Mục lục
1. Đời sống thiểu dục tri túc, ly dục, ly bất
thiện pháp.
2. Thầy giảng giải về sự tu tập của thầy Thiện
Thuận.
3. Thầy giảng về đặc tướng và bài kinh khu rừng.
4. Giới bổn - thiểu dục tri túc (tiếp tục).
5. Sadi trong tăng đoàn.
6. Thầy trả lời câu hỏi của thầy Thiện Thuận
1. Đời sống thiểu dục
tri túc, ly dục, ly bất thiện pháp
Nhưng trong nhà thí chủ
thì không thể là một cái tiệm buôn vải, tiệm buôn lương thực, xưởng chế tạo đồ
dùng và nhà thuốc. Giả sử có mở cái tiệm cũng không hoàn toàn có đủ các cái thứ
này. Nếu như mà hoàn toàn đủ nữa đi nữa thì khi đem phẩm vật mà cúng dường cho
người xuất gia, cũng chưa ắt là thích hợp với nhu cầu với người xuất gia. Do
đó, sự nhận lấy tiền tệ đối với người xuất gia thì không phải là tuyệt đối cấm
ngăn được.
Đó thì mấy ông luận sư
họ luận như vậy đó. Nghĩa là bây giờ cho một cái người cư sĩ đó đó, họ có cái
tiệm kêu là siêu thị bán đủ thứ hết á, mà đem lại cúng dường cho cái ông thầy
thì cũng chưa chắc là đúng cái nhu cầu của ông ta được. Đó, họ luận như vậy đó.
Cho nên cái sự mà cấm mà không có cất giữ tiền bạc á, thì không có ngăn
cấm cái điều đó được là vì để cho cái nhu cầu ông ta muốn gì đó, cần thiết gì
đó thì ông ta mới có tiền ông ta mua, thì ông ta sắm mới đúng.
Thì như vậy rõ ràng là
những cái luận như thế này thì Thầy thấy thiệt là nó phá Phật pháp hết, hết tận
cùng. Bởi vì mình có tiền á, thì mình chạy theo cái tâm nào các thầy biết
không? Mình nói cái nhu cầu của mình chứ cái tâm tham của mình chứ nhu cầu gì.
Mình thiểu dục, bây giờ mà đau không có thuốc á, thì mình thiểu dục mình cần
gì. Mình đã biết thọ là vô
thường rồi, nó đâu có thật. Cho nên mình đâu có sợ, còn cái người mà không thấy
nó vô thường thì mới sợ chết. Cho nên vì vậy mới giữ tiền để chạy mua thuốc
uống, còn cái người mà không sợ chết rồi, thấy đúng nhân quả rồi thì người ta
đâu có ngại. Khi đau mà nếu mình có
phước thì có người mang thuốc đến mình uống à, mà mình thiếu phước thì bây giờ
có đau cách gì, có chạy cách gì, có xin tiền cách gì đi nữa cũng chạy bậy bạ thuốc
,cũng chưa chắc đã hết bệnh. Bởi vì cái nghiệp của mình mà.
Cho nên có nhiều người
chạy tùm lum đủ thứ ông thầy hết mà hổng hết bệnh. Còn có người, người ta đau,
người ta chạy cái đúng ông thầy liền hết bệnh liền, đúng thuốc đúng thầy. Còn
mình chạy tùm lum đủ thứ hết mà không hết. Tại vì cái nghiệp của mình phải trải
qua cái thời gian bao nhiêu ngày đó để trả cho hết cái nghiệp đau khổ đó. Cho
nên có người thì uống ba bốn tháng, có người thì uống viên thấy hết. Đó, thì
các thầy thấy cái nghiệp của nó, nó có một cái thời gian để mà trả chứ không
phải mà lật đật mà được, cho nên ở đây chúng ta nghĩ một cái bệnh là cái thân
của chúng ta là phải có một cái nhu cầu tiền bạc để mình mua thuốc để mình trị
cho nó mau hết. Chưa chắc đã là trị mau hết đâu, phải hiểu nó còn trầm kha, nó
kéo dài cái khoảng thời gian mà trả nghiệp, thì có tiền cũng vậy mà không tiền
cũng vậy chớ đâu phải là có tiền mà nó giải quyết được cái đó được đâu.
Đọc đoạn luận phá giới
này của các luật sư, Thầy nghe cái mùi hương danh lợi nó bắt đầu nơi đây, bay
nực nồng và bay lan rộng ra khắp thế giới hiện nay. Cái mùi hương này mà giới
tu sĩ Phật giáo bây giờ tu hành nó mới chẳng ra gì. Bởi vì nó có trong những
cái lời mà luận thế này á, cho nên các vị tu sĩ chúng ta phạm giới mà chúng ta đâu
có biết rằng cái giới luật của Phật là ly dục, ly bất thiện pháp. Cho nên,
chúng ta đâu có nghĩ. Chỉ cần thấy mình được cái lời nói này, mình không có
phạm là mình thấy khỏe rồi, thì mình cứ tu lần lần rồi đây nó cũng tới. Thấy
Phật là thành Phật rồi đâu còn gì mà phải sợ mà phải ly dục. Nhưng mà không ngờ
chính cái chỗ mà không ly á, mình tưởng là thấy ông Phật nhưng mà sự thật ra
ông Phật đâu có tới với mình.
Bởi vì cái tâm mà chưa
ly dục, nó còn phàm phu thì ông Phật ông làm sao ông hiện ra với mình được. Ổng
là thanh tịnh rồi, còn mình thì quá uế trược, trong khi tay thì còn nắm tiền,
thì ổng đâu dám tới với mấy cái ông nắm tiền, lắm tiền đây rồi mai mốt ông nói
tui ăn cắp tiền của ông làm sao. Ông Phật thì thưở nào đến giờ ông đâu có ăn
cắp, thế mà cái ông cầm tiền á, thì mai mốt ông mất ổng mới đổ thừa ông Phật.
Thì ông Phật bây giờ chỉ có nước nhẫn mà làm thinh mình chịu ăn cắp tiền thôi
chứ làm sao, cho nên ổng Phật ông đâu dám lại gần mình. Vì vậy cho nên cái tâm
mình, mình nói mình thấy Phật, chứ sự thật ra mình còn cất giữ tiền á, thì ông
Phật không có dám tới với mình đâu. Cho nên thấy cái đó là tưởng của mình chứ
không phải là ông Phật thật. Ông Phật thì phải ly dục ly bất thiện pháp tay
không cất giữ tiền đó là mới đúng cách của nó, đúng cách của đạo Phật.
Đó là người tu sĩ chấp
nhận thiểu dục tri túc. Mà muốn có tiền đổi chác theo nhu cầu ham muốn của mình
thì làm sao là tri túc thiểu dục được? Nghĩa là có tiền làm sao mình tri túc
thiểu dục được đây, Thầy nói tri túc hổng nổi. Mà không có tiền á thì mình nói
là cam chịu đó tức là mình mới thấy biết đủ, ít muốn, biết đủ rồi. Còn người cư
sĩ họ có quyền sử dụng tiền bạc thì muốn mua sắm thứ nào lại chẳng được mà
chẳng có. Nghĩa là họ bây giờ họ là người cư sĩ mà, họ có quyền cất giữ tiền bạc
mà,cho nên họ muốn mua thứ nào cũng có hết, nghĩa là chợ bán ở cái chỗ nào, có
thứ gì họ đến họ mua cũng được. Thì bây giờ họ muốn cúng dường cho ông thày đó,
cái nhu cầu cần thiết cho ông thầy đó thì họ chỉ cần bỏ tiền ra. Họ biết bây
giờ là ông thầy đó cần thuốc uống nè, mà thuốc này là nhức đầu nè. Thì họ chạy
ra cái tiệm thuốc đó, họ mua đi, họ đem về họ cúng dường cho ông thầy đó. Thì
không phải là hợp với cái chỗ mà cái nhu cầu của ông thầy đó cần không. Chứ cần
gì mình phải cất tiền mình chạy ra tiệm thuốc mua thuốc. Thì cái đó là cái sai.
Cho nên bây giờ, thí dụ
như bây giờ mình đau bệnh, thì mình đến mình xin cư sĩ, bây giờ mình bị bệnh gì
thì mình nói, bây giờ tôi nhức đầu này kia, xin cư sĩ cúng dường cho tôi ít
viên thuốc nhức đầu. Thì người ta sẽ bỏ tiền ra người ta mua người ta cho mình.
Hổng lẽ thấy người đau bệnh mà là người tu, người ta làm ngơ sao, người ta
không cho. Nhưng mà mình đâu có làm sao mình có quyền mà sử dụng được, cho nên
mình đâu có muốn mua thuốc tốt, thuốc xấu được. Họ có tiền ít thì họ ra họ mua
mấy viên thuốc aspirin đồ bậy bạ, còn hễ họ có kha khá, họ mua mình những cái
viên thuốc mà nó đắt tiền hơn. Thì do đó là tùy cái người cúng dường, mà cũng
tùy cái phước báu của mình thôi. Cho nên đó là cái chỗ mà phước báu của mình nó
rất rõ. Thí dụ như người mà cúng dường mình thuốc tốt thì mình uống mau nó
mạnh. Còn người cúng dường mình thuốc xấu thì nó lâu hết, nó uống nhiều, thì
cũng vậy thôi. Đó là mình trả cái nhân quả của mình.
Còn những cái vật phẩm
mà họ cúng dường như thực phẩm hay y áo của chúng ta thì cái người cư sĩ họ có
quyền họ mua đồ xấu, đồ tốt họ cúng dường mình được. Còn mình có tiền thì mình
nghĩ sao...Nếu mình có tiền và cất giữ thì mình sẽ lựa đồ tốt, thuốc tốt mà mua
thì đâu còn gọi là thiểu dục tri túc nữa. Thiểu dục tri túc là ít muốn biết đủ,
nhưng nếu muốn sống đúng hạnh thiểu dục tri túc thì phải không cất giữ tiền
bạc. Tại sao vậy? Tại vì đó là hạnh của người tu sĩ, không để các pháp sai
khiến mình. Nói một cách cho rõ ràng hơn là không làm nô lệ cho các pháp.
Hay nói một cách cụ thể hơn nữa là để cho các pháp không sai khiến tâm mình.
Nói như kinh sách Đại Thừa là không để các pháp dính mắc tâm. Nhưng ở đây không
phải là Đại Thừa nói suông mà là lập hạnh sống thiểu dục tri túc, để các pháp
không dính mắc tâm.
Vì tâm không dính mắc
các pháp, tâm sẽ ly được dục, ly được ác pháp. Do đó mà con đường tu tập sẽ đạt
được kết quả giải thoát. Phật dạy tri túc thiểu dục là để ly dục ly ác pháp,
nhập sơ thiền. Một thứ thiền rất là cao quí của đạo Phật, làm cho tâm được giải
thoát không còn tái sanh luân hồi. Một pháp môn cần thiết cho người tu sĩ sống
đúng phạm hạnh giải thoát của đạo Phật. Phần đông hiện giờ các thầy không lập
hạnh này nên tâm chạy rong theo các pháp, tâm càng lúc càng sa đọa, sống theo
kiểu thế gian, dục lạc, họ đang sa đọa xuống địa ngục mà không hay biết. Thật
là đáng thương.
2. Thầy giảng giải về sự
tu tập của thầy Thiện Thuận
Hôm nay thầy Thiện Thuận
có thuật lại công phu tu tập của mình để qúy thầy rút tỉa kinh nghiệm tu tập
cho chính xác hơn...thì tức là chưa đúng cái trạng thái của tứ thiền. Vậy thì
chúng ta thấy cái âm thanh và cái thọ là hai cái đối tượng của cái định mà Tứ
thiền. Nếu hai cái này dừng mà cái tâm của chúng ta còn tỉnh, rất là tỉnh táo ở
trong cái trạng thái mà hai cái sự hoạt động này dừng mà tỉnh táo thì đó là lúc
bấy giờ chúng ta mới nhập Tứ thiền. Mà muốn nhập Tứ thiền thì điều kiện là
chúng ta phải phá âm thanh trước rồi sau đó chúng ta phá cái thọ, hoặc là đồng
thời chúng ta phá thọ và phá âm thanh. Bởi vì cái âm thanh phải phá trước thì
chúng ta mới có thể phá cái thọ dễ dàng. Mà nếu mà phá cái thọ trước á, thì cái
thời gian chúng ta phải ngồi dài ra, nó mới đụng cái thọ. Và cái thọ nó có cái
khó là vì thời gian ngồi dài ra thì nó có quen, nó quen thì nó giảm bớt cái thọ
và đồng thời thì chúng ta cứ tăng lên dài thì thời gian ngồi quá dài thì cái
sức của chúng ta sẽ mòn mỏi.
Còn phá âm thành á, thì
luôn luôn lúc nào ở bên ngoài cũng có thinh trần cho nên nó thường tác động làm
cho cái nhĩ thức của chúng ta nó cứ chạy ra ngoài mà không chịu bám vào
trong. Mà nhĩ thức là một phần sáu thức của cái sắc thức, cho nên cái nhĩ thức
mà đi ra ngoài nghe âm thanh á, thì tất cả các cái thức kia nó đều duyên theo
đó mà ra, do vì vậy đó mà chúng ta không nằm yên được trong tứ thiền. Cho nên
Phật nói phải là thiện xảo, an trú ở trong định. Thiện xảo, an trú. Bây giờ
mình thiện xảo mình nhập được, tức là các hành nó ngưng, nhưng mà mình không an
trú được, thì cái khéo léo mà an trú cho được á là phải rất thiện xảo, mà rất
thiện xảo thì chúng ta phải biết âm thanh là phải ngưng bặt, chứ không để âm
thanh nó tác động thì chúng ta bị bung ra liền.
Chúng ta phải hiểu nhĩ
thức, nhĩ căn, rồi nhĩ trần, thì đó là ba cái điều kiện mà nó tác động nó thành
ra một cái động của...nó làm mất cái định nó thành ra cái động vì vậy mà chúng
ta phải phá âm thanh trước. Đó thì chúng ta thấy, tất cả những cái trạng thái
như hiện tượng chói sáng, này kia khi mà chưa nhập được tứ thiền á thì nó còn ở
trong cái trạng thái từ nhị thiền cho đến tam thiền thì nó phải có những hiện
tượng. Bởi vì hoàn toàn khi mà nhập tứ thiền, hơi thở ngưng nghỉ thì hoàn toàn
nó thanh tịnh, nó không còn có trạng thái gì hết. Chỉ khi nào mình muốn dùng
hào quang là mình thể hiện hào quang. Ở trong tứ thiền á, mình bảo rằng cái thân
này phải phóng ra ánh sáng như mặt trời là nó phóng ra ánh sáng như mặt trời.
Chớ không phải là tự dưng nó phóng ra.
Còn bây giờ tự dưng mà
thấy sáng á thì đó là cái hiện tượng của ở trong cái trạng thái của nhị thiền
và tam thiền, do cái sắc tưởng nó hiện ra, nó làm cho chúng ta thấy như vậy chứ
nó không phải là cái chỗ mà chúng ta sử dụng ánh sáng. Cũng như bây giờ chúng
ta bảo là cái đầu nè, phải phóng hào quang ra, ánh sáng ra, mấy màu, 5 màu, 10
màu thì nó cũng phóng ra 5 màu, 10 màu. Đó là chúng ta nhập ở trong tứ thiền,
từ đó cái thân định trên tâm, tâm định trên thân. Chúng ta muốn như thế nào thì
nó sẽ thực hiện như thế nấy. Đó thì trong cái sự tu hành chúng ta phải biết tự
dưng ở đâu mà hiện ra một cái hình ảnh hoặc là cái gì đó thì chúng ta phải biết
rằng trên cái quãng đường mà chúng ta đi vào 4 thiền này á, từ nhị thiền đến
tam thiền nó mới có cái này. Mà từ tam thiền đến tứ thiền thì nó hết rồi, nó
không còn có những trạng thái này nữa, thì mới gọi là tứ thiền. Cho nên bây giờ
cái hơi thở ngưng nghỉ đó, nó cũng ngưng chứ không phải không ngưng. Nhưng mà
nó cũng có một phần là bị cái tưởng của chúng ta trong cái khoảng mà chưa có ra
hết tam thiền, cho nên nó vẫn còn cái bị che lấp.
Thầy giải thích như vậy
để qúy thầy chuẩn bị cho mình biết rằng, mình thấy nó ngưng chứ chưa hẳn là đã
ngưng, vì nó khi mà vào cái định của...cái quãng đường mà đi trên cái khoảng mà
đi vào tam thiền để ly các hỷ, ly hỷ hết á, thì chúng ta dễ bị cái tưởng của
chúng ta gạt gẫm chúng ta. Cho nên âm thanh vẫn còn tác động mà, âm thanh vẫn
còn tác động thì tức là chứng tỏ rằng chúng ta vẫn còn ở trên cái quãng đường
của thinh trần rồi, mà của thinh trần thì tức là quãng đường của nhị thiền, tam
thiền rồi chứ chưa phải là từ tam thiền đến tứ thiền được. Nếu từ tam thiền đến
tứ thiền thì chắc chắn là cái tụ điểm của chúng ta, cái nơi mà 6 cái thức của
chúng ta nằm vững chắc á thì chắc chắn là nó bám rất chặt rồi, nó không còn di
động được, nó không còn chạy ra ngoài được.
Còn về âm thanh con vẫn
còn nghe, con không tìm ra câu nào để ám thị, tức là để hướng tâm, như lý tác ý
đó cho chấm dứt âm thanh được. Con chỉ dùng câu: ”Âm thanh không thật, tâm bất
động trước âm thanh”. Ở đây cái câu trạch pháp này nó chưa có đúng lắm là tại
vì chúng ta thấy nó không thật. Là nó do cái chỗ không thật đó thì chúng ta
quán cái chỗ mà vô lậu, để chúng ta không bị cái âm thanh nó cám dỗ, chớ không
phải là âm thanh không thật. Vì âm thanh là thinh trần, thinh trần nó mới tác
động cái nhĩ thức của chúng ta, nó mới làm cho chúng ta có dính mắc vào đó, mới
nghe ra tiếng động, do đó cái thinh trần nó không phải ở chỗ này, không thể nào
mà dùng câu trạch như vậy, chưa đúng. Cho nên khó mà phá được. Tâm bất động
trước âm thanh, tâm bất động tức là nhĩ thức bất động trước âm thanh. Nhĩ thức
bất động thì làm sao nó bất động được. Cho nên bây giờ nó tác động ra ngoài,nó
làm sao bất động được. Cho nên mình phải hướng tâm nó: “nhĩ thức, kêu cái
tên nó, bởi vì cái nhĩ là cái lỗ tai mà thức là cái biết của cái lỗ tai, cái
biết của lỗ tai phải bám cho thật chặt vô cái tụ điểm”. Đó, phải nhớ cái
câu ám thị như vậy thì nó bám chặt vô cái tụ điểm thì nó nằm đó nó không có
chạy ra ngoài. Cho nên do đó nó không nghe. Âm thanh thì mặt ngoài nó tác động
vô, nhưng mà nhĩ thức nó bám chặt trên cái tụ điểm thì nó không còn nghe nữa.
Đó thì phải hiểu như vậy
là chúng ta dừng âm thanh thì nó không thật. Thì như là mình dùng cái quán để
cho mình thấy các pháp là không thật thôi. Thì đó là cái pháp quán để cho nó
phá cái tâm vô lậu của mình khỏi dính mắc chớ không phải là cái chỗ mà bị âm
thanh tác động. Nhưng mà âm thanh thì thường xuyên tác động, cho nên âm thanh
gọi là thinh trần.
Bởi con nghĩ âm thanh là
tiếng bên ngoài mình nghe mà ám thị cho tâm không chạy theo là được. Nghĩa là
nó có cái lực, cái lực của âm thanh nó tác động cho cái nhĩ căn của mình nó nằm
không yên. Cũng như cái thọ nó tác động cho cái tâm của mình, cái thân thức của
mình nó nằm không yên. Cho nên nó mới nhảy xuống cái chỗ đau mà nó thấy đau.
Cũng như nó chạy ra ngoài để nó đón, nó nghe âm thanh, vì vậy mà âm thanh nó
tác động vô mà nó nằm không chặt thì buộc nó phải nghe.
Còn bây giờ nó bám chặt
á, nó chỉ nghe trở lại cái gì thì lúc bấy giờ chúng ta phải dùng cái câu pháp
hướng để cho bắt đầu tập trung nó phải nghe cái gì, thí dụ như bây giờ phải bắt
buộc nó: “nhĩ thức, phải nghe cái hơi thở”. Khi mình còn thấy cái hơi thở, bắt
buộc nó phải bám chặt cái tụ điểm nghe hơi thở, không được nghe ra ngoài thì nó
có cái đối tượng để nó nghe. Cho nên nó không nghe ra ngoài. Còn nếu mà để cho
nó nằm không không, nó nằm ở trên đó thì khi có tác động nó phải nghe. Vì nó
còn đang hoạt động chứ chưa phải là nó ngưng.
Nhưng xin thầy giúp cho
con trạch pháp một câu để phá âm thanh, không còn nghe nữa để con dựa vào câu
đó mà xem thử đặc tướng của con, của nhĩ căn con là hợp với câu nào. Thầy sẽ
cho một câu ám thị, cái câu mà hướng tâm đó để mà như cái lý mà tác ý, mà
nhắc cái nhĩ thức của mình.
Còn về phần giấc ngủ,
thì kết quả rất tốt, con đặt niệm trước mặt bằng câu: “hãy sáng suốt lên, niệm
liên tục”, rất kết quả. Nghĩa là nhắc nó hãy sáng suốt lên tức là pháp hướng là
cái câu như vậy, cái câu đó phù hợp với cái đặc tướng của mình. Riêng những
người khác thì có thể không thể dùng câu đó được, còn riêng con thì con dùng
câu đó nếu mà thấy có hiệu quả thì nên áp dụng nó hàng ngày để cho nó sáng suốt
mà luôn luôn lúc nào cái thân nó ngủ, mà cái tâm nó tỉnh táo, tỉnh thức. Và câu
này nó cũng làm cho con rất tỉnh thức vì vậy mà con phá được cái tâm sắc dục
của mình, làm cho nó rất là có hiệu quả. Con huấn luyện, và khi ngủ thời gian
thuần thục thì sẽ tỉnh thức toàn bộ giấc ngủ.
Đây là phần trình bày
của thầy Thiện Thuận trong cái thời gian rất ngắn gần mà cũng có nhiều kết quả
của sự tỉnh thức của mình. Ráng cố gắng tu mà phá được cái ngủ của mình á. Ở
đây Thầy xin nhắc lại cái ngủ rất khó chớ không phải dễ, có khi thì thấy nó
giảm bớt, có khi thì thấy nó hết rồi, có khi thì trở lại nó tái đi tái lại rất
nhiều lần. Cho nên chúng ta phải bền chí mà tập luyện nó thì nó mới có tỉnh
thức thật sự. Nếu mà chúng ta tập quá nhiều thì nó lại mệt mỏi thì nó lại bị
hôn trầm, bị thùy miên nhiều nữa. Cho nên cái này rất khó vì vậy mà quí thầy
tập từ từ, tỉnh tới mức nào chúng ta giữ mức đó chúng ta tiến dần tới. Giờ phút
nào mà chúng ta đã qui định, thì khi mà nó có buồn ngủ thì chúng ta nhất định
là không cho ngủ, phải tìm mọi cách mà phá cho được. Chớ không được để cho nó
gục tới gục lui. Nó rất khó, đi mà chúng ta cũng ngủ đó chứ không phải, động
thân mà nó vẫn ngủ đó.
Nó làm cho lờ đờ lờ đờ.
Đây là Thầy cho một cái
câu pháp hướng để phá âm thanh. Âm thanh là pháp trần, tức là thinh trần đó.
Muốn phá âm thanh thì nhĩ thức phải bám chặt vào tụ điểm. Cho nên Thầy dạy tụ
điểm tức là cái niệm lực đó, để tạo thành cái tụ điểm. Một người mà chưa có
nhập thiền định gì hết, nhưng mà người ta bám chặt tụ điểm phá âm thanh và cái
cảm giác thọ không có thì người ta chưa nhập Tứ thiền, tức là hơi thở chưa
ngưng á mà vẫn là có thể nói người ta nằm ở trong trạng thái tứ thiền rồi. Cho
nên cái niệm lực mà tạo thành cái tụ điểm á, nó rất là quan trọng. Cho nên
trong cái giai đoạn mà ổn định hơi thở, cái thứ nhất là chúng ta ổn định cái
hơi thở bình thường, để khi mà chúng ta xuất định ra thì cái tâm chúng ta biết
cái hơi thở bình thường mà trở về đó. Thì đời sống chúng ta vẫn phục hồi hoàn
toàn là một cái người rất là tỉnh táo, sáng suốt chứ không phải là vô
phân biệt.
Còn trái lại khi mà
chúng ta tu cái giai đoạn ổn định hơi thở thứ hai đó, là một hơi thở dài rộng,
chậm để có sức gom chúng ta vào một cái điểm nào đó ở trên thân chúng ta. Nhưng
mà bất kì cái chỗ nào ở trên thân chúng ta không có thể mà tập trung tạo cái tụ
điểm tốt nhất mà chỉ có ở cái chỗ nhân trung, lỗ mũi của chúng ta là cái chỗ
tốt nhất. Vì cái tụ điểm nó rất là nguy hiểm, đặt nó chỗ nào đó thì nó sẽ sanh
ra các tưởng. Các tưởng đó nó sẽ ảnh hưởng đến cơ thể mà làm rối loạn cơ thể
chúng ta. Cho nên chỉ có đặt tại chỗ nhân trung giữa hai cái lỗ mũi thở ra thở
vô là tốt nhất nó không làm cho chúng ta khốn khổ hoặc không làm chúng ta có
những cái trạng thái bệnh.
Và khi mà sáu cái thức
của chúng ta bám chặt được trong cái tụ điểm đó á cũng như là sáu con vật bị
cột chặt cho nên nó chỉ còn nước mà nằm yên đó mà chịu chớ không
còn lôi kéo ở đâu được. Còn cái tụ điểm của chúng ta mà không chặt á, thì sáu
con vật này nó lôi nó kéo, nó làm cho văng cái cây cọc đi, con nào nó mạnh nó
kéo đi theo cái hướng của nó. Muốn bám chặt vào tụ điểm, phải như lý tác ý.
Đúng như cái lời Phật dạy, là phải như lý tác ý, thì cái câu trạch pháp
của Thầy để giúp cho thầy Thiện Thuận theo cái câu này mà tu tập. Nếu mà cái tụ
điểm chưa có bám chặt được á, thì nên tạo lại cái tụ điểm cho chặt. Nghĩa là
phải tạo cho chặt, tâm bám cho thật chặt ở trên cái điểm, không được lúc điểm
chỗ này lúc điểm chỗ khác thì cái tâm nó theo cái điểm di động đó mà nó dễ tác
động ra ngoài, nó sẽ chạy đi. Còn một cái chỗ thì sau đó nó quen rồi, nó nằm
yên đó nó không có tác động ra ngoài. Cho nên chúng ta dùng cái pháp hướng mà
chúng ta nhắc cái tâm thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả. Đây là câu trạch
pháp: “Nhĩ thức phải bám chặt tụ điểm, không được nghe ra ngoài phải nghe
hơi thở, phải nghe động dụng trong thân”, đó mình bắt nó gom vô chứ khôngcó
được cho nó chạy ra ngoài.
Câu trạch pháp này thầy
Thiện Thuận nhớ về dùng thử coi nó có đúng với cái đặc tướng của mình không.
Nếu nó đúng thì nó rất hiệu quả, nếu nó chưa đúng, nó còn nghe âm thanh á, thì
tìm cách để cho nó phù hợp với cái đặc tướng của mình. Thì mình cũng phải dùng
cái nhĩ thức hay là cái ý thức của mình. Ý thức thì nó có cái sự điều khiển coi
như là nó chung ở trong cái đó hoặc là dùng cái tâm thức nó chung cho sáu cái
thức của mình. Thì cái đó là tùy theo cái đặc tướng mà đặt cái tên cho nó đúng
để chúng ta kêu nó thì nó sẽ quay trở lại. Còn nếu mà chúng ta đặt sai cái tên
nó, kêu nó nó không có quay trở lại. Nó phải đúng
Đó thì như vậy là qua
cái phần mà trả lời cho thầy Thiện Thuận, đến đây là xong.
3. Thầy giảng về đặc
tướng và bài kinh khu rừng
Hôm nay thầy nhắc thêm
cái phần này nữa là vì trên bước đường tu hành chúng ta cũng có rất là nhiều
cái khó khăn. Là vì qua cái đặc tướng của mỗi người cho nên khi mà chúng ta tu
một mình, nhiều khi chúng ta xét qua cái đặc tướng của người đó, nó không có đủ
cái kinh nghiệm mà xét. Cho nên cần phải có một bậc thầy có kinh nghiệm rồi
người ta theo dõi cái đặc tướng của mình mà người ta hướng dẫn thì nó rất dễ.
Do cái bài kinh mà khu rừng ở trong kinh Trung Bộ á thì Phật dạy thì chúng ta
tìm cái chỗ ở để mà chúng ta tu tập cho được. Rồi sau đây, bây giờ cái bài này
nó cũng là cái bài kinh khu rừng mà kế tiếp khi mà chọn được cái chỗ ở rồi thì
chúng ta phải chọn một vị thầy mà người đó phải có những cái kinh nghiệm
của bản thân của mình tu tập và cái người đó cũng có cái kinh nghiệm mà xét qua
được cái đặc tướng của mọi con người để tùy theo cái đặc tướng của họ mà giúp
đỡ họ trên con đường tu tập để đạt đến cái chỗ cứu cánh giải thoát theo cái
đường của Đạo Phật. Bởi vì Đức Phật đã nhận thấy vì con người có những cái đặc
tướng riêng cho nên rất khó mà đi chung vào một cái sự tu tập của một cái pháp.
Tuy rằng đại khái của cái pháp thì chung, nhưng mà cái sự thực hành đó thì nó
phải tùy theo cái đặc tướng của mỗi người. Cho nên nó linh động và khéo léo, vì
vậy mà Phật nói thiện xảo và khéo tác ý. Khéo thiện xảo và khéo tác ý. Thiện
xảo là mình phải tùy theo, khéo tác ý là mình phải tùy theo cái đặc tướng. Chứ
còn bắt buộc người nào cũng trạch pháp một câu đó, người nào cũng áp dụng câu
đó thì nó không có hiệu quả. Nó có hiệu quả với người này mà không có hiệu quả
với người khác, cũng như một cái tên đó gọi hiệu quả cho người này mà cái tên
đó gọi cho cái tâm của người kia thì nó không hiệu quả. Cho nên vì vậy mà mỗi
đặc tướng của con người nó có khác. Rất là khó trên bước cái đường tu theo đạo
Phật là vì cái chỗ đặc tướng. Là vì cái sự sai khác đó mà không thể nào mà đặt
thành một cái công thức cố định để hàng loạt mà chúng ta ra từng loạt giống
nhau được, nó phải chênh lệch, nó phải sai khác, nó phải ngắn, phải dài, nó
phải tùy theo người đó, cái đặc tướng người đó mà nói cái câu trạch pháp nó
phải tùy theo đó mà nó thể hiện thì kết quả tu hành nó mới có.
Do như vậy mà đức Phật
giảng là bảo chúng ta tìm cái nơi để yên ổn được tu tốt, rồi kế đó tìm một bậc
thầy. “Này các thầy tỳ kheo, các thầy sống tại một làng nào, một thị trấn
nào, một đô thị nào, một quốc độ nào, một quốc gia nào, hay sống gần một người
nào.” Nghĩa là trong một cái quốc gia, trong một cái quốc độ nào đó, trong
một cái làng nào đó, một cái xã nào đó, một cái đô thị nào đó thì phải tìm một
cái người ở tại đó đó. Chớ không phải là mình đến đó mình muốn tu chỗ nào đó
mình tu, không phải đâu. Mình phải tìm ở tại đó coi có cái người nào không. Cái
người đó mà tâm họ chưa được an trú thì họ lại được an trú, tâm họ chưa được
yên tĩnh thì họ lại được yên tĩnh, tất cả những cái tâm chưa hết lậu hoặc
là được hết lậu hoặc. Vô thượng tâm an ổn và họ đã đạt được hoàn toàn sạch hết
các lậu hoặc. Thì cái nơi đó, cái ông thầy đó mà làm được như vậy thì mình sẽ
theo đó mà mình nương vào ông thầy đó. Còn ở đó, mà ông thầy ông...cái người đó
họ sống tại một cái làng, cái xã, cái quốc độ đó, mà có một ông thầy, mình đến
đó cái tâm mình nó chưa được an trú mà bây giờ nó cũng chưa được an trú, cái
tâm của mình nó chưa được hết lậu hoặc mà giờ nó cũng chưa hết lậu hoặc, cái
tâm mình nó chưa định tĩnh được mà mình giờ cũng chưa định tĩnh được. Ở gần với
ông thầy đó mà có những đồ ăn khất thực cũng rất là khó kiếm chớ không phải
được dễ. Nghĩa là cái chỗ thân tâm giải thoát của mình tu tập thì nó chẳng
được, mà đồ ăn, thực phẩm, y phục hay thuốc thang, để mà cái đời sống cho cái
người xuất gia vừa đủ á mà lại kiếm một cách rất khó khăn. Thì Đức Phật dạy: “Các
thầy cần phải đi ngay trong đêm ấy hay là ngày ấy. Nghĩa là phải đi ngay. Phải
bỏ ngay người ấy mà đi, không cần phải xin phép, không cần phải sống sát
người ấy nữa”. Đức Phật nói khi mình đến một cái chỗ trụ xứ nào đó, cái
làng đó, cái xã đó, cái đô thị đó mình tìm một cái vị thầy, rồi cái vị thầy đó,
mình với vị thầy đó ở chung nhau mà vị thầy đó dạy mình tu tập mà
tâm họ cũng chẳng được an trú, mình hổng được an trú, tâm chưa được định tỉnh
nó cũng không được định tỉnh, tâm chưa vô lậu nó cũng không được vô lậu. Mà ăn
uống thì cũng kiếm khó khăn lắm. Do đó phải đi ngay liền, trong đêm đó cũng
phải bỏ đi chứ đừng nói, vừa tới mà mình thấy như vậy phải bỏ đi ngay, không có
còn ở đó với vị thầy đó nữa. Nghĩa là không có cần sống sát với vị thầy đó nữa
mà khỏi cần xin phép nữa. Đức Phật nói trong này khỏi cần phải xin phép ông ta
nữa, đến mà thấy như vậy thì mình bỏ đi.
“Này các thầy tỳ kheo,
các thầy sống gần một người nào (Đó tức là chúng ta tìm cái mức độ nào đó, cái nơi nào đó rồi, nhưng mà chúng ta đến là biết thầy
thì) các niệm chưa được an trú không được an trú, lậu hoặc chưa được đoạn trừ
lại không được đoạn trừ, tâm định tĩnh chưa được định tĩnh, những vật dụng cần
thiết kiếm được một cách dễ dàng”. Nghĩa là ở đây với ông thầy đó thì cái tâm tu hành nó chưa được
định tĩnh, nó chưa được vô lậu, mà đồ ăn thực phẩm thì kiếm được rất dễ dàng.
Thì các thầy phải suy
nghĩ, ta xuất gia tu hành, từ bỏ gia đình, sống không gia đình không phải vì y
phục, đồ ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì dược phẩm trị
bệnh. Ta sống gần người này các niệm chưa được an trú, mà không được an trú, vô
thượng an ổn không được an ổn khỏi các ách phược, vô lậu chưa hoàn toàn chấm
dứt mà cũng không được hoàn toàn chấm dứt. Thì do đó dù là thực phẩm, đồ ăn có
đầy đủ thì ta cũng phải từ bỏ mà đi mà không cần xin phép, không cần sống sát
bên người đó nữa, mặc dù ở đó là rất sung sướng, rất đầy đủ mà nhất định là tâm
mà không được an trú, không được định tĩnh thì chúng ta phải bỏ đi, không ở với
người đó.
Đức Phật khuyên chúng ta
là khi mà dù ở đó có được ăn uống đầy đủ, đời sống chúng ta rất là tiện nghi đi
nữa, mà tu hành mà chẳng ra gì đó thì chúng ta cũng nên bỏ đi bởi vì vốn Đức
Phật bảo suy nghĩ mà, chúng ta từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sống một
cách rất cực khổ thế này mà rồi đến đó để cầu ăn uống, thôi ở gia đình mình ăn
uống có phải khỏe hơn không, đi làm gì cho nó cực. Đó là cái ý của Đức phật
khuyên.
“Này các thầy tỳ kheo,
ta sống gần một người nào, các niệm chưa được an trú, được an trú, tâm không
định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô
thượng an ổn khỏi các ách phược, chưa được chứng đạt được chứng đạt và những
vật cần thiết cho đời sống của người xuất gia cần phải sắm đủ như đồ ăn khất
thực, sàng tọa kiếm được một cách khó khăn. Này các thầy tỳ kheo, các thầy cần
phải suy nghĩ: Ta sống gần người này, cần phải theo sát người này, không được
bỏ đi.”
Nghĩa là ta cầu cái pháp
giải thoát chứ không phải cầu ăn uống mà ta bỏ gia đình. Vì vậy mà sống gần
người này ta thấy có được sự lợi ích của các pháp. Cho nên ta luôn luôn bám sát
người này không có được người này bỏ đi. Mặc dù ở đó đồ ăn đồ uống này rất khắc
khổ. Chúng ta có thể ăn lá cây mà sống, có thể mà sống bằng rễ cây, bằng củ
rạng, củ mài trong rừng mà sống, nhưng chúng ta thấy cái sự tu tập nó có kết
quả, nó có hiệu quả thì chúng ta không có nên bỏ cái người này mà đi, mà cũng
không nên bỏ cái trú xứ đó mà đi. Phật khuyên chúng ta không nên bỏ.
Kế đó, đức Phật lại
khuyên chúng ta lần cuối cùng:
“Này các thầy tỳ kheo,
các thầy sống gần một người nào các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa
được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ hoàn toàn nay đã
được đoạn trừ hoàn toàn, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được đạt thành
nay đã được đạt thành và những vật cần thiết cho đời sống xuất gia kiếm được
một cách dễ dàng”.
Ở đây nó vừa tu tập tốt
mà vừa lại có đời sống mà đầy đủ, các tiện nghi vừa đủ cho một người người xuất
gia, cơm ngày một bữa. Ăn mà khỏi cần phải ăn lá cây rừng, ăn củ rừng á thì đó
là đức Phật khuyên các thầy phải trọn đời theo sát người này không được bỏ đi
dù cho có bị xua đuổi cũng không được bỏ đi nữa. Đó, bây giờ thí dụ như sống
gần người đó này, cơm ngày một bữa đủ sống cho cái đời sống xuất gia. Y áo của
mình cũng, ấm đầy đủ không có gì thiếu hụt hết, mà cũng rất dễ dàng tìm kiếm
chớ không phải là khó khăn như những chỗ đó mà bây giờ tu hành lại được an ổn
thì bây giờ dù có xua đuổi cách gì cũng không có được bỏ ông thầy đó hết. Cho
nên đức Phật dạy trong cái bài khu rừng nó có một ý nghĩa, chúng ta phải tìm
một cái nơi là thứ nhất, thứ hai chúng ta phải tìm một bậc thầy. Khi đã tìm
được bậc thầy xứng đáng rồi chúng ta không được rời dù là bất cứ một cái hoàn
cảnh nào. Như vậy là con đường giải thoát chúng ta mới đến nơi đến chốn được.
Còn nếu không thì khó mà đến nơi đến chốn.
4. Giới bổn - thiểu dục
tri túc (tiếp tục)
Bây giờ chúng ta tiếp
tục cái giáo án mà học về cái giới bổn mà Thầy đã dạy. Quý thầy suy ngẫm người
tu sĩ đã xuất gia thì ở trên cái thế gian này đâu có còn mà thích hội
họp, đâu có còn mà thích ăn uống, đâu có còn là thích áo quần lượt là vải gói
... Cho nên, vì vậy cái người tu sĩ thì phải đi lượm những cái vải gói của thây
ma. Thì còn gì gọi là cái nhu cầu của cái người đó mà gọi là cái nhu cầu. Nghĩa
là cái người mà xuất gia người ta tu theo đạo Phật á, thì ngày xưa Đức Phật còn
đi lượm cái vải thây ma, gọi là y phấn tảo cho nên lấy những cái vải đó mà kết
lại thành cái y mình mặt. Bây giờ cái nhu cầu cần thiết của vị đó đâu còn nữa,
có còn gì mà gọi là cái nhu cầu cần thiết nữa. Ở trên này thì phải nói là
mình có tiền mình mới mua cái này cái kia để cho nó đúng cái nhu cầu cần thiết
của mình. Cho nên cái người mà xuất gia mà theo Đạo Phật rồi, thì cái nhu cầu
cần thiết của họ nó không còn có nữa.
Nghĩa là họ có cái gì họ
sử dụng cái nấy cho cuộc sống của mình mà, còn không có thì họ phải tri túc
thiểu dục.Tức là cái không có mà trong khi đó họ phải tri túc, ít muốn. Nghĩa
là lúc bấy giờ chúng ta không có thì chúng ta mới muốn chớ. Cho nên muốn tức là
nhu cầu, mà không muốn thì đâu còn cái nhu cầu. Do chúng ta hiểu cái chữ tri
túc thiểu dục. Chứ bây giờ Thầy có như thế này, Thầy nói là Thầy tri túc thiểu
dục. Nhưng mai mốt nó không có cái này thì thầy hết tri túc thiểu dục rồi sao.
Tri túc nó theo từng cái cấp độ của nó. Bây giờ một vị tăng có đầy đủ y áo, rất
là đầy đủ, cơm ăn áo mặc đầy đủ, nhưng vị đó không có đòi hỏi hơn nữa thì cũng
gọi là tri túc. Nhưng vị đó bây giờ đang trong cảnh khó khăn, cơm thì ngày có
ngày không, y áo thì rách bươi hết. Có khi phải chịu lạnh lẽo. Do đó thì cái vị
đó cũng phải tri túc theo cái hoàn cảnh đó chớ, chớ đâu đòi hỏi mà như cái hoàn
cảnh lúc mà mình ở ngoài thành phố đâu. Cũng như bây giờ mình vào rừng mình ở
rồi, thì bắt đầu mình ăn lá cây rồi, thì mình thiểu dục tri túc ở trong cái môi
trường của rừng rú thì ăn lá cây sống mình vẫn thấy an nhiên. Còn bây giờ mình
ở trong đó mình thấy cái nhu cầu cần thiết ở đây á, nó không có như ở thành phố
hồi trước, vì vậy bây giờ mình làm sao cho có được cái nhu cầu cần thiết đó như
vậy nó vừa đủ, để cho ấm áp, chứ giờ đây nó thiếu quá chừng, nó lạnh lẽo, hoặc
là đau bệnh không có thuốc thang ở trong rừng núi.
Do vì vậy đó, cái nhu
cầu mà cần thiết đó nó không thể mà sử dụng, nó không thể ở một vị tu sĩ mà
theo đạo Phật được. Bởi vì cái hạnh tri túc thiểu dục của các Ngài, của các vị
tu sĩ này nó luôn luôn đi theo cái đời sống của nó. Nó tới đâu thì nó thiểu dục
tới đó. Nó có thì nó cũng thiểu dục tri túc, mà nó không có thì nó cũng thiểu
dục tri túc. Nghĩa là nó không đòi
hơn cái chỗ nó có. Còn nếu mà mình cái không có mà mình đòi hơn thì cái đó
không còn gọi là tri túc thiểu dục. Hiểu được chữ thiểu dục tri túc, cũng như bây giờ hôm nay, chúng
ta có ngày bữa cơm chúng ta ăn, ngày mai chúng ta có cháo chúng ta ăn. Chúng ta
đòi hỏi bây giờ cái nhu cầu của tôi phải ăn cơm chứ ăn cháo vậy tôi sống không
có được thì người đó không phải là thiểu dục tri túc. Mà cái người đó còn đòi
hỏi nhu cầu của ngày hôm qua, ngày hôm nay ăn cháo, hôm qua ăn cơm mà đòi hỏi
hôm nay phải ăn cơm á thì tức là cái người đó không phải thiểu dục tri túc.
Bởi vậy cái hạnh tri túc
á nó phải từ cái cuộc sống của chúng ta nó phải phù hợp. Mà nó phù hợp á, thì
cái nhu cầu mà gọi là cần thiết cho một cái vị tu sĩ thì nó ba y một bát. Mà
giờ ba y một bát đó mà nếu mà chúng ta không có đủ thì một cái người thiểu dục
tri túc vẫn thấy biết đủ. Chứ nếu mình biết cho nó bằng như cái ba y một bát
của mình, thí dụ như bây giờ mình có ba y, mà lỡ nó rách nát mất một cái rồi.
Thì bắt đầu chúng ta cũng biết thiểu dục ngay bây giờ chứ chúng ta không có đòi
hỏi. Nhưng mà khi có đủ cái duyên mà gặp cái người cư sĩ á, thì chúng ta xin:
“Bây giờ thầy có cái y mà nó đã rách nát Thầy không còn sử dụng được, bây giờ
xin cư sĩ cúng dường cho thầy một chiếc y”. Thì họ sẵn sàng cúng dường. Nhưng
mà chúng ta không đòi hỏi hơn cái mức mà thiểu dục tri túc của ba y một bát.
Chúng ta phải lấy cái cơ bản đó. Chứ còn nếu chúng ta nói nhu cầu cần thiết thì
cái nhu cầu cần thiết của chúng ta bây giờ cái người nhà giàu họ cái nhu cầu
cần thiết của họ nó đến cái mức độ nào thì họ cũng đòi hỏi theo cái nhu cầu cần
thiết của họ, thì biết cái nhu cầu cần thiết như thế nào. Mà trong cái giới
luật hiện hành mà chúng ta đã đọc trong cái giới bổn á,chúng ta thấy thì cái vị
tu sĩ mà phải đòi hỏi cái chỗ mà nhu cầu cần thiết. Thí dụ như bây giờ, như
Thầy đã giảng một cái ông nhà giàu, họ giàu có mà họ làm sao họ có bán một cái
siêu thị các thứ đâu, cho nên họ làm sao họ cúng dường mình cho đủ cái nhu cầu
cần thiết của mình được.
Cho nên vì vậy mà chúng
ta phải căn cứ vào cái ba y một bát là tối thiểu của một cái người tu sĩ, mà
dưới ba y một bát chúng ta vẫn thấy thiểu dục tri túc thì nó mới đúng. Còn bây
giờ chúng ta lại đòi hỏi cái nhu cầu cần thiết hơn cái ba y một bát thì nó
không đúng rồi. Như vậy chúng ta mới hiểu được cái chỗ mà cái người tu sĩ của
chúng ta, nó có cái khó cái chỗ mà giữ được cái hạnh thiểu dục tri túc.
Chỉ có những kẻ còn mang
đầy tâm tham muốn mới đòi hỏi nhu cầu cần thiết của thế gian. Mà cái nhu cầu
cần thiết của thế gian biết chừng nào là cho đủ cái nhu cầu cần thiết của thế
gian. mà chúng ta thử suy coi, một cái người thế gian mà ai cũng đòi hỏi cái
nhu cầu cần thiết của họ chứ gì. Bây giờ chúng ta có một cái nhà ngói rồi, thì
cái nhu cầu cần thiết của cái nhà ngói nếu mà chúng thiểu dục tri túc thì chúng
ta cũng thấy biết đủ rồi. Nhưng mà cái người đó đòi hỏi cái nhu cầu cần thiết
tui phải tiện nghi hơn cái nhà này, cho nên tui giờ phải cất cái nhà lầu hoặc
cái villa. Chớ còn cái nhà này nó chưa có đủ cái nhu cầu cần thiết của tui, đời
sống tui nó phải hơn nữa à. Do đó cái nhu cầu đòi hỏi á, thì nó không thể nào
mà gọi là đúng được.
Cho nên vì vậy mà trong
giới luật nói là cái nhu cầu cần thiết, họ cứ nghĩ rằng là cái nhu cầu cần
thiết cho một cái người tu sĩ á, là nó phải ở cái bậc nào mà không có căn cứ
vào cái bậc nào thì nói cái nhu cầu cần thiết đó thì nó như là bằng thừa. Còn
bây giờ chúng ta căn cứ vào cái nhu cầu cần thiết của cái người tu sĩ, đủ á thì
bây giờ chúng ta phải ba y một bát. Ngày thì một bữa chứ không được đòi hơn bữa
nữa. mà đòi hơn thì tức là chúng ta đòi theo cái nhu cầu của thế gian rồi chứ
không phải nhu cầu của người tu sĩ. mà bây giờ nó dưới cái bậc ba y một bát,
bữa nay có cơm mà ngày mai không có cơm. Thì chúng ta là người thiểu dục, ít
muốn. Cho nên nó có thì chúng ta cũng vui mà nó không thì chúng ta cũng vui. Vì
chúng ta là người giữ hạnh thiểu dục tri túc.
Người ta viện lý do Tam
Bảo có thể tiếp thọ, người khác có thể tiếp thọ, đến vị tu sĩ cũng phải có tiếp
thọ. Nghĩa là Tam bảo thì cũng có tiếp thọ như tam Bảo tiếp thọ thì phải có
chùa to tháp lớn, Rồi cái người khác thì người ta cũng phải tiếp thọ Phật pháp
vì vậy cho nên cần phải hỏi kinh sách hay hỏi thế này thế kia và vị tu sĩ cũng
cần phải có sự tiếp thọ. Như bây giờ phải tiếp thọ như thế nào, phải có cơm ăn
áo mặc, phải có cái này cái kia, thì có những cái sự tiếp thọ. Nhưng mà tiếp
thọ ở trong cái hạnh tri túc thiểu dục chứ không phải tiếp thọ theo cái nhu cầu
đòi hỏi của cá nhân, của mỗi cái sự sống thì như vậy là không đúng.
Nhưng mà trong giới luật
thì nó đưa ra những cái này để mà đòi hỏi cái nhu cầu, nhưng mà lại cái nhu cầu
đó nó không có ranh giới. Cho nên Thầy thấy những cái đòi hỏi của giới bổn như
vậy á là nó đi vào cái hướng phá giới. Cho nên ở đây Thầy muốn nêu lên để chúng
ta thấy rằng những cái danh từ này nhiều khi chúng ta sẽ bị gạt. Mà chúng ta
thấy rằng cái nhu cầu cần thiết của tu sĩ phải vầy vầy nếu thiếu nữa thì không
thể tu được, mình chấp nhận là đời sống tu sĩ rồi thì mình còn thấy cái gì là
thiếu nữa. Bởi vì chúng ta thấy cuộc sống của chúng ta đây là nó tạm bợ, nó
không thật, thân này cũng vô thường, nó khổ. Bây giờ có giàu sang cách mấy đi,
làm vua chúa đi nữa nó cũng là khổ.
Mà bây giờ có nghèo đến
đâu thì khổ nó cũng vẫn khổ như vậy chứ không thể nào. Tại vì chúng ta chưa
biết giữ cái tâm của mình thiểu dục tri túc, vì vậy mà mình thấy khổ. Chứ còn
mình biết giữ thiểu dục tri túc á, thì chắc chắn là mình hết khổ rồi.
Tam Bảo tiếp thọ cái gì?
Tam Bảo tiêp thọ không phải tiếp thọ chùa cao rộng lớn, không phải tiếp thọ
chuông đồng chuông vàng, Phật tượng đồng, Phật tượng vàng mà Tam Bảo tiếp thọ
hiện bằng giới hạnh, giới đức, giới tuệ. Nghĩa là chùa tranh, vách lá đơn sơ,
nó có hình thức của một cái hạnh của một người tu. Cái chùa mà như vậy đó người
ta mới thấy quí trọng hơn là một cái chùa mà cao sang như cái dinh thự của các
vua chúa.
Cho nên vì vậy mình phải
thấy rằng Tam Bảo phải tiếp thọ cho đúng cách của nó, chứ đằng này á. Tượng thì
tượng bằng vàng, bằng đồng bằng những cái chất có giá trị có thể nói là là bằng
những cái thứ vô giá nữa. Đó là những cái mà chúng ta thấy hiện giờ ở trên thế
gian này đều là nhan nhản những cái điều đó. Người ta đó là người ta quí trọng
cái chỗ mà quí báu, coi rằng như là nhờ những cái này á mà duy trì được cái
mạng mạch của Phật Pháp, hiện tiền của Phật Pháp. Chúng ta cũng chấp nhận cái
điều này chứ không phải chúng ta không chấp nhận. Nhưng chúng ta phải suy xét
những tượng vàng, tượng đồng này, những cái chùa mà tháp vàng, tháp đồng này mà
cao vút mà kiên cố, vĩ đại mà người ta gọi là những kỳ quan của thế giới á. Thì
chúng ta lại thấy rằng nhìn ở trong những cái ngôi chùa đó, ở những nơi tôn
giáo của Phật giáo như vậy đó, thì biết bao nhiêu là mồ hôi nước mắt của người
dân không, của chúng sanh không. Biết bao nhiêu là cái công lao của người ta mà
xây dựng cất lên những cái kỳ quan đó không. Nhưng mà cái người dân lúc bấy giờ
họ có muốn không, chắc chắn là không muốn đâu. Họ muốn cho họ hạnh phúc trong
gia đình chứ ai muốn đi làm sưu, làm thuê, làm nặng, để mà đóng góp làm như vậy
để mà trở nên như vậy thì lúc bấy giờ mà những cái ngôi chùa mà vĩ đại như vậy
đó thì là cả mồ hôi nước mắt của nhân dân, của cái nước đó. Nhà vua bắt buộc họ
thì họ là dân họ phải nghe theo chứ họ dám chống lại thì ở tù, bắt giết sao.
Cho nên họ phải đem cả cái thân mạng của họ sống chết để mà lo. Có biết bao
nhiêu người chết ở trong những cái công trình vĩ đại đó không.
Chúng ta nghe cái Vạn lý
trường thành là một kỳ quan của thế giới hiện giờ, thì chúng ta đọc lại cái
lịch sử của Tần Thủy Hoàng thì chúng ta vẫn thấy biết rằng biết bao nhiêu người
mà chết ở trên cái Vạn Lý Trường Thành. Còn những cái chùa mà cao đẹp tốt như
những cái nước mà có những cái kỳ quan mà như chùa vàng, chùa bạc mà ở bên
Campuchia hoặc ở bên Thái lan á, chúng ta thấy cái ngôi chùa đó cũng là mồ hôi
nước mắt của dân tộc ở đó, đổ vô đó biết bao nhiêu là cái sự đau khổ của họ.
Nhưng vì những nhà vua bấy giờ tôn sùng Phật giáo đến cái mức độ mà không thấy
rằng trông cái mái chùa tranh vách lá đó nó tượng trưng nói lên được cái giới
hạnh giới đức, giới tuệ của nó mà nó không làm đau khổ cho một người nào. Bởi
vì mục đích của đạo Phật ra đời là không làm khổ mình không làm khổ người. Thế
mà người ta lại tập trung vào những cái vĩ đại đó, để cho mãi mãi đời sau ca
ngợi là công trình vĩ đại của mình, nhưng mà trái lại để lại đau khổ. Vì Phật
giáo, vì Tam Bảo mà người ta để lại những sự đau khổ muôn đời muôn kiếp nhớ
đến. Nhìn thấy công trình vĩ đại của kiến trúc, của người xưa mà vì tôn giáo
như vậy thì nó không đúng cái lòng từ bi của đức Phật chút nào hết.
Nếu phỏng chừng ông Phật
lúc bấy giờ còn tại thế mà nhìn thấy mọi người phải sưu cao thuế nặng để đóng
góp, xây dựng những ngôi chùa vậy chắc ông Phật đến đó mà ông xin rằng đừng có
làm những điều đó, vì đạo Phật không thể thực hiện được cái điều đau khổ đó.
Cho nên chúng ta thấy rằng, người ta nói gì Tam Bảo tiếp thọ thì người ta nghĩ
rằng phải tiếp thọ những cái gì mà để đời đời kiếp kiếp nhưng chúng ta phải để
những cái gì, bằng những cái hạnh, cái đức, cái tuệ của nó, để làm cho những
cái nét đó nó đơn sơ. Nó làm cho người ta thấy được một cái chỗ an vui cho mọi
người ở trên thế gian này. Thì đó là mới đúng. Cho nên ở đây người ta dùng
những cái này, để dùng những cái danh từ là Tam Bảo tiếp thọ này thì phải tiếp
thọ cái gì. Tiếp thọ sao cho nó trường tồn vĩnh cửu. Nhưng nó trường cửu bằng
những cái đau khổ của mọi người, của chúng sanh. Cái trường cửu đó nó đi ngược
lại.
Còn người khác tiếp thọ
là tiếp thọ buông xả, nghĩa là mọi người mà đến với đạo Phật là người ta tiếp
thọ, tiếp thọ cái gì, tiếp thọ buông xả. Còn tu sĩ thì tiếp thọ, tiếp thọ cái
gì, tiếp thọ tri túc thiểu dục. Cái người mà cư sĩ, cái người mà theo đạo phật
mad đến với đạo Phật để tiếp thọ cái Phật Pháp á là tiếp thọ buông xả, vì có
buông xả chúng ta mới có được an vui hạnh phúc. Nếu mà không buông xả thì làm
sao chúng ta có được cuộc sống an vui. Còn tu sĩ thì tiếp thọ gì, chúng ta phải
tiếp thọ tri túc thiểu dục, như vậy mới là ly dục ly bất thiện pháp được. Chớ
còn không tiếp thọ tri túc thiểu dục thì không bao giờ mà chúng ta có thể ly
dục ly bất thiện pháp được .
Nên trên nguyên tắc của
đạo Phật không cho tự thọ, tự cất chứa những vật tiền bạc hoặc tất cả những vật
chất, nghĩa là không có cho chúng ta tự thọ bằng cách này cách khác của mọi vật
chất của thế gian. Vì không được tự thọ, không được cất chứa nên hàng tu sĩ
chạy theo dục lạc của thế gian, mới chế ra một thứ pháp thiết tịnh. Đó
bắt đầu bây giờ chúng ta vì cái giới luật của Phật nó hạn chế là không
được tự thọ, không được tự cất chứa nên hàng tu sĩ chạy theo dục lạc thế gian
mới chế ra một cái thứ pháp gọi là thiết tịnh, nghĩa là không có cho mình cất
giữ tiền bạc hoặc cái này kia, hoặc là làm cái này kia thì
giờ mới chế ra cái pháp thiết tịnh, thì cái pháp thiết tịnh này là gì?
Pháp thiết tịnh là mời
một người cư sĩ bởi vì trong cái giới luật người tu sĩ mình không có cất
giữ tiền bạc, phải không? mà bây giờ cất giữ tiền bạc thì đâu có được cho nên
mới mời người cư sĩ đến làm tịnh chủ, hễ thu nhận được tiền bạc bèn nói là thay
cái người cư sĩ kia thụ nhận chứ không phải là mình nhận mà người cư sĩ nhận,
đây là của tịnh chủ chứ không phải của chính chúng tôi là cư sĩ. Thì cách thiết
tịnh á là phải mời một người cư sĩ đến, rồi người cư sĩ đó khi mà cái vị thầy
đó có nhận thì nói với người cư sĩ đó ông chịu làm tịnh chủ để nhận cái số tiền
mà Phật tử cúng dường á, vì cái giới luật của tui á, thì tui không có giữ được,
không có nắm được tiền bạc. Vậy thì bây giờ ông chịu làm cái người mà tịnh chủ
á, để ông giữ giùm cái tiền bạc này. Khi đó ông có muốn cất chùa, hoặc là chùa
hư, hoặc chúng thiếu thang thuốc gì đó thì tui có thì tui mới lấy ra tui mua
giúp cho chúng được, chứ còn nếu không thì tui đâu có tiền đâu mà tui tiêu còn
đi xin phật tử thì cũng lúc bây giờ mà gặp trường hợp thì xin cũng khó khăn,
cho nên cái vị thầy đó nói với vị cư sĩ đó như vậy cũng hợp lý. Cho nên vị cư
sĩ này đến làm cái tịnh chủ. Nhưng mà làm cái tịnh chủ này bằng là cái
hình thức, chứ không phải cái vị tịnh chủ này cất tiền bạc đâu. Cái ông thầy
cất tiền bạc, nhưng mà cái vị tịnh chủ này chỉ là chứng vậy thôi, rồi cái vị
này về. Từ đó về sau cái thiết tịnh này á, thì cái ông thầy được cất giữ tiền
bạc, đương nhiên coi như là cái người mà cư sĩ này đã nhận cất giữ tiền
bạc rồi, nhưng mà chính ông thầy đó cất giữ tiền bạc.
Quí thầy không có nghiên
cứu kinh giới chứ, Thầy nghiên cứu kinh giới Thầy thấy họ đặt ra nhiều cái nó
lạ lùng lắm, nó kỳ cục lắm. Cho nên Thầy nói thiệt ra thì mấy ông giới sư này
họ cũng hay lắm, họ phá giới mà họ cũng đặt chuyện ra cũng giỏi lắm. Cho nên
muốn cất giữ tiền bạc thì kêu người cư sĩ đến làm cái bù nhìn trước cái đã, sau
đó mình cứ thu giữ tiền bạc mà hổng sao hết. Bởi vì đương nhiên là có cái ông
đó ông nhận rồi. Cho nên vì vậy mình cứ nhận đây là ổng nhận chứ không phải
mình cách thức của họ là như vậy.
Nhìn thì từ hình thức
pháp thiết tịnh này giống như không cần phải có cái ông đó. Nghĩa là bây giờ
ông đó ông đến chỉ có cái buổi buổi đầu tiên ông đó ông nhận như vậy rồi, mình
làm cái lễ mà thiết cái pháp mà tịnh này xong rồi thì ông ta về nhà chứ ổng ta
cũng không biết chùa mình bao nhiêu tiền hết à, mình cứ ai cúng dường thì mình
cứ cất nhưng mà mình đã làm cái lễ đó rồi thì đương nhiên là coi như ông ta cất
chứ mình không có cất. Đó là một cái hình thức thiệt là không biết là Thầy hiểu
sao không biết, do đó bây giờ ông thầy cất giữ tiền ông muốn mua gì ông mua còn
chứ thiệt ra cư sĩ không có quyền mà chỉ đạo cái vấn đề mua này kia hết. Đó
nhìn từ hình thức pháp thiết tịnh này thì giống như không cần phải có, nghĩa là
đâu cần có gì, bây giờ ông thầy ông cất chứ ông kia chỉ có buổi lễ đó ông làm
cái lễ đó vậy thôi rồi ông về nhà ông ngủ ông không giữ đồng bạc nào của chùa
hết à. Thì bây giờ hổng có thì mình cất cũng được có gì đâu, tại vì mình muốn
phá giới thì mình cứ phá đi chứ còn mình bày đặt chi vậy. Đó là những cái lạ
lùng ở trong cái giới luật. Nghĩa là Thầy không biết là các thầy có học tới
không Thầy không biết chứ Thầy đọc tới thầy thấy sao nó kỳ quá.
Kỳ thật nó có giá trị
của sự tuân hành, vì người xuất gia ở trên bản chất tuyệt đối là không được thọ
nhận tiền bạc, nhưng cũng một phương tiện bất đắc dĩ, quyết chăng nên nhân vì
có pháp thiết tịnh mà tham lam không biết chán. Nghĩa là nhờ cái chỗ pháp thiết
tịnh này mà cái lòng tham lam của vị tu sĩ nó không có chán. Bởi vì dù sao
trong tinh thần mình nghĩ là người ta cất chứ đâu phải mình cất. Nhưng mà mình
cất giữ cả tủ tiền mà mình vẫn không sao hết vì mình thiết tịnh mình nói với
chư Phật là tui có cất giữ tiền đâu có ông cư sĩ ông chịu cất giữ rồi. Cái đó
là làm cái bùa để mà che mắt mấy ông Phật mà để nói là tui giữ gìn giới chứ đâu
có phải gì.Thầy biết là mấy cái ông này khôn lắm. Cái khôn của ông đó là thiết
cái Pháp thiết tịnh như vậy đó.
Bởi vì thấy những cái
điều sai khác nó lạ ở trong kinh giới như vậy đó, cho nên thầy mới nêu ra để
thấy được cái giả dối của người xưa, họ nhiều cách họ giả dối hết sức giả dối.
Đã mình không cất giữ tiền bạc là mình phải hiểu cái ý nghĩa không cất giữ tiền
bạc là mục đích gì? Là mục đích ly dục ly bất thiện pháp, để cho mình đạt được
cái chỗ mà giải thoát chứ đâu phải là... Bởi vì Phật biết cất giữ tiền bạc là
nó không giải thoát, nó không ly. Mà bây giờ mình cứ mạo những cái pháp này
pháp kia để mình tự cất giữ tiền bạc thì bắt đầu bây giờ nó có tiền bạc
rồi thì cái tâm tham muốn của mình nó phải bừng lên thì cái lòng dục của mình
nó phải muốn chớ làm sao.
Từ cái chùa của mình giờ
xấu quá mà thấy cái chùa của người ta tốt hơn, mà tiền mình cả đống đây mình
hổng xài, hổng đem ra cất sao. Phải đem ra cất, đó là nó từ chỗ đó nó tham. Còn
bây giờ mình không có đồng nào thì bây giờ chùa ai cất cứ cất, kệ, mình hổng có
làm sao mình cất. Đồng thời mình tu sĩ vậy mình mở miệng xin tiền ai cho được.
Xin cơm người ta còn chưa được mà Phật đâu dạy đi xin tiền. Bây giờ mình đi xin
tiền sao được, cho nên cuối cùng mình ở chòi tranh vách lá. Còn người ta thì
người ta mạnh miệng, người ta có pháp thiết tịnh, người ta đi xin đều được. Còn
mình đâu có pháp thiết tịnh.
Đó là những điều mà
chúng ta thấy trong giới bổn mà các Tổ thường luận về giới, hoặc là viết ra
kinh giới nó có nhiều cái nêu ra những cái pháp mà chúng ta thấy nó kỳ cục nó
không có đúng cái giới luật của Phật, nó làm cho con người không có ly được
dục, ly bất thiện pháp.
Pháp thiết tịnh có thể
cảnh xuất người xuất gia chẳng nên tiếp thọ tiền bạc quá nhiều. Ở đây thì cái
người mà luận về cái chỗ mà cất giữ tiền bạc này á, thì họ muốn nói cái pháp
thiết tịnh này làm cho cái người xuất gia nó không có nhận tiền bạc nhiều.
Nhưng mà sự thật ra thì không có thể nào mà nói được cái chuyện. Bây giờ một
đồng bạc ông ta nhận rồi thì hai đồng bạc ông ta nhận à. Mà.bây giờ một đồng
bạc không nhận thì giờ bao nhiêu ông cũng không nhận hết. Còn bây giờ ông đã
nhận được một đồng thì bây giờ nói ông nhận được một cắt ông cất rồi thì ông sẽ
nhận đồng đó, chắc chắn là nó bắt đầu nó leo thang chứ nó không có đứng ở chỗ
đó đâu. Còn bây giờ chúng ta không nhận...thì không thể nào là mình tiếp thọ
thêm tiền bạc được. Còn nếu mình cứ cất giữ tiền bạc là nó sẽ tiếp tục nó cất
giữ và cất giữ càng ngày càng nhiều lên, chớ nó hổng giảm xuống đâu.
Cho nên đối với pháp
thiết tịnh Thầy thấy người ta nói để làm chúng ta bớt cái tâm tham, không cất
nhiều nhưng sự thật ra nó sẽ cất nhiều chứ không thể nào mà nói cái tâm con
người nó khó lắm. Cũng như bây giờ, chúng ta nói bây giờ, thôi bây giờ nó mệt
mỏi quá, mình bị hôn trầm thôi mình nghỉ chút cho khỏe đi. Nhưng mà chính cái
luận đó nó khỏe chút đó chứ ngày mai nó sẽ tăng thêm chút, cứ ngày tăng thêm
chút, thì từ đó mình phá hôn trầm không được. Vì vậy mà lúc bây giờ chúng ta
muốn phá hôn trầm là chúng ta phải tìm mọi cách để cho nó đừng có hôn trầm nữa.
Thì cái lòng tham của
mình nó cũng y như vậy. Nếu mà hôm nay mình cất giữ một chút thì ngày mai mình
sẽ bị thêm nữa chứ không có bớt được. Cho nên pháp thiết tịnh có nghĩa là ở đây
trong giới luật đó thì nó nói đó là một cái pháp để làm cho chúng ta cất giữ
tiền bạc nhưng mà không cất nhiều. Nhưng mà sự thật cái đó là qua tâm lý con
người thì cái pháp thiết tịnh này nó không có đúng cái lí không có hiểu được
cái tâm lý con người đâu. Vì thế người xuất gia rồi tốt nhất là không nên thọ
nhận tiền bạc. Bởi vậy cho nên cái người xuất gia rồi chúng ta nghĩ đừng có nên
nhận tiền bạc.
Nhưng nếu có nhu cầu
giữa tiền bạc chi phí thuốc thang lúc bệnh và chi phí sinh hoạt hàng ngày thì
tự nhiên không ngại gì dùng pháp thiết tịnh để tiếp thọ tiền bạc. Nghĩa là nói
ở đây chúng ta thì không có nên cất giữ tiền bạc nhưng vì những cái nhu cầu mà
thiết yếu như thuốc thang, hoặc là sinh hoạt hàng ngày tiêu bao nhiêu đó thì
chúng ta nên mà cất giữ tiền bạc thì Thầy thấy cái luận cứ như vậy để mà giữa
cái cất giữ tiền bạc và cái không cất giữ tiền bạc thì đem cái pháp thiết tịnh
này ra để làm cho cái người tu sĩ khỏi bị phạm cái hình thức giới luật nhưng mà
về cái tâm thì không thể nào khỏi là phạm giới luật. Bởi vì cái tâm tham của
người ta nó chưa phải sạch. Thậm chí như ông Phật ổng đã sạch cái lòng tham của
ổng rồi thì thay vì ổng cất giữ tiền bạc cũng được chứ có gì mà phải đi xin vua
chúa cất từng cái chòi lá cho cực. Cất giữ tiền bạc rồi đưa ông Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên bảo: “giờ 2 thầy đi ra ngoài chợ mua số lá dừa về cất đi,
mình đi lại ông mình vua xin cũng cực, rủi ổng có chuyện gì ổng quên đi rồi chư
tăng đâu có nhà ở, thôi mình tiền sẵn...”. Nhưng ông Phật ổng đã ly dục rồi,
ông ly bất thiện pháp rồi bây giờ đưa tiền ông đâu có cất nữa. Bây giờ ông thấy
cái đó là như thế nào đó. cho nên ông đau có cất.
Tại sao mình không bắt
chước ông Phật để rồi mình thuyết cái pháp mà thiết tịnh này để rồi tu sĩ cũng
bị kẹt ở trong đó.
Quý thầy nghe qua cái
pháp thiết tịnh thì rất có lý nhưng thực tế thì không thể được, vì con người
đâu phải là thánh nhân. Đụng tới tiền bạc là có sự thu hút, cám dỗ của nó. Mà
để bị nó cám dỗ thì biết bao nhiêu tiền bạc là đủ. Đó thì như vậy là trong giới
luật chúng ta thấy họ luận ra nhiều cái pháp để mà phá giới mà coi như là mình
không có bị phạm giới.
Căn cứ sự qui định trong
luật, người xuất gia là nương tựa chúng, và sinh hoạt ở trong tăng đoàn. Nhu
yếu phẩm ở trong sinh hoạt của người xuất gia, đều phải do tăng đoàn sở tại
cung cấp. Vì thế thường trụ tự viện có thể tiếp thọ tiền bạc. Nhưng cũng bị hạn
chế rất là nghiêm khắc. Ở đây thì trong các sách giới, các cái giới bổn thì nói
là cái người tu sĩ của chúng ta là mình phải sống ở trong cái tăng đoàn. Mà
trong cái nhu yếu phẩm hàng ngày sinh hoạt của người xuất gia thì phải do cái
tăng đoàn đó sử dụng. Như bây giờ chúng ta đang ở trong cái tu viện này chúng
ta tu hành này, thì bây giờ ăn uống, mặc thuốc thang đều là do tu viện đài thọ,
phải không? Chứ bây giờ chúng ta có đi xin người nào đâu, nhưng mà sự thật ra
thì mình phải biết rằng nếu mà mình cứ sống cứ thế này thì chắc chắn là ….
Như các thầy thì hiện
bây giờ các thầy thấy rằng mình không cất giữ tiền bạc gì hết, không có ai cho
gì hết, chỉ ở trong cái tăng đoàn này cung cấp cho quý thầy thôi. Nhưng mà cái
người lãnh đạo cái người đó là phải cất giữ tiền bạc rồi, làm sao không cất giữ
tiền bạc được. Không cất giữ tiền bạc thì làm sao hàng ngày mà có bữa cơm cho
quí thầy ăn, hàng ngày mà quý thầy áo y mà rách thì sao có cung cấp cho quý
thầy. Cho nên ở đây cái lý luận của giới luật thì nó lý luận là trụ thế tăng,
trụ ở một cái chỗ nào đó, một cái chùa nào đó, thì cái sinh hoạt nó phải có sự
mà tiếp thu tiền bạc hoặc thế này thế khác để cho cái nhu cầu cần thiết cho chư
tăng nó được cung cấp đầy đủ để cho cái bước đường tu tập của nó. Nhưng mà
không ngờ khi một vị thầy mà đã cất giữ tiền bạc rồi thì cái đám học trò này
thầy đã cất giữ tiền bạc rồi thì chúng con cũng cất giữ được chứ sao. Hổng lẽ
bây giờ thầy cất giữ mà không cho chúng con.
Thì như vậy chẳng hạn
bây giờ Thầy nói Thầy giảng này kia, Thầy ăn ba bữa, mây con tu hành hổng có
giảng mệt như thầy thì ăn một bữa. Thì chúng chịu không, đâu có cái lý do đó
được. Bởi vì thầy sao thì học trò như vậy. Vì vậy mà trong cái thời đức
Phật, đức Phật đâu có cất giữ tiền bạc. Cho nên chúng đâu có nói đức Phật được,
mà đức Phật đâu có ăn phi thời cho nên chúng không nói được. Phỏng chừng bây
giờ chúng ta có một ông thầy nào đó mà ăn phi thời bảo chúng ta ăn ngày một bữa
thì chúng ta có chịu không. Chắc chắn là chúng ta không chịu đâu. Đó là
những.cái mà bây giờ chúng ta trụ một cái nơi nào đó thì cũng như Đức Phật mà
di chuyển đên một cái trú xứ nào đó thì Đức Phật ở thì Đức Phật cũng ở tầm một
tháng, hai tháng, ba tháng.
Tức là trong cái mùa an
cư kiết hạ thì đức Phật cũng phải xin cư sĩ người ta cung cấp cho mình hàng
ngày là bao nhiêu cái thực phẩm đó để cho một số chư tăng đó mà sống trong ba
tháng. Thì tức là hàng ngày cư sĩ đó họ đến hoặc là họ giao cho ở đó cái người
cư sĩ nào lo lắng cũng như cái ông cư sĩ mà trưởng giả nào đó ông đâu có đến
ông nấu cơm, ông vô giao cho mấy thằng đầy tớ của ổng đến đó nấu cơm, để mà
hàng ngày chư tăng đó phải đến đó để mà lãnh cơm về ăn. Hay hoặc là trong mùa
an cư thì phải chở cơm gạo đến đó để cho mà cho chư tăng ở đó ăn ở trong mùa an
cư mà không ra các cái giới tràng. Đó, thì quý thầy thấy cái tổ chức nó phải có
cái tổ chức hẳn hòi. Còn như bây giờ, đứng ở trong góc độ của Thầy bây giờ thì
thầy không cất giữ tiền bạc thật, nhưng mà dù sao đi nữa thì giao cho cô Út là
một người cư sĩ đi nữa, nhưng mà cô Út cũng phải chi phí dưới cái quyền của thầy.
Ờ, bây giờ chi gì cũng phải hỏi Thầy chứ để không chi tầm bậy rồi sao. Như vậy
Thầy cũng ở trong chỗ kẹt rồi.
Đó là một cái điều mà
Thầy thấy Thầy chưa có đúng cái cách thức của một vị tu sĩ trong cái thời đức
Phật cho nên bây giờ thầy ba y một bát thầy ra đi từ chỗ này đến chỗ khác, ai
muốn theo thầy thì sống cứ đi xin như Thầy vậy đó. Chứ Thầy hổng có đi xin cho
ai nữa đâu. Đó Thầy làm như vậy thì ai giỏi đến ở với thầy chốn đó, bắt đầu cứ
theo Thầy, rồi tới giờ thầy cũng đi xin, cũng đi xin theo thầy làm giống như
thời đức Phật vậy đó. Có xin được ăn, không xin được thì đói chịu. Mà Thầy có
xin được thầy cũng hổng cho ăn đâu. Bởi vì thầy xin có đủ thầy thôi.
Làm như vậy chúng ta mới
thấy được cái đời sống của một cái vị tu sĩ thiểu dục tri túc mà. Ngày hôm đó
thầy xin được, thì học trò xin hổng được thì không có nghĩa thầy xớt cho người
học trò ăn đâu. Mà thầy cứ tự nhiên thầy ăn thôi. Còn người học trò phải sống
thiểu dục tri túc ngày hôm đó. Có như vậy là mới thấy được cái sự giải thoát,
chứ còn nếu không thì quý thầy tuy rằng ngày nào cũng có bữa cơm chắc ăn hết
thì cái đó là mình cũng chưa chắc là đã thiểu dục tri túc vì mình chắc chắn ở
trong tâm của mình chưa an ổn.
Nhưng ở đâu mà có vị
chơn tu như Thầy đã nói thì ở đó không bao giờ có chết đói. Đi khất thực là có
ăn, đi khất thực là có ăn, tại vì cái phước báo của cái vị đó rất lớn, nó có đủ
cái duyên để cho những cái người khác mà theo họ mà đi xin đều là có sống hết
không có đói.
Thì như vậy chúng ta
thấy rằng trong giới luật nó có nhiều cái qui định mà nó chế ra những cái pháp
mà nó làm cho giới luật của Phật sau này nó bị mất đi. Vì vậy mà hình thức tu
sĩ của chúng ta hiện giờ mà nó phạm giới, nó sống theo cái kiểu thế gian, thì
chúng ta không có nên trách họ, mà chúng ta hãy thương họ.
Căn cứ sự qui định trong
luật xuất gia là nương tựa chúng sinh hoạt ở trong tăng đoàn. Nhu yếu phẩm
trong sinh hoạt của người xuất gia đều phải do tăng đoàn sở tại cung cấp. Vì
thế thường trụ tự viện có thể tiếp thọ tiền bạc nhưng cũng bị hạn chế rất nghiêm
khắc. Tỳ kheo không được chính tay mình cầm nắm, Sadi cũng không có thể cầm nắm
giữ, chỉ có tịnh nhân ngũ giới phụ trách trách nhiệm tiếp thọ, bảo quản.
Nghĩa là ở đây chỉ có
cái người tịnh nhân. Tịnh nhân là người cận sự nam hay là cận sự nữ hoặc là
những cái người mà tịnh nhân mà mới tu đó gọi là cận trụ nam hay là cận trụ nữ
đó. Ở đây giới cứ sĩ thì chúng ta có chia làm bốn cái hạng người. Cái hạng
người mà cận trụ á, tịnh nhân mà cận trụ là cái người đó là người cư sĩ đang ở
trong chùa, thì cái người đó cầm nắm giữ tiền bạc được. Còn cái người mà cận sự
nam, cận sự nữ là cái người đó ở ngoài gia đình, họ đến đây họ cúng dường rồi
họ về chứ không có ở đây. Còn cận trụ là ở tại chùa. Cho nên ở chùa chúng ta
thấy có những người cư sĩ mà họ tập sự để mà họ lần lượt họ mới xuất gia, họ
mới thọ thập giới Sadi thì cái người đó gọi là tịnh nhân. Thì như vậy là chúng
ta biết cái người tịnh nhân họ vô đó họ phụ trách cái nhiệm vụ mà bảo quản,
nhận tiền bạc cúng dường này kia.
Vì vậy, mà chúng ta thấy
rõ ràng là hầu hết, bắt đầu nếu mà giao cho một cái người nào đó thì chúng ta
tin cậy giao cho họ mà không có cái người mà tịnh nhân như vậy thì chúng ta
không thể giao cho họ. Ở đời chúng ta thấy lòng tham của cái người mà khi mà họ
tiếp nhận cái tài sản của tu viện nó lớn lắm, Thầy nói nó chưa có nhỏ đâu và
cái người mà cận trụ nam hay cận trụ nữ mà quản lý cái tiền bạc đó thì họ sẽ bị
đắm bởi vì họ là người mới tập sự, họ bị đắm chìm ở trong cái tiền bạc đó đi.
Nhiều khi họ ôm đi hết. Do đó thì cuối cùng chùa chẳng có đồng gì hếtt mà lại
làm thêm cái tội nữa. Cho nên tốt hơn hết là chúng ta phải tổ chức như thế nào
để giao cho cái người cư sĩ họ có khả năng, họ làm ra tiền bạc. Rồi họ tổ
chức ra một câu lạc bộ, hoặc là một tiệm ăn nào đó. Rồi họ buôn bán ở trên tiệm
đó rồi họ phát tâm cúng dường cho chúng ta một số tu sĩ là 100, 200 người. Thì
hàng ngày chúng ta đến chỗ đó chúng ta xin ăn. Thì trong cái giai đoạn mà hiện
tại chúng ta tu tập như vậy là nó có thể là đúng cách. Còn bây giờ mình ôm bát
mình đi xin á, từng nhà thì nhà giàu cũng cho, người nghèo cũng cho. Nhưng mà
cái người nghèo họ rất khổ nhưng mà họ quý trọng Phật Pháp, họ quý trọng sự tu
hành của chúng ta. Họ phải nhịn từng bát cơm mà cúng dường tăng. Thì cái người
tu sĩ mà chúng ta không làm khổ mình, khổ người đó mà thấy họ dành dụm từng bát
cơm để cho mình ăn thì chắc chắn mình là người tu sĩ mình không nỡ tâm mà ăn
đâu. Cho nên mình thấy có nhiều người nhà giàu họ giàu rất giàu, họ bây giờ bỏ
bạc triệu họ cúng dường mình, chẳng bao giờ họ có thể đói, mà cái người nhà
nghèo họ bỏ ra bát cơm cho chúng ta thì chiều hôm đó vợ chồng người ta đói.
Thì trong cái thời đức
Phật đó, có hai vợ chồng đó chỉ còn có cái y thôi à. Hễ mà vợ đi ra mặc cái y
đó thì chồng ở trong hang chứ hổng dám ra bởi vì lõa lồ thân thể đâu có gì mà
che. Đến khi đức Phật mà đi ngang qua đó thì ngưỡng mộ đức Phật cho nên mới đem
cả chiếc y của mình mà cúng dường cho đức Phật. Do chỗ đó thì người ta mới nói
là khi mà nghe vậy đó thì có nhà vua đang nghe đức Phật thuyết pháp đến chỗ này
nhà vua mới nghĩ đến thương hai người vợ chồng nghèo này mới kêu mới cho y áo
rất đầy đủ. Do vì vậy mà người ta nói cái ý như vậy đó là mình nghèo mà mình
cúng dường như vậy đó chắc chắn là sẽ được y áo đầy đủ, mà trong hiện tại thì
thật ra thì trong thời Đức Phật thì có chứ nếu mà ai mà đem y áo như vậy mà đem
cúng dường Thầy rồi thì chắc chắn hai vợ chồng này ở truồng hổng dám đi ra,
chắc chết đói luôn ở trỏng đó. Thật sự cúng dường, bây giờ cúng dường Thầy đi,
rồi bây giờ Thầy có vua chúa nào đến đây đâu Thầy nói mà cúng dường thì chắc
chắn hai vợ chồng ông đó đâu có dám ra, có cái y mà. Do vì vậy đó mà có thể
chết luôn ở trong đó nữa chứ chưa hẳn đã là.
Bởi vậy cho nên khi mà
chúng ta nhận một cái gì chúng ta phải suy nghĩ, cái người đó có thể cúng dường
mình mà người ta còn có thể sống được hay không. Còn người ta cúng dường mình
mà người ta nghèo quá thì mình tìm mọi cách mình an ủi họ, mình giúp họ bằng
cách nào để họ tu tập trong cái hành động thiện của họ để lần lượt họ chuyển
đi. Chứ bây giờ mà ngay đó họ bố thí cho mình như vậy để cầu cho được cái y áo,
được ăn mặc đầy đủ như vậy thì chắc chắn là cái phước của mình nó không thể
chuyển được cái nghiệp khổ của họ. Bởi vì chính họ họ phải chuyển chứ đâu phải
lấy cái phước của Thầy mà chuyển được họ đâu.
Thầy có tu thành Phật đi
nữa, cái phước của Thầy Thầy hưởng chứ làm sao cái người đó hưởng được. Mà khi
mà Thầy tu cái phước của thầy, mà họ cứ làm ác không mặc dù họ đem hết cái sự
làm ác của họ mà họ đem cúng dường Thầy, tức là họ cũng không chuyển được cái
nghiệp của họ. Ví dụ như bây giờ họ ăn trộm, ăn cướp nhưng mà họ ngưỡng mộ
Thầy, thì cái tiền ăn cướp ăn trộm của họ là một lẽ làm ác, nhưng mà ngưỡng mộ
một vị tu sĩ thì họ vẫn đem cúng dường chứ sao, nhưng mà cúng dường như vậy nó
có tốt lành gì cho cái người cư sĩ đó đâu. Cho nên ở đây chúng ta về cái đạo
đức nhân quả thì Thầy sẽ dạy rất rành ở chỗ này, còn bây giờ thì chúng ta đi
qua cái chỗ này để cho nó nhanh hơn.
Điều này ngày nay không
có cách nào làm được, nghĩa là bây giờ coi như là giao cho người tịnh nhân như
vậy rồi vì cái sự mà mất mát, vì cái sự mà tiền bạc cám dỗ đối với những người
cư sĩ mà giao tiền bạc đó, nhiều khi họ lợi dụng cái chỗ đó mà họ làm cho chùa
nhiều cái điều mang tiếng, rất là mang tiếng. Cho nên vì vậy mà bắt đầu các
thầy đều là cất giữ tiền bạc hết. Như có thể giữ cho không tham cũng đã là khó
rồi. Chớ tuyệt đối mà không cất giữ tiền bạc gần như là việc ít thấy, ít thấy ở
trong cái đời nay. Nghĩa là giữ cho tâm mình đừng có tham là nó đã quá khó rồi
đó, chớ tuyệt đối mà không cho cất giữ tiền bạc á, thì gần như hiện thời Phật
giáo chúng ta thì ít có thấy lắm. Đúng vậy, trong giới luật nó cũng đã xác định
được những cái điều này rất là khó. Nhưng mà khi một người mà cất giữ tiền bạc
mà giữ cái lòng tham của mình đừng có tham thì nó không bao giờ có được đâu. Nó
có tiền bạc rồi thì nó phải có tham thôi, nó không tham cái này thì cũng tham
cái khác. Cho nên rất khó. Con đường của đạo Phật chúng ta thấy cái chỗ này là
chỗ rất khó nhất, nó không phải là dễ, nó không đơn giản đâu, nói thì nó dễ chứ
không đơn giản đâu. Tiền bạc nó có sự thu hút và cái nhu cầu ước muốn của chúng
ta, bởi vì từ cái chỗ tiền bạc đó nó có tham, tham thì chúng ta mới thấy cái
dục của chúng ta. Cho nên là làm sao chúng ta ly được mà chúng ta nhập được sơ
thiền.
Muốn ly dục, ly ác pháp,
người xuất gia chẳng những không được cầm giữ tiền bạc, vàng bạc, châu báu mà
tất cả những vật báu quý, nghĩa là các vật báu quí cũng không cất giữ được nữa,
đương nhiên cũng không được cất giấu và xúc tích một cái gì nữa hết. Nhân vì đồ
quí làm cho tâm tham đắm, một khi đối với vật bên ngoài sanh khởi, tâm tham đắm
đó là tâm bị vật nhiễm. Do thế tâm khó giải thoát được.
Thủơ xưa có một vị xuất
gia, vị ấy đã thấy suốt thế sự danh lợi nên ở ẩn một mình nơi chỗ yên tịnh tu
tập. Đã chẳng viếng thăm ai và cũng không tiếp khách đến thăm. Nhưng vị ấy còn
yêu thích và quí có chiếc bát đựng thức ăn mà thôi. Nghĩa là ba y một bát đó mà
vị này còn thích chiếc bát của mình. Có một vị đạo nhân biết vị ấy còn một
khuyết điểm này, bèn đến gõ vào chiếc bát của vị ấy. Khi đang ngồi thiền vị ấy
nghe tiếng gõ vào chiếc bát của mình, sợ người ta gõ bể cái bát của mình đi. Vị
ấy liền vội vàng từ chỗ ngồi thiền chạy ra. Người gõ bát bèn giáo giới cho vị
ấy. “Tôi biết ông tất cả đều buông xả hết, chỉ có cái bát này là chưa buông
xuống mà thôi”. Đó, các con thấy chưa? Thấy một vật nhỏ mà chưa buông thì tức
là chưa ly rồi. mà chưa ly thì sao đạt được đạo mà cái bát hàng ngày mình sợ nó
đụng tới nó bể đi, bằng đất mà nó có gì đâu mà quí, bể lấy gì ăn đây? Cho nên
còn một chút đó, bể mặc nó, hổng có lo nữa. Do cái xả hết đi, xả sạch đi thì
cái ly nó mới hết.
Cho nên, cái câu chuyện
nói thì cũng là cái câu chuyện đặt thôi, nhưng mà nó có đó. Bởi vì chúng ta xả
hết chứ những vật mà nhỏ nhất chúng ta chưa xả được. Phải nói có một chai dầu
gió mà nhiều khi chúng ta cũng chưa dám xả nữa, chứ chưa nói là chúng ta xả
nữa, thôi để dành để ít bữa có sổ mũi, trét nó cái. Thì như vậy là chúng ta
cũng chưa dám xả chứ gì. Cho nên khó hay không là chúng ta biết cái chỗ tu hành
của chúng ta là cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp. Khó lắm, khó lắm quý thầy. chớ không phải đơn
giản. Nói thì nghe như vậy chớ xả ra thì rất khó. Bởi vì xả cái lớn chúng ta xả được, chớ xả cái nhỏ chúng ta xả
không được. Cũng như một người quan họ thanh liêm ở cái nhỏ, cái vật chất nhỏ,
nhưng mà đến cái vật chất lớn quá họ thanh liêm không nổi, ờ 1 hay 2 lượng vàng
thì họ còn thanh liêm được, tới chừng đó họ 5, 10 ký vàng người ta hối lộ, ông
thanh liêm này ông chịu hết nổi, thành ra ông chịu lấy mấy ký lô vàng. Hồi đó
1, 2 lượng vàng ít quá, ông còn thanh liêm được, nhiều quá ông ta thanh liêm
không được.
Còn cái người tu sĩ,
mình bỏ cái lớn được hết mà tới cái nhỏ coi chừng cái đó nó chưa ly. Vì vậy cho
nên cái mục đích của đạo Phật mà Thầy thường nhắc quý thầy á, ly dục ly ác
pháp. Nếu ly được thì chúng ta sẽ thành tựu được cái giới hạnh rất là cao quí
mà đức Phật nhắm vào giới luật để dạy chúng ta đó. Bởi vì có giới luật nó mới
kiểm nghiệm được cái chỗ ly của mình. Mà không có giới luật thì làm sao kiểm
nghiệm được cái chỗ ly của mình. Giờ còn cất giữ tiền bạc mà nói tui ly dục, ly
bất thiện pháp, tui nhập sơ thiền. Thì ông đó chẳng qua là nói láo rồi. Ông còn
một túi bạc kè kè,mà ông biểu, ông đi đâu ông cũng mang theo thì ông biểu ông ly
là ly chỗ nào. Đó là cái bằng chứng cụ thể.Chứ không phải là không có bằng
chứng cụ thể.
5. Sadi trong tăng đoàn
Bây giờ thầy nói qua
đẳng vị của các bậc của sadi.
Giáo hội đầu tiên lúc
Phật còn tại thế trong tăng đoàn không có sadi. Sự xuất hiện của Sadi trong
Phật giáo so với sự xuất hiện với tỳ kheo ni sớm hơn một chút. Nghĩa là Sadi mà
có mặt thì nó có trước tỳ kheo ni một chút mà thôi. La Hầu La là con của đức
Phật, xuất gia mới bắt đầu có Sadi. Nghĩa là cái đứa bé mà đầu tiên mà thọ giới
Sadi thì đó là La Hầu La. Còn trước kia thì hoàn toàn là tỳ kheo không chứ
không có La hầu la. Các thầy sẽ thấy trong giới luật nó đặt điều những cái đủ
thứ để nó làm các pháp yết ma, nó rườm rà vô cùng à. Còn trong thời đức Phật
thì đơn giản, rất đơn giản, nó không có làm những cái nghi thức mà nó rườm rà.
Càng tới, chúng ta sẽ thấy được cái người sau họ ảnh hưởng của những cái
tôn giáo này, cái tôn giáo kia bằng cái nghi lễ rồi họ đem vô họ nhét vô trong
Phật giáo quá nhiều.
Cho nên bây giờ mà chúng
ta tổ chức giới đàn hoặc là tổ chức cái gì đó, hầu như là chúng ta đã bắt chước
mấy cái tôn giáo khác chứ không phải của Phật giáo đâu. Bởi vì chúng ta nhìn
kinh giới của Phật dạy nó đâu có cái điều này.
Tăng đoàn của người xuất
gia Phật giáo cũng tương tự như tình hình của đại gia đình. Nghĩa là trong cái
tăng đoàn của Phật giáo thì nó cũng giống như một cái đại gia đình, cũng giống
như trong cái gia đình, nhưng ở gia đình thì có ít người, còn cái tăng đoàn thì
nó đông người cho nên gọi là cái đại gia đình. Người xuất gia ra khỏi nhà hữu
vi của thế tục, và vào nhà vô vi của xuất thế. Đó thì cái người xuất gia thì
người ta ra khỏi cái nhà hữu vi mà người ta vào cái nhà vô vi của xuất thế thì
chúng ta thấy từ cái nhà này chúng ta bước qua cái nhà kia. Nhà kia là cái nhà
hữu vi, còn cái nhà này là cái nhà vô vi cho nên chúng ta buông xả hết, chớ còn
nếu có một chút gì thì nó không còn có được nữa.
Trong cái đại gia đình
vô vi không tạo nghiệp sanh tử này có nam, có nữ, có già, có trẻ, có lớn, có
nhỏ. Nhưng họ đối xử với nhau hòa thuận, vui vẻ. Sự tiếp nhận tăng đoàn của
Sadi là nhân tài của Phật giáo. Nghĩa là ở đây Thầy muốn nói như thế này:
nghĩa là sự tiếp nhận sadi vào tăng đoàn Phật Giao á, là để cái mầm non của
Phật giáo nó tiếp nối, là cái nhân tài của Phật giáo sau này nó sẽ tiếp nối. Đó
thì quý thầy thấy rằng khi mà có những Sadi mà vào ở trong cái tăng đoàn Phật
Giao là những cái người mà tiếp nối cho cái tăng đoàn. Còn nếu không có Sadi,
mấy ông già chết riết hết rồi, còn có ai mà tiếp nối đâu. Mấy chú trẻ đâu còn.
Cho nên, hiện giờ ở trong cái đại gia đình của mình bây giờ ở đây là mười mấy
người đây, thì chúng ta thấy có già, có trẻ. Nếu mà cỡ già không thì chúng ta
chết quách hết rồi, thì còn ai gọi là tăng đoàn nữa. Thì như vậy là Tăng bảo nó
mất đi.
Cho nên bây giờ chúng ta
nhìn có người già, người trẻ. Chúng ta chết rồi cũng có người kế. Rồi những
người kế này, họ sống, họ lớn lên, họ nhận những người trẻ nữa. Rồi họ có những
chú Sadi vào nữa và cứ như thế mà tăng đoàn nó vẫn còn hoài nó không mất. Tăng thêm
sự nối tiếp lực lượng mới sanh, nghĩa là có sadi thì nó mới tăng thêm cái lực
lượng mới. Vì thế, lấy Sadi mà làm phần tử chủ yếu cho cái sự nối tiếp của tăng
đoàn. Phần chủ yếu của sadi là nhi đồng. Đó, các thầy thấy
nếu mà cái phần chủ yếu của Sadi mà lấy người già mà làm Sadi á, thì nó cũng
chết lượt với mình cũng như quý thầy giờ già phải vô thọ giới Sadi chứ làm sao
mà thọ gì hơn nữa, mấy ông già Sadi này chưa thọ tỳ kheo ổng đã chết ngắt rồi
thì còn ai mà nối tiếp nữa, mấy ông Sadi này già thì tiêu hết rồi thì sao có
mấy ông tỳ kheo. Cho nên cái phần chủ yếu của Sadi á là lấy nhi đồng mà làm, mà
nhi đồng thì phải từ 7,8 tuổi trở lên chứ còn dưới đó thì không được độ. Nhỏ
quá thì đâu có độ được. Vì con nít mà làm sao sống được cái đời sống tu sĩ. Mà
đã là sadi thì phải thọ thập giới rồi, ăn ngày một bữa thì làm sao mấy chú nhỏ
này làm sao họ sống được. Cho nên sadi phải từ 7,8 tuổi trở lên mới có thể
được.
Trong luật, dưới 7 tuổi
thì không được xuất gia, nghĩa là dưới 7 tuổi thì không sống được cái đời sống
của người xuất gia đâu. Và trên 70 tuổi cũng không cho xuất gia nữa, 71 tuổi là
không được xuất gia rồi, tại sao vậy? vì già cũng không sống được ở trong cái
tăng đoàn này vì đi xin ăn. Nhưng mà chúng ta thấy ở trong những cái trang mà
thánh ni, những trang thánh tăng ở trong cái đời đức Phật, người ta già bảy
mấy, tám mấy đức Phật còn thu mà, cũng còn cho thọ Tỳ kheo nữa chứ đừng nói thọ
Sadi không. Do vì vậy mà chúng ta thấy trong cái thời đức Phật nó rộng rãi vô
cùng. Miễn là người đó vào tu mà chứng đạo là thôi, miễn là làm sao cho người
đó giải thoát chứ không có hạn chế cái tuổi tác mà ở đây trong giới luật
các thầy thấy nó hạn chế rất là ghê gớm.
Một chú dưới 7 tuổi thì
không cho xuất gia. Nhưng biết đâu chú mới có 5 tuổi mà là thần đồng thì làm
sao, mà không cho xuất gia thì một chú 5 tuổi thần đồng, vô đó nó làm trưởng
lão rồi, thì quý vị nghĩ sao, nó có giải thoát rồi. Nó còn đi móc dế à, mà nó
là chỉ cái ông thượng tọa là phải tu theo kiểu móc dế của nó. Muốn bắt con dế
thì phải đẩy cái lỗ như thế này, đẩy cái lỗ như thế này nè, nó có 6 cái lỗ này,
ông phải đậy hết 5 cái lỗ này, ông chừa một cái lỗ này thì ông sẽ bắt được con
dế này. Ờ,nó dạy như vậy đó, nói bắt dế mà nó nói chuyện tu của nó mà nó nói
chuyện bắt dế không à. Mà cái vị thượng tọa tu quá lâu rồi, lớn tuổi rồi, 5,6
chục tuổi rồi mà tu không chứng. Mà đến hỏi các vị sadi, bắt đầu ông hỏi ai
người ta cũng hổng chỉ, ai cũng hổng nói, ông về ông tu đi, tui cũng không biết
tui mắc tu. Đến cái chú sadi nhỏ tuổi nhất ở trong cái đoàn đó, thì lại chú chú
lại chỉ, bịt hết, bịt hết mấy cái lỗ, ông chừa lỗ thì ông bắt nó được.
Như vậy thì rõ ràng là
mình có cái tụ điểm mình nằm đó chứ gì, cho nên bắt được 6 con dế hết. Các con
thấy không. Đó là những mẩu chuyện mà sau này thầy có thể Thầy thuật lại cho
quí thầy nghe cái chuyện. Nó mắc cười là một cái người mà tu rất lâu, học giáo
lý rất thông mà được cái chú sadi mới vô mà chỉ cách bắt dế là cái ông này đã
chứng đạo quả Alahan liền. Đó là cái hay đó. Bởi vì Thầy nói thần đồng ở trong
Phật giáo mà, mà ngay đó chú đó lại là trưởng lão, thượng tọa đó. Chớ hổng phải
là thường đâu. Bởi vì đức Phật gọi Trưởng lão là cái bậc mà đã tu chứng rồi đó,
dù là cái người đó mới là sadi cũng vẫn là trưởng lão. Chớ không phải khinh chê
người ta tuổi trẻ đâu. Cho nên vô đó, chú dẫn vô hang dế chú chỉ cho ông đó.
Ông đó ổng về ổng hiểu liền tức khắc, ông về ông bịt hết 6 cái mắt, tai, mũi,
miệng, ông chỉ chừa lại cái ý thức ông thôi. 5 cái lỗ kia ông bịt lại hết, bịt
riết nghe riết gì hết, tức là ông thành tựu chứ gì, rõ ràng là tu đúng đó.
Hiểu được mà biết bịt
được phải có tài dữ lắm, vì vậy chắc là ông thầy này ông phải đến hỏi: “Chú bịt
cách nào mà nó hổng nghe, phải hông? chứ tui bịt sao nó cứ nghe hoài”. Do đó,
thì cái chú này mới nói: “thầy bịt như này thì nó hổng nghe, thầy bắt chước
thầy bịt đi”. Ông này về cái ông làm thử thì nó hổng nghe thiệt. “ Đúng, chú
nhỏ này hay thiệt, sadi này ngon thiệt, vậy mới là Alahan chớ”.Cái thầy của
mình chớ. Cuối cùng thì cái ông thầy này trở lại làm đệ tử cho chú sadi 5 tuổi
chứ đừng nói là 7 tuổi. Cho nên trong cái giới luật Thầy nói nhiều cái mà nó có
thể nó vô lý lắm. Nó bắt hạn chế tuổi người ta thế này, thế kia, thế nọ, đủ thứ
hết. Một cái người mà thật sự ra thì trong cái tăng đoàn, thì nó có cấm là một
cái người què tay, cụt chân chột mắt á không có cho tu, không có cho xuất gia,
không cho thọ Tỳ kheo. Là tại sao vậy? tại vì, trong cái tăng đoàn mà đi ra mà
đi xin á, người ta thấy cụt tay, cụt chân người ta nói: “Trời ơi, Phật giáo gì
mà toàn là thứ cụt tay, cụt chân không”.
Cho nên vì vậy đó trong
giới luật nó cấm nữa. Nhưng mà trong cái bình đẳng của đạo Phật chúng ta phải
hiểu là, cụt tay, cụt chân là cái nhân quả của người ta chứ tâm người ta đâu có
cụt tay, cụt chân. Cho nên chúng ta cũng dạy họ tu được, đâu phải họ không giải
thoát được chứ. Cái thân nó là vô thường mà, đâu phải vì cái thân mà bỏ người
ta như vậy. Cho nên vì vậy theo Thầy thiết nghĩ người nào thì kệ, ai chê tăng
đoàn chúng ta cụt tay, cụt chân cũng được, như vậy là chúng ta mới thấy thương
người chớ. Còn này chê người ta cụt tay, cụt chân không cho người ta thọ gì
hết. Thôi ông vô cái tăng đoàn của tui ông làm xấu hết. Người ta nói tu sĩ phật
giáo sao mà què tay, què chân cụt cẳng, cụt giò hết trơn vậy. Cái đó là cái
nghiệp của người ta riêng nhưng mà mình phải độ cho người ta giải thoát thôi,
do cái tâm ly dục, ly bất thiện pháp thôi. Nhiều khi cụt tay, cụt chân mà người
ta có thể người ta ly được.
Còn mình còn nguyên tay,
nguyên chân nhiều khi mình ly không được thì sao. Nhiều khi Thầy đọc giới luật
Thầy thấy rất thương. Tại sao mà họ chế giới ra họ ngăn cản quá độ như vậy.
Cũng như một vị mà các thầy nghe tỳ kheo bị bệnh cùi, mà nó rụng từng lóng tay,
lóng chân, nó rụng từng cánh tay. Thì ông này ông không cụt tay, cụt chân sao.
Phải hông? Nó vẫn cụt tay cụt chân chứ sao. Thế mà Đức Phật vẫn cho ông ta vào
tu thì chúng ta nghĩ sao. Đó thì chúng ta phải thấy được cái chỗ mà theo đạo
Phật thì nó có những cái điều kiện mà chúng ta phải cần thiết mà hiểu để chúng
ta thấy được cái giới luật nó có những cái sự hạn chế rất tội cho chúng
sanh,rất tội cho con người.
Nhiều khi Thầy thấy
những người cụt họ có khả năng hiểu biết Phật Pháp rất là sâu, họ hiểu biết
lắm, nhưng mà họ không được thọ tỳ kheo, họ không được gì hết. Nghĩa là coi như
là cao lắm là vị thầy nào thương cho thọ sadi đó là may lắm, còn không thì họ
cho làm tịnh nhân không à. Cho nên đó là những cái rất là đau lòng. Đến đây
Thầy xin chấm dứt bài giảng buổi sáng.Chúng ta sẽ tiếp tục vào cái buổi
chiều nay.
6 Thầy trả lời câu hỏi
của thầy Thiện Thuận
Thầy trả lời câu hỏi của
thầy Thiện Thuận: “Bạch thầy, cho con thưa hỏi về cách ám thị phá âm thanh, nếu
ám thị bằng câu trạch pháp như trên, thì con phải ám thị, ra lệnh lúc ngồi
thiền khi còn ở hơi thở 5 giây hay 10 giây hoặc 20 giây, hay là ám thị cùng một
lúc, với ra lệnh các hành ngưng, và hơi thở ngưng, xin Thầy chỉ thêm.Và
khi xả ra bằng ám thị câu nào? Xin thầy chỉ dạy thêm”
Quý thầy lưu ý cái chỗ
này, để thầy chỉ cho cách thức mà ám thị. Khi mà vào ở trong cái trạng thái mà
mình đã ra lệnh, không có thấy hơi thở nữa. Tức là mình thấy nó đã ngưng đó,
thì lúc bấy giờ mà mình còn nghe âm thanh thì bây giờ mình mới dùng cái câu ám
thị mà hồi sáng Thầy đã cho. Mình gọi nó, rồi mình ra lệnh bảo nó ngưng và cứ
làm như vậy, mà thấy còn nghe âm thanh là cứ ra lệnh mãi, còn hết nghe thì
thôi. Còn nghe thì ra lệnh. Còn nếu mà muốn dùng cái câu này, mà bám vào tụ
điểm á. Thì bắt đầu từ 5 giây, tức là chúng ta thở hơi thở 5 giây, rồi chúng ta
ám thị cho âm thanh từ bắt đầu cho nó hết, mà khi nó hết nghe âm thanh ở 5 giây
á, thì lúc bây giờ đến 10 giây, 20 giây thì nó không còn nghe nữa. Còn nếu mà
nó còn nghe nữa, tức là nó chưa bám chặt cái tụ điểm. Vì vậy mà chúng ta hãy
trở về cái tụ điểm mà gọi cái nhĩ thức bám cho chặt vào trong cái tụ điểm. Đừng
có nghe âm thanh ra ngoài. Nếu mà nó đã ở trong một hơi thở 5 giây, mà nó có
nghe âm thanh thì ngay đó ở 5 giây chúng ta luyện tập. Chứ đừng nên ở 10 giây,
20 giây. Còn nếu ở 10 giây, 20 giây mà gọi hơi thở ngưng, và thấy nó ngưng nó
không còn thở nữa, các hành ngưng, nó ngưng, thì ở đó mà còn nghe âm thanh thì
chúng ta dùng cái câu ám thị này, mà chúng ta ám thị cho nó không có nghe.
Và khi mà nó không nghe
rồi, thì bắt đầu chúng ta muốn ra trở ra thử coi nó có nghe không thì chúng ta
ra lệnh: “Cái nhĩ thức á phải ra khỏi cái tụ điểm, nghe lại coi có nghe âm
thanh bên ngoài không”. Bắt đầu chúng ta ra lệnh chúng ta nghe nó nghe ra ngoài
được, thì đó là chúng ta đã điều khiển cái ra và cái vô được, tức là xuất và
nhập định được. Qua cái âm thanh, dựa vào cái âm thanh mà chúng ta đã điều
khiển được cái nhập định và xuất định.
Đó thì như vậy là quý
thầy đã rõ thấy một cái câu ám thị đó, mà chúng ta chỉ kêu nó bám chặt vào tụ
điểm, để không nghe âm thanh thì đó là vô, là nhập. Còn nếu khi mà chúng ta cũng
từ ở chỗ tụ điểm đó mà chúng ta bảo cái nhĩ thức á, hãy trở ra nghe âm thanh,
mà nó trở ra nó nghe âm thanh, thì tức là cũng cái câu ám thị đó mà chúng ta
gọi nó trở ra và gọi nó trở vô. Đó thì như vậy là chúng ta dùng một câu mà có
thể sử dụng được hai cái ra và vô, chứ không cần phải là nhiều. Bởi vì chúng ta
gọi đúng tên là nhĩ thức là nó rồi, bởi vì nhĩ thức nó mới có bám cái thinh
trần, chứ còn có cái khác thì nó không bám được cái thinh trần. Đây là chúng ta
lấy một cái chỗ mà chúng ta tu tập.
Như hồi sáng Thầy đã nói
một cái chú sadi dạy một vị trưởng lão mà tu cách thức mà kiểu mà chú bé đi bắt
dế,một con dế này nó có làm 6 hang ngách, cho nên chú chỉ chừa một cái hang
ngách của ý thức mà thôi. Còn 5 cái lỗ kia chú bít lại hết, cho nên chú đổ nước,
con dế phải lên ngay cái lỗ ý thức mà thôi chứ không còn chỗ nào được. Do vì
vậy đó, chú dạy vị thầy đó, phải bịt cái lỗ nào trước, bịt cái lỗ nào sau. Và
lần lượt bịt tất cả các lỗ, chừa một cái lỗ mà thôi. Cuối cùng thì là nhập
định. Như vậy là chúng ta thấy rằng, mắt, tai, mũi miệng thân ý của chúng ta là
6 cái lỗ của một con dế.
Con dế đó ví dụ cho cái
thức của chúng ta, cái thức của chúng ta mà, nó duyên qua 6 cái lỗ để làm việc.
Do vì vậy, bắt đầu chúng ta phải bít cái lỗ nào trước, bít cái lỗ nào sau. Nhất
là cái lỗ mà nhĩ thức á, cái lỗ tai, cái nhĩ căn á, cái đó khó nhất á. Và cái
kế đó là cái thân thức, cái hang đó cũng khó đó, bởi vì nó có xúc chạm nó làm
chúng ta đau, có cái thọ lạc hoặc thọ khổ, do những cái hang đó là những cái
hang độc đáo lắm. Vì vậy mà chúng ta khi mà tu tập chúng ta phải chuẩn bị nhất
là chúng ta phải chuẩn bị cái âm thanh. Coi chứ cái âm thanh nó khó lắm. Còn
cái thọ, chung ta chuẩn bị để đánh cái thọ, chúng ta cứ tăng dần tăng dần lên
á, thì cái thời gian ngồi dài quá để mà đánh thọ thì nó sẽ lui, phải tăng lên
thì cái thọ nó mới lui, mà không tăng lên, thì cái thọ thì nó sẽ không lui. Mà
hễ tăng lên, cái thọ lui thì cái thân chúng ta ngồi lâu, mà ngồi lâu thì nó
sanh ra vô minh, nó vô ký, hôn trầm, nó lặn vào trong các trạng thái vô
ký.
Cho nên vì vậy mà chúng
ta mất tỉnh giác, mà hễ mất tỉnh giác thì chúng ta rơi vào 18 cái loại tưởng.
18 cái loại tưởng thì rất là nguy hiểm cho nên nó chẳng đưa chúng ta đi đến chỗ
nào được. Vì vậy mà chúng ta không cần ngồi nhiều, mà chỉ cần cái thời gian
ngắn mà chúng ta phá được âm thanh. Mà phá được âm thanh, cái thọ phá được rất
dễ, chứ còn còn không khéo không phá được âm thanh á, thì cái âm thanh nó câu
hữu với cái thọ nó làm cho cái ý chúng ta chạy ra cái thân thức nó làm cho chúng
ta có cảm giác đau đớn. Đó thì, cho nên chúng ta không thể ngồi lâu được. Vì
vậy mà biết được cái chỗ này á thì, cách thức của một chú sadi mà dạy để bít 6
cái căn của chúng ta thì chúng ta biết rằng cái điều kiện cần thiết để chúng ta
tu tập mà dùng pháp hướng là cái lỗ ngách thứ nhất của con dế là cái lỗ tai.
Cái lỗ tai của chúng ta.
Cho nên chúng ta phải
bịt cái lỗ tai trước, và khi mà bước vào con đường thiền định thì chúng ta phải
thấy cái lỗ tai là rất cần, cái nhĩ thức là rất cần thiết phải bịt nó.
Rồi kế đó là thân thức chúng ta mới bịt. Rồi tất cả các cái khác thì dễ lắm
không khó nữa. Nghĩa là cần bít được cái lỗ tai á, Thì tất cả những các lỗ khác
chúng ta đều bít được. Vì vậy mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật dạy, 1 cái
khăn, 6 cái gút mà chúng ta mở ra 1 cái gút thì chúng ta mở được hết. Mà giờ
chúng ta vào cái gút của cái nhĩ căn á, chúng ta bít nó được á, thì chúng ta sẽ
bít tất cả các lỗ khác dễ. Tức là mở cái gút này thì tất cả 5 gút kia đểu
mở hết. Đó là những cái điều kiện mà chúng ta biết được cái đó là cái quan
trọng, bởi vì âm thanh rất là khó chứ không phải dễ. Phá được âm thanh thì phá
được tất cả.
Vì vậy mà trong kinh đó
nó lấy rằng phản văn, văn tự tánh, nghe lại ngay từ cái nghe của mình nhưng mà
vì nó luận ở trên cái sự siêu xuất quá, cho nên nó không có cách thức. Vì vậy
mà ngay từ khi mà tu cái Thánh phòng hộ sáu căn á, thì chúng ta cũng phòng hộ
mắt, tai , mũi, miệng, thân, ý của mình. Mắt, tai là cái vấn đề rất quan trọng,
tiếp xúc với trần rất là rõ ràng. Vì mắt thì tiếp với sắc, mà tai thì tiếp với
âm thanh. Cho nên do nhưng cái đó nên chúng ta phải phòng hộ hơn là tất cả
những cái căn khác. Quý thầy lưu ý trong mỗi cái phần mà tới chừng mà dạy về
cái giới hành á, thì Thầy sẽ chỉ cái nào quan trọng trong khi mà chúng ta tu
cái thánh phòng hộ sáu căn thì phòng hộ cái nào trước, cái nào sau, đó là cái
giới hành. Và tu tập những cái gì để cho chúng ta làm chủ được từng bước một
của cái nấy, nó rõ ràng và cụ thể. Đó thì qua cái lời của thầy thiện Thuận hỏi
á, thì Thầy trả lời á, thì thầy nhớ kỹ như vậy chúng ta lấy từ cái hơi thở mà 5
giây mà chúng ta hướng tâm cho cái tâm bám trụ, cái nhĩ thức bám trụ cho chặt ở
cái tụ điểm và đồng thời hướng tâm cho nó quay trở vô, nó không có bung ra
ngoài thì âm thanh nó sẽ phá từ đó, và khi mà chúng ta kéo dài đến 10 giây cho
đến 20 giây thì chúng ta hướng tâm hơi thở ngưng nghỉ thì lúc bấy giờ cái âm
thanh cũng không còn nghe nữa, thì như vậy là chúng ta đang ở trong cái trạng
thái của tứ thiền, mà không có một trạng thái gì ngoài ra một trạng thái thanh
tịnh. Đến đây thầy xin chấm dứt trả lời cái này, chúng ta tiếp tục chuyển sang
cái bài học buổi sáng.
Lý do người mà quá trẻ
tuổi như các chú Sadi đó, dưới cái 7 tuổi đó thì không sao chịu nổi cái cuộc
sống xuất gia. Bởi vì chúng ta thấy cuộc sống xuất gia nó không phải sống theo
ở ngoài thế tục rồi. Nó có cái lối sống khác của nó. Cho nên cái người mà còn
nhỏ quá không thể sống được. Thành phần của sadi có chia ra làm hai loại….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét