, nói nhỏ
hoặc là nói tình, nói tứ với bà ta đâu, tại bà mẹ chồng này nghe không được cho
nên bà đến bà báo cáo với Phật đó. Chứ còn con thì con đâu có nói nhỏ nói tình
tứ với bà ta, chỉ dạy cho bà ta pháp để bà ta tu thôi. Cái ông tu sĩ này ông về
nói với Phật vậy. Cho nên Phật mới cấm thôi từ đây về sau thì các thầy đừng có
nói chuyện với đàn bà nữa. Không có được thuyết Pháp cho mấy bà đó nghe. Do đó
sau này, có một cái người cư sĩ nữ họ mời các thầy thuyết Pháp, nghĩa là đến
thuyết Pháp có chỗ ngồi hoàn toàn thuyết Pháp. Nhưng các thầy Tỳ Kheo sợ Phật
chế cái giới này cấm không cho được mình thuyết Pháp. Do đó các thầy không có
thuyết Pháp được, vì vậy mà có nhiều người về trình với Phật. Và chính cái bà
mà nữ cư sĩ đó họ đến họ trình với Phật, con mời quý thầy đến thuyết Pháp
cho gia đình con nghe, cho mọi người nghe để người ta theo Phật người ta tu tại
sao mà Thế Tôn lại cấm không có cho các Tỳ Kheo theo thuyết Pháp. Cho nên đức
Phật nghe nói vậy mới cho phép người ta nói năm lời, sáu lời thôi. Thuyết Pháp
mà có năm lời sáu lời thì thuyết Pháp cái thứ gì? Phật mà nó dám đặt trong này
nó nói như vậy đó! Và kiết giới này thêm quá năm sáu lời thì cũng được, mà các
thầy lại có tâm cẩn thận, sợ do không có nam tử nên không dám nói Pháp cùng nữ
nhân. Đức Phật dạy trừ có tri nam tử cho phép nói quá năm sáu lời, lại kiết
giới này thêm. Trừ hữu tri nam tử, khi ấy có các nữ nhân thỉnh thọ Năm giới,
Tám giới hoặc là tán thán Đạo nói Mười Thiện Pháp, cầu giải thoát giải thích
nghĩa. Vì không có tri nam tử, các thầy Tỳ Kheo cũng sợ cẩn thận không có dám
nói nữa. Phật dạy “Không có tri nam tử, đều không vì người nữ mà trao giới cho
đến giải nghĩa vân..vân.. Nhân đó Phật kiết giới này.”
Đó thì quý thầy thấy, cái vấn đề mà ông Phật làm như là, Thầy nói
thật sự ông Phật mà chế giới này Thầy thấy qua cái giới thầy thấy ông Phật quá
là đần độn. Chế cái giới mà cứ chế mò, chế mò chế mò làm như cái người không biết vậy. Chế thì phải chế như thế
nào, đâu nó sát thực đó. Chế mà cứ lần lần, lần lần. Thầy thấy khi mà một cái
sự kiện mà xảy ra thì chúng ta biết rằng cái chỗ mà cái ông Thầy này họ như thế
nào mà bị hiềm chê đó chứ không phải là thuyết Pháp. Bởi vì thuyết Pháp đâu có
phải có một cái bà đó mà ngồi nghe. Bà mời mình đi thuyết Pháp tức là bà phải
đâu có ngồi chỗ kín, chỗ đáo mà phải lên Pháp Tọa đàng hoàng thì trong gia đình
của bà đâu có phải là của riêng bà mà phải của bà mẹ chồng nữa chứ đâu phải
riêng. Mình là người tu sĩ giới Hạnh đàng hoàng, ý tứ đàng hoàng tức là mình tu
được Chánh Niệm Tỉnh Thức rồi, luôn luôn lúc nào mình cũng phải có ý tứ hết.
Mình nhận người ta thuyết Pháp, thì sau khi mà ngồi nói cái gì đó thì đâu phải
ngồi chỗ lén, chỗ lút mà phải hoàn toàn chứ, không lẽ giờ rước Thầy đến thuyết
Pháp mà giờ đem vô trong buồng rồi bà phụ nữ đó ngồi bên Thầy, Thầy nói pháp
cho bà ta nghe riêng như vậy sao? Đó có lẽ là truyền Tâm ấn đó chứ đâu có phải
là nói Pháp. Thầy nói thật sự đó, cái đó là mấy cái ông truyền Tâm ấn đó. Họ
truyền bà ta đó, mai mốt truyền cho bà một bụng đó, chứ đừng có nói truyền
truyền. Cái thứ đó là cái thứ phá giới. Cho nên ở đây người ta rước mình đến
thuyết Pháp, thì tức là đường đường mình ngồi trên giảng đường chứ đâu phải,
giờ nhà người ta cũng phải có cái phòng khách đàng hoàng, gia đình người ta
phải tập hợp nam nữ, chứ đâu phải mình thuyết Pháp cho một người nghe. Cái
chuyện làm tầm bậy. Bởi vậy cho nên ở đây đặt giới, đặt những cái điều kiện mà
ông Phật Thầy nói sao mà ông không có trí tuệ chỗ nào, coi như ông Phật là cái
người ngu si à? Bởi vì ông Phật ổng chế giới ra bây giờ đó mình đặt cái giới
này ra mình thuyết Pháp cho phụ nữ thì khi được mời đến cái Pháp Tọa như thế
nào, hẳn hoi đàng hoàng thì quý thầy chấp nhận còn nếu không thì nhất định là
không thuyết Pháp. Người ta dụ mình, mời mình thuyết Pháp mà đến cái phòng ngủ
của người ta bảo mình nói Pháp chắc chắn là cái điều kiện đó mưu đồ rồi, mưu đồ
của bà này như thế nào đối với mình rồi. Thì như vậy ngay đó mình ôm bát mình
đi ra chứ ai ở đó, ngồi đó. Thì tức là cái người tu sĩ chúng ta ý tứ đó, vô cái
phòng mà thấy người ta dọn sẵn cho mình cái Pháp Đàn để cho mình thuyết Pháp
thì mình còn ở, mà vô đó mà dẫn mình đi qua
cái hành lang ngõ ngách mà vô cái buồng của bà
ta kể như là mình rút lui rồi. Thôi thôi bà đừng có dẫn tôi kiểu này, bà chôn
hết Phật Pháp của chúng tôi xuống hết. Mình nói ngay thẳng mặt chứ mình vị tình
gì, bộ bà ta không cho cơm thì người khác cho cơm chứ đâu phải có mình bà ta
mình mới no bụng sao. Bởi vì ham y áo cho đẹp, cho nên mới theo mấy phụ nữ đó
mà làm cái chuyện tầm bậy.
Đó thì đọc giới như vậy Thầy xả hết á. Cho nên Thầy dạy giới không
phải là dạy giới theo kiểu là mấy ông Giới sư mà giảng sao cũng theo khuôn khổ
đó hết. Nghe sao cũng hay vậy hết chứ không có dám nói ra cái sai cái đúng. Cái
này là cái sai mà, đem ông Phật trí tuệ như vậy, ba Đại Thần Lực như vậy mà kiết
giới như vậy thì thử hỏi ông Phật là cái gì? Có phải đem là Phật trở thành một cái, cho nên Đại Thừa nó nói phải là Ông Phật Tiểu Thừa là
phải, đúng đó. Các bậc A La Hán là Tiểu Thừa đó phải, cho nên tiêu nha bại
chủng. Cái kiểu mà chế giới này chẳng phải là tiêu nha bại chủng sao? Chế giới
riết rồi bao nhiêu tu sĩ phạm giới hết, không phải là tiêu nha bại chủng sao?
Mười, giới đào đất. Vì sao Phật kiết giới này? Khi
Phật ở tại thành Khoáng - Dã. Lục Quần Tỳ Kheo tu bổ nhà Giảng của Phật, tự tay
đào đất xung quanh. Trưởng giả chê hiềm nói, Thích Tử mà còn đoạn mạng căn của
mình, còn đoạn mạng căn của chúng sanh - tức là đào đất tức là làm giết hại
chúng sanh chứ gì? Đức Phật nhân đó mà kiết giới. Các vị ấy lại sai người nói
đào chỗ này chỗ kia, cư sĩ cũng chê hiềm. Đức Phật lại kiết giới này lại nữa.
Đó như vậy Thầy thấy đức Phật cấm là chúng ta chỉ lấy một cái nghề là chúng ta
đi xin ăn. Nhà rách thì chúng ta xin người khác cất chứ chúng ta không có làm.
Đó là cái giới luật của Phật như vậy đó. Bởi vì chúng ta làm, là chúng ta làm
theo ý muốn của mình cho nên nó không có đúng là cái người tu giải thoát. Cho
nên ở chỗ này mà đào đất, thì ở trong cái giới mà Thầy giới thiệu đầu vô giới
bổn á thì các Thầy thấy. Cái giới mà Sa Di, nó đào đất được mà cái giới của Tỳ
Kheo thì không đào đất được. Mấy ông này là ông lớn, là mấy ông cha không có
đào đất, để mấy ông con đào đất. Cho nên bắt mấy chú Sa Di đào đất. Chứ sự thật
ra mấy chú Sa Di vẫn không đào đất. Giới luật của Phật cấm, nghĩa là đi ăn xin
thôi chứ không đào đất. Còn mấy ông đặt giới ra bắt mấy chú Sa Di này lao tác
thấy mồ. Làm chùa cũng bắt mấy ông Sa Di này đẩy xe đất, đẩy, chùa nào đến cũng
bắt xây cất, xây cất đẩy mấy ông gần chết luôn.
Thầy nói thật sự hồi ông thân Thầy cũng đi tu, mà riết rồi, vô chùa
riết rồi bắt đầu về cưới vợ thôi. Tới chùa nào cũng bắt đẩy đất đắp nền, xây
nhà, xây chùa. Trời ơi! Thôi thôi chết, ông già ông chết! Sau Thầy đi tu, ông
nói không có được con ơi, thôi đừng đừng đừng! Đừng có tu! Thôi bây giờ ở chùa
nhà, Thầy dạy sao thì con tu vậy thôi, chứ đừng có đi mấy cái chùa, đi đâu họ cũng bắt mình xây cất hết, lấy cái sức của mình ra làm riết, điêu đứng
hết, không có học hành cái thứ gì được đâu. Không có tu hành cái thứ gì được
đâu. Tới đâu nó cũng xây cất hết à. Nó làm cái này ít bữa rồi nó làm cái khác.
Nó chưa có đẹp mắt, nó làm hoài. Mấy ông Hòa Thượng kỳ cục lắm. Chính ông thân
Thầy hồi đó nói. Cho nên không bao giờ muốn cho Thầy đi tu hết. Vì vậy mà Thầy
đã từng qua nhiều cái kinh nghiệm của ông thân của Thầy để lại, nhắc Thầy tới
lui dữ lắm chứ không phải không. Nhưng mà Thầy cái duyên tu hành cho nên từ đó
Thầy đến Hòa Thượng, Thầy thấy giới luật không nghiêm chỉnh là Thầy bỏ đi. Ba
tháng là Thầy đi. Thầy nói đi đi, người nào giữ được nghiêm chỉnh là ở ..., làm
được nền các cái thất trời ơi gian khổ. Bởi vì núi nó dốc dốc là là vậy này, mà
muốn làm cho nó bằng được cái mặt mà cất cái thất đâu phải chuyện dễ, cực lắm.
Đó, Thầy nói, mà đúng vậy, Thầy đến cái chùa nào cũng cứ là xây
cất không. Cứ ít bữa là Thầy thấy đổ ra cái này cất, đổ ra cái kia cất. Mà tiền
của Phật tử đâu mà cứ đổ ra cho họ cất Thầy không biết nữa. Báo cho mấy ông
Tăng cực gần chết. Ít bữa xây hồ nước, ít bữa thì xây cái này, ít bữa xây cái
kia, tùm lum hết. Họ ở riết rồi Thầy thấy như cái Dinh Độc Lập nữa. Đó là cái
vấn đề mà
cái giới đào đất. Thật sự ra đức Phật không có dạy
chúng ta đào đất. Đi mà còn không đạp lên cỏ mà chết nữa, làm sao mà đào đất
được.
Giới mười một - giới phá
hoại chỗ của quỷ thần. Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật cũng ở
tại thành Khoáng - Dã. Có Tỳ Kheo tu bổ phòng xá, cố ý tự mình chặt cây. Đức
Phật vì đó mà kiết giới này. Nếu có đại sự, chẳng phải cố ý phá hoại thì không
phạm. Nghĩa là mình chặt cây mà không phạm. Thật sự ra cái cây cũng không nên
chặt nữa. Nói chung là giới của Phật là không có làm cái gì, động cái gì hết.
Nghĩa là chuyên môn ăn no rồi tu tập thôi chứ không có gì. Đi xin người ta cho
dở ăn dở, cho ngon ăn ngon, về đó cứ tu tập mà đi Kinh hành rồi tập Chánh Niệm
Tỉnh Thức, tập Định Vô Lậu, Định Hiện Tại An Lạc Trú, Định Sáng Suốt. Luôn liên
tục dùng hơi thở, định niệm hơi thở ra, hơi thở vô. Hoàn toàn là chúng ta nỗ
lực tu hành chứ không có một
thời giờ nào mà rảnh rang đi đào đất nữa.
Cho nên Thầy thấy quý thầy mà vác cuốc đi đào đất, Thầy biết quý
thầy rảnh lắm. Còn thích, quý thầy làm cái này làm cái kia Thầy biết là quý
thầy còn rảnh lắm. Chứ còn người ta có thời giờ đâu mà rảnh. Thầy cho bao nhiêu
pháp rồi, đặt ra một ngày một đêm là luôn liên tục. Đâu phải thí dụ như quý
thầy tu có cái hơi thở không thì quý thầy sẽ bị nhức đầu, quý thầy sẽ khó khăn.
Nhưng mà quý thầy tu hơi thở chỉ một ngày một đêm có một lần, rồi tu những Định
khác, chia nó ra từng phần, từng phần các thầy tu. Các thầy thấy thoải mái, dễ
chịu giải thoát ngay liền trong cái thời gian tu. Không có khổ sở không có gì
hết. Mà tuần tự cái tâm của quý thầy nó ly dục – ly ác pháp ra thấy một cách
rất rõ ràng. Cơ thể không có bịnh đau không có gì hết, không có buồn bã, không
có gì. Hằng ngày, mình có cái Pháp cho nên mình sống cô đơn, sống trầm lặng rất
là thích thú. Còn trái lại, quý thầy cứ ngồi không đó, mà quý thầy buồn bã rồi
quý thầy sanh ra chuyện làm cái này, làm cái kia rồi đi trồng rau, trồng cải đủ
thứ đó. Kiểu đó là cái kiểu nó đi lạc đường rồi đó. Thầy thấy quý thầy mà làm
cái sai là Thầy biết nó đi lạc đường, biết là quý thầy tu có đúng hay sai là
biết là cái chỗ thấy cái việc của quý thầy mà biết.
Giới mười hai, giới nói lời khác làm não người. Vì sao
Phật kiết giới này? Bấy giờ Phật ở nước Câu Diệm Di, Triển - Đà phạm tội, các
thầy Tỳ Kheo hỏi: Thầy có tự biết phạm tội hay không? Triển - Đà nói quanh: “Thầy
nói với ai? Nói việc gì? Luận bàn vấn đề gì? Vì tôi nói hay là vì ai mà nói? Ai
phạm tội? Tôi do đâu mà sanh? Tôi không thấy có tội”. Nói theo kiểu mà Tổ
Sư Thiền đó. Cái giọng của ông thầy này là nói theo kiểu Tổ Sư Thiền đó, nghĩa
là ông nói kê ra một cái loạt này, đặt thành một câu hỏi thì ông thấy như là
một ông Phật, Tánh của ông hoàn toàn ông không có làm cái gì có tội hết. Đó là
cái lối mà cái giọng điệu của các Tổ Sư. “Tội do đâu mà sanh? Tôi không thấy có
tội”. Bởi vì cái câu mà trong cái Thiền Tông đó: “Tánh tội vốn không do Tâm
tạo. Tâm đã diệt rồi tội sạch không”. Tâm ông diệt hết rồi cho nên giờ tôi
đâu thấy có tội gì đâu. Mấy ông nói tội, tội gì đâu, mấy ông nói đi. Làm cho
mấy ông thầy kia đâu có nói được. Các thầy Tỳ Kheo mới bạch Phật. Phật bảo Tăng
vì các dư ngữ, bạch Yết Ma đại đức xin lắng nghe. Triển Đà Tỳ Kheo này phạm
tội. Các Thầy Tỳ Kheo hỏi, tôi không thấy tội, nếu thời gian thích hợp đối với
Tăng, Tăng chấp thuận sẽ gọi Tỳ Kheo Triển Đà là người tác dư ngữ, nghĩa là nói
lý luận đó che đậy cái tội lỗi của mình đó. Đây là cái lời tác bạch. Bạch rồi
kiết giới: Nếu Tỳ Kheo nói quanh phạm tội Ba - Dật - Đề, Tăng đã chế cấm không
được nói quanh, nghĩa là cái lối mà lý luận quanh,
kêu là đức Phật nói cái ba mươi hai cái lập luận của ngoại đạo đó, nó có một
cái giới ngoại đạo mà nói trườn uốn như con lươn đó, thì cái lối này là cái lối
mà của Thiền Tông á, nói nó kê, nó tội, nó
phạm giới cái bắt đầu nó trườn qua trườn lại, nó uốn qua uốn lại tránh né cái
tội nó bằng cách này, bằng cách khác đó. Đó là cái lập luận của 62 lập luận của
ngoại đạo trong cái thời đó. Thì ở đây chúng ta thấy cái vị Tỳ Kheo này cũng là
cái kiểu đó. Mà tất cả mà chúng ta tiếp xúc các vị mà tu Thiền Đông Độ á, hầu
như cái lối mà luận của họ theo cái miệng Tổ của họ dạy đó, thì cách thức của
họ cũng trườn uốn như vậy. Họ phạm tội rõ ràng chứ, ăn phi thời đó, họ có thấy
tội gì đâu. Họ ăn họ coi như họ không có ăn vậy. Đó là cái lối lý luận trườn
uốn con lươn của họ.
Cho nên ở đây Thầy đứng ở trong góc độ của Phật Thầy đập mấy cái
ông này hết. Mấy ông phạm tội là phạm tội, mấy ông chạy theo dục lạc, mấy ông
nói không có tội. Mấy ông còn đắm nhiễm cái ăn, cái uống của mấy ông, mấy ông
có một ngày được như chúng tôi không? Mấy ông đâu có làm được. Còn mấy ông nói
hay, mấy ông có ngồi Thiền được như chúng tôi không? Mấy ông có nhập Định được
như chúng tôi không? Những cái điều mấy ông nói là những cái điều mấy ông lách
qua lách lại mà tránh né chứ không phải là cái điều mà mấy ông làm được. Sau
Xiển Đề lại xúc não chúng Tăng, kêu đến không đến, không kêu lại đến, nên đứng
dậy lại không đứng dậy, không nên đứng dậy lại đứng dậy, nên nói không nói,
không nên nói lại nói. Đức Phật bảo chúng Tăng, tác Pháp xúc não, bạch Yết Ma,
Đại Đức Tăng xin lắng nghe. Tỳ Kheo Triển Đà này xúc não chúng Tăng, kêu đến
không đến, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, chấp chế Tỳ
Kheo Triển Đà tác xúc não. Đây là lời tác bạch hiệp hai, việc kết thành văn giới
này.
Đó là những cái người mà hay lý luận
trườn uốn như vậy đó. Thì những cái người này thì chúng ta mời họ ra khỏi cái
Tu Viện cho rồi chứ không có để cho họ làm cái chuyện mà như vậy được. Theo
Thầy thì cái giới đó là phải mời thôi, coi như là nó thuộc về Ba-La-Di đi cho
rồi chứ còn không có tính cái gì nữa hết, đứt đầu cho mấy ông này luôn luôn đi,
cho nó khỏi cái Tăng Đoàn của chúng ta. Để cho những người này họ muốn ra đời,
họ muốn nói hay, nói dở gì với người ta, tranh luận với thiên hạ chứ còn ở đây
chúng ta mệt với mấy ông này lắm.
Giới hiềm mắng người. Vì sao Phật chế giới này. Xưa
Kia Phật ở tại núi Kỳ Xà Phật, bấy giờ, Ba – Ma – La -Tử vì chúng Tăng chia tọa
cụ mời Tăng theo thứ tự đi thọ thỉnh, Từ Địa liền ở chỗ mắt thấy tai không nghe
chê hiềm Đạp Bà Tử có ái, có sân, có sợ, có si. Các Tỳ Kheo bạch Phật kiết
giới. Sau ở chỗ tai nghe mắt thấy có ái, Phật hiệp lại hai việc kết thành giới
này. Nghĩa là cái ghét người khác rồi tìm cách mắng chửi người ta bằng cách
này, bằng cách khác thì đức Phật kết tội cái người này trong cái tội để mà họ
phải sám hối. Hoặc là cái tội đọa Địa Ngục và khi họ mắng người khác thì đương
nhiên là Phật kết cái tội họ là phải đọa Địa Ngục. Và đọa Địa Ngục như vậy đó
không có nghĩa là những người đó mà còn ở trong Tăng Đoàn. Cho nên cái tội này
theo Thầy thiết nghĩ cũng khép vào cái tội mà đứt đầu của họ.
Đuổi ra khỏi Tu Viện tận sức ra cho rồi. Không có để mà vị tu sĩ mà hay nói xấu người ta, hiềm hận trong lòng cái rồi
đặt điều nói xấu người ta. Do cái sự mà xích mích nào nhỏ thôi rồi để trong
lòng đó rồi sau đó kiếm cách, kiếm cớ nói xấu người khác.
Hầu như ở đây Thầy cũng biết được những cái điều đó rất lớn, khi
mà có chuyện gì mà không có thuận nhau rồi bắt đầu đó, thì thầy này đem cái
chuyện không có, đặt điều nói xấu ông thầy khác. Thậm chí như còn đặt điều nói
xấu thầy của mình là người dạy mình, là người thầy của mình đã đứng ra để mà
xuất gia cho mình nữa. Mà mình còn dám nói xấu. Thì những người mà học trò như
vậy, những người mà tu sĩ như vậy thì còn để họ ở trong cái Tu Viện chúng ta
làm gì nữa. Những người mà chỉ hiềm hận trong lòng của mình rồi đặt điều nói
xấu thì cái giới luật đó chế ra như vậy là đuổi họ đi chứ không có nói mà còn
đọa Địa Ngục, còn nói cho họ sợ làm gì. Mấy cái người đó họ đọa bao nhiêu Địa
Ngục họ có sợ đâu.
Giới trải tọa cụ của Tăng không tự cất. Vì sao
Phật kiết giới này. Khi đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc bấy giờ có hai trưởng
giả mời Thập Thất Quần Tỳ Kheo lấy tọa cụ của Tăng trải nơi kinh Thành, không
dọn cất bỏ đi. Bị đất bụi, trùng, chim cắn hư, ô uế không sạch. Các Tỳ Kheo
bạch Phật, nhân đó Phật mới chế giới này. Nghĩa là lấy cái tọa cụ là trải mà
ngồi thiền đó, rồi chắc có lẽ vô kinh thành, vô cái vườn Ngự, cái vườn bông,
vườn gì của nhà Vua đó rồi trải trong đó ngồi thiền ở trong đó. Rồi tới chừng
đi, mượn của người ta trải rồi bỏ đi. Do đó thì không có đem về. Vì vậy mà đức
Phật chế cái giới này để cấm không có được trải tọa cụ rồi không tự cất mà bỏ.
Thì cũng như bây giờ, mình có cái Thiền Đường đây, rồi bắt đầu lấy một cái đống
tọa cụ mà mỗi người ngồi một cái trên cái tọa cụ để ngồi thiền. Sau khi ngồi
rồi đó, thì để y nguyên chứ không có dẹp. Cho nên hầu hết là Thầy thấy có số
quý Thầy rất là lười biếng. Khi mà về Trúc Lâm Thầy thấy cũng vậy. Vô thăm Thầy
Hòa Thượng dẫn vô, Thầy thấy sao bồ đoàn còn để dài dài đó hết mà không dẹp. Có
phải là lười biếng không? Khi ngồi thì để đó mà khi không ngồi thì cũng để luôn
đó. Như vậy, nó làm cho cái khi người khách người ta đến người ta thấy mấy cái
ông thầy này lười biếng thiệt. Cái bồ đoàn của mình, cái tọa cụ của mình ngồi
mà còn để y nguyên đó à. Do đó, hai ba chục cái để hàng hàng đó, theo Thầy nghĩ
rằng họ lười biếng họ để lát vô ngồi nữa. Sự thật ra khi mình ngồi rồi thì mình
chỉ còn có cái đó mình xách về Thất của mình đi. Sau khi tới đó thì mình lại để
lên mình ngồi thì không phải tiện sao? Cái này là sợ mất công, ngay cả cái đầu
tiên đó, mà ý tứ như vậy mà đức Phật cũng đã thấy cái điều này cho nên mới chế
cái giới này ra. Biết rằng cái người cư sĩ chúng ta phải tập siêng năng chứ.
Đâu có lý nào mà lười biếng đến mức độ đó. Cho nên Thầy nhìn vô cái chỗ đó Thầy
biết rằng cái bọn này là cái bọn lười biếng. Trong thiền đường của Thầy mà ngồi
tu mà để tọa cụ mà ngồi như vậy thì Thầy quét ra, Thầy cho quý Thầy ra chứ đừng
có mà nói chuyện lười biếng được.
Ở đây một chút ý phải hẳn hòi, chớ mà làm sai là Thầy thấy là, tập
siêng năng gọi là Chánh Tinh Tấn, tập Tinh Tấn chứ đâu phải là tập lười biếng.
Ở đây mà bỏ qua một cái là Thầy thấy rồi, đó là lười biếng chứ không phải là
cái siêng năng. Từ cái tập siêng năng đó nó mới có trở thành cái Chánh Tinh Tấn
của chúng ta, nó mới trở thành cái Tấn Lực. Mà trong khi tu tập cái chuyện ngồi
thiền nó là đơn giản, còn cái tâm hung dữ, tâm hung ác của chúng ta này mà
không siêng năng nó mà loại trừ nó ra thì làm sao cho hết. Cho nên muốn mà
siêng năng, chúng ta phải tập hết sức cái siêng năng đó chứ. Từ cái chuyện nhỏ
chúng ta phải siêng năng cho đến cái chuyện lớn chúng ta mới siêng năng được,
còn cái chuyện nhỏ chúng ta lười biếng được thì cái chuyện lớn nó cũng sẽ lười
biếng theo. Cho nên cái Chánh Tinh Tấn không phải là cái chuyện dễ cho một cái
người mà mới tu tập mà phải giảng cho người ta hiểu từng cái chút một, phải
siêng năng từng cái chút , như vậy là sau này người ta mới tích tụ được từ
những cái siêng năng đó trở thành chánh Tinh Tấn. Chưa dạy tới mà Bát Chánh
Đạo, chứ dạy tới Bát Chánh Đạo thì Thầy sẽ dạy Chánh Tinh Tấn.như thế nào để
quý thầy biết được cái sự siêng năng cùa quý thầy từng chút chứ.
Giới trong phần Tăng trải tọa cụ không cất. Vì sao
Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, có khách Tỳ Kheo nói với vị
cụ trú rằng, tôi xin trải tọa cụ ở Tăng tại bên phòng của Tăng để ngủ. Sau đó
không nói với chủ, bèn bỏ đi. Tọa cụ bị biến sắc, hư. Phật nhân đó mà kiết giới
này. Đó cũng là một cái một cái vị Tăng mà lười biếng nhất đó. Hành động đó là
biết là hành động thiếu Tinh Tấn rồi đó. Ở đây chế cái giới để mà cho họ siêng
năng chứ không phải là gì hết.
Mười sáu, giới cưỡng đạp chỗ ngủ nghỉ. Vì sao
Phật kiết giới này? Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục Quần cùng với Thập
Thất Quần, trên đường đi tại nước Câu – Tác - La đến thôn không có trú xứ của
Tỳ Kheo. Thật Thấp Quần nói với Lục Quần Tỳ Kheo: Các Ngài là bề trên của chúng tôi nên tìm chỗ
để nghỉ trước. Lục Quần trả lời: Các ông tự đi tìm chỗ cho mình chứ chúng tôi
không tìm chỗ nghỉ làm gì. Khi ấy, Thập Thất Quần tìm chỗ để nghỉ rồi Lục Quần
đến sau cưỡng bức trải tọa cụ chính giữa mà nằm. Phật do đó mà kiết giới. Mấy
ông Lục Quần này là chơi cha đó, xúi cho mấy ông nhỏ nhỏ là Thập Thất Quần Tỳ Kheo này đi kiếm
chỗ rồi vô đó mà cưỡng người ta để mà lấy cái chỗ ngủ. Đó là Phật chế giới là. Sao lại mà ở trong Tăng đoàn mà tu thành theo giới luật của
Phật mà lại có những cái chuyện này. Thầy thấy nó quá phi lý mà người ta đặt ra
như vậy. Một cái người mà tu theo Đạo Phật người ta phải có bốn cái Tâm Vô
Lượng Từ Bi Hỷ Xả ở trong đó mà vô đầu là người ta đã luyện tập trau dồi cái
người đó qua một cái hạnh...
(Hết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét