Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 17


BĂNG SỐ 16-17: GIỚI TỲ KHEO


Băng số 16 (27:55)
Trước khi bước vào đạo lộ thứ hai và tiếp tục bài học giới luật đã qua, Thầy đã giới thiệu với quý thầy một sơ đồ của đạo lộ thứ hai này để chuẩn bị hành trang cho người tu sĩ khi bước chân vào lộ trình này không còn ngỡ ngàng từ giới luật đến thiền định và trí tuệ vô lậu, lý pháp và hành pháp thường ứng dụng liên tục, có thấp có cao, có dễ, có khó, chỉ còn tùy ở người tu sĩ, tức là hành giả, có nhiệt tâm, có tinh cần siêng năng tu tập đúng thì kết quả rất là nhanh chóng.
Phần thứ nhất của người tu sĩ phải sẵn sàng trang bị buông xả cho thật sạch, nghĩa là cái phần mà thứ nhất này khi bước vào cái đạo lộ thứ nhất này thì cái người mà tu sĩ mà bước vào đạo lộ của người tu sĩ thì tức là phải sẵn sàng buông sạch, thật sạch chứ không còn có để một dính mắc này nọ thì chúng ta mới tu có kết quả rất lớn. Còn nếu mà không có sẵn sàng buông sạch, nó còn dính một chút xíu gì ở thế gian, dù là một cái vật chất rất nhỏ đi, nó cũng khó cho chúng ta tiến bước ở trên con đường mà cái lộ trình thứ hai này được.
Một, đây là những lời của Đức Phật đã cân nhắc cho cái sự bước vào cái lộ trình thứ hai để chúng ta chuẩn bị cho tinh thần mình vững chắc, để thấy cuộc đời của người tu sĩ như thế nào, cho nên đức Phật có nêu lên nhiều cái điều kiện để chúng ta bước vào cái lộ trình thứ hai: “Một, trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ mong cầu, cất chứa nhiều y phục và đồ ăn uống”. Đó là cái thứ nhất mà ông Phật đã nhắc nhở cái người tu sĩ bước chân vào, là trở thành một vị tỳ kheo đó, thì không có được cất chứa nhiều y phục và đồ ăn uống. Đó là cái thứ nhất ở trong cái giáo pháp của đức Phật.
Cái thứ hai, “Trong giáo pháp ta không có người tu sĩ kinh doanh buôn bán hoặc gieo trồng các loại cây”. Đó là cái vấn đề mà phải xác định đạo Phật, đây là những bài kinh mà đức Phật xác định con đường mà người tu sĩ phải làm. Đây là đạo lộ thứ hai rồi chứ không phải là đạo lộ thứ nhất của người cư sĩ nữa đâu. Cho nên hoàn toàn là không có được kinh doanh buôn bán hoặc gieo trồng các loại cây, nghĩa là không có cấy lúa, không có trồng cây trồng này kia, tất cả những loại cây nào cũng không có trồng hết. Nghĩa là cái người tu sĩ chỉ còn có cái chấp nhận là đi xin ăn thôi, người ta cho thì ăn mà không cho thì đói chứ còn không có trồng tỉa gì hết, hoàn toàn là không có làm tất cả những công việc gì hết. Đây là cái giáo pháp của Phật đã dạy cho cái người tu sĩ chứ không phải là Thầy bịa ra đâu, mà đây là hẳn hòi là ở trong kinh điển chỉ dạy rất rõ ràng, đây là lời Phật dạy đó.
Ba, “Trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ dùng nhiều phương tiện cầu lợi, cầu lợi dưỡng cho mình, dùng ngà voi và những loại báu khác để làm giường cao rộng lớn, gối êm nệm ấm, chăn ấm thêu màu rực rỡ”. Nghĩa là cái điều kiện thứ ba đức Phật cấm, chấm dứt là không có cho dùng những cái phương tiện để mà làm cho mình có những cái vật báu như ngà voi hay là châu báu đó, không có được, và cũng không có chấp nhận là cái người mà tu sĩ mà theo đạo Phật nằm giường cao rộng lớn mà gối êm nệm ấm, nào nệm mút đồ đó thì không có được, hoàn toàn là chấm dứt, không có được chăn mền mà thêu bông hoa rực rỡ bằng cách này bằng cách khác như người thế gian được, nghĩa là chấm dứt cái điều đó. Đó là chuẩn bị cho cái tư tưởng tinh thần của người tu sĩ, chứ nếu không thì chúng ta lầm lạc lắm, chúng ta không hiểu, mà những bài pháp này là nằm ở trong kinh A hàm và kinh Nguyên thủy rất là rõ ràng, luôn luôn lúc nào nó cũng nhan nhản ở trước mắt của chúng ta, không thể nào mà chúng ta chối bỏ được.
Bốn, “trong giáo pháp ta không có người tu sĩ hay trang sức thân mình, tô thoa ướp bằng dầu thơm, tắm gội bằng nước thơm, hương bột rắc khắp mình, chải đầu với dầu thơm, mang tràng hoa đẹp, soi gương, thoa phấn, đi giày thêu, mặc quần áo thuần một màu trắng, dao gậy luôn luôn đeo bên mình, đi có lọng che, tay cầm quạt, sửa soạn xe cộ lộng lẫy.” Đó là tất cả những cái mà đức Phật đã chuẩn bị cho người tu sĩ mà theo đạo Phật thì đi đừng có cầm gậy ba toong hoặc này kia chống, không có xách cái kiểu mà gậy gộc như vậy hay hoặc là dù, hoặc này kia. Hoàn toàn là không có trang sức cho mình một cái gì, không có được giày dép hay hoặc là những cái loại mà làm cho mình đẹp, trang hoàng cho mình đẹp đẽ qua quần áo hoặc là gậy gộc, hoặc là đeo theo mình bằng cái này cái kia. Ở đây lọng che cũng không có nè, tay cầm quạt cũng không có nè. Vì vậy ở đây những bài kinh này như vậy đó mà Thầy thấy các nhà sư có quạt che đầu, rồi có dù, có những cái này kia mà sao trong những bài kinh này lại cấm không có cho sửa soạn như vậy đó. Mưa là mưa chứ không có xách dù xách lọng, đó mà Thầy thấy có nhiều nhà sư có dù có lọng rồi có cái quạt cầm tay đủ loại, sửa soạn xe cộ lộng lẫy. Xe cộ mà đi mà ngồi xe cộ lộng lẫy thì chắc chắn là ông thần, ông Phật không có rồi, cho nên ở đây đức Phật đã quyết định là trong giáo pháp của đức Phật là không có những hạng người mà sửa soạn như vậy.
Năm, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ ham thích vui chơi bằng những trò chơi giải trí vui đùa khác”. Nghĩa là trong giáo pháp của Phật không có người tu sĩ ham thích đá banh, chạy đua hay hoặc là bơi lội hay hoặc là đánh cờ hay hoặc là tất cả những cái trò chơi giải trí, hay hoặc là đánh tennis hay hoặc là làm những chuyện giải trí khác thì không có được chơi những trò chơi đó. Đó là phần thứ năm.
Phần thứ sáu, “Trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ thường nói những lời vô ích chướng ngăn Thánh đạo”. Nghĩa là người mà vào ở trong cái giáo pháp thì phải chuẩn bị giáo pháp của Phật, thì phải chuẩn bị không được nói lời phiếm, nói chuyện tào lao, nói chuyện tầm bậy tầm bạ, nói chuyện lời vô ích, không có nhắc chuyện đời xưa, mà cũng không nhắc chuyện trước kia mình làm cái nghề này nghề kia nghề nọ, mình là người ăn chơi hút xách hoặc là làm cái này kia. Mình làm gì làm giờ vô rồi không còn nhắc lại chuyện đó nữa. Nghĩa là hồi đó mình trác táng bài bạc như thế nào mặc. Bây giờ vô rồi thì không có nói cái chuyện đó ra. Tức là nói những chuyện đó là chuyện vô ích, chuyện đã qua, chuyện không đúng, cho nên trong giáo pháp của Phật thì không có người tu sĩ mà đem những chuyện đó thuật lại. Hồi đó thì mình trai gái mèo mỡ thế nào bây giờ đem vô cũng thuật lại cho ông thầy này nghe ông thầy kia nghe. Hồi đó ngồi rình góc nhà người này, ngồi rình góc nhà người kia bằng cách là ve vợ ve con người ta bây giờ cũng đem vô đây nói. Đó là những cái chuyện vô ích, cái chuyện không có đúng cách của người tu sĩ. Cho nên trong giáo pháp của Phật thì không có những cái người tu sĩ đem nói những cái lời không có đúng cách như vậy. Đó là cái điều kiện mà Phật đã nêu lên để chúng ta chuẩn bị, chúng ta bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì phải chúng ta phải chuẩn bị hẳn hòi những cái điều kiện đó. Cái gì mà xảy ra rồi trong cuộc đời chúng ta trước khi mà chúng ta chưa biết Phật pháp thì bây giờ chúng ta phải dẹp bỏ hết, không có được nói lại, không được nhắc lại.
Bảy, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ trau chuốt văn chương, lời hay ý đẹp hoặc làm ra vẻ nghiêm trang chê bai người khác lấy lợi, cầu lợi”. Nghĩa là ở trong cái giáo pháp đức Phật thì không có trau chuốt văn chương, làm thơ làm văn làm cái này kia đẹp đẽ để mà cầu lợi cầu danh ở trong đó. Cho nên ở đây đức Phật cấm không có cho những người tu sĩ của mình ở trong giáo pháp của mình không có những loại đệ tử như vậy. Chứ không phải là vô trong đó rồi bắt đầu làm thơ làm văn, rồi ông thầy nào cũng có tập thơ hết, thơ thiền thơ đạo đủ thứ hết. Đó là cái sai không có đúng, bởi vì đây là những cái lời của Phật răn dạy, chúng ta chỉ tu giải thoát chứ không phải làm thơ làm văn để khoe cái hay cái đẹp của mình qua cái thương vay khóc mướn của thơ văn. Cho nên tất cả những cái này đều là dẹp xuống hết.
Tám, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ cùng nhau tranh tụng hoặc ở bất cứ nơi đâu cũng tranh nhau, cãi nhau các chuyện thị phi: Ta là người biết rõ kinh luật còn ngươi thì không biết rõ gì cả. Ta hướng về chánh đạo còn ngươi hướng về tà đạo, lấy trước nói sau, lấy sau nói trước. Ta đủ sức nhẫn nhục, còn ngươi thì không đủ sức nhẫn nhục”. Đó là những cái mà chê bai nhau, cái tranh tụng nhau, cái không có làm đúng cách thức trong giáo pháp của Phật, cho nên đức Phật nói rằng khi mà cái người mà bước vào mà cái lộ trình thứ hai mà trong giáo pháp của Phật thì hoàn toàn là phải chấm dứt những cái điều tranh cãi, không có tranh tụng hơn thua nhau, không có lý luận cái điều này lý luận điều kia, không có coi người ta không hiểu, không có coi mình hơn người ta, mà luôn luôn lúc nào mình cũng lo tu tập, đặt niệm trước mặt mà tu tập. Đó là những cái điều kiện mà cần thiết cho một cái người tu sĩ theo đạo Phật trong cái lộ trình thứ hai.
Chín, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ làm sứ giả thông tin đây kia, tự mình làm hoặc bảo người khác làm môi giới”. Nghĩa là Đức Phật cấm là không có cho mình đi làm thông tin, hoặc là làm gián điệp, hoặc là làm mai dong, móc người này móc người khác. Tất cả những cái này trong giáo pháp ta không có người tu sĩ như vậy.
Mười, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ tập luyện đao kiếm, cung tên, hoặc đá gà, đua ngựa, hoặc phe nam phe nữ đấu nhau, hoặc trỗi lên không ngớt những tiếng nhạc, tiếng cười đùa, vui hát”. Đó thì trong giáo pháp của đức Phật thì không có những loại như vậy, tức là không có tập luyện võ, không có tập kiếm cung, không có đi những trò chơi như đá gà, đá ngựa hay hoặc là tập hợp phe nam phe nữ mà đấu với nhau, hoặc là trỗi lên những khúc nhạc ca hát, vui đùa, cười cợt. Đó là trong giáo pháp của đức Phật không có những loại tu sĩ như vậy. Những vị tu sĩ mà tập luyện võ này kia như vậy thì nó không đúng cách của đạo Phật. Mà không có trỗi lên giọng ca, giọng kèn, tiếng hát, cười đùa một cách vô trật tự thì đức Phật không chấp nhận trong giáo pháp của Ngài.
Mười một, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ làm những việc tà mạng, ngăn ngại đạo pháp để tự sinh sống như xem tướng lành, tướng dữ, tướng tốt, tướng xấu của con trai, con gái để mong cầu lợi dưỡng”. Nghĩa là mấy người mà xem tướng đó, xem mụt ruồi, xem tướng này kia, xem chỉ tay,... thì ở trong giáo pháp của đức Phật không có những cái loại đó. Những người mà làm như vậy là trong giáo pháp đức Phật không chấp nhận. Tức là bước qua cái lộ trình thứ hai này mà những người mà còn làm những cái chuyện đó thì tức là đức Phật không chấp nhận cho đó là người tu sĩ trong đạo pháp của ta.
Mười hai, “trong giáo pháp của ta không có người tu sĩ làm những việc nuôi tà mạng, ngăn ngại đạo là để tự sinh sống như kêu gọi quỷ thần, thực hiện các loại bùa chú trù yểm, dùng chú thuật thực hành khổ hạnh để cầu mong danh lợi”. Đó là trong giáo pháp thì đức Phật cấm người đệ tử không có được dùng khổ hạnh mà để làm cho người ta quá cung kính mình để mà cầu danh lợi, cũng như không có được dùng bùa chú hoặc là kêu quỷ thần làm những cái chuyện không đúng cách. Những cái điều đó là những cái điều tà nghiệp, tà mạng đó thì đức Phật cấm là không có cho cái người tu sĩ ở trong giáo pháp của đức Phật làm.
Mười ba, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ làm những điều tà nghiệp ngăn ngại đạo để tự sinh sống như đọc thần chú để chữa bệnh hoặc đọc chú làm thuốc thang, châm chích trị liệu, điểm huyệt các bệnh hoặc tụng kinh, đọc chú, cầu cúng, cầu siêu, cầu an”. Tất cả những cái điều kiện này trong giáo pháp của đức Phật là cái người mà tu sĩ thì không được làm những cái nghề đó, không được làm những nghề thuốc thang, bùa chú hoặc là tụng chú, tụng kinh, tụng kệ để làm những cái việc mê tín, thậm chí như là châm cứu, hoặc là chích, hoặc là điểm huyệt này kia để trị bệnh người ta thì ở đây ở trong cái giáo pháp của đức Phật cũng cấm không cho chúng ta làm. Cho nên trong giáo pháp của đức Phật thì không có những cái loại tu sĩ như vậy.
Mười bốn, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ làm những điều tà mạng ngăn ngại đạo để tự sinh sống như tụng chú cầu nước, cầu mưa, cầu quỷ thần nhập”, như mấy người mà lên đồng để nhập vào, cầu quỷ thần nhập vô đó để mà nói chuyện bệnh đau của họ, “dùng bùa chú để yểm trấn nhà cửa mồ mả, đoán mây, xem tay tính quẻ, chiêm tinh hoặc là sách âm nhạc, đoán mộng”, hoặc là sách âm nhạc thì trong giáo pháp của đức Phật thì không có những loại tu sĩ mà làm những cái hành những cái tà nghiệp như vậy.
Mười lăm, “trong giáo pháp của ta không có những tu sĩ làm những điều tà nghiệp, ngăn ngại đạo pháp để tự sinh sống như đoán xem thời tiết có mưa hay không mưa, được mùa hay mất mùa, điều lành điều dữ, coi ngày tốt xấu cưới vợ gả con, cất nhà cất cửa, xem mồ xem mả, coi sao coi hạn”. Đó thì trong giáo pháp của đức Phật thì không có người tu sĩ của đạo Phật không được làm những cái nghề nghiệp đó. Những nghề nghiệp đó là không đúng cái đường lối thứ hai, cái lộ trình thứ hai của người tu sĩ của đạo Phật.
Mười sáu, “trong giáo pháp của ta không có những người tu sĩ làm những việc tà nghiệp, ngăn ngại đạo để tự sinh sống như vậy, trái lại những người tu sĩ ấy phải chuyên tu theo đúng Thánh giới, không có tâm nhiễm trước, bên trong giữ tâm hỷ lạc, mắt thấy sắc không chấp tướng và không bị sắc ràng buộc, kiên cố vắng lặng độc cư, không có tham đắm”. Nghĩa là trước mọi đối tượng của cái hình sắc của mọi vật thì cái người tu sĩ mà đạo Phật thấy sắc thì không có chấp cái tướng riêng tướng chung của nó, không có bị sắc buộc ràng cái tâm của mình, luôn luôn giữ tâm kiên cố, vắng lặng, độc cư, thầm lặng, không có tham đắm cái hình ảnh các sắc của mọi vật, cũng không có sợ hãi trước những cái sắc tướng đó, nghĩa là sắc đó có dữ tợn như thế nào ví dụ thấy như cọp, beo, rắn dữ thì mặc nó cũng chẳng sợ, mà thấy những cái gì mà làm cho dễ mến dễ ưa thì cũng chẳng ham chẳng thích, thì đó là cái sự ngăn chặn, mà sự ngăn chặn đó luôn luôn cái người mà ở trong giáo pháp của Phật thì luôn luôn ngăn chặn những cái sắc tướng đó, gọi là các ác pháp. Kiên trì giữ gìn giới luật, lúc nào chúng ta cũng phải giữ gìn giới luật cho nghiêm chặt để bảo vệ thân và tâm của mình.
“Khéo bảo vệ nhãn căn, nhĩ căn, thiệt căn và ý căn, cũng như thế, khéo chế ngự sáu xúc, hộ trì và điều phục chúng khiến tâm được an ổn. Ăn là vừa biết đủ, cũng không tham những món ăn ngon, chỉ cần nuôi thân để khỏi bệnh tật, không bao giờ cống cao ngã mạn, luôn điều hòa thân tâm mình khiến cho khổ cũ tiêu diệt, khổ mới không phát sanh, có sức vô sự làm cho thân được an lạc”. Đó là những cái lời mà đức Phật dạy là mười lăm cái điều ở trên là trong giáo pháp của đức Phật không có làm những cái tà mạng đó và cái phần mười sáu là đức Phật nhắn chúng ta phải thực hiện trong cái con người mà đi vào cái lộ trình thứ hai này phải thực hiện những cái điều mà Thầy vừa đọc ở trên, để cho quý thầy biết rằng những cái điều đó là những cái điều mà căn bản và cần thiết khi bước chân vào cái lộ trình thứ hai này.
“Trong đạo pháp của ta, những người tu sĩ ăn đủ nuôi thân để mà hành đạo. Những tỳ kheo thành tựu những Thánh giới như thế đắc được Thánh căn, chỉ ăn vừa đủ, đầu đêm cuối đêm siêng năng giác tỉnh và trọn ngày nếu đi hoặc ngồi thường tỉnh giác nhất tâm để trừ các ấm cái. Nửa đêm nằm nghiêng phía bên tay mặt và nhớ thức dậy đúng giờ, giữ gìn tư tưởng luôn luôn trong sáng, tâm không rối loạn. Đến cuối đêm liền thức dậy tư duy, hoặc đi, hoặc ngồi thường đặt niệm nhất tâm để trừ các ấm cái. Tỳ kheo có đầy đủ Thánh giới như vậy nên được Thánh căn chỉ ăn vừa đủ, đầu đêm cuối đêm tinh tấn giác tỉnh thường niệm nhất tâm không có tán loạn. Thế nào là tỳ kheo niệm không tán loạn? Tỳ kheo quán thân trong thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ tham ưu ở đời; quán ngoại thân, quán trong thân, quán hoài và hoài, tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên để trừ bỏ các tham ưu ở đời. Quán thọ, quán tâm và quán pháp cũng như vậy. Đây là trụ tâm nhơn tướng, trụ tâm trên nhơn tướng, tu như vậy tỳ kheo niệm không tán loạn”.
Đó thì cái phần này là cái phần sau này chúng ta sẽ học kỹ. Ở đây thì cái phần mà Phật tóm lược lại để chúng ta biết được những cái sơ đồ để chúng ta bước qua cái giai đoạn này phải tu tập như thế nào, ở đây Thầy cũng lược sơ mà nói thôi chứ đến khi mà tu tập thì Thầy sẽ dạy rất kỹ. Cho nên như bây giờ nói tỳ kheo quán thân trong thân hay hoặc là quán thân ngoại thân thì sẽ dạy đó là tu Tứ Niệm Xứ rồi, mà ở đây thì Phật chỉ dạy cho chúng ta biết rằng những cái hành động mà cái người mà tu sĩ trong đạo Phật, trong pháp môn của Phật là phải đi vào cái lộ trình thứ hai là họ phải làm cái gì trước cái gì sau. Thì đây là vạch ra cho chúng ta thấy từ cái chỗ mà chúng ta giữ gìn, ngăn ngại những nghề nghiệp mà chúng ta không cho nó xen vào trong cái chuyện làm của người tu sĩ của chúng ta, rồi chúng ta bắt đầu chúng ta phải giữ Thánh giới như thế nào để cho Thánh căn của chúng ta nó được tốt, được thanh tịnh cho đến khi mà mắt thấy sắc rồi chúng ta hộ trì như thế nào, rồi cho đến khi mà chúng ta phải giữ cho những nghiệp khổ đau mà ở trong thân của chúng ta, nghiệp khổ cũ nó tiêu diệt mà nó không phát sanh những nghiệp mới. Rồi đến khi cái ăn uống thì chúng ta, Phật nhắc đi nhắc lại về cái ăn uống rồi tới cái ngủ nghỉ, rồi tới cái tỉnh thức rồi cái đặt niệm nhất tâm rồi cho đến khi quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán pháp trên pháp, quán tâm trên tâm.
 Băng số 17
Cái hành động của ý và hành động của thân, hành động của khẩu, khẩu mình, cái miệng của mình lần lần nó thanh tịnh, nó thanh tịnh tức là nó trở thành cái giới hạnh. Giới hạnh của thân, giới hạnh của khẩu, giới hạnh của ý, ba cái hành động thân khẩu ý này bắt đầu, bởi vì cái hành là cái hạnh cho nên từ đó mà chúng ta giữ gìn không có cho những lỗi nhỏ nhặt mà nó xảy ra, vì vậy mà cái thân khẩu và ý của chúng ta, tất cả những hành động của thân khẩu ý chúng ta nó thanh tịnh, nó thanh tịnh tức là giới hạnh chúng ta đã tròn đầy, oai nghi tế hạnh chúng ta rất tốt. Bởi vì mỗi lần cái thân chúng ta động dụng, thì ngay đó là động dụng của cái hành động của giới luật. Miệng chúng ta nói ra một cái điều gì thì miệng chúng ta nói ra trong giới luật, trong cái hành động của giới luật, nó không có những cái điều mà nghịch lại, lỗi lại giới luật. Rồi cái ý chúng ta khởi nghĩ một điều gì thì nó cũng hành động mà khởi nghĩ đó nó đều nằm ở trong cái hạnh của giới luật cho nên thân khẩu ý nghiệp của chúng ta lần lần thanh tịnh.
Sinh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc, lúc bấy giờ cái sự sinh hoạt hằng ngày do thân khẩu ý chúng ta nó bắt đầu nó đầy đủ, nó trọn vẹn những cái giới hạnh.
Thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác và thiểu dục tri túc. Đây là phần giới thiệu chuẩn bị cho đời sống xuất gia của người mới bắt đầu vào lộ trình thứ hai của đạo Phật, nhưng nó cũng là giới hạnh của vị tu sĩ, phần thứ nhất trong đạo Phật. Nghĩa là cái giới hạnh đầu tiên mà chúng ta bắt đầu là chúng ta phải thấy nó thực hiện qua những cái điều kiện này, đó là cái phần thứ nhất của giới hạnh của đạo Phật.
Kế tiếp khi đã xuất gia xong thì vị tỳ kheo giới hạnh phải được học đầy đủ. Nghĩa là bây giờ chúng ta đã xuất gia xong rồi thì lúc bây giờ chúng ta phải siêng năng, tuy ở trên giới thiệu những cái điều kiện như vậy để chúng ta rõ nhưng chúng ta cái giới luật nó đâu phải có một giới hai giới đâu, nó nhiều, 250 giới, 348 giới, do đó chúng ta phải học, học cho thuộc, biết từng cái lỗi nhỏ lỗi lớn chứ không thể nào mà thiếu học được. Do cái sự học hỏi cho đầy đủ đó thì chúng ta mới thấy được cái giới của nó, vì vậy mà chúng ta mới luôn luôn cái hành động của chúng ta sống toàn bộ nằm ở trong cái giới.
Vậy giới hạnh đầy đủ như thế nào? Bởi vì giới hạnh cụ túc ở đây chúng ta giới thiệu nhưng mà nó cũng là cái phần mà hành động của chúng ta bắt đầu chúng ta sử dụng trong cái cuộc đời tu hành của chúng ta. Cái hành động sử dụng đó thì nó là giới hạnh. Nhưng mà giới hạnh mới đầu nó chưa có được đầy đủ đâu, cho nên vì vậy mà tiến tới được giới hạnh được đầy đủ mà gọi là giới hạnh cụ túc, cụ túc tức là đầy đủ, mà giới hạnh cụ túc thì phải làm gì, phải như thế nào? Vậy giới hạnh đầy đủ là gì? Tức là giới hạnh cụ túc là gì? Bây giờ chúng ta phải học cho biết cái giới hạnh đầy đủ cụ túc như thế nào chứ giới bổn thì nó không nói đâu, nó chỉ kê ra những lỗi này lỗi kia chứ nó không nói cái giới hạnh đâu. Nhưng mà ở đây chúng ta phải học cái giới hạnh, mà cái giới hạnh cho nó được đầy đủ thì phải học như thế nào gọi là đầy đủ, mà nếu mà không học đầy đủ thì chúng ta biết đâu mà hành động cho nó đúng là cái giới hạnh. Còn nếu mà chúng ta hành động toàn bộ ở trong giới bổn hết thì trong giới bổn nó có ở trong đó nó có giới đức ở trong đó, nó có giới tuệ trong đó, nó có cả cái giới hạnh trong đó chứ nó đâu có riêng một cái phần nào đâu. Còn giới hạnh khác, giới đức khác, mà giới tuệ khác, nó đâu có giống nhau. Cho nên ở đây chúng ta phân loại ra cái giới hạnh nó phải nằm ở trong những vị trí nào, rồi cái giới đức nó nằm ở trong vị trí nào, giới tuệ nó nằm ở trong vị trí nào để chúng ta thực hiện con đường tu tập chứ nếu mà không chúng ta đâu có biết được. Do đó chúng ta sống ở trong giới luật của Phật, Thầy là thầy của mình mà mình không rõ ông thầy của mình thì mình tu cái gì đây?
Vậy giới hạnh đầy đủ là gì? Tức là giới hạnh cụ túc là gì đó. Vị tỳ kheo phải từ bỏ sát sanh. Đây bắt đầu cái hạnh mà thứ nhất mà người bắt đầu vào tu, hồi nãy đó chỉ mới giới thiệu chúng ta biết phần giới hạnh chứ chưa phải là cụ túc còn bây giờ bắt đầu ở đây chúng ta mới thấy được cái giới hạnh cụ túc đầy đủ thứ nhất là như thế nào. Cái thứ nhất của giới hạnh chúng ta phải làm gì?
“Vị tỳ kheo phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, bỏ gươm đao, cung tên, súng đạn, dao rựa, mác, luôn luôn phải tu tập, biết xấu hổ và sợ hãi trước những lỗi nhỏ nhặt sát sanh. Phải có lòng từ bi, sống phải thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình, như vậy là giới hạnh của vị tỳ kheo ấy, thứ nhất trong giới luật của đức Phật”. Đó là cái giới hạnh thứ nhất của vị ấy chúng ta nhớ, đây là cái giới hạnh là không giết hại chúng sanh đó, bỏ trượng, bỏ gậy, bỏ làm cái sự đau khổ, luôn luôn khi mà lỡ chúng ta đạp chết một con kiến là chúng ta phải xấu hổ, chúng ta phải sợ hãi, chứ đừng có nghĩ rằng đó là cái hành động sai lạc của chúng ta, vô tình của chúng ta chứ không phải là một cái chuyện chúng ta coi thường đâu. Bởi vì một vị tu sĩ gọi là giới hạnh thì không được làm đau khổ chúng sanh một con vật nào hết thì mới gọi là giới hạnh, chứ không phải là ăn thịt chúng ở trong miệng mà gọi là giới hạnh được đâu, đó là một cái điều sai, rất sai. Cho nên một người tu sĩ mà theo đạo Phật thì giới hạnh phải rõ ràng, phải biết được cái giới hạnh của nó là cái hành động của cuộc sống của chúng ta hằng ngày gọi là giới hạnh. Mà hằng ngày chúng ta đi chúng ta đạp chết côn trùng thì thử hỏi cái đó là giới hạnh của chúng ta sao, hoặc là hằng ngày chúng ta ăn thịt chúng sanh mà cái đó là giới hạnh của chúng ta sao, cho nên tất cả những cái điều này chúng ta phải thấy được cái chỗ đó, và chúng ta còn phải trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm của chúng ta trong những cái giới hạnh này để chúng ta thực hiện tâm từ bi chúng ta luôn luôn lúc nào nó cũng thực hiện với sự thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh. Từ đó chúng ta mới không có làm đau khổ chúng sanh, không giết hại chúng sanh, đó là sự tu tập cái giới hạnh của chúng ta.
Đây là chưa phải tới những cái pháp mà dạy tu nhưng đây là những cái pháp để mà chúng ta biết, để mà chúng ta ngăn ngừa để mà chúng ta thực hiện trên cái sự tu tập như chúng ta học hồi nãy, cái lộ trình thứ nhất Tứ Vô Lượng Tâm, Từ Bi Hỷ Xả, Tứ Chánh Cần, các việc ác chưa sanh không cho sanh mà đã sanh thì đoạn diệt, các việc thiện chưa sanh thì cho sanh và đã sanh thì tăng trưởng, đó là Tứ Chánh Cần. Do những cái pháp mà tu tập như vậy và đồng thời Thầy còn dạy nè, Chánh Niệm Tỉnh Thức Định nè hoặc là tu Định Vô Lậu nè, tất cả những cái này đã dạy cách thức, pháp hướng cái này kia, tùy - hướng - quán chúng ta đã có nắm được một số tu tập rồi thì bắt đầu bây giờ qua cái giới hạnh là chúng ta đã biết cách rồi, không cần nhắc đi nhắc lại cái chỗ tu tập này nữa. Sau khi dạy các pháp như là 37 Phẩm Trợ Đạo, như tu Tứ Niệm Xứ hoặc là Ngũ Căn, Ngũ Lực hay hoặc là Thất Bồ Đề thì từ đó mới dạy ra cách thức mà thêm cho nó sâu hơn trong những pháp hành. Còn bây giờ chúng ta chỉ nói về giới hạnh cho nên chúng ta chỉ lướt qua mà không nói về pháp hành, nhưng chúng ta phải biết pháp hành. Nói về phải thương xót chúng sanh thì tức là chúng ta phải biết Từ Bi Hỷ Xả rồi, do đó chúng ta phải muốn cái giới hạnh chúng ta mà tròn đủ, cụ túc là đầy đủ đó thì chúng ta phải thực hiện Từ Bi Hỷ Xả của chúng ta, phải thực hiện Tứ Chánh Cần, rồi thì thực hiện Tứ Chánh Cần thì Thầy đã có giảng cho các thầy biết cách để trạch pháp ra những câu pháp hướng, pháp tùy như thế nào, pháp quán như thế nào thì quý thầy đã rõ rồi, do đó quý thầy vẫn hiểu biết được cái giới hạnh, mà vẫn biết được cái giới hạnh thì quý thầy thực hiện ở những cái pháp đã học thì tức là quý thầy đã đạt được một cái giới hạnh thứ nhất mà trong giới luật của đức Phật đã dạy. Đó là cái giới hạnh thứ nhất, tức là dạy cái hành động của chúng ta phải nó thực hiện cái tâm từ bi như thế nào để mà chúng ta giữ trọn được cái giới hạnh đó, không có còn giết hại chúng sanh, không có còn cầm một cái vật mà làm đau khổ chúng sanh nữa.
Đây, một cái giới hạnh thứ hai, “Vị tỳ kheo phải từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ được mong những vật đã được cho, tự sống thanh tịnh ở hạnh tu này luôn luôn giữ gìn không để mang tiếng trộm cắp, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai trong giới luật của đức Phật”.
Đó chúng ta phân ra từng chút để thấy những cái hạnh của nó. Bây giờ mình lấy cái vật của người ta không cho, lén lấy cục kẹo hay một cái bánh ăn lén thì đó là trộm cắp rồi, hay hoặc là thấy ở ngoài vườn của mình có trái cây nào đó thì thay vì hái nó đem vào giao cho chúng tất cả, chúng ta không ăn phi thời, không có ăn trộm, do đó chúng ta hái trả lại không bao giờ mà chúng ta ăn như vậy, như vậy là hành động không có trộm cắp. Còn bây giờ thấy một cái trái cây, ổi hoặc là trái nhãn hay trái gì chín, lấy cái lột bỏ vô miệng nhai thì đó rõ ràng là trộm cắp rồi. Mà trộm cắp như vậy là cái hạnh nó có tốt không, cái hành động đó có tốt không? Cái hành động đó không tốt tức là không phải là giới luật. Vì vậy không phải là giới hạnh. Cho nên khi mà giới hạnh là cái hành động làm cho chúng ta thanh tịnh không còn trộm cắp, không còn ăn vụng ăn vặt, không còn ăn uống phi thời thì đó là cái giới hạnh. Cho nên ở đây cái cuộc sống của chúng ta từng cái giới hạnh như vậy để mà nêu lên, để biết nó là cái giới hạnh nào, thứ nhất thứ nhì thứ ba thứ tư trong cuộc đời tu hành chúng ta phải giữ gìn nó. Như vậy giới hạnh của vị ấy thứ hai trong giới luật của đạo Phật, nghĩa là mình không có trộm cắp, không lấy của không cho thì như vậy là cái giới hạnh thứ hai của đạo Phật.
“Vị tỳ kheo phải từ bỏ dâm dục, phải xa lánh sự dâm dục, luôn luôn tự sống tịnh hạnh trong sạch, trong ý không được mống khởi dâm dục, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ ba trong giới luật của đức Phật”. Đó thì các thầy thấy những cái giới hạnh này thì chúng ta thấy nằm như là gần ở trong giới bổn của Ngũ Giới, rõ ràng, nhưng không phải đâu, nó là giới hạnh để biến ra cái hành động của chúng ta, còn cái kia là giới bổn nhắc nhở chúng ta đừng có làm chuyện đó chớ không phải là giới hạnh, còn giới hạnh đây là cái cuộc sống của tu sĩ, cái hành động sống của tu sĩ phải nghiêm chỉnh trong cái hành động đó gọi là oai nghi tế hạnh của vị đó, cho nên gọi là giới hạnh.
“Vị tỳ kheo từ bỏ nói láo, tránh xa sự nói láo, phải luôn luôn nói lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói, nói rất chắc chắn đáng tin cậy. Không lường gạt, không phản lại lời nói, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ tư trong giới luật của đức Phật”.
Đó, nếu mà cái người mà không nói láo đó là giới hạnh thứ tư trong giới luật của đức Phật. Trong giới bổn của đức Phật thì cái giới đó cũng là giới thứ tư, mà giới hạnh ở trong đây là hành động mà không nói láo, thì cái hành động oai nghi của chúng ta hằng ngày thì cái oai nghi đó gọi là giới hạnh của chúng ta.
“Vị tỳ kheo từ bỏ nói lưỡi hai chiều, tránh xa nói hai chiều, nghe điều gì chỗ này không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ với những người kia. Như vậy tỳ kheo ấy đang sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, hân hoan trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ năm trong giới luật của đức Phật”.
Đó thì chúng ta thấy rằng từ cái giới thứ tư đến giới thứ năm, thì ở cái giới này chúng ta thấy nó nằm ở trong Thập Thiện chứ không phải là nằm ở trong cái Ngũ Giới nữa, mà nó đi qua cái Thập Thiện. Mà qua cái Thập Thiện thì chúng ta thấy đây là cái hành động của miệng của chúng ta, mà miệng của chúng ta mà không nói những cái lời hai chiều như vậy, đó là cái giới hạnh của một người tu sĩ, nó có khác hơn ở trong giới bổn đó là ở chỗ này. Chúng ta thấy cái chỗ ở giới bổn thì khi mà nói Ngũ Giới thì nó chỉ có nói vọng ngữ thôi, mà nói về Thập Thiện thì nó mới có nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác,... Đó thì ở đây chúng ta thấy qua cái giới hạnh thì nó lại có sự sai khác hơn một chút xíu như vậy thôi mà nó nói lên được cái hành động của nó, cái hành động của cái vị tu sĩ, cái oai nghi tế hạnh của nó ở chỗ cái hành động của cái miệng của nó. Đó là giới thứ năm, giới hạnh thứ năm trong giới luật của đức Phật.
“Vị tỳ kheo từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, dễ cảm thông đến tâm của mọi người, luôn luôn có những lời tao nhã làm đẹp lòng người khác. Như vậy giới hạnh của vị ấy thứ sáu trong giới luật của đức Phật.”
Đó thì cái giới hạnh thứ sáu này thì chúng ta thấy không có nói lời to tiếng, không có chửi mắng, không có nạt nộ, không có làm cho người ta khổ sở, không có làm cho người ta sợ hãi mà luôn luôn nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn thì đó là cái hạnh, cái oai nghi tế hạnh của cái hành động của miệng. Cho nên nó là giới hạnh thứ sáu ở trong giới luật của đức Phật.
Kế nữa, “vị tỳ kheo từ bỏ nói lời phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, phải nói đúng thời đúng lúc, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa cao đẹp, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về giới hạnh, giới đức, nói những lời đáng được ca ngợi, nói những lời hợp thời, hợp lý, hợp căn, hợp cơ, thuận lý, có mạch lạc, có hệ thống, có ích lợi cho người cho mình. Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ bảy trong giới luật của đức Phật.”
Đó thì ở đây cũng trong cái hành động nói mà nói như thế nào mà được những cái hạnh, được cái giới hạnh đó thì như vậy thì cái giới hạnh này là giới hạnh thứ bảy trong giới luật của đức Phật.
“Vị tỳ kheo từ bỏ làm hại các hạt giống và các loại cây cỏ thảo mộc, dùng ngày một bữa không ăn đêm, không ăn phi thời; từ bỏ, xa lánh ăn phi thời; từ bỏ đi xem múa hát, ca nhạc kịch; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thơm, xà bông thơm và các thời trang khác; từ bỏ không dùng giường cao rộng lớn; từ bỏ tủ bàn ghế sang đẹp; từ bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc, của báu; từ bỏ không nhận các hạt giống sống; từ bỏ không nhận thịt sống, thịt chín; từ bỏ không nhận đàn bà, con gái; từ bỏ không nhận nô tì trai gái; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa, ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương, đất đai; từ bỏ không nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ buôn bán các nghề thương mại; từ bỏ gian lận bằng cân, bằng thướ,c bằng tiền bạc, hoặc bằng các dụng cụ đo lường khác; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, ăn lo, gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm tổn thương hoặc làm đau khổ chúng sanh, câu thúc, bức bách, bức đạp. Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ tám trong giới luật của đức Phật”.
Đó là từ bỏ những cái việc làm như vậy, từ bỏ tất cả những điều kiện ở trên mà Thầy đã kể thì nó mới là cái giới hạnh thứ tám của trong đạo Phật, của giới luật của đạo Phật. Nó một loạt như vậy chứ nó không kể ra từng chút từng chút. Nghĩa là ở đây Thầy xin giải thích thêm chỗ này “từ bỏ không nhận đàn bà con gái” là dưới hình thức mà người tu sĩ mà chúng ta nhận đó là chúng ta nhận hoặc là cái người mới vào mà tập sự tu hành làm công quả, đó là hình thức mà tôi tớ ở trong nhà chùa đó. Người ta công quả rồi sai người ta làm cái này làm cái kia cái nọ, sai họ làm đủ thứ chuyện nhà chùa, đó là hình thức là công quả nhưng mà sự thật đó là mình nhận là đàn bà hay hoặc là đàn ông hay hoặc là con trai để làm nô tì cho mình ở trong chùa, đó là hình thức công quả.
Cho nên ở đây chúng ta phải xét rằng ông Phật hồi xưa không có làm cái điều này, không có nhận cái kiểu mà công quả đâu, còn bây giờ thì chúng ta ngồi không đó mà nhận người vô để gọi là tập sự đó, gọi là tịnh nhân đó, để cho họ công quả hay hoặc là những người cư sĩ ở ngoài họ muốn tạo thêm phước để họ vô chùa họ làm công quả đó. Cái điều đó thật sự ra nhiều khi mình hiểu lầm một chút xíu mình tưởng đó là những người công quả để cho họ tạo phước họ nhưng mà cuối cùng thì mình lại nhận họ trở thành những người nô tì của mình ở trong chùa để cho sai vặt họ làm cái này cái kia cho mình, cho mình khỏi làm, từ cái quét dọn nhà cửa chùa chiền đều là sai những cái người công quả. Tu sĩ thì ngồi không chơi chứ còn để cho tất cả những cái vị cư sĩ, bởi vì có những người công quả nhiều thì toàn bộ tu sĩ đều là ngồi chơi. Thầy thấy cái điều này rất rõ, cho nên ví dụ như bây giờ trong cái phần mà nhiệm vụ mà của các cô mà ở trong bếp nước á, mà ni á, thì khi mà có những người cư sĩ vô công quả, họ giao phó hết cho mấy bà công quả đó làm chứ họ ngồi đó họ chỉ móng tay, họ làm chủ họ sai, tức là biến những người công quả đó trở thành nô tì cho cái người tu sĩ, cho nên cái giai cấp của người tu sĩ trở thành giai cấp là chủ, chủ nhân còn cái giai cấp của cư sĩ mà công quả là giai cấp nô tì.
Chúng ta phải hiểu thêm những hình thức mà nó qua cái danh từ thì coi như là công quả, nhưng mà qua cái hành động thì như là nô tì, sai rồi bảo rồi này kia đủ thứ hết, làm đủ thứ mọi mặt hết. Mà cái người mà làm nô tì như vậy người ta chỉ nghĩ minh làm cái điều đó được phước cho nên cứ ráng mà làm thôi, phước đâu thì có hay không có thì không biết nhưng mà chỉ nghe quý thầy nói ờ thì làm công quả thì được phước thì cứ chổng khu mà làm thôi, người ta sai cái gì mình làm cái nấy thôi, bảo quét dọn cái gì, hốt rác hay hoặc là chỗ dơ bẩn nào cũng xông pha vô. Chẳng hạn nào như quý thầy ở đông rồi những cái hầm tiêu nó đầy ngập lên, thay vì quý thầy phải nhảy xuống dưới hốt, không, nhờ mấy ông cư sĩ mà vô mà công quả mấy ông giúp dùm cái này phước báo lớn lắm á, do đó mấy ổng nhảy xuống mà hốt. Đó là những cái mà chúng ta lợi dụng cái lòng tin Phật, cái sự mà cầu để được phước báo cho nên cái sự tha cầu được phước báo đó mà chúng ta biến họ trở thành những nô tì làm những cái chuyện dơ bẩn thay cho chúng ta trong khi chúng ta là những người tu sĩ chưa đến đâu mà cũng chỉ muốn ngồi trên để làm chủ mà sai họ. Bởi vì khi mà lật ra những cái giới hạnh này của đạo Phật, Thầy thấy đức Phật dạy chúng ta quá kỹ, không còn có cái chỗ nào mà thiếu sót những cái hành động đúng sai của chúng ta hết. Nghĩa là lật ra tất cả những cái sự thật của cuộc sống tu hành của chúng ta thì những cái giới hạnh Thầy thấy đức Phật dạy không còn cái chỗ nào mà đức Phật không dạy cho chúng ta biết. Do biết như vậy mà chúng ta dạy cho rõ ràng, cho kỹ lưỡng chứ không khéo thì người ta cũng sẽ lầm lạc mất đi.
Tiếp tục, vị tỳ kheo không được trồng trọt tất cả các loại hạt giống, nghĩa là cái hạt giống nào chúng ta cũng không được trồng hết. Những loại giống từ rễ cây sanh ra, nghĩa là có loại giống cái cây mình chặt cái rễ đi, rồi cái rễ đó nó lên cái tược, rồi mình lấy cái tược đó mình đem trồng thì đức Phật cũng cấm không có được lấy đó. Những cái chiết cành, tháp cây, làm cho nó ra những cây con, cây nhánh đó rồi đem trồng thì đức Phật cũng không có cho chúng ta trồng. Những cái hạt giống mà ươm nó lên cây, rồi những cái rễ cây mà lên cây, cũng như thí dụ như cái cây chuối vậy đó, nó từ cái củ của nó ra cây vậy đó thì đức Phật cũng không có cho chúng ta trồng cái gì hết, tới cái cây chiết cây tháp gì cũng không cho trồng hết. Đó là tất cả những cái loại đó đức Phật cấm không cho chúng ta làm. Và cũng không được làm hại những loại giống đó, không được làm cho những loại giống chết, nghĩa là chúng ta không được trồng nhưng chúng ta cũng không được làm hại cho nó chết. Đó là những cái đặc biệt của đạo Phật đó. Vì vị tỳ kheo chỉ dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà thôi, nghĩa là chúng ta chỉ đi xin ăn thôi chứ chúng ta không có làm những cái điều đó được, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ chín trong giới luật của đức Phật.
Nghĩa là các thầy thấy giới bổn nó có khác không? Mà đến đây giới hạnh nó đi qua một cái góc độ khác rồi, nó đi qua một góc độ mà chúng ta không ngờ được cái hành động hằng ngày chúng ta phải sống, do đó chúng ta không học giới bổn thì chúng ta thấy hoàn toàn là ở chỗ mà trồng tỉa thì nó không có phạm tội gì hết, nhưng mà qua cái giới hạnh chúng ta thấy cái hành động mà của vị tu sĩ đó chỉ có hành động đi xin mà thôi chứ còn hoàn toàn là không có làm được cái gì khác hết. Mà thật sự đi xin mới giải thoát còn làm làm sao giải thoát được, cho nên đức Phật cấm từ không có nhận các hạt giống. Đó là cái giới hạnh thứ chín của một người tu sĩ của đạo Phật.
“Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn cất chứa và thọ hưởng các đồ vật như cất chứa các món ăn, cất chứa đồ ăn uống, cất chứa vải, cất chứa xe cộ, cất chứa đồ nằm, cất chứa hương liệu, cất chứa các mỹ vị, như vậy không đúng giới hạnh. Vị ấy phải từ bỏ cất chứa các vật trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười trong giới luật của đức Phật.”
Đó, cấm chúng ta không cất chứa được cái gì hết, nghĩa là dù là thuốc thang cái gì cũng không cất chứa, cho nên Thầy nói trong cuộc đời tu hành của Thầy mà đọc đến cái chỗ giới hạnh Thầy thấy Thầy chưa có trọn vẹn được chút nào hết, chỉ có bây giờ Thầy ẩn bóng sống một cái đời sống du tăng khất sĩ rày đây mai đó, lúc thì ở rừng, lúc thì ở núi, lúc thì giữa chợ, ai cho cái gì ăn cái nấy, hoàn toàn là ba y một bát không thêm không bớt, đau thì xin thuốc mà không đau thì không có xin, không để dành đó. Còn chúng ta thì luôn luôn lúc nào cũng phòng ngừa, phòng ngừa để dành, mang ôm ấp, cứ sợ hãi bệnh đau rồi chết thôi. Người tu sĩ mà khi nỗ lực thực hiện được như vậy rồi thì chúng ta chẳng còn sợ hãi gì nữa hết. Như Thầy bây giờ còn sợ hãi cái gì, cho nên thực hiện đúng cái hạnh của đức Phật chứ còn để làm gì nữa đây. Nếu mà Thầy không thực hiện chắc cuộc đời này chẳng có ai thực hiện được những cái giới hạnh này hết.
“Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống theo các trò du hí không chơn chánh như múa, hát, ca nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, nhịp chân, kệ tụng, ca ngâm í a í à, hoặc tụng kinh, tụng thần chú, tay bắt ấn, đánh trống lớn trống nhỏ, phèng la, chập chả, đẩu, mõ, diễn tuồng thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu bò, đấu trâu, đấu dê, đấu cừu, đá gà, đá dế, đá chim cun cút, đấu gậy, đấu côn, đấu quyền, đô vật, bắn súng, đấu gươm, thi bắn, tập dợt bắn, tập đánh giặc giã, tập thao dượt diễn binh. Vị tỳ kheo phải từ bỏ các loại du hí đối với người tu nó không chơn chính”.
Tức là tất cả những cái điều kiện trên nó không có chơn chính đâu, đối với người tu thì nó không chơn chính, đối với người ngoài đời thì người ta chơn chánh hay sao kệ người ta, còn riêng mình đi theo đạo Phật thì nó không chơn chánh. Như vậy là giới hạnh của vị tu sĩ thứ mười một trong giới luật của đức Phật. Nó được ghép vào thứ mười một ở trong giới hạnh của giới luật của đức Phật. Đó thì những cái điều mà hôm nay Thầy kể ra hết để cho quý thầy chuẩn bị cho một con đường mà học giới, để rồi nó sáng tỏ như là ban ngày, nó không còn cái chỗ nào mờ ảo hết.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống theo các trò chơi giải trí trong thế gian như cờ tướng, cờ gánh, cờ quân, cờ vua, cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ chơi trên đất, cờ chơi cò nhảy ô, chơi bỏ khăn, chơi làm mù bịt mắt, chơi u, bắt mọi, chơi đánh gồng, đánh trỏng, chơi u ấp, chơi nhảy dây cò cò, chơi bông vụ, chơi xúc xắc, chơi đá cầu, chơi bóng rổ, chơi đánh tennis, chơi đánh bóng, đá bóng, lội đua, chạy đua, đạp xe đạp đua, chơi thổi kèn bằng lá cây, chơi lộn nhào như xiếc, chơi đánh đu, chơi búp bế, chơi xe điện tử, chơi chong chóng, bông vụ, chơi giấu, chơi ú tim, chơi những xe tàu đồ chơi trẻ con, chơi cung tên súng giả, chơi đoán chữ viết trên lưng trên không, chơi bắt chước bộ điệu, chơi làm hề, vân vân...
Đó là tất cả những cái trò chơi như vậy hầu hết là cái giới hạnh của người tu sĩ không được làm cái trò chơi đó. Bởi vì có nhiều chú 7 tuổi vô tu hành, các con biết không, nhảy cò cò, có không? Rồi ngồi chơi cái này, 3 - 4 chú ngồi chơi bỏ khăn, rồi bịt mắt, rồi làm mù đủ cách theo cái kiểu mà trẻ con ở ngoài thế gian, cho nên đức Phật kiết những cái giới hạnh của người tu hoàn toàn từ trẻ con mà vào tu mới 7 tuổi, 8 tuổi cho đến người lớn, hoàn toàn là tất cả những cái trò chơi đó đức Phật nêu ra đó là những cái giới hạnh mà người tu không có được làm, không được chơi những cái trò chơi đó. Cho nên trẻ con làm sao 7 - 8 tuổi làm sao mà thấy súng giả không ham, thấy cung tên không thích cho nên nó khoái lắm chớ gì; còn bên nữ mà nhỏ nhỏ vô tu thấy búp bê sao không ôm, mà ôm ẵm như vậy thì các con thấy nó thực hiện qua một cái tình ái của nó đó, cái tình thương con, cho nên vì vậy mà đức Phật cấm không có cho chơi những trò chơi như vậy để mà từ đó tuyệt, cho nó phá đi những cái tâm mà dục của nó. Đó là những cái điều kiện giới hạnh nó nghiêm chỉnh như vậy để bắt đầu chúng ta sống như một cái người lớn, một cái người thật sự là một người có cái oai nghi tế hạnh chững chạc của một vị tu sĩ. Vị tỳ kheo phải từ bỏ các loại giải trí như trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười hai trong giới luật của đức Phật. Xem được như các trò chơi này được xem như cái giới hạnh thứ mười hai trong giới luật của đức Phật.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống dùng các giường cao rộng lớn, ghế bành, ghế trường kỷ, nệm trải giường bằng len, trải giường bằng nệm cao su, nệm thông hơi, vải trải giường nhiều tấm nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con thú, nệm bằng lông thú cả hai mặt, mền có đính ngọc, mền bằng lụa, khảm, mền có voi, mền ngựa, mền xe, mền bằng da sơn dương khâu lại, tấm thảm có lều che phía trên, ghế dài có gối đầu, gối chân, gối ôm, có những màn, những màu sắc rực rỡ, nói chung là tất cả những đồ dùng trong nhà như xe cộ, ti vi, tủ lạnh, tủ giặt, máy móc vi tính, cát sét thu băng, điện thoại, ra đi ô, vân vân... Tất cả những đồ dùng đó hoàn toàn là người tu sĩ mà gọi là giới hạnh thì không có được dùng.
Vị tỳ kheo phải từ bỏ không dùng những vật vừa kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười ba trong giới luật của đức Phật. Mặc dù là tất cả những vật dụng này đức Phật không có nói ở trong kinh nhưng mà đức Phật nói tất cả những cái gì mà có thể trong cái thời của đức Phật có là đức Phật đã vạch ra nói ra, cho nên Thầy dựa theo cái sự hiều biết đó mà Thầy thêm những cái điều kiện như là ti vi, tủ lạnh, máy móc, vi tính, cát sét, thu băng gì tất cả, ra đi ô, điện thoại trong thời đại này thì người tu sĩ không có được rớ tới nó, những vật dụng đó. Đó là nó mới hợp với ý Phật, trong cái thời đại của Phật thì không có những vật dụng đó nhưng đức Phật nói như là toàn bộ những vật dụng mà sang đẹp, những vật dụng của vua chúa, những vật dụng của người giàu có mà xài trong cái thời đó thì tất cả những cái vật dụng mà chúng ta hiện đại mà có thì nó cũng nằm ở trong cái sự đó. Cho nên Thầy kê ra hết để chúng ta biết đó là cái giới hạnh của chúng ta không được xài những cái thứ đó, vì những cái thứ đó là làm chúng ta mất cái giới hạnh của người tu. Và cái giới hạnh của người tu mà không có xài tất cả những vật dụng đó đó thì được gọi là thứ mười ba trong giới luật của đức Phật.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà cũng vẫn còn dùng các đồ trang sức mỹ phẩm làm đẹp người như thoa dầu đấm bóp, tắm giặt làm cho thơm tho đẹp đẽ, hoặc đập tay, đập chân, tập luyện làm cho mềm tay, mềm chân, mềm mại. Ở đây là trong thời đức Phật có dạy cấm những cái khi mà thoa dầu để mà làm cho tay chân mình mềm dẻo, để cho mình làm như những cái người mà làm xiếc đó, uốn mình qua lại đồ đó thì đức Phật ở trong cái đoạn giới hạnh này đức Phật cũng có dạy là chúng ta không có nên luyện tập cái điều đó, chứ không phải thoa dầu thơm, xức dầu thơm như ở đoạn trước đâu, mà đây là thoa dầu để làm cho nó mềm dẻo gân cốt của mình để mà luyện tập cho nó mềm dẻo đó, cách thức mà ngày xưa người ta luyện tập để cho thân người người ta mềm dẻo, cái xương sống họ uốn cong như thế này đó là phải thoa dầu để mà tập luyện chớ không phải là đơn sơ mà tập luyện đâu. Theo cái bài kinh của Phật nói thì Thầy đã hiểu biết là người mà tập luyện cho dẻo dai để mà làm xiếc được trò này trò kia được, như uốn cong người như chân kéo lên tới trên đầu bên đây bên kia được hết á là phải thoa dầu rồi mới tập luyện chớ không phải là không thoa dầu mà tập luyện được. Có khi tập luyện được nhưng mà nó rất khó khăn, nó không bằng những người mà người ta thoa dầu rồi người ta tập luyện.
Làm cho mềm mại, dẻo dai, uốn éo hoặc dùng gương soi, kem đánh mặt, vòng hoa, chuỗi hạt, phấn son, phấn mặt, sáp mặt, vòng tay, tóc giả trên đầu, gậy cầm tay, xà quéo, gươm, lọng, dù, dép, thêu khăn đầu, mũ, nón, phất trần vải trắng có viền tua dài và còn nhiều thứ khác nữa. Vị tỳ kheo không được dùng các thứ như vậy gọi là giới hạnh của vị ấy thứ mười bốn trong giới luật của đức Phật.
Những điều kiện kể trên để mà cái người tu sĩ giữ gìn giới hạnh mà không có vi phạm thì đó là cái giới hạnh thứ mười bốn trong giới luật của đức Phật. Thì Thầy kể ra hết những cái gì mà Phật đã kể ra để chúng ta biết những cái giới hạnh như thế nào để chúng ta đừng có phạm phải cái hành động của chúng ta trong những cái sai đó mà làm mất cái oai nghi tế hạnh của người tu sĩ của đạo Phật, làm cho người ta thấy những cái điều đó mà người ta chê bai mình tu hành không đúng, hành động không có đúng cái hạnh của người tu.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà không sống thầm lặng, độc cư cứ thường hay nói những câu chuyện vô ích, tầm thường. Đó thì ở đây Phật cũng nhắc nhở chúng ta phải sống thầm lặng, phải độc cư, đừng có hay nói chuyện, nói chuyện vô ích tầm thường. Như câu chuyện nói về vua chúa; câu chuyện nói về ăn trộm; câu chuyện nói về đại thần; câu chuyện nói về binh lính; câu chuyện nói về sự hãi hùng; câu chuyện nói về chiến tranh; câu chuyện nói về đồ ăn uống; câu chuyện nói về vải mặc; câu chuyện nói về máy móc; câu chuyện nói về khoa học; câu chuyện nói về tôn giáo; câu chuyện nói về thầy này thầy kia; câu chuyện nói về giáo hội; câu chuyện nói về giường nằm; câu chuyện nói về vòng hoa; câu chuyện nói về hương liệu; câu chuyện nói về bà con; câu chuyện nói về xe cộ; câu chuyện nói về tai nạn lưu thông; câu chuyện nói về làng xóm; câu chuyện nói về thị tứ; câu chuyện nói về thành phố; câu chuyện nói về thế giới; câu chuyện nói về đàn bà đàn ông; câu chuyện nói về anh hùng, vị anh hùng này vị anh hùng khác; câu chuyện nói bên lề đường; câu chuyện tại chỗ giếng nước; câu chuyện về người chết thế này thế khác; câu chuyện tạp thoại, huyền thoại; câu chuyện biến trạng của trái đất; câu chuyện biến trạng của đại dương; câu chuyện về hiện hữu và không hiện hữu; vân vân...
Tất cả những chuyện này thì cái người tu sĩ không có được mà bàn bạc, không được nói mà phải sống thầm lặng độc cư. Hầu hết là những điều mà đức Phật kê ra như vậy để mà chúng ta biết rằng chúng ta không có nên mà nói cái chuyện nhảm nhí như vậy, mà sống để mà thực hành những cái pháp mà chúng ta đang thực hành, tu hành thì may ra thì giữ được cái giới hạnh này, thì chúng ta mới có thể tu đạt được những cái sự giải thoát, còn nếu mà không giữ được cái giới hạnh này cứ mãi nói chuyện này chuyện kia thì không biết bao giờ mà chúng ta nói hết chuyện của cuộc đời chúng ta, mà của cái thế gian này được. Nó lắm chuyện lắm, nó không bao giờ hết được. Thử quý thầy cứ nói, cứ nhìn người đời có bao giờ họ hết chuyện đâu, không chuyện này thì tới chuyện khác họ nói hoài không có hết, bởi vì cái miệng chúng ta nó nhiều lắm, nó nhiều chuyện lắm, nó nói không bao giờ dứt, cho nên đức Phật dạy chúng ta sống thầm lặng, sống độc cư là chính cái chỗ đó để mà chúng ta dẹp đi, cái giới hạnh chúng ta tròn đầy ở trong cái chỗ mà dẹp những cái điều mà không nói chuyện phiếm đó.
Vị tỳ kheo ấy phải từ bỏ xa lìa không nói những chuyện vô ích tầm thường vừa kể ở trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười lăm trong giới luật của đức Phật. Đó là, đây là giới hạnh thứ mười lăm trong giới luật của đức Phật. Cho nên khi mà nói đến cái giới hạnh thứ mười lăm là chúng ta biết là cái gì rồi, mà nói thứ ba, thứ tư là chúng ta biết cái gì rồi. Cái người mà học giới luật về giới hạnh mà nói đến bây giờ giới hạnh thứ năm là cái gì thì vị đó biết liền, mà nói thứ sáu là cái gì vị đó biết liền, còn bây giờ chúng ta không có học nói thứ mười lăm là cái gì chúng ta chẳng biết, mà nói thứ mười bốn chúng ta cũng chẳng biết. Mà chúng ta học chúng ta biết những cái hành động đó nó nằm ở trong cái giới hạnh nào, trong cái thứ mấy của cái giới luật của Phật. Ðó là chúng ta đã thông suốt được cái giới hạnh, còn chưa thông suốt thì chúng ta cần phải học cho thông suốt.
Vị tỳ kheo mặc dù sống đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống bàn luận tranh chấp, kiến chấp tà kiến, tranh luận về thiền, tranh luận về kinh Đại Thừa Tiểu Thừa, tranh luận về kiến giải tưởng giải, tranh luận về giới luật học, tranh luận về luận Trung quán A tì đàm, Thanh tịnh đạo luận, tranh luận về trí Bát Nhã, tranh luận về Phật tánh, vân vân... Tất cả những tranh luận này, điều đó hầu hết là đức Phật ở trong kinh thì đức Phật nói phân ra cái chánh kiến, cái tà kiến rồi kiến chấp này, kiến chấp kia mà 62 cái luận. Nhưng bây giờ thì chúng ta thấy cái luận của chúng ta thì nó nằm đâu? Nó nằm ở trong kinh điển của Đại Thừa, Tiểu Thừa, rồi tranh hơn tranh thua, rồi tranh thiền, tranh đạo, rồi tranh Phật tánh, rồi tranh nói Bát Nhã, rồi nói về Trung quán luận A tì đàm, hoặc là Thanh tịnh đạo luận. Tất cả những cái này đều là chúng ta xoay quanh chứ không phải như trong thời đức Phật là 62 lập luận của thời đức Phật. Ở trong cái chỗ này đức Phật nhắc chúng ta đừng có nên tranh luận trong 62 lập luận đó, thì bây giờ Thầy lại nhắc các thầy đừng có tranh luận ở trong những cái tranh luận của trong cái thời đại chúng ta, bây giờ là chúng ta tranh luận thiền, tranh luận đạo, tranh luận Tiểu Thừa - Đại Thừa, tranh luận Nam Tông - Bắc Tông. Đó là chúng ta có những tranh luận đó, lớp thì hòa giải, lớp thì tranh luận, lớp thì móc bên đây, nghéo bên kia làm nhiều cái có thể làm cho tan nát cái nhà Phật giáo của chúng ta ra. Cái đó là cái mà đức Phật đã cấm và vì vậy mà người tu sĩ mà có cái giới hạnh thì không có nên làm cái điều này, không có nên tranh luận cái điều này, ai nói gì thì làm thinh không có tranh luận hơn thua. Đó là những cái mà đức Phật đã dạy chúng ta từ xưa, bây giờ chúng ta phải hiểu là lúc bây giờ cái giai đoạn chúng ta họ đang tranh luận cái gì thì chúng ta phải đem cái đó ra mà nêu lên để cho cái người hiện nay người ta biết là người ta đang tranh luận cái đó là cái sai của người tu theo giới hạnh của đức Phật.
Vị tỳ kheo ấy phải từ bỏ, xa lánh những cuộc tranh luận, tranh chấp kể trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười sáu trong giới luật của đức Phật. Đó, cái sự tranh chấp này nó nằm ở trong cái hạnh của thứ mười sáu, cái giới hạnh thứ mười sáu của đức Phật.
Vị tỳ kheo mặc dù đã sống dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn sống đưa các tin tức người này người kia, hoặc tự đứng ra làm môi giới, thuyết khách cho vua chúa, cho các vị đại thần, bàn mưu tính kế quốc sự quốc dân, làm mai dong môi giới bán nhà bán ruộng bán đất, môi giới buôn bán, môi giới trai gái, môi giới làm ăn chạy áp phe áp pháo để kiếm danh kiếm lợi thêm. Mặc dù là mình ăn của đàn na cúng dường mình rồi đó, của đàn na thí chủ cúng dường mình rồi mà mình còn đi làm những cái nghề nghiệp như vậy, đi làm những cái môi giới như vậy hoặc làm quốc sư rồi đó thì cái điều đó là không phải, bởi vì mình người tu rồi, mình chỉ người ta đến hỏi, nhà vua tin mình đến hỏi thì mình gợi ý họ thôi chứ mình không làm quốc sư, điều đó phải bày mưu tính kế này nọ kia, phải đánh giặc như thế này thế kia, thì cái điều đó là cái người tu sĩ của đạo Phật không có được làm cái điều đó, cho nên làm cái điều đó đức Phật gọi là làm môi giới. Mình quốc sư của nhà vua thì tức là mình dạy đạo cho nhà vua thôi, chứ không phải là mình cố vấn quân sự cho nhà vua để đi chinh phạt nước người ta hoặc là phải làm cái thế này để trị dân trị nước. Trị dân trị nước bây giờ nhà vua không hiểu, nhà vua hỏi mình thì mình chỉ góp ý cho cái phần của nhà vua về cái phần đạo đức của mình đang tu tập để mà dạy thôi, còn cái phần khác thì nhà vua muốn làm sao đó thì làm chớ không góp ý là phải xây dựng cái pháp luật này, cái pháp luật kia phải sửa đổi cái này, sửa đổi cái kia như vậy là trị nước như thế này thế khác, mình không có góp ý về cái phần đó. Nhưng mình nói về cái thiện pháp thì nhà vua xét qua cái thiện pháp mà đặt ra giới luật như thế nào để đúng để mà cai trị dân, cai trị nước để đem lại sự trật tự an ninh cho dân giàu nước mạnh. Thì cái đó là mình chỉ góp về cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức chơn chánh của đạo Phật để cho nhà vua hiểu được cái đạo đức mà nhà vua tự làm lấy cái pháp luật mà áp dụng trong dân gian để đem lại trật tự mà thôi, chứ chúng ta không có góp ý gì về cái phần đặt ra pháp luật này, đặt ra pháp luật kia cho nhà vua. Vị tỳ kheo ấy phải từ bỏ, xa lìa đưa tin làm môi giới như trên, vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười bảy trong giới luật của đức Phật. Đó là cái giới hạnh thứ mười bảy của cái người tu theo đạo Phật.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn sống lừa đảo, nói lời xiểm nịnh, gợi ý dèm pha cầu lợi, vị ấy phải từ bỏ, viễn ly lời nói lừa đảo, xiểm nịnh như trên, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười tám trong giới luật của đức Phật. Có nhiều người họ nịnh bợ vua lắm, để làm gì, để cho vua phong chức mình cái này cái kia, đó là những vị tu sĩ như vậy không nên làm cái điều nịnh bợ đó. Hoặc là thấy người ta giàu có cúng dường tiền mình thì nịnh bợ cho nên họ đến xin xuất gia thì mau mau xuất gia liền, cho họ thọ cụ túc liền, đó là mình nịnh bợ họ. Mặc họ, chừng nào họ giới luật được rồi mới là cho họ thọ giới đàng hoàng, còn họ chưa được thì không, nhất định là không cho, dù họ là vua cũng vậy nữa chứ đừng có nói là nhà giàu. Cho nên chúng ta là một người tu sĩ phải thẳng thắn, phải cương nghị để giữ gìn mạng mạch của Phật pháp chứ không thấy người ta giàu có cúng tiền cho mình cất chùa nhiều rồi, bây giờ chùa mình sang đẹp rồi là nhờ cái ông cư sĩ đó giàu có hoặc là nhờ ông vua đó, bây giờ ổng muốn xuất gia cái vô đó cái là cạo đầu cho ổng thọ giới cụ túc liền, ổng ngồi ổng bạch ngực ổng quạt như là ông địa mà quạt như vậy đó thì thử hỏi quý thầy nghĩ sao là cái vị tu sĩ giới hạnh ở chỗ nào. Thế mà chúng ta hỉ hả rằng đó là một vị Di Lặc rồi, thì chúng ta thấy cái đó là một cái sai của đạo. Chúng ta phải mạnh dạn không có nịnh bợ vua chúa, không có nịnh nhà giàu. Chúng ta đi xin từng người ăn chớ không phải là chúng ta xin một người nào mà chúng ta sợ.
Vị tỳ kheo mặc dù dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà hạnh, tà nghiệp như xem tướng, coi tay, chiêm tinh, tuổi tác, tướng mạo, triệu tướng, mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, cúng bái, tế lửa, tế núi, tế sông, tế vỏ lúa, tế tấm, gạo, muối, tế thực tô, tế thực phẩm, tế máu. Tất cả những cái mà cúng tế kiểu này các con thấy có nhiều chùa người ta chiều chiều lấy gạo với muối để cúng cô hồn đó, tức là tế cô hồn đó. Đó là ở đây Phật dạy là tế gạo muối đó, tế thực tô có người lấy thực tô rồi tế thực phẩm cúng bái đồ ăn đồ uống cúng lên đó, có người lại cắt tay mình lấy máu hoặc này kia đó thề nguyền này kia đồ, đó tức là tế máu đó. Đó là những cái sai, những cái mà không đúng, những cái hạnh đó là những cái hạnh không phải là cái hạnh người tu, cho nên làm những cái đó như tế lửa tức là cúng thần lửa, tế núi tức là cúng núi, cúng thần núi, tế sông tức là cúng thần sông tức là cúng hà bá, thủy long ở dưới nước, đó là cúng những cái thần ở dưới đó. Cúng vỏ lúa, hồi đó Thầy nghe nói cái vỏ lúa lớn lắm và lúa khi mà nó chín rồi thì nó lăn về người ta khỏi có cắt gặt cho nên bây giờ người ta nhớ như vậy đó mà người ta đem cái vỏ lúa, không biết là cái vỏ cây người ta tiện ra cái vỏ lúa, y như cái vỏ lúa người ta để đó người ta thờ rồi người ta cúng bái người ta nói hồi đó cái vỏ lúa hồi xưa như vậy. Nhưng sự thật ra Thầy nghĩ chắc không có điều đó đâu, người ta tưởng tượng ra như vậy, rồi cúng tấm tế gạo muối, đó là những cái mà hiện bây giờ chúng ta cũng còn những cái ảnh hưởng đó, mà trong đạo Phật dạy chúng ta những cái hạnh của người tu là không được làm những cái điều đó. Thế mà bây giờ ở trong chùa chúng ta thấy cũng có đem gạo muối tế cúng cô hồn các đảng. Quyến rũ ba con ma nó đến rồi nó khua chén khua bát ở trong chùa nói là quỷ chùa nó dậy, sự thật ra mình rủ nó đến nó chẳng khua chén khua bát của mình thì làm sao mà không dậy, tại vì mình đem cho nó mình kêu nó về nó ở nó chẳng phá mình, còn như ở chỗ Thầy, Thầy không kêu nó làm sao có rung chuông nó, lúc nồi nó có lúc lắc chén bát ở đâu, cho nên ở đây chẳng có quỷ chùa chút nào hết, mà chẳng có cô hồn các đảng nào hết. Bởi vì Thầy là một người tu Thầy không gần những cái thứ đó, Thầy không cầu nó, Thầy không cúng nó, cho nên nó đâu có dám lại đây, còn cái chỗ nào mà mê nó thì cứ mời thỉnh nó thì nó phải tới, nó tới rồi không cho nó ăn thì nó khua chén khua bát nó làm cho sợ, sợ đặng cho đem cơm đem muối cho nó ăn, đem gạo.
Khoa xem tay, xem nốt ruồi, có người thì xem nốt ruồi, cha, nốt ruồi này làm quan, nốt ruồi này làm tướng, nốt ruồi này làm tôi tớ, nốt ruồi này nghèo khổ nè... làm cho mấy bà hoảng hồn đi, mới đem cắt đốt, mới làm cho đau khổ người ta. Nói tầm bậy tầm bạ. Trong da thịt của mình là vô thường có gì đâu mà phải nói là tướng này tướng kia tướng nọ trong đó.
Khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần ban phước, khoa cầu quỷ ma, yếm đối trùng tang, yếm đối ma quỷ thần trùng, có thần trùng nữa, đủ thứ hết. Yếm đối nhà cửa mả mồ, dùng khoa trị rắn thuốc rắn, dùng khoa thuốc độc khoa trị bò cạp đoán số mạng cầu khẩn ngăn ngừa tai nạn, khoa biết chim nói chuyện. Đó tất cả những cái khoa như vậy, vân vân,... thì đức Phật đã cấm người mà tu cái giới hạnh của Phật thì không được làm những cái điều mà đã kể ở trên.
Vị tỳ kheo ấy phải tránh xa từ bỏ tà hạnh nghiệp đã kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ mười chín trong giới luật của đức Phật. Đó là giới hạnh thứ mười chín trong giới luật của đức Phật là không được làm những cái nghề nghiệp, những điều mà cái hành động làm như vậy tức là sai, không có đúng, đó là nuôi cái tà mạng của chúng ta. Cái tà nghiệp đó nuôi cái tà mạng. Vị tỳ kheo ấy phải tránh xa.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn nuôi sống bằng những tà nghiệp như làm nghề xem ngọc báu, đó mấy cái người mà bán ngọc này kia, mình đem ngọc tốt đến họ xem coi ngọc này thứ thiệt hay thứ giả đó, đó là cái nghề xem ngọc báu đó, xem tướng que gậy, xem tướng áo quần, xem tướng gươm kiếm, xem tướng mũi tên, xem tướng cây cung, xem tướng võ khí, xem tướng đàn bà, xem tướng đàn ông, xem tướng thiếu niên, thiếu nữ, tướng đầy tớ nam, tướng đầy tớ nữ, tướng voi, tướng ngựa, tướng bò đực, tướng bò cái, tướng dê, tướng cừu, tướng gia cầm, tướng chim cun cút, tướng con tắc kè, tướng vật tai dài. Tất cả những cái tướng này hầu như người ta xem, các thầy thấy có người họ coi bò, trâu hoặc là ngựa, họ coi xoáy coi bướm đó, coi con ngựa này có cái xoáy này con ngựa hay, con ngựa dở, con bò này nó có cái xoáy này con bò này ăn thịt chứ còn nó cày ruộng không được, đó là tất cả những điều kiện đó có nhiều người họ rành về bướm xoáy dữ lắm cho nên họ coi tướng bò, tướng trâu, tướng ngựa là coi như vậy đó. Còn ở đây thì tất cả những cái này đức Phật đều là cấm không cho người tu sĩ, giao qua cái giới hạnh của người tu sĩ không có được hành động, không có được làm những cái nghề nghiệp đó như vậy. Như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi trong giới luật của đức Phật. Thì chúng ta thấy cái giới hạnh mà không có coi tướng coi này kia của người này, người kia hoặc là coi tướng bò, tướng trâu, tướng thú vật như ở trên đã kể thì đó là cái giới hạnh thứ hai mươi trong giới luật của đức Phật.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước vua sẽ tiến quân, vua sẽ lui quân, vua bản xứ sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thoái, vua bản xứ thắng trận, vua ngoại bang thất trận, vua bản xứ bại trận, vua ngoại bang thắng trận, như vậy sẽ có sự thắng bại, sẽ có sự thắng trận cho phe bên này, sẽ có sự bại trận cho phe bên kia. Vị tỳ kheo này phải từ bỏ, từ giã những tà nghiệp như kể trên. Đó là cái phần mà khi mà có chiến tranh rồi đó, thì mấy ông thầy chùm nhum lại mà bàn tính với nhau, ông vua này thắng á ông vua kia thắng á. Cũng như trong thời chiến tranh các con thấy không, Mỹ nó nay đem quân nó qua đánh mình á, chắc nó thắng á vũ khí nó quá trời nó bỏ bom ở Hà Nội tiêu hết rồi. Đó là mấy ông thầy ngồi bàn chuyện với nhau như vậy đó thì các thầy thấy rằng trong cái vấn đề đó là không phải vấn đề để chúng ta bàn, chúng ta là người tu sĩ phải giữ gìn cái hạnh, trường hợp nó xảy ra mặc nó, ai làm gì làm chúng ta chẳng biết hết. Còn mình bàn như vậy nó có lợi ích gì cho mình không, mình có đem lại cái gì lợi ích cho mình không? Nếu mình muốn bảo vệ Tổ quốc của mình thì mình phải khoác cái áo chiến trận ra, cởi chiếc áo tu sĩ chúng ta ra rồi chúng ta sẽ làm công chuyện bổn phận của người dân để bảo vệ đất nước, thì hơn là mình ngồi đó rồi là Mỹ thắng, là Tây thắng, là Việt Cộng thắng, là Việt Minh thắng. Điều đó là điều đâu có đúng, cho nên vì vậy mình ngồi bàn, mấy ông thầy chùa ngồi với nhau bàn thắng trận, bàn này kia đủ cách đủ loại cho nên vì vậy đó là những cái sai.
Chúng ta muốn làm cái gì thì chúng ta phải làm cho ra nấy, là một tu sĩ chúng ta không có được nói đến vấn đề đó. Mà chúng ta muốn làm bổn phận người công dân thì chúng ta phải dẹp cái áo cà sa xuống đi, mặc chiếc áo chiến bào lên để mà chúng ta ra trận chiến đấu để dẹp giặc thì như vậy đâu nó ra đó, còn bây giờ mặc chiếc áo này là cái hạnh chúng ta phải đàng hoàng chứ không được ở đó mà nói rằng cái này cái nọ cái kia. Làm cái gì nó ra cái nấy, cho đúng. Chớ còn mặc chiếc áo này mà xiên xẹo nói bên đây bên kia rồi hùa bên đây bên kia cuối cùng mai mốt đi ở tù, ở tù không có giá trị gì hết hà, thà là mình đi chiến đấu mình ở tù nó có giá trị, mình dẹp giặc mình bảo vệ đất nước của mình nó có giá trị. Còn giờ mình nói cái chuyện tào lao như vậy chúng còng đầu mình nó bỏ tù, nói mấy ông thầy chùa này làm chính trị mà có làm chính trị đâu, nói miệng không hà mà bị ở tù, oan ức không? Đó là cái giới luật, cái giới hạnh của Phật cấm chúng ta là đúng chớ không phải là sai, nhưng tại chúng ta không có học cái giới hạnh cho nên từ đó cái miệng của chúng ta nó đi đến cái sai lệch của nó, nó làm chúng ta lạc đường, lạc cái hạnh của người tu.
Như vậy là giới hạnh của vị tỳ kheo thứ hai mươi mốt trong giới luật của đức Phật. Bởi vậy ở đây Thầy dạy cái nào nó ra cái nấy rất rõ ràng, chúng ta là người như thế nào chúng ta phải làm đúng như thế nấy, người tu sĩ phải làm đúng người tu sĩ, mà chúng ta muốn làm một bổn phận người công dân thì chúng ta phải khoác áo người công dân chúng ta làm bổn phận của người công dân đất nước đó, chứ không phải là mang chiếc áo của tu sĩ mà làm bổn phận người công dân thì không đúng. Mặc dù chúng ta biết chúng ta là người công dân nhưng mà chúng ta đã khoác chiếc áo này lên thì cái oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ chúng ta phải hẳn hòi của nó, chứ không thể nào mà lầm lạc được, bởi vì Phật dạy nó quá rõ ràng nó không thể nào lầm cái này qua cái kia được.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước sẽ có nguyệt thực, sẽ có nhật thực, sẽ có tinh thực, mặt trăng mặt trời sẽ đi đúng chánh đạo, mặt trăng mặt trời sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao băng, các tinh tú sẽ đi đúng chánh đạo, các tinh tú sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao băng, sẽ có lửa cháy, phương hướng sẽ có động đất, sẽ có sấm sét, mặt trăng, mặt trời, các vì sao sẽ mọc, sẽ lặn, sẽ mờ, sẽ sáng, nguyệt thực sẽ có kết quả như thế này, nhật thực sẽ có kết quả như thế kia. Những điều trên đây vị tỳ kheo cần phải tránh xa, cần phải từ bỏ, không được lấy những nghề nghiệp này nuôi sống tà mạng. Như vậy là giới hạnh của vị tỳ kheo thứ hai mươi hai trong giới luật của đạo Phật.
Đó chúng ta biết là mặc sức chúng ta là người tu sĩ, đây là Thầy nói đơn sơ thôi chúng ta không làm cái nghề đó nhưng mà nghe nói nhật thực nguyệt thực là chúng ta cũng chạy ra mà xem mặt trời mặt trăng ăn, mặc tình nó ăn gì nó ăn kệ nó ăn thua gì giới hạnh của chúng ta. Chúng ta là những người tu không có để ý đến cái hiện trạng xảy ra của trên trái đất này, nó làm gì thì kệ trong cái vũ trụ này mặc tình nó làm gì làm. Còn cái này nghe người ta nói nhật thực cái mình cũng chạy ùa theo, cũng đi xem nhật thực, rồi nghe nguyệt thực cũng chạy ùa theo, nghe nói sao băng nó sẽ rớt ở trên quả địa cầu ôm nhau mà khóc mà ráng mà tu để cho nó thoát chết. Thử hỏi người tu sĩ mà như vậy cái hạnh là như thế nào, cái giới hạnh là như thế nào, cho nên tâm luôn luôn lúc nào cũng dao động thì làm sao mà gọi là giới hạnh? Bị dao động trước mọi hiện tượng xảy ra của vũ trụ, bị dao động trước những hiện tượng của con người ở trên thế gian này thì làm sao mà tâm chúng ta an ổn được? Cho nên tất cả những cái này chúng ta đã không hành nghề này mà chúng ta còn phải dẹp cái tâm dao động bằng cái giới hạnh của chúng ta, như vậy là chúng ta mới là những người tu sĩ của đạo Phật. Đó thì hôm nay được nghe giảng được nói cho rõ từng chút từng chút để quý thầy thấy cái tâm của chúng ta không dao động trước cái hiện tượng của thiên nhiên chớ không phải là chúng ta bị dao động nó đâu.
Đây Thầy xin nhắc lại một câu chuyện để cho quý thầy thấy, trong một giáo đoàn của đức Phật 1500 vị tỳ kheo, sau khi đi đến một cái bờ sông đó thì trong khi trời tối cho nên không thể qua sông được, cho nên tất cả các đoàn tu sĩ đều là nằm ở trên cái bờ sông, nằm dựa theo bờ sông, nằm láng ở trên bờ sông và thậm chí như trong khu rừng nữa. Nửa đêm bắt đầu nước dâng lên ngập, nó ngập rồi chúng hoảng hồn hoảng vía nhao nhao hết, đức Phật mới ra lệnh cho một vị tỳ kheo, ông phải ngăn nước lại không có được cho nước tràn vô để chúng tỳ kheo ngủ sáng ra đi. Thì cái vị tỳ kheo đó mới thực hiện chận đứng nước lại, nước dâng lên cao mà không tràn vô, chúng tỳ kheo ngủ im rơ, sáng ra thì vị đó đưa chúng tỳ kheo đi hết rồi mới xả cho nước đi. Thì các thầy thấy trong cái thời đức Phật, đức Phật ra lệnh cái vị nào làm cái phận sự nấy khi mà không có để chúng tỳ kheo nhôn nhao trong cái trước mà thiên tai, trong cái trước nạn nước lụt nước trôi cho nên đi ở trong cái giáo đoàn của đức Phật sự thật ra thì đức Phật đã bảo vệ chúng tỳ kheo rất là nghiêm chỉnh không có để mà dao động trước cái hiện tượng của vũ trụ, của thời tiết.
Đọc qua câu chuyện đó Thầy thấy thật ra thì cái vị đó nói lên cái chỗ mà đức Phật sai thì vị đó mới làm, nhưng mà sau khi vị đó làm rồi thì chúng tỳ kheo biết là vị đó đã có thần thông đến mức độ như vậy thì lúc bấy giờ vị đó đã rời khỏi khu vực đó liền tức khắc, không có đi ở trong đoàn chúng đó nữa. Nhưng mà đó là cái việc bất đắc dĩ để tạo cho chúng tỳ kheo được yên ổn nằm ở trên bờ sông mà không sợ nước cuốn trôi. Nửa đêm nước dâng lên, tràn lên làm cho chúng hoảng hồn hết, do đó đức Phật ra lệnh ông hãy ra ông ngăn nước lại không có được cho nước tràn thì vị tỳ kheo đó dùng thần thông ngăn nước lại không cho tràn, tất cả các chúng tỳ kheo đều nằm yên khô ráo không có một giọt nước. Thì các thầy thấy trong lúc thời bây giờ trong thời đức Phật là như thế nào, không phải là cái thần lực của đức Phật đến mức độ mà đức Phật không dùng thần lực của mình, sai người đệ tử của mình thôi. Để tới những cái vấn đề đó Thầy sẽ nhắc lại cái vị cao tăng đó tên gì họ gì để cho quý thầy biết.
Vị tỳ kheo cần phải tránh xa, từ bỏ các tà nghiệp như kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi ba trong giới luật của đức Phật. Hồi nãy hai mươi mấy rồi con, hai mươi hai phải không? Như vậy là Thầy chưa có đọc cái đoạn này, cái giới hạnh hai mươi ba.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà nghiệp như đoán trước sẽ có mưa nhiều, sẽ có đại hạn, sẽ có được mùa, sẽ mất mùa, sẽ được an ổn, sẽ bị bệnh, bị hiểm họa, sẽ có những bệnh ôn dịch, sẽ có bệnh này bệnh khác, hay làm nghề như đếm trên ngón tay, tính số, đoán quẻ âm dương, kế toán, làm sổ sách, làm thư ký, làm theo các nghề của thường tình thế gian. Nghĩa là từ cái chỗ mà đoán cái nghề nghiệp, đoán mưa nhiều mưa ít, rồi xem bệnh ôn dịch, bệnh nào là bệnh đậu mùa, hoặc là như làm nghề mà đếm ngón tay, tính sổ sách, rồi toán quẻ âm dương, hoặc là làm sổ sách như làm thư ký, hoặc là làm các nghề của thế gian khác thì tất cả những nghề nghiệp này đức Phật cấm luôn không cho làm. Như vậy đó là cái giới hạnh thứ hai mươi ba trong giới luật của đức Phật. Vị tỳ kheo cần phải tránh xa, từ bỏ tà nghiệp như kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi ba trong giới luật của đức Phật.
Đó thì những giới hạnh mà Thầy kể ra các thầy có thấy ở trong giới luật của đức Phật không? Không có. Trong giới bổn của Phật không có nói, nhưng mà ở đây kể rất kỹ những giới hạnh, bởi vì đây là những cái mà chúng ta lầm lạc cho nên có nhiều người làm thầy thuốc, có nhiều người làm châm cứu, có nhiều người làm cái chuyện mà họ tưởng đó là chuyện đúng, nhưng mà sự thật đó là cái chuyện sai, cái chuyện không đúng. Có nhiều người làm thầy cúng, thầy bái, có nhiều người làm đủ loại hết người ta vẫn cho đó là trong đạo Phật. Mà nhan nhản là hình ảnh đó trong đạo Phật chúng ta rất nhiều, mà cái giới hạnh thì không ai dạy hết cho nên người ta không biết đâu mà người ta cho nên hễ nói đến họ thì họ nói giới luật không có nói những điều đó, bởi vì giới bổn thì đâu có nói cái điều đó nhưng mà cuối cùng thì giới hạnh rất là đầy đủ, rất là rõ ràng.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn còn tự mình nuôi sống bằng những tà nghiệp như chọn ngày lành để rước dâu hay rể về nhà, chọn ngày lành để đưa dâu hay rể, lựa ngày giờ tốt xấu để hòa giải, để đi thưa kiện, lựa ngày giờ tốt xấu để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt xấu để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt xấu để cho mượn, cho vay tiền tiêu tiền, lựa ngày giờ tốt xấu để mà xuất hành, nhập gia, ăn tân gia, lựa ngày giờ tốt xấu đi buôn, đi kiện thưa tụng gởi, lựa ngày giờ tốt xấu an táng trừ linh trừ thần... Có không? Ở đời chúng ta thấy cái đó là nó quá nhiều mà ở trong kinh giới của Phật thì nó không có, mà giới hạnh của Phật thì Phật đã dạy chúng ta rất là đầy đủ. Cho nên tất cả những cái điều mà chúng ta làm như vậy đó là cái hạnh của chúng ta sai, của người tu sĩ sai. Cho nên chúng ta không có nên làm những điều đó.
Đó thì chúng ta đã học tới đây là chúng ta không có chọn ngày giờ tốt xấu bằng cách này bằng cách khác mà hầu như là hiện giờ mà tu sĩ của chúng ta trong chùa thì hầu hết là luôn luôn lúc nào, mà chính bản thân của Thầy đây nghĩa là người ta đến đây người ta nhờ Thầy phải coi ngày tốt xấu, coi ngày ăn tân gia, coi này kia, thiệt là một cái điều kiện mà Thầy thấy không có làm mà họ năn nỉ thế này thế khác, họ nói Thầy thế này thế khác đủ thứ hết, cho nên Thầy thấy đó là một cái điều kiện không phải là người tu sĩ. Mà không làm những điều này cho thỏa mãn họ thì họ nói mình tu sĩ không có giúp đỡ họ cái gì hết, không có làm gì cho Phật tử hết. Người Phật tử nào mà gọi là ruột nhất là đòi hỏi nhất cái này nè, họ nói Thầy coi 1000 lần trúng 1000 lần, cái gì nó hay vô cùng á, nói đâu có đó, coi ngày tốt là tốt mà coi ngày xấu là xấu, họ tin như vậy lận, cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều thiệt là điều nó không đúng người tu sĩ của đạo Phật lúc nào hết.
Dùng bùa chú để giúp đỡ người buôn bán, làm ăn may mắn, dùng bùa chú để khiến người gặp tai nạn rủi ro, dùng bùa chú yếm nhà cửa, phá thai, dùng bùa chú khiến cho người ta cóng lưỡi, khiến cho quai hàm cử động, khiến cho tay chân múa men nhảy nhót như điên khùng, dùng bùa chú khiến người đưa tay lên xuống, dùng bùa chú khiến người bị điếc, dùng bùa chú hỏi gương, dùng bùa chú hỏi đồng cốt thiếu nữ, hỏi tà ma, hỏi quỉ thần về tật bệnh, về tai nạn của con người, dùng bùa chú đi hỏi thần thiên thần để biết họa phước, thờ thần mặt trời, thần đất, thần núi, thần lửa, thần tài và cầu si ri thần tài để mang đến tài lợi cho gia chủ. Nghĩa là ông thầy đó ổng dùng bùa chú, dùng thần chú để đọc để thần núi thần sông thần lửa để đến hoặc là thần tài si ri cũng đến để mà đem lại cái lợi cho gia chủ mà người đó rước ông thầy đến để mà rước thần rước này kia. Đó là những điều kiện như vậy là đức Phật cũng cấm không có cho chúng ta thực hiện những hành động, làm nghề nghiệp như vậy. Vị tỳ kheo cần phải tránh xa từ bỏ những nghề nghiệp không chơn chánh ở trên như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi bốn trong giới luật của đức Phật. Đó là đừng có dùng bùa chú, đừng có dùng thần chú mà rước thần, kêu thần, kêu thánh đến để mà gia hộ phù hộ cho gia chủ của mình được giàu sang, được hạnh phúc thì cái điều đó là cái điều mà đức Phật cấm các vị đệ tử của ngài không có được làm, đó là những tà hạnh chứ không phải là cái giới hạnh của người tu sĩ đạo Phật, đó là thứ hai mươi bốn.
Vị tỳ kheo mặc dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường mà vẫn tự nuôi sống bằng tà nghiệp như dùng chú thuật để gạt người, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới, làm lễ cúng bái, làm lễ tắm, lễ hy sinh, làm thuốc nôn mửa, làm thuốc bài tiết xổ, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu trong lỗ tai lỗ mũi, nhỏ mắt lỗ tai lỗ mũi, chữa mắt chữa tai chữa mũi, làm thầy thuốc, thầy mổ xẻ, thầy chữa bệnh con nít, làm thầy thuốc nam cho uống bằng rễ cây lá cây,... Tất cả những cái này Phật cũng cấm chúng ta là những người tu sĩ không được làm tất cả những cái nghề mà thầy thuốc như vậy. Dù là mắt tai mũi miệng thân ý của người ta đau bệnh gì thì đi đến ông thầy nào chuyên môn người ta chữa chứ mình làm ông thầy tu rồi hoàn toàn là không làm cái điều đó, mà chỉ lo làm sao mà giữ cho đúng những giới hạnh để mà tu cho được giải thoát là điều quan trọng nhất. Chớ làm chuyện đó rồi người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy thuốc rồi, người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy bùa rồi, người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy trị mắt rồi, người ta thấy ông thầy tu thành ra ông thầy thuốc nam rồi. Ờ ông thầy chùa nay thành ông thầy thuốc nam rồi, trời ơi ổng đi chặt rễ cây rễ rừng ổng vác cả đống đống về đây, bà con mình xuống đến đó mà có đau bệnh ổng cho mình chớ gì, tức là trở thành ông thầy thuốc nam, rồi trở thành ông thầy chữa mắt, rồi trở thành ông thầy mổ xẻ bằng cách này bằng cách khác. Cuối cùng ông thầy tu, ông thầy giải thoát mà không giải thoát, mà vây quanh bao nhiêu cái nhân quả nghiệp báo của chúng, chúng ta làm sao mà giải quyết được cái nghiệp báo đó, chỉ có hành động tu đúng giới luật của chúng ta là mục đích là giải thoát được cái nhân quả nghiệp báo để cho người ta nương theo đó mà hết. Còn bây giờ mình chặt lá cây lá cối cho người ta uống bớt đó, mai mốt cái nghiệp người ta còn nữa chứ đâu phải hết, cho nên càng uống thấy bệnh càng nhiều. Nếu mà hết thì bây giờ nhà thương đâu có bệnh nhân, mà thế mà uống thuốc càng nhiều, thầy thuốc càng nhiều tại sao bệnh nhân lại đống đống như vậy, à, quý thầy thấy không, chúng ta trị cái bệnh mà không trị ở cái gốc mà cứ trị ở cái ngọn làm sao cho nó hết? Do cái gốc nhân quả mà chúng ta không trị được cái bệnh gốc nhân quả mà đi trị cái ngọn thì làm sao cho hết bệnh nhân của thế gian này? Biết bao nhiêu người tốt nghiệp ở trong các trường y khoa mà rồi thế gian này bệnh vẫn bệnh, mà có nhiều cái bệnh bây giờ gọi là những cái bệnh mà không có thuốc trị nữa, chết biết bao nhiêu người. Bệnh gì? Bệnh Sida bệnh gì đó, Thầy chả biết nhưng mà Thầy nghe nói cái bệnh đó bây giờ không có thuốc trị. Thầy thuốc đông quá mà bây giờ trị bệnh không nổi rồi, chịu thua nó rồi, cuối cùng thì càng ngày Thầy thấy các bệnh trạng nó càng có những cái bệnh khó hơn nữa. Do đó chúng ta phải từ ngay cái gốc, mà từ ngay cái gốc đó là những giới hạnh của người tu sĩ đó là trị ngay cái bệnh gốc, thế mà chúng ta không trị ngay cái bệnh gốc của mình mà cứ đi dùng thuốc thang trị ở ngoài ngọn lá làm sao cho hết? Cho nên đối với người tu sĩ có bệnh có sợ không? Bệnh cùi mà người ta rớt từng ngón tay kia mà người ta còn không sợ, người ta đặt cái thọ khổ trước mặt, người ta tu cái Định Vô Lậu người ta quét sạch, người ta giải thoát, các thầy không thấy điều đó, còn bệnh quý thầy có ăn nhằm nhò gì mà mỗi chút là mỗi rên, mỗi chút là mỗi sợ. Đối với người tu sĩ của đạo Phật giới hạnh chúng ta nghiêm chỉnh thì chúng ta chẳng sợ trước cái thọ nào hết. Cho nên trong một đêm bị cảm lạnh mà Thầy chỉ cần ngồi trên bồ đoàn nhiếp tâm trong hơi thở, hoàn toàn thắng được cái cơn cảm lạnh. Thì có gì đâu các thầy thấy rất rõ, chúng ta đừng có sợ hãi cái thọ mà chúng ta chiến đấu nó bằng cái sức lực tinh thần của chúng ta thì chúng ta sẽ qua tất cả mọi cái. Thọ làm sao giết chúng ta được, nhân quả làm sao hại chúng ta được khi mà chúng ta chuyển nó? Đó là cái chỗ mà chúng ta phải đi về tận cái gốc mà trị, còn bây giờ chúng ta cứ làm cái nghề này là trị cái ngọn của thiên hạ chứ làm sao chúng ta trị cái gốc? Cho nên đức Phật cấm không có cho những hành động của tu sĩ chúng ta làm những cái nghề đó. Vị tỳ kheo cần phải tránh xa, từ bỏ những tà nghiệp không chơn chánh đối với người tu sĩ đạo Phật, như vậy là giới hạnh của vị ấy thứ hai mươi lăm trong giới luật của đức Phật.
Đó thì bắt đầu chúng ta thấy trong cái sự tu tập của chúng ta mà đến cái chỗ này chúng ta thấy cái giới hạnh hai mươi lăm của chúng ta là đức Phật đã cấm chúng ta không cho làm nghề thầy thuốc đó, dù thuốc nam thuốc bắc thuốc tây thuốc gì cũng không cho hết, cấm bặt chúng ta phải thực hiện cái ông thầy thuốc trị cái bệnh gốc chứ không phải trị cái bệnh ngọn, còn quý thầy mà làm thầy thuốc thì đó là quý thầy đã trị cái bệnh ngọn chứ không phải trị cái bệnh gốc, bởi vậy đức Phật gọi là “y vương”. Y vương là ông vua thuốc mà trị thì trị cái bệnh gốc của chúng sanh chứ không phải trị cái bệnh ngọn của chúng sanh.
Vị tỳ kheo nhờ giữ giới hạnh không làm những tà nghiệp không đúng hạnh nghiệp của người tu sĩ, nhờ đầy đủ giới hạnh luật nghi nên vị tỳ kheo ấy không thấy sợ hãi từ một phương diện nào của sự giữ gìn hộ trì giới luật. Đây quý thầy thấy cái câu chỗ này, 25 cái hạnh, cái giới hạnh của người tu sĩ thì chúng ta đức Phật đã kết luận 25 giới hạnh như thế nào? Nếu mà chúng ta giữ tròn những giới hạnh đó thì dù trước cái sợ hãi nào chúng ta cũng chẳng sợ hãi hết. Đây Thầy đọc lại cho quý thầy thấy câu kết luận của Phật trong kinh rất rõ: Vị tỳ kheo nhờ giữ giới hạnh không làm những tà nghiệp không đúng hạnh nghiệp của người tu sĩ, nhờ đầy đủ giới hạnh luật nghi nên vị tỳ kheo ấy không thấy sợ hãi từ một phương diện nào. Không có sợ từ một phương diện nào đến, thì vị đó không bao giờ sợ hãi nghĩa là giới hạnh nó hộ trì vậy đó, không bao giờ sợ trước cái sống chết của vị đó mà giới hạnh nó cũng sẽ làm cho vị đó không sợ hãi. Sự giữ gìn hộ trì giới luật này nghĩa là với sự giữ gìn hộ trì mà đúng cách của giới hạnh này thì quý vị không bao giờ có sợ hãi, trong khi quý vị sắp sửa chết quý vị cũng chẳng sợ hãi nữa, mà nếu quý vị mà không thực hiện được giới hạnh này thì quý vị luôn luôn là lúc nào quý vị cũng sợ hãi hết.
Vị ấy nhờ giới hạnh luật nghi cao quý này nên hưởng thọ lạc, nội tâm thanh tịnh không còn si ám, đó là tỳ kheo đầy đủ giới hạnh luật nghi. Đây là giới hạnh luật nghi, là 25 cái điều giới hạnh này, mà chúng ta giữ trọn đầy đủ thì chúng ta không còn si ám, nội tâm chúng ta thanh tịnh và cái hạnh luật nghi này nó làm chúng ta có một cái thọ hường lạc rất là đầy đủ, nó làm chúng ta an ổn rất là đầy đủ, cho nên trước những đối tượng trước những cái gì chúng ta cũng chẳng sợ hãi, cho nên gọi là nên hưởng thọ lạc. Bây giờ Thầy đọc lại câu này của Phật ở trong kinh, Phật nói rất rõ: Vị này, vị ấy nhờ giới hạnh luật nghi cao quý này nên hưởng thọ lạc, nghĩa là giữ gìn cho nó trọn vẹn, thì vị ấy rất là thọ lạc, nội tâm thanh tịnh không còn si ám, đó là tỳ kheo đầy đủ giới hạnh luật nghi, tức là giới hạnh cụ túc đó, giới hạnh đầy đủ, như hồi nãy Thầy nói giới hạnh đầy đủ như thế nào đó, giới hạnh đầy đủ như thế nào, thì đây là kết luận để chúng ta thấy giới hạnh đầy đủ luật nghi là do cái chỗ chúng ta giữ gìn sống đúng những cái hành động của chúng ta, 25 cái giới hạnh đó.
Đó thì như vậy chúng ta đã học được 25 giới hạnh của một người tu sĩ tức là học 25 cái oai nghi tế hạnh của một cái người tu sĩ khi bước chân vào đạo là chúng ta phải hiểu cái giới hạnh đó. Đây là phần sơ thiện, nghĩa là cái phần mà giới hạnh này đức Phật được xem nó là cái phần sơ thiện mà Đức Phật đã từng nhắc nhở các vị tỳ kheo, các vị đệ tử của mình. Đây là phần sơ thiện mà đức Phật thường nhắc đi nhắc lại cho các đệ tử của mình để tránh xa những tà nghiệp mà luật nghi răn cấm, không cho vi phạm. Vì vi phạm những luật nghi này thì người tu sĩ khó mà đạt được mục đích giải thoát chân chánh của đạo.
Đó thì quý thầy phải nhớ kỹ trong cái vấn đề luật nghi về cái giới hạnh này được xem như là sơ thiện của đạo Phật chứ chưa phải là trung thiện, chưa phải là hậu thiện đâu. Còn trung thiện và hậu thiện nó còn cao siêu hơn nữa, bởi vì cái trung thiện nó là giới đứchậu thiện nó là giới tuệ, nó phân ra từng chút từng chút rất rõ, còn sơ thiện đó là cái phần giới hạnh của chúng ta. Bởi vì đạo Phật là đạo thiện, đạo thiện pháp cho nên nó đứng ở trong giới luật chúng ta phân ra chỗ nào là thiện chỗ nào là không thiện, chúng ta thấy rất rõ. Nếu mà chúng ta đi ngược lại 25 giới này là không thiện, tức là không phải sơ thiện của chúng ta đâu.
Đây chính là phần giới hạnh của người tu sĩ đạo Phật, các thầy phải cố tránh và giữ gìn cho nghiêm túc để viên mãn thành ly dục ly ác pháp trong giới hạnh của Phật. Nghĩa là trong cái sơ thiện này mà quý vị đã giữ gìn được nó thì quý vị đã ly dục ly ác pháp trong cái giới hạnh đó, chứ không phải là ly dục ly ác pháp ở trong thiền định mà nhập sơ thiền đâu, mà đây là ly dục ly ác pháp ở trong giới hạnh, quý vị phải hiểu ở chỗ ly dục ly ác pháp ở trong giới hạnh, nó không phải là ly dục ly ác pháp để nhập sơ thiền, hai cái này nó khác. Phải hiểu ở chỗ dùng để mà hiểu nó bởi vì trong khi mà chúng ta thực hiện các hạnh như vậy tức là chúng ta phải có sự ly dục, có sự hàng phục, có sự khắc phục trong cái tâm ham muốn của chúng ta. Do cái chỗ đó thì chúng ta mới ly tất cả ác pháp mới ra. Cho nên ly dục ly ác pháp ở trong giới hạnh của đức Phật là ở trong sơ thiện của nó. Nếu quý vị không gìn giữ đúng giới hạnh này thì con đường tu tập theo đạo Phật của quý vị chỉ hoài công mà biến quý vị thành trùng trong lông sư tử, trở lại giết sư tử chết, cũng như bao thế kỷ nay trùng trong lông sư tử đã giết sư tử chết mà ai ai cũng không ngờ. Nghĩa là người ta không có ngờ rằng con sư tử đã chết mất rồi, mà người ta cứ tưởng rằng con trùng đó là sư tử nhưng mà không ngờ toàn là thứ trùng ở trong lông sư tử.
Đến đây là giai đoạn phần giới đức của người tu sĩ. Đây là phần mà Thầy dạy tiếp kỳ sau đó, dạy tiếp cho quý thầy là phần giới đức của người cư sĩ của đạo Phật, cần phải trau dồi tu tập, từng phút, hàng phút, hàng giây không được biếng trễ. Tới giai đoạn mà giới đức thì quý vị tu tập trau dồi nhiều hơn còn cái phần kia là quí vị phải dứt bỏ và sống cho đúng những cái hành động của mình ở trong cái sơ thiện, ở trong cái giới hạnh của nó, là cái phần này nó ít có sự tu tập trau dồi mà phải sống, sống cho đúng, phải tập sống cho đúng, phải dứt bỏ những cái ác để cho chúng ta sống đúng thôi. Còn cái phần giới đức thì trau dồi tu tập hết sức à, cái phần này là cái phần quan trọng chứ không phải là cái phần đó, cho nên đến cái phần giai đoạn giữa này, giới đức thì chúng ta là cái phần rất là quan trọng.
Phần giới hạnh là phần dứt bỏ, nay Thầy giải thích thêm để chúng ta biết, phần giới hạnh là phần dứt bỏ, phải từ giã không làm không làm nữa, phần này là phần giữ gìn cảnh giác nghiêm nhặt không được mọi hành động vi phạm, dù một sự việc rất nhỏ cũng không được lầm lạc. Đó thì cái phần giới hạnh là phần dứt bỏ còn cái phần giới đức là cái phần tu tập trau dồi, hai cái phần này nó có hẳn hòi là nó phải có những pháp hành của nó như thế nào để mà chúng ta thấy biết rõ ràng. Cho nên phần nào mà dứt bỏ thì cái phần giới hạnh là cái phần dứt bỏ cho nên ở trong đầu chúng ta cứ nghe cái phần mà chúng ta nhắc đi nhắc lại đó là phải dứt bỏ, phải từ giã, phải xa lìa đó, đó là cái phần dứt bỏ đó, cho nên mỗi cái hành động đó, bởi vì bây giờ mình muốn làm cái nghề thầy thuốc thì cần mình phải dứt bỏ chứ mình cứ mình làm thầy thuốc mà mình không dứt bỏ thì làm sao dứt bỏ? Bây giờ tu tập làm sao mà hết làm thầy thuốc đây, phải không? Cứ vác rựa vô rừng chặt rễ cây, chặt cây về cứ vạt, rồi hốt cho người ta, thì giờ mình chỉ cần dừng lại đừng có, thì đó là dứt bỏ, mà cứ chặt vạt hoài hốt hoài thì làm sao mà dứt bỏ. Cho nên cái phần giới hạnh là cái phần dứt bỏ chớ không phải là cái phần tu tập, cho nên cái sơ thiện của đạo Phật dạy là cái phần mà dứt bỏ chứ không phải phần tu tập phần trau dồi đâu. Đó như vậy thì chúng ta thấy được cái phần nào dứt bỏ cái phần nào tu tập cái phần nào trau dồi, còn cái phần giới đức là cái phần tu tập và phần trau dồi, nó phải khác, nó ở đây nó có những cái khác chứ nó không phải giống như vậy.
Đó thì quý thầy đã hiểu rồi đã rõ rồi thì như vậy quý thầy biết được cái dứt bỏ là phần nào rồi, cho nên ở trên Phật nói thông hiểu, rồi dứt bỏ, rồi trau dồi, rồi tu tập. Cái phần dứt bỏ bây giờ dạy tới cái giới hạnh thì quý thầy thấy cái phần dứt bỏ, dứt bỏ rất rõ ràng.
Còn phần giới đức, như Thầy đã dạy ở trên, phải siêng năng trau dồi tu tập và còn phải cái phần mà giới đức nó còn phải có phần dứt đoạn nữa, phải dứt bỏ nữa. Nó vừa trau dồi vừa tu tập mà cần phải dứt bỏ những cái gì, thí dụ như bây giờ mình ghiền thuốc phiện hay ghiền thuốc mà bây giờ mình cứ trau dồi cái này cái kia mà mình không chịu, cứ hút thuốc hoài thì thử hỏi làm sao mà trau dồi cái giới đức mình được? Cho nên phải dứt bỏ không hút thuốc, dứt bỏ không ăn phi thời, dứt bỏ, cái đó là phải dứt bỏ, ở trước kia là giới hạnh chúng ta dứt chưa hết, bây giờ tới đây nó còn dính dấp một chút gì đó thì phải tiếp tục dứt bỏ nữa, và đồng thời thì tu tập và trau dồi nó mới có kết quả.
Những chưa dứt bỏ hết cái phần thứ nhất và cái phần này chuyên tu trau dồi nhiều hơn. Về cái phần tu tập trau dồi về cái phần thứ hai này cái phần giới đức nhiều hơn và cái phần dứt bỏ nó chỉ còn chút ít những cái thói quen mà không bỏ được thì bây giờ chúng ta tiếp tục chúng ta dứt bỏ để cho thành tựu được cái giới hạnh và đồng thời thì chúng ta tiếp tục tu tập và trau dồi những cái giới đức.
Đến đây thì Thầy xin ngưng lại vì chúng ta sẽ hết giờ rồi.
***
Bây giờ chúng ta tiếp tục chương trình học. Nhưng trước khi học cái phần mà giới đức thì chúng ta sẽ, Thầy sẽ thuật lại cho quý thầy nghe những cái mẩu chuyện của những bậc Thánh Tăng để chúng ta nương theo đó mà lấy kinh nghiệm mà nương vào các bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật để mà lấy kinh nghiệm đó mà chúng ta rút tỉa tu hành cho chính mình và cũng là những gương mà sách tấn để chúng ta lấy đó mà làm gương tu trên bước đường theo đạo Phật. Để tiếp tục học chương trình giáo án này Thầy sẽ nêu lên một vài gương của những bậc Thánh tăng, Hiền đức để chúng ta lấy đó mà sách tấn trên bước đường tu hành.
Nghe cái ông tu xong rồi đó ổng xin đức Phật đi hóa độ chúng sanh ở cái vùng biên cương. Đức Phật hỏi ông thì ông trả lời những cái điều mà đức Phật đã trắc nghiệm xem ông có thể thực hiện được cái con đường giáo hóa chúng sanh hay không. Sau khi trả lời thì đức Phật chứng nhận rằng ông là cái người mà có thể được đi giáo hóa ở cái vùng biên cương, cái vùng mà người dân chưa biết đạo đức chưa biết gì hết, cho nên ông ra đi mà ông độ chúng. Thì đây là trên bước đường tu hành của ông, Thầy muốn nhắc lại đây là một vị đại đệ tử của đức Phật ngày xưa có những cái pháp tu hành nào mà ông đạt được đến mức mà ông đối với chúng sanh mà đến đỗi giết ông ông còn thấy ông vui mừng mà để ông độ chúng, thì chúng ta thấy những người tu hành như vậy lậu hoặc thật là quét sạch. Vậy ông tu pháp nào? Qua câu chuyện của ông thì chúng ta sẽ thấy được sự tu tập của ông ta, chứ không phải toàn bộ cái giáo lý của nhà Phật là người nào cũng tu sạch hết pháp môn nào cũng tu sạch hết, không phải đâu, người ta chỉ dùng cái đề mục thiền nào đó rồi người ta quán xét rồi người ta xả sạch cái tâm của người ta, cho nên lậu hoặc nó hết là người ta đã thành tựu và từ đó người ta nhập sơ thiền hay nhị thiền, tam thiền, tứ thiền một cách rất dễ dàng không phải khó khăn. Vì vậy mà chúng ta lấy kinh nghiệm này để mà chúng ta rút tỉa cho con đường tu tập của chúng ta cho nó dễ dàng hơn là chúng ta đi ngay vào một cái thiền định Hiện Tại An Lạc Trú Định nó rất là khó khăn từ hơi thở cho đến khi mà dừng hơi thở mà chúng ta tâm nó chưa hết lậu hoặc thì tu rất khó.
Khi đến tuổi trưởng thành ông đi với một đoàn lữ hành thương gia đến nước Xá Vệ quốc, bấy giờ ông được nghe Thế Tôn, đức Phật á, thuyết pháp. Ông khởi lòng tin và xin xuất gia. Đức Phật cho một đề tài thiền quán hộ trì các căn. Đó, chúng ta nghe ông chỉ có hộ trì các căn không hà, chớ ông đâu có tu cái gì đâu, thế mà ông lại thành tựu được, chứng đạo được Tam minh, thì đây là một điều kiện mà chúng ta phải thấy rằng những cái giáo pháp của Phật đều là có những vi diệu của nó mà chúng ta chỉ chọn lấy một đề tài nào đó mà chúng ta thực hiện thì chúng ta sẽ đạt được con đường giải thoát chứng đến Tam minh chứ đâu phải cần mà nương vào cái hơi thở, để mà dừng hơi thở để mà nhập Tứ Thiền rồi chứng Tam minh đâu. Nhiều khi chúng ta tu cái điều đó mà tâm chúng ta không hết lậu hoặc thì chúng ta cũng chưa đạt được Tam minh, cho nên đức Phật cho ông đề tài thiền quán là hộ trì các căn môn, tức là Phật nói Thánh hộ trì các căn đó, cái pháp môn Thánh hộ trì các căn nó làm cho ông không có dính mắc các pháp, các đối tượng, các pháp cho nên từ đó ông xả ly, ông diệt được cái lậu hoặc mà thành tựu được Tam minh. Nhờ tu tập pháp này ông đã chứng được Tam minh.
Tại sao mà Thầy đọc lại Thầy lại biết các vị này tu những cái điều đó? Thật sự ra đức Phật đã trao cho các vị đó những đề mục thiền quán như vậy mà các vị đó đã thực hiện rốt ráo trong cái thời gian ở trong cái nơi độc cư yên tịnh xa vắng ở trong rừng, ngài nỗ lực thực hiện cho nên ngài đạt được rất nhanh chóng. Vì cái sự quyết tâm tu tập và sự hiểu rõ được cái đường đi của đức Phật cho nên chỉ nhắm vào cái lậu hoặc mà quét sạch thì sẽ đạt được những cái vi diệu của Phật Pháp chớ không phải tu luyện một cái gì khác hết.
Sau đó thì ngài được xin đức Phật và đi giáo hóa người ta, do đó hơn 500 nam và nữ cư sĩ theo ngài tu hành ở vùng biên cương đó chớ không phải là một cái số ít. Khi sắp lâm chung, ngài có làm bài kệ kinh nghiệm tu hành của mình. Ngài để lại một bài kệ nói qua kinh nghiệm tu hành của mình để cho đời sau, thì những bài kinh mà gọi là Pháp cú hay là kệ đó người ta rút ra người ta không thấy được cái kinh nghiệm của các bậc này nhưng mà riêng Thầy, Thầy đọc lại thì Thầy thấy những cái bài kệ của các vị quá là có kinh nghiệm tu hành. Đây Thầy xin đọc lại bài kệ đó cho quý thầy để quý thầy lấy đó mà làm kinh nghiệm. “Ở đây chỉ có giới”, nghĩa là ông đến với đức Phật là ông thấy chỉ có giới mà các thầy biết rằng cái hộ trì các căn môn đó là cái giới hạnh mà chúng ta tu tập đó, đó là cái giới hạnh chứ không phải là cái gì khác hết, cho nên ở đây thì ông nói:
“Ở đây chỉ có giới,
Là pháp thật tối thượng”
Ông ca ngợi giới luật của Phật là pháp tối thượng.
“Vị nào có trí tuệ
Cũng chỉ là vô thượng”
Nghĩa là mình có trí tuệ, trí tuệ tức là giới luật mà giới luật là trí tuệ như Thầy đã xác định ở trong bài kinh của đức Phật đã dạy, cho nên dù là có trí tuệ thông minh đi nữa thì nó chỉ là vô thượng chứ không thể tối thượng được.
“Vị nào đủ giới tuệ
Làm thầy cõi nhân thiên”
Đó ông nói người nào mà có đủ giới tuệ, chúng ta phân biệt rõ mà, giới đức giới hạnh giới đức giới tuệ, mà bây giờ đủ giới tuệ tức là chúng ta phải có giới hạnh, giới đức rồi mới tới giới tuệ cho nên làm thầy cõi nhân thiên, làm thầy cõi trời người. Do cái giới tuệ này mà chúng ta nói chuyện với tam thiên được, chúng ta nghe chư thiên nói chuyện được còn nếu mà chúng ta chưa có giới tuệ thì chắc chắn là chúng ta không thể nào mà nói chuyện với chư thiên được, cho nên chúng ta đâu có thể nào mà dạy chư thiên được. Cho nên lúc bây giờ đức Phật dạy người, dạy chư thiên tu hành, nó thì chúng ta thấy cái bài kệ của ông rất là…qua cái đề tài một thì hộ trì các căn môn, tức là cái pháp để chúng ta giữ gìn giới hạnh nghiêm túc đó, tức là cái pháp giữ gìn hộ căn môn của chúng ta đó, thì Thánh hộ trì các căn, tức là cái pháp thánh để mà hộ trì các căn của mình. Vì vậy mà Thầy đọc lại bài kệ này để chúng ta thấm thía được những bài học giới luật của chúng ta:
“Ở đây chỉ có giới,
Là pháp thật tối thượng
“Vị nào có trí tuệ
Cũng chỉ là vô thượng”
Dù có trí tuệ đi nữa cũng chỉ là vô thượng.
“Vị nào đủ giới tuệ
Làm thầy cõi nhân thiên”
Đó là bài kệ để mà nhắc nhở chúng ta, lấy kinh nghiệm của ngài, ngài đã kinh nghiệm tu cái này mà ngài đạt được cái ba cái giới này mà ngài thực hiện được làm thầy của cõi nhân thiên đó. Đó là ngài Phú Lâu Na.
Bây giờ Thầy đọc thêm một vị Thánh Tăng trong thời đức Phật nữa, ngài Vassapala. Buổi gặp gỡ vua Bình Sa Vương và đức Phật, thấy đức Phật hàng phục được ngài Ca Diếp, do thế ngài khởi lòng tin và xuất gia. Chỉ trong một tuần lễ ngài triển khai thiền quán giới đức, giới hạnh, giới tuệ. Đó ngài triển khai giới đức, giới hạnh, giới tuệ mà Thầy đã giảng đó thì ngài chứng được 6 thắng trí và chứng quả A la hán chỉ trong có một tuần lễ, tức là 7 ngày chứ không có lâu mà ngài thực hiện cái giới đức, giới hạnh, giới tuệ mà ngài đã đạt được cái quả A la hán như vậy, mà có được 6 thắng trí nữa. Ngài có làm bài kệ nói lên kinh nghiệm của mình, kinh nghiệm tu hành của mình đó. Bài kệ như thế này:
“Nếu thấy được sự thật
Thật vi diệu vi tế
Với trí tuệ thiện xảo
Với tâm tư khiêm tốn
Sống rập theo giới luật
Do chính đức Phật dạy
Với người ấy Niết bàn
Chứng đạt không khó khăn”
Đó thì “sống rập theo giới luật” nghĩa là cái giới luật của Phật đặt ra mình sống y như vậy đó thì mà với trí tuệ thiện xảo, với tâm tư khiêm tốn thì sống rập theo giới luật mới được. Thì ông nói bây giờ ông tu cái gì, ông nói khi mà hiểu được sự thật của Pháp của Phật rồi á, nó thật là vi diệu và vi tế. Vi tế là rất là nhỏ nhặt, nhỏ nhiệm, mà vi diệu rất là diệu huyền cho nên với trí tuệ thiện xảo, với sự hiểu biết của mình rất thiện xảo, với tâm tư khiêm tốn của mình thì mình sống rập theo giới luật của Phật thì không có khó khăn đâu, và cái Niết bàn thì mình chứng không có khó.
Đó thì ông đã qua kinh nghiệm tu tập của ông thì đây dạy giới cho nên Thầy chọn lựa những bậc Thánh Tăng trong thời đức Phật đã tu về cái giới. Nhưng mà nếu dạy đến mà giới mà dạy đến mà giới đức thì Thầy sẽ chọn những bậc mà tu về giới đức tức là tu về thiền định, tu về Tứ niệm xứ hay hoặc là bốn định, hay hoặc là Tứ diệu đế đó, hay hoặc là Tứ như ý túc thì Thầy sẽ có những bậc Thánh Tăng trong thời đó họ tu những pháp đó thì Thầy cũng sẽ đem ra những cái gương hạnh đó để cho chúng ta bắt chước mà noi gương. Thì ở đây Thầy muốn đem ra nó đủ các vị Thánh Tăng để chúng ta thấy chúng ta hợp với vị Thánh Tăng nào đó thì chúng ta nương theo cái kinh nghiệm tu hành của vị đó mà chúng ta thực hiện. Còn bởi vì chúng ta chọn tăng để nương theo để quy y theo các vị tăng đó thì chúng ta phải chọn những bậc Thánh Tăng như vậy, vì vậy mà những gương hạnh này không thể thiếu ở trong cái giáo án này được, không thể bỏ qua trong giáo án này được. Cho nên Thầy phải nhắc nhở quý thầy lấy những gương hạnh phù hợp với mình để rút tỉa những kinh nghiệm của các ngài mà tu tập cho chính mình.
Bây giờ đây là một vị thứ ba trong buổi giảng hôm nay, ngài Nitta. Ngài xin Phật xuất gia để được sống thoải mái đời sống của tu sĩ. Nghĩa là ngài xin Phật để xuất gia là ngài thấy đời sống tu sĩ ăn ngày một bữa thoải mái đi xin ăn khỏi có làm khỏi gì hết cho nên ngài muốn xuất gia là cái mục đích đó thôi. Cho nên ngài đến ngài xin Phật ngài xuất gia để ngài cũng ôm bát ngài đi xin bữa ăn, ăn no ngủ, rồi chơi chứ còn không có tu hành gì hết nhưng mà thấy đời sống của tu sĩ sướng quá không có làm mà sống thoải mái dễ chịu, ngủ suốt ngày cũng được, chỉ sáng đi xin ăn rồi trưa chiều tối cứ chuyên ngủ thôi, cho nên ngài xét qua đời sống của các vị tu sĩ ngài thấy sướng hơn ngoài đời nhiều, đời làm lụng cực khổ quá mà có nhiều khi còn đói khát cho nên ngài xin xuất gia. Đây là cũng một vị lười biếng nhất ở trong những cái bậc Thánh Tăng ở trong cái thời của đức Phật đây.
Ngài đến xuất gia làm tu sĩ rồi thì ngài không có chuyên chú đến cái sự tu tập đâu, chỉ tu lấy lệ, chuyên ăn no nói chuyện nhảm nhí và ban đêm thì ngủ dài. Bậc đạo sư thấy vậy, bậc đạo sư tức là đức Phật, thấy vậy nên nói lên bài kệ để giáo giới cho ngài:
“Trọn đêm ngươi nằm ngủ
Ban ngày thích tụ hội
Kẻ ngu sống như vậy
Sẽ đoạn khổ được sao?”
Đó bốn câu kệ của đức Phật giáo dục ngài, thấy ngài chuyên ăn, rồi chuyên nói chuyện nhảm rồi ban đêm thì chuyên ngủ cho nên đức Phật khuyên ngài làm sao mà đoạn được cái sự khổ, chuyên như vậy làm sao mà đoạn được sự khổ? Do cái lời dạy này ngài bị dao động.
Bị dao động bởi lời dạy của bậc đạo sư, ngài triển khai thiền quán, đặt niệm ăn uống ngủ nghỉ, nói chuyện nhảm nhí tu Định Vô Lậu. Nghĩa là bây giờ ngài có cái tật đó đó, ngài đặt cái niệm ăn, cái niệm ngủ và cái niệm chuyên nói chuyện nhảm nhí của ngài đặt ra cái niệm đó ở trước mặt ngài, ngài quán xét về cái Định Vô Lậu, ngài quét cho sạch cái ham ăn, cái ham ngủ, cái ham nói chuyện của ngài. Chẳng bao lâu ngài chứng quả A la hán. Ngài lấy bài kệ của đạo sư làm bài kệ chứng đạo của mình và cũng là bài pháp hướng tâm tu hành của mình.
Đó thì các thầy thấy không, khi người ta có bị cái tật gì đó, người ta bị quở rồi người ta thấy xấu hổ lắm rồi người ta lấy cái đó mà người ta làm đề tài thiền quán, người ta quét sạch cái đó thì cái tâm vô lậu người ta sạch liền. Bởi vì cái tật của mình là cái tật đó cho nên mình có cái tật nào mà nó xấu xa như vậy mình đặt nó mình quán, quán cho trôi, quét cho sạch cái tật đó ra thì chúng ta sẽ thành tựu đạo Phật chứ không có gì mà khó khăn hết. Bởi vì cái đó là cái cốt cán của nó mà làm cho chúng ta hoàn toàn cuộc sống của chúng ta trở thành khổ. Đó thì hôm nay những gương hạnh như vậy thì quý thầy phải nương theo những gương hạnh đó mà coi thử coi mình coi nó có bị vướng vấp vào cái chỗ nào đúng như các gương hạnh đó mà chúng ta tu tập.
Bây giờ về cái phần này thì Thầy cũng nhắc luôn là bên nữ, để cho giáo án nó có nam và có nữ còn cái phần mà rầy dạy bảo riêng ở bên phái nữ thì Thầy không có thu băng vào, bởi vì đó là thu riêng ra để cho bên giới nữ mà thôi. Còn ở bên đây thì quý thầy Thầy cũng dạy riêng ở trong cái bữa ăn khi mà có phạm phải những điều gì đó Thầy nhắc nhở trong bữa ăn thôi chứ không có thu vào giáo án, mà lấy những gương hạnh của bên nữ và bên nam để chúng ta noi theo để mà chúng ta tu học.
Bây giờ thì quý thầy nghe tiếp thêm những bậc Thánh ni, bà Đăng-ti-ca, bà là một đứa con gái của vị giáo sĩ nhà vua, khi đến tuổi trưởng thành bà trở thành một tín nữ của Kỳ Viên tịnh xá. Nghĩa là lúc bà lớn lên thì bà trở thành một người hộ trì ở trong tịnh xá Kỳ Viên, lúc đức Phật còn đang ở đó đó. Về sau bà xuất gia, được hướng dẫn của bà Mahapajapati. Một hôm bà leo lên núi Linh Thứu chơi sau bữa ăn cơm ngọ, bà ngồi nghỉ và thấy một người nài điều khiển con voi. Nhờ thấy vậy bà tin nơi lời Phật dạy, nghĩa của Phật dạy điều khiển tâm mình như người nài voi điều khiển con voi.
Đó, bà lên trên núi bà chơi ngồi ở trên cao lên núi Linh Thứu là chỗ đức Phật ở đó, bà lên đó, bà ăn cơm ngọ xong rồi bà lên đó, bà nghỉ, bà chơi rồi bà nhìn xuống núi dưới dòng sông đó, bà thấy có một người nài voi họ điều khiển con voi như thế này thế khác, họ tập huấn luyện con voi. Do đó bà mới nghĩ rằng đức Phật dạy mình cũng như một người nài voi mà điều khiển cái tâm của mình. Vậy thì mình tin theo lời đức Phật dạy đó mình về mình điều khiển cái tâm của mình như thế nào, như cái người nài voi mà điều khiển con voi vậy. Do sự tùy pháp, hướng pháp bà điều khiển tâm mình và bà đã bà làm chủ được nó và chứng quả A la hán. Đó thì cái sự điều khiển đó mà chúng ta đã làm chủ và chứng quả được A la hán, vậy thì điều khiển như thế nào? Bà có bài kệ nói lên kinh nghiệm tu tập của mình.
Ở đây Thầy thì xin nhắc thêm bà điều khiển như thế nào, cũng như bây giờ chúng ta ăn một bữa mà một lát nữa nó thèm ăn cái gì đó thì chúng ta điều khiển nó đừng có ăn, thì tức là chúng ta hướng tâm, nó hay thèm ăn vặt như vậy thì chúng ta hướng tâm nhắc nó, tùy theo cái pháp mà chúng ta hướng tâm nhắc á, đừng ăn, ăn uống như vậy phi thời, người tu sĩ như thế này thế khác không có được như vậy. Đã biết Phật Pháp rồi thì bây giờ mình là người cư sĩ cũng không được ăn lặt vặt, không ăn uống phi thời, do đó mình điều khiển cái tâm của mình một ngày hai ngày sau đó nó không thèm ăn nữa, không thèm ăn nữa thì tức là mình điều khiển được con voi chứ gì, mà coi như cái tâm của mình là con voi chứ gì, cho nên bây giờ nó khởi muốn cái gì cái gì nó thấy đó nó ham muốn thì điều khiển nó đừng ham muốn. Mình biết cái muốn đó là cái nguy hại, cái nguy hiểm cho nên do đó bà điều khiển cái tâm bà như là một người nài voi mà huấn luyện con voi vậy.
Đó, thì các Thầy thấy bà có ngồi quán có gì không, bà đâu có ngồi quán như các vị đó mà vô lậu đâu nhưng mà điều khiển cái tâm của mình theo sự điều khiển của mình, do cái tâm đó mà nó trở thành một con voi thuần thục cho nên bảo sao nó nghe vậy. Cho nên thí dụ như bà điều khiển cho đến mức bà điều khiển cái hơi thở này ngưng, các hành ngưng thì nó cũng ngưng theo, nó ngưng theo thì tức là bà điều khiển được cái tâm của bà rồi chứ gì, cho nên bà chứng đạt được đạo quả A la hán.

Các thầy thấy cái điều kiện đó có phải là bà ngồi đó bà quán cái gì đâu, bà cứ theo dõi cái tâm của bà tức là phòng hộ sáu căn đó quý thầy. Như hồi nãy có vị tỳ kheo, vị thánh tăng mà phòng hộ sáu căn đức Phật đưa ra đó, mà nói phòng hộ thì quý thầy không thấy, nhưng bây giờ nêu ra cái bà này thì rõ ràng là bà điều khiển cái tâm của bà qua sự phòng hộ. Bây giờ mình đi ra đường mình thấy con mắt mình nó nhìn đó nó thấy nó thích, mà nó thích tức là mình sẽ làm sao, phải không quý thầy? Mình sẽ ngăn chặn nó đi, không có được thích, mày không có được thích, thích cái này là nguy hiểm, là hại, là khổ, cho nên nó lần lượt nó thấm nhuần nó bỏ đi mà cái lậu hoặc của mình càng ngày nó càng quét sạch mà mình có ngồi đó mình tu lậu hoặc không, phải không? Mình tu phòng hộ sáu căn của mình. Tai nghe âm thanh gì đó mà nó cứ dính nó nhớ hoài đó thì lúc bấy giờ mình cũng điều khiển nó đừng có bị dính mắc nữa, do đó là mình đã thuần hóa được con voi tâm của mình để cho nó theo sự điều khiển của mình mà nó không muốn gì hết, mà nó không muốn gì hết thì lậu hoặc nó sạch, mà lậu hoặc nó sạch thì tâm nó thanh tịnh, tâm nó thanh tịnh thì cái sự điều khiển mà do pháp hướng này đó, mình do pháp hướng này đó thành ra cái hiệu quả cho nên mình bảo hơi thở ngưng, các hành ngưng, nó ngưng theo hết, vậy mà mình làm chủ được cái sự sống chết của mình. Đó, như vậy là chúng ta đã thấy qua những kinh nghiệm của các bà...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét