GIỚI
BỔN PATIMOKKHA
Mặt A:
Chúng ta thương
chúng ta khổ đó, từ tim của chúng ta chứ đâu. Cho nên các thầy nhớ là đôi trai
gái nó có vẽ trái tim đó, nó thương nhau cũng từ trái tim mà nó ghét nhau cũng
từ trái tim, phải không? Đó cái chỗ đó đó, cho nên nó từ trong trái tim đó mà
nó đâm, cái mũi tên đó nó vô hình lắm, nó không khó thấy lắm nhưng mà nó đâm
nát tim người ta, giết chết người ta. Ngồi tu chứ nó đâm nát tim của chúng ta,
ở đây thì nhớ con nhớ vợ hoặc là nhớ của cải tài sản, đó là chúng ta bị mũi tên
độc đó nó đâm ở trong tim chúng ta. Ở đây mà ngồi nhớ chùa nhớ miểu thì nó cũng
đâm nát tim của chúng ta chớ không phải thường đâu. Ngồi đây mà chúng ta nhớ ăn
nhớ uống thì nó cũng đâm nát tim chúng ta chứ không phải không đâu. Đó cho nên
ở đây câu kệ đầu tiên:
“Cây tên khó thấy được
Từ tim ta nhổ lên
Ta diệt sầu vì con
Sầu ấy ám ảnh ta
Nay cây tên được nhổ
Không ham muốn tịch tịnh
Không thương ghét một ai
Ta quy y ẩn sĩ
Phật pháp và chúng tăng”.
Đó các con thấy nghe nó đơn giản, nhổ được cái mũi tên nó
ra thì dễ dàng tu hành lắm, mà chưa nhổ được cái mũi tên đó thì như là mình
chưa có bứt ra được lộ trình thứ nhất thì không thể nào đi lộ trình thứ hai.
Cho nên ở đây ví dụ thì Thầy thấy cái mũi tên này là cái lộ trình thứ nhất. Nó
phải nhổ cho được mũi tên ra, cho nên cái bài kệ quá thấm thía cho cái cuộc đời
tu hành của các thầy hôm nay.
Để cho các thầy càng sáng lên, càng rõ lên, càng hiểu
lên, càng minh mẫn ra, nó không phá trừ những cái vô minh mà từ lâu nay mình
chấp đắm đó, thì hôm nay quý thầy thấy rõ rồi phải không.
Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ để một lần nữa để cho quý
thầy nhớ kỹ:
Cây tên khó thấy được
Đó mấy cô này ví dụ cây tên đó chúng ta khó thấy quá, mà
không có người chỉ thì chắc chắn là tim của chúng ta bị nó đâm nát, không có còn.
Từ tim ta nhổ lên
Cái tên đó nó đâm ở trong tim của chúng ta, bây giờ, từ
đó mình nhổ lên chứ không ở chỗ nào.
Ta diệt sầu vì con
Sầu ấy ám ảnh ta
Nay cây tên được nhổ
Không ham muốn tịch tịnh
Không thương ghét một ai
Ta quy y ẩn sĩ
Phật pháp và chúng tăng.
Bây giờ mới được là nương vào 3 ngôi Tam Bảo, cho nên sắp
sửa tới đây Thầy sẽ giảng cái giới bổn nói về quy y Tam Bảo, chứ nếu mà.. Bởi
vì quy y Tam Bảo tức là quy y 3 cái giới đầu tiên, chứ không phải nói là 250
giới, hay là 348 giới, hay hoặc là ngũ giới hay hoặc là thập giới, hay hoặc là
10 cái thập thiện, không phải đâu. Mà 3 cái giới đầu tiên là 3 giới gốc đó, là
quy y Tam Bảo đó. Phải học được 3 cái giới gốc, rồi mới lần đó mình mới tăng ra
tới các giới khác nó mới đúng là mình quy y, mình nương theo. Mà quy y theo 3
Tam Bảo đó là nương theo 3 cái giới, 3 cái giới hạnh đó, để cho mình tu hành.
Mà 3 giới hạnh này là Phật hạnh nè, Pháp hạnh nè, Tăng hạnh nè, phải không? Nếu
mà không có những gương hạnh này thì lấy ai mà làm gương cho mình tu. Cho nên 3
cái này là mình phải hiểu là 3 cái giới đầu tiên, bắt đầu quy y Tam Bảo. Đó,
đến đây thì chúng ta nghỉ chút xíu.
Giới luật là một bộ môn học đạo đức giải thoát của người
tu sĩ Đạo Phật, vì thế trong quá trình phát triển từ lúc sơ khởi đến bây giờ đã
cho chúng ta nhận xét thấy được giá trị sứ mạng của nó về tinh thần cũng như về
mỗi hành động đạo đức chơn thật mà người tu sĩ không thể thiếu được. Nhờ nhìn
vào giới luật chung, chúng ta có thể xác định được triển vọng tương lai của
Phật giáo ở ngày mai. Nghĩa là khi mà bộ môn giới luật học này mà đã thực hiện
được thì chúng ta mới có hy vọng của cái triển vọng cái tương lai
của Phật giáo. Nếu mà cái bộ môn giới luật này mà không thực hiện ở trong các
vị tu sĩ, mà thực hiện cái đạo đức của nó thì Phật giáo ở ngày mai chúng ta
thấy đen tối, không bao giờ sáng sủa được.
Pháp luật của một quốc gia đối với người dân tuân giữ pháp
luật vốn chẳng có tác dụng nếu muốn bảo vệ an toàn và lợi ích cho những người
tuân giữ pháp luật nên cần phải có pháp luật. Pháp luật cần phải được thiết lập
vì trật tự an ninh xã hội và cuộc sống của con người. Ở đây thì đem cái ví dụ
cũng như pháp luật của nhà nước. Nếu một người dân mà tuân giữ pháp luật thì
pháp luật không có tác dụng. Do có những người dân mà không có giữ được pháp
luật, làm cho mất trật tự an ninh, cho nên pháp luật mới ra đời để giữ gìn
những cái người mà phạm pháp luật, làm mất trật tự an ninh, đem lại cái sự an
ninh cho những cái người mà tuân giữ pháp luật. Đó là cái ý nghĩ cái pháp luật
của một quốc gia là như vậy.
Cũng thế, nó có cái tương tự ở trong Đạo Phật thì nó cũng
vậy, cho nên Phật chế định giới luật không phải là bắt buộc cho đệ tử của mình.
Chế giới luật không phải là bắt buộc như là cái pháp luật của nhà nước bắt buộc
những người phá giới. Nhưng mà chế giới luật ở đây nhằm để đưa cái người đệ tử
của mình đi đến chỗ giải thoát chớ không phải là bắt buộc. Còn cái bắt buộc thì
thôi, cái người vô tu mà bắt buộc họ phải giữ gìn giới luật như là pháp luật
thì thôi xin khuyên cái người đó ra đi đừng có ở tu, vì ở đời cũng có chỗ mấy
người sống chứ mấy người vô đây mà bắt buộc mấy người khổ quá như vầy thì tôi
không có làm cái điều đó đâu. Cái giới luật của chúng tôi mà đặt chế ở đây là
để cho cái người đó được giải thoát, chớ không phải bắt buộc mấy người vô đây
mà chịu khổ. Đó, thì do đó mấy người ở ngoài tự do đi. Muốn ăn thì ăn, muốn ngủ
thì ngủ, chứ còn ở đây thì ăn ngủ không có được tự do đâu. Cho nên không phải
bắt buộc quý vị mà vô đây để khép quý vị ăn một bữa đâu, tôi không có bắt buộc
cái điều đó đâu. Quý vị thấy rằng ăn một bữa là có sự giải thoát cho quý vị thì
quý vị cứ ở mà sống mà ăn chứ không phải là cái sự đặt giới luật ra bắt buộc
quý vị ăn ngày một bữa.
Cũng như người nào vô đây ăn ngày một bữa mà quý vị cứ
đói lên đói xuống hoài thì tôi chịu không có nổi đâu, tôi thấy quý vị khổ quá
tôi chịu không có nổi đâu, tôi đặt ra cái kiểu này tôi làm khổ quý vị chắc tôi
không dám đặt đâu. Cho nên ông Phật ông khuyên, giới luật của ông không phải là
pháp luật của nhà nước. Pháp luật của nhà nước là muốn giữ trật tự an ninh
chung cho mọi người mà người ta tuân thủ pháp luật, còn cái này, tôi đặt ra cái
pháp luật này là để cho người ta đi tìm lấy con đường giải thoát. Còn quý vị
muốn giải thoát thì quý vị sống như chúng tôi thì quý vị thấy giải thoát. Mà không
sống được mà lấy cái giới luật này mà bắt ép quý vị ăn ngày một bữa để cho
người ta nói tu sĩ hoàn toàn ăn ngày một bữa hết á, mà trong đó có một số thì
người ta lấy cái đó làm cái giải thoát, còn có một số thấy cái đó đói khổ quá
thì chắc chắn là tôi mời quý vị về ngoài đó sống ăn ba bữa đi cho nó khỏe, chứ
còn ở đây tôi thấy khổ quá, mà hơn nữa cái pháp tôi đặt ra là để giải khổ mà
bây giờ đem cho quý vị khổ như vầy tôi không nỡ tâm nào hết.
Cho nên Đạo Phật không có giải thoát là tại ở chỗ tâm của
quý vị chứ không phải là pháp môn của tôi, đức Phật muốn nói vậy đó.
Mà chính vì con đường giải
thoát của các tu sĩ và cư sĩ, và cũng là phương thuốc ngăn ngừa sự hư đốn của
tăng đoàn. Đó, thì chúng ta phải hiểu
cái giới luật của Phật ra là đem cái pháp môn đó làm cho cái sự giải thoát cho
tu sĩ và cư sĩ. Mà cũng phải nói rằng trong cái tăng đoàn thì nó có nhiều
người, thì cũng có những người hư đốn chứ đâu phải người nào cũng tốt hết sao.
Cho nên đó, cái giới luật nó ra nó ngăn ngừa cho những người mà hư đốn phạm
phải những cái ăn phi thời hoặc là những cái sai. Đó, cho nên đó là những cái
hư đốn. Như vậy là quý thầy đã hiểu được cái chỗ đó rồi thì mới thấy được giới
bổn của Phật giáo nó không phải là cái sự khô cằn cỗi đâu, nó không phải là sợi
dây lòi tói mà trói buộc, mà bắt buộc quý vị phải ăn một bữa đâu, nó không có
khép chặt quý vị….
Đó, quý vị hiểu như vậy thì mới thấy được cái giáo pháp
của đức Phật nó mới có một cái giải thoát nó không làm khổ ai hết, nó không
trói buộc ai hết.
Tu sĩ nếu không có giới luật làm tiêu chuẩn phép tắc cho
sự sinh hoạt tu tập hằng ngày thì liệu sự tu tập hằng ngày liễu sanh thoát tử
thì không phải dễ dàng đâu. Nếu mà nó không có giới luật thì đi tìm cái liễu
sinh thoát tử không có dễ dàng, là vì có giới luật ở đó thì chúng ta mới đi tìm
cái liễu sanh thoát tử nó mới có dễ dàng. Cho nên cái giới luật nó rất là quan
trọng, nhất là cái giới hạnh, giới hạnh tức là giới bổn đó.
Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh thống
nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo
sống trong đen tối. Chúng ta phải hiểu cái chỗ này nữa. Là vì nếu mà không có
cái giới bổn này làm cái cương lĩnh thống nhiếp giáo hóa thì chắc chắn là cái
con đường của Phật giáo nó tan rã, chứ nó không có còn đâu.
Vì bây giờ tại sao mà chúng ta thấy Phật giáo hiện giờ nó
không có cái giới luật nghiêm chỉnh mà nó còn là có lúc nó hưng có lúc nó thịnh, à chúng ta phải suy nghĩ như thế này thì
chúng ta thấy rất rõ. Là vì bây giờ nó hưng là nó theo một vị thầy, nó theo một
vị tổ, nó hưng theo cái vị thầy vị tổ đó. Rồi cái vị thầy vị tổ đó hướng dẫn
sao nó tin tưởng theo, nó theo đó, cho nên nó hưng là nó hưng theo cái vị thầy.
Còn khi mà vị thầy đó mất rồi thì nó suy xuống, nó không còn ai nó theo nữa thì
nó suy xuống. Cho nên thường thường là Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo bên Trung
Quốc là cái Phật giáo nó không có chấp hành cái giới luật nghiêm chỉnh, cho nên
nó thịnh suy là theo cái vị tổ của nó mà thôi, cái vị hướng dẫn đó. Nó có lên
xuống lên xuống thường xuyên, lâu lâu vậy có vị xuất hiện ra nói, ăn nói nghe
lưu loát cái là bắt đầu họ tập trung theo, rồi họ tu tập, rồi hết vị đó chết
rồi không còn ai mà ăn nói lưu loát nữa hoặc là số ăn nói lưu loát đó họ cứ
nghe hoài nhàm tai rồi họ thấy nó cũng không có nhằm nhò gì đến sự giải thoát
cho nên họ bắt đầu lui dần lui dần thì trong cái bóng tối dần.
Cũng như mình thấy
thiền Trúc Lâm của mình một thời của 3 vị tổ như là Trần Nhân Tông, như là Pháp Loa, như là Huyền Quang, 3 vị đồng thời một lượt với nhau
trong một cái thời điểm rồi phát huy cái thiền Trúc Lâm. Rồi do đó, sau đó sau
khi các vị này tịch rồi thì hầu như nó chết lìm chết lìm dần đi mất, không còn
người nào nữa hết. Là tại vì nó hưng thịnh theo cái giáo pháp của các ngài đó,
mà người ta nghe nó hay thì người ta tập trung nhưng sau đó thì người ta không
thấy nó đạt kết quả nữa cho nên người ta lui dần. Vì vậy mà cái thiền này nó bị
lui vào ở trong bóng tối, nó không còn sống được nữa.
Còn cái giới luật của Phật đặt ra mà từ ngày đức Phật đến
giờ nó không có được thay đổi, cho nên ở đây trong cái giới luật Thầy sẽ nhắc
lại, như ông Ca Diếp thì ông khi mà kết tập giới luật xong thì ông nói: “Có
nhiều người nói đức Phật bảo thay đổi những cái giới nhỏ nhặt nào đó, bỏ bớt
đi, mà đức Phật không nói ra những giới nhỏ nhặt nào đó cho nên người ta cũng
không biết sao hết”, Cho nên ông Ca Diếp nói: “Không có bỏ cái giới nhỏ nhặt
nào hết, mà cũng không có thêm được cái giới nào hết”, thì ông Ca Diếp ông nói
kiểu ổng thì chắc chắn cái giới của ổng thành cái cây rồi. Cho nên cái mà tuyên
bố như vậy thì Thầy nghĩ rằng đó là cái giới cây chứ không phải là giới luật
của Phật.
Giới luật của Phật nó linh động và nó khéo léo, mà nó
cũng không thêm mà nó cũng không bớt. Bởi vì đức Phật đã di chúc cho chúng ta
hẳn hòi là: (các thầy nhớ kỹ lời di chúc cuối cùng của đức Phật như thế nào?) “Các
thầy Tỳ kheo hãy lấy giới luật ta mà làm thầy” thì cái chỗ đó có bớt
được không? Nếu bớt thì đức Phật đã bớt trong khi đức Phật còn sống, phải
không? Sau này các ông thấy giới luật nó gò bó quá như vậy, bớt ra cho đỡ đỡ
chút, để dành có muối ăn chớ, nếu không có bữa đi xin người ta cho cơm không,
không có muối về ăn lạt chịu sao nổi.
Cho nên có cái ông Đại Thiên, ổng chế ra cái giới mới của
ổng: “Đức Phật còn cho chúng ta để dành muối”. Thầy thấy cái chuyện đó là cái
chuyện còn chạy theo dục lạc, ăn cơm mà không muối chắc nuốt không vô rồi. Có
gì đâu mấy con, Thầy nói thật sự ăn cơm không có muối có gì đâu, chế nước vô
lua cứ tống cho nó vô, nó không vô lấy cái muỗng mở cái cổ ra cho nó chạy vô
trỏng thì nó cũng vô trỏng, có gì ở đó mà mặn lạt, phải không? Nó vô một hơi nó
đầy thì cũng phải no thôi. Cái chuyện đó là cái chuyện của người ăn để mà sống
chớ không phải là cái người ăn để ngon.
Còn mình sợ không có muối nên đặt ra cái giới “Phật còn
chế ra cái bớt cho chúng ta là bỏ bớt, là còn được cất giữ muối để dành” để bữa
nào đi xin người ta cho cơm không về lấy muối đó để ăn. Có phải là chạy theo
dục lạc không? Đây là Thầy nói cái muối không cũng là đủ biết cái nghiện muối
của chúng ta cũng là nghiện. Cho nên có người thì ăn mặn quá mà cũng có người
ăn lạt. Đó các con thấy cái điều đó là cái điều nghiện của chúng ta chứ đâu
phải cái gì. Thử bữa nào mà đem cơm không, mà không có cho đồ ăn, rau luộc cũng
đừng có cho muối các con nuốt vô không? Chắc gì mà vô. Thầy thì bao nhiêu Thầy
thọc cũng vô hết. Phải nó không vô, lấy cái muỗng nạy ra cho nó vô, đổ nước cho
nó chảy vô hết, có gì đâu mà sợ. Cái cổ của mình là cái ống chứ đâu có phải là
gì đâu mà không tuột. Còn mấy con mà nuốt nhai như vậy thôi nuốt trợn trắng con
mắt mà nuốt không vô đâu. Biết cách thì nhét nó vô được hết thì nó no mà không
biết cách thì chắc nó đói ở trỏng. Đó là cách thức mà của người tu, chớ không
phải cái người mà không tu.
Cho nên ở đây Thầy thấy hầu hết là nói về giới bổn, Thầy
đọc Thầy mắc tức cười cho mấy ông ngày xưa mà sao mấy ổng thiệt là tìm mọi cách
mà phá giới đó, mà ông Ca Diếp lại tuyên bố cái kiểu đó là ổng... Thầy không
biết ổng hiểu giới như thế nào. Nếu mà có ông Upali ở đó chắc là ông rằn ri
lắm, ông nói kiểu này chắc đời sau là họ chết hết đó. Nó khô quá khô à, không
cho thay đổi, mà không gì hết. Tức là giới luật người ta linh động lắm chứ,
nhưng mà người ta đâu có thêm mà người ta đâu có bớt, bởi vì giới luật là thầy
của mình rồi, mà đức Phật đã xác định như vậy rồi thì giới luật đó không bao
giờ được thêm mà cũng không bao giờ được bớt. Tại sao vậy? Tại vì nó đầy đủ
rồi, nó không thiếu. Nghĩa là bây giờ tới thời đại nào nó cũng đầy đủ hết, cái
hoàn cảnh nào, cái thời đại nào nó cũng phải như vậy là như vậy. Nghĩa là nó là
một cái chơn lý của giới luật. Là một bậc thầy của chúng ta rồi thì không bao
giờ mà ông thầy đó được thay đổi, từ cái ngày đức Phật đã chế nó ra cho tới bây
giờ chúng ta sống nó phải như vậy, mà kẻ nào làm khác là kẻ đó không bao giờ đi
đúng con đường của đạo Phật.
Thầy nói như vậy, cái xác định của Thầy là cái xác định
rất linh động. Chẳng hạn như hồi đó nó đâu có ti vi, nó đâu có tủ lạnh, đâu có
máy điều hòa không khí, nó đâu có cát xét, nó đâu có video phải không, các con
hiểu không? Nhưng bây giờ mà đức Phật cấm không cho chúng ta ca hát thì chúng
ta biết hạng đó là loại ca hát không chứ gì, thì dẹp quách nó đi thì có gì đâu
mà phải chế giới mới, phải không? Các con hiểu điều đó. Còn bấy giờ hồi đó thì
nó không có cà phê, phải không? Nó chỉ có rượu thôi, bây giờ có cà phê, thuốc
phiện thì giờ mình cấm luôn, có gì đâu mà trật. Bởi vì thứ đó là thứ ghiền. Hồi
đó hổng biết có thuốc lá không thầy không biết nhưng mà có cấm rượu, chắc chắn
hồi đó là chưa biết sắc thuốc lá đâu cho nên các ông đó chắc chưa biết hút, cho
nên không nghe cấm thuốc, chứ còn bây giờ Thầy cấm thuốc. Cho nên hồi đó ông
Phật không cấm thuốc nên mấy thầy bây giờ cầm điếu thuốc hút như thường, nói
ông Phật đâu có cấm thuốc. Là lúc bấy giờ ông Phật đâu có thuốc hút mà cấm, chớ
mà ông hút thuốc mà sinh ghiền, sinh bệnh vậy là ổng cấm liền chứ đâu để tu sĩ
mà cầm thuốc hút bậy bạ vậy, phải không?
Cho nên giờ mấy ông thầy chúng ta thấy, thậm chí như HT
cũng rút điếu thuốc hút, mà rút điếu thuốc kêu là thuốc thơm, thuốc ngon nữa
chứ đâu phải, thuốc có các đàng hoàng, chứ đâu phải hút thuốc rê. Thầy thấy
trên cái kiểu của họ xài như vậy là đủ biết rằng họ đã nhiễm, mà cái thứ nhiễm
là đức Phật đã không ưa rồi. Giới luật của Phật là cấm cái thứ nhiễm.
Các con thấy giới luật của các tôn giáo khác đâu có cấm
uống rượu, cho nên mấy ông Cha uống rượu lia lịa. Còn ông Phật ông chơi về cái
kiểu đó mấy ông thầy đâu dám uống, cho nên cứ lén uống bia, phải không? Các con
thấy cái chuyện đó là cái chuyện bậy bạ. Mà đức Phật biết đó là những cái nó
làm cho mình thành cái thói quen nghiện ngập mà nó sinh ra những cái tồi tệ.
Những cái giới khác nó bị phạm do cái chỗ mà nghiện ngập này mới sanh ra tham
lam trộm cắp, mới sanh ra thứ này, thứ kia do cái chỗ nghiện rượu. Nó là thứ 5
chứ nó đặc biệt nó phạm hết tất cả các giới đó. Khi nó say sưa rồi nó biết cái
thứ gì, con gái người ta nó cũng ôm nữa chứ đừng nói nó tham, cái thứ thằng say
mà nó biết thứ gì. Thầy nói đó là cái sự thật hiển nhiên, tới chừng đem bắt nó
ở tù, nói hồi đó tôi say rượu chứ tôi đâu có biết. Có giam nó được không? Các
thầy phải nghĩ cái điều đó, nó mượn rượu mà nó làm tầm bậy, lúc bấy giờ người
ta cũng đâu có bỏ tù nó được. Có nhiều ông như vậy, họ chửi cách mạng, mà họ
mượn ba chén rượu chửi cách mạng đã đời rồi, bắt bỏ tù, nói hồi đó tôi say tôi
đâu có biết, rốt cuộc cũng phải thả nó ra, mấy thằng say mà biết gì. Chứ sự
thật nó mượn rượu nó chửi người ta, nó chửi cho đã mồm nó. Đó thì Thầy nói để
cho thấy được chỗ mà giới luật cho đúng, mà từ xưa đến giờ nhiều cái về giới
bổn này nó đều là sai lệch hết.
Từ khi mà chia ra làm 20 bộ phái của Phật giáo rồi, người
nào cũng chấp một giới luật nào đó, họ cho là của họ đúng rồi họ làm bộ luật
ra, cho nên năm, bảy bộ luật. Thậm chí như người ta nói như thế này, trong kinh
sách nói như thế này: Lần kết tập đầu tiên mà ông Upali đọc giới xong rồi người
ta nói như thế này này: “Không có viết ra thành văn bản, chỉ có đọc mà nhớ
thôi”. Trời đất ơi! Kết tập kinh điển bộ chuyện dễ sao, khi mà người lãnh đạo
kết tập kinh điển như ông Ca Diếp là một bậc Alahan thượng thủ trí tuệ, đâu có
lý nào để mà đọc nghe chơi, xong rồi đi về, làm sao nhớ hết được. Cái chuyện đó
đặt bịa ra nói không có ghi chép, cho nên sau này 25 bộ phái không có cái bộ
luật chính, cho nên vì vậy ai muốn đặt sao thì đặt, họ lấy lý do đó để mà...
Không ngờ á, là mấy cái ông này, mấy ông đem đốt bộ luật của ông Ca Diếp kết
tập hồi ông Upali đọc, ông đốt sạch đi. Bây giờ ông mới chế ra giới luật nên
mới năm, bảy bộ luật. Trời ơi! đâu cũng có bộ luật, Tiểu Thừa cũng có bộ luật,
Đại Thừa cũng năm bảy bộ. Luật gì mà luật dữ vậy. Luật thì gồm có một bộ thôi
chứ? Cái ông nào cũng có bộ hết à. Bộ phái nào cũng có bộ luật hết à. Hai mươi
bộ phái thì chia làm 20 bộ luật. Mà giờ người ta rút lại còn có 5 bộ luật à,
chớ còn nếu mà để thì bây giờ một đống luật, chúng ta cất tủ ngập hết á.
Đó là những cái sai của người ta. Người ta chạy theo dục
lạc nơi đâu thì người ta chế theo giới luật đó để nó giảm bớt luật của Phật đi,
để cho chúng ta sống theo thoải mái, muốn hút thuốc thì nói Phật không có dạy
hút thuốc, phải không? Muốn uống cà phê nói Phật không có dạy uống cà phê. Bây
giờ rượu Phật hồi đó cấm uống rượu nếp này kia chứ đâu có cấm rượu La-be (rượu label). Còn bây giờ cứ cho
uống rượu La-be đã thôi đâu có sao. Cái chuyện đó đâu có phải là Phật cấm rượu
La be đâu, hồi đó đâu có rượu La-be, hồi đó cao lắm là rượu nếp, rượu gạo thôi,
chứ đâu có rượu La-be được. Cho nên tất cả những cái này đều là những cái mà có
thể cái miệng lưỡi của người ta vì ghiền cái đó rồi, bắt đầu lý luận phá giới
luật. Mà nếu mà ông Ca Diếp ông bảo rằng không có được thêm mà không có được
bớt. Thì hồi đó ổng nói không có được thêm thì tôi đâu có thêm, vì Phật cấm
uống rượu, bây giờ tôi uống cà phê đâu có sao, tôi uống trà cũng đâu có sao,
tôi đâu có lỗi. Tôi hút thuốc cũng đâu có sao, Phật cấm uống rượu không. Vậy
thì bây giờ ai dám thêm chỗ này là cấm hút thuốc đâu. Cho nên ông Ca Diếp nói
họ bắt cái trớn ông Ca Diếp thì Giới luật của Phật nó khô cằn rồi. Lúc bấy giờ
tu sĩ mình nó ngồi nó nghiện, nó ngáp, nó hút á phiện nó gật gù gật gù, thử hỏi
còn dáng tướng của tu sĩ nữa không? Phải không? Các thầy phải hiểu chỗ đó
không?
Đó, như vậy mà không linh động được cái pháp mà cấm họ
thì bây giờ nhà cửa trong cái thất của tu sĩ. Hồi đó Phật đâu có cấm radio, ti
vi, đầu (video), này kia đâu, bởi vì có đâu mà cấm, chỉ cấm tôi ca hát thôi.
Bây giờ máy nó hát chứ đâu phải có đào kép hát đâu, phải không? Hồi đó đào kép
hát Phật cấm không cho xem. Còn bây giờ cái máy nó hát chứ đâu phải người hát,
tôi mặc tình tôi nghe, có gì đâu. Họ lý luận cũng vẫn được chứ đâu có gì sai
phải không các con.
Cho nên Giới luật của Phật rất linh động, những lời ca
tiếng hát nó làm chúng ta đắm nhiễm chứ đâu phải là cái con đào, con đào là cái
hình sắc nó cũng làm đắm nhiễm, nhưng mà nó làm đắm nhiễm cả trong cái lời ca
của nó nữa. Sắc nó cũng đắm nhiễm, âm thanh nó cũng đắm nhiễm. Sự thật biết
được, thấy được cái điều này rồi mà giới luật cấm ra là để chúng ta đừng đắm
nhiễm, đắm nhiễm sắc, đắm nhiễm âm thanh. Rõ ràng là sáu cái sắc thanh hương vị
xúc pháp đó nó đối trị với sáu căn của chúng ta mắt tai mũi lưỡi thân ý của
chúng ta.
Tất cả những cái điều này mà học đến giới luật thì Thầy,
nhiều khi dạy đến giới luật Thầy bực mình cái chỗ này, mấy ông già xưa sao mà
không có sáng suốt chỗ nào hết, mà để cho Giới luật của Phật nó chết mòn, chết
dần như thế này. Mấy ông già
thiệt là tệ quá. Mà sự thật ra Thầy nghĩ
rằng ông Ca Diếp không bao giờ nói lời nói đó đâu. Ông là một cái người gọi
là Đệ nhất Đầu đà của đạo Phật không bao giờ nói ra lời nói đó đâu, mà chính mấy
ông sau này đặt điều nói ông Ca Diếp nói chứ không phải ông ấy nói để cho cái
giới luật đó. Đặng chi, các con biết không? Không có được thêm, nghĩa là đức
Phật cấm uống rượu chứ không có cấm hút thuốc, thì mấy ông thầy, mấy ông thầy
bây giờ hút thuốc tự do, phải không? Đó là cái chỗ
mấy ông đặt câu nói của ông Ca Diếp nói như vậy đấy là xác định ông Ca Diếp là
người kết tập kinh điển giới luật đầu tiên, mà ông xác định như vậy không cho
thêm mà cũng không cho bớt. Nghĩa là lỗi nhỏ nhặt không bớt mà thêm nữa thì
không được. Cái thời đại của chúng ta nó thêm biết bao nhiêu là cái thứ dục
lạc, phải không? Thế mà ông Phật thời đó không có mà bây giờ chúng ta làm sao?
Mà không thêm thì như vậy là tu sĩ chúng ta nó trở thành tu sĩ nghiện hết rồi
chứ đâu có còn là tu sĩ giải thoát, mà tu sĩ mê dục lạc hết rồi.
Đó, thì như vậy chúng ta mới thấy được cái chỗ mà giới
luật chứ còn không khéo chúng ta không thấy đâu.
Cho nên ở đây nếu mà nhìn thấy cái tăng đoàn mà nó không
có cái giới luật như vậy, mà không có cái giới luật linh động như vậy thì cái
Phật giáo nó sẽ sống ở cái sự đen tối của nó.
Đó bây giờ thì đến đây chúng ta xin nghỉ để sắp sửa ăn
cơm.
Tăng đoàn
Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh, thống
nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo
sống trong đen tối chẳng biết đường lối tu tập. Cũng vì thế khi đức Phật sắp
sửa nhập Niết bàn Ngài di chúc lại lời dạy cuối cùng: “Các thầy Tỳ kheo nên lấy
giới luật của ta mà làm thầy”.
Tục ngữ có câu: Lời thẳng trái tai, thuốc đắng dã tật.
Phàm quy định một sự câu thúc nào, tri kiến cho người ta dừng bước để đạt đến
cảnh giới cao nhất, khiến cho mọi sự an ổn, yên vui, thích thú hơn song sự
hướng thượng nào cũng chưa chắc đã giúp cho mọi người tiến bước một cách dễ
dàng. Hẳn nhiên là có một cảnh giới tốt đẹp đang chờ đợi mọi người, nhưng trước
khi đến đó, đầu tiên ta phải trả một giá rất đắt, là một sự gian nan cay đắng.
Phải xem người trượt tuyết, từ trên cao trượt xuống thấp mau chóng dễ dàng, tuy
có cái nguy hiểm mất mạng, mà ngay nơi đó rất là dễ chịu, dễ dàng, còn hướng
lên cao tuy có được cảnh giới an vui, xinh đẹp, hạnh phúc nhưng trước tiên phải
chịu gian nan thử thách. Vì thế hướng thượng ai cũng ước ao, ham muốn nhưng mấy
ai dễ đạt được mục đích.
Thì ở đây quý thầy thấy là cái giới luật của Phật là giúp
cho chúng ta hướng thượng cho nên khi mà hướng thượng thì chúng ta phải có
những cái gian nan, cái thử thách của nó. Chứ còn nếu mà chúng ta đi xuống theo
như ngoài đời, cuộc sống ở ngoài đời thì đó là cái người ta đổ ở trên núi người
ta đổ xuống dốc người ta xuống. Nó dễ dàng lắm, chạy theo dục lạc thì đâu có gì
khó, nhưng mà chúng ta đi ngược trở lên, do đó chúng ta mới thấy cái khó khăn
của nó. Như ở ngoài đời người ta ăn ba bữa còn mình thì ăn một bữa, thì đó là
người ta chạy xuống còn chúng ta đi lên đó. Ở ngoài đời thì người ta vui cái
này vui cái kia, còn mình thì khép chặt ở trong cuộc sống trầm lặng, cho nên
tất cả những cái đó là cái trái ngược nhưng khi mà chúng ta đạt được cái cao
tuyệt hạnh phúc, thì nó ở cái độ cao chứ không phải ở cái độ đi xuống.
Đó, thì những cái gian nan đó, thì như vậy nó mới có cái
giới luật của Phật, nó mới có cái giới bổn, cái giới luật của Phật mà để khép
chặt chúng ta trong cái khuôn khổ, để đưa chúng ta đi đến cái mục đích cao hơn,
hạnh phúc hơn, an vui hơn. Còn nếu mà không có cái giới luật của Phật thì chúng
ta sẽ tụt xuống chứ không bao giờ mà đi lên được. Bằng chứng như bây giờ chúng
ta đã thấy rõ người tu sĩ Phật giáo là đang trượt xuống chứ không phải đi lên.
Đó, thì muốn mà đi lên thì chúng ta phải khép chặt mình ở trong những cái giới
luật, giới bổn của Phật.
Sau ngày Phật diệt độ, trong chúng Tỳ kheo, có một vị Tỳ
kheo tên là Bạt-nan-đà cảm thấy vô cùng thích thú
khi hay tin Phật diệt độ. Ông ta nói với mọi người: “Lão già ấy chết đi là tốt,
lúc còn sống chế điều này là phải làm, điều kia là không nên làm, nhất là hay
nói về ăn, về ngủ, về độc cư, sống phải trầm lặng, sống theo lão buồn chán và
tẻ nhạt chẳng có gì là thích thú của đời tu hành. Lão ấy chết rồi chúng ta được
tự do”. Đó là trong cái thời đức Phật mà khi nghe đức Phật nhập diệt thì có vị
Tỳ kheo đó tên là Bạt-nan-đà ông ta nói ra những cái lời nói đó đủ biết trong
cái thời đức Phật người ta cũng không thích thú gì cái lối giới luật của Phật,
cái lối pháp tu của Phật đâu, người ta cũng có người như vậy chứ không phải là
không. Nhưng có người người ta hướng thượng, người ta chịu khó gian nan vất vả
người ta đi lên được, người ta thấy được cái hạnh phúc thật sự của của cái
giới, của giới luật của Phật như vậy.
Lời nói này được truyền tới tai tôn giả Ca-diếp, ngài cảm
thấy rất đau buồn cho Phật, cho Đạo Phật ngày mai, “Nếu quả như vậy tinh
thần và công đức cứu thế của Phật giáo, nhân vì đức Phật nhập diệt, mà cũng
theo đó kết thúc sao?”. Đó là cái ông Ca-diếp đó thì ổng mới nghe cái lời
nói đó thì nghĩ rằng cái thời đại về sau tương lai, thì không lý nào mà Phật
giáo lại kết thúc ở tại chỗ đó, nhưng sự thật chúng ta nhìn Phật giáo hiện giờ
thì phải thấy rằng cái đà mà xuống dốc của nó, thì chúng ta thấy nó chẳng đi về
đâu cả. Cho nên Phật giáo còn là hình thức còn, chứ còn nội dung về tinh thần
giải thoát của Đạo Phật thì nó không còn có nữa. Cho nên lời ông Ca-diếp nói
chỗ này là một cái nghi vấn, nhưng nó là một cái sự thật cho về sau của chúng
ta, của những người bất hạnh mà không có được gặp đức Phật hiện tiền trong cái
thời đức Phật.
Chúng ta gặp Phật, không có gặp Phật mà chỉ gặp pháp, gặp
giới luật của Phật và cái đà đi xuống của Đạo Phật làm chúng ta mất đường, mất
lối, chúng ta không biết đâu mà đi, đi lên để chúng ta hướng thượng, để chúng
ta tìm lại sự giải thoát chân thật của nó, để thoát ra cảnh khổ của cuộc đời mà
mỗi con người đều đang khổ như nhau, không ai khác nhau.
Nhớ lại lời dạy sau cùng của đức Phật: “Này các thầy Tỳ
kheo, sau khi ta diệt độ các thầy phải nên tôn trọng và cung kính giới bổn
Patimokkha như là một vị thầy của các ông. Giới luật là ánh sáng giúp cho các
ông đi trong đêm tối. Giới luật là tài sản, của báu mà các ông là những người
nghèo khổ được nó. Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất.
Các ông hãy cố gắng giữ gìn”. Nhân đó tôn giả Ca-diếp quyết tâm triệu tập các
vị đại đệ tử đương thời kết tập luật tạng.
Đó, thì nhân cái chỗ mà qua lời di chúc của đức Phật như
vậy “Đạo Phật còn là giới luật còn, Đạo Phật mất thì giới luật mất” thì do cái
lời di chúc đó mà ông Ca-diếp ổng phải nỗ lực ngay cái đám tang của đức Phật
xong thì ngài triệu tập, vì lúc bấy giờ các đại đệ tử của Phật đều về đầy đủ
trong cái đám tang đó mà chứ không có thiếu ai hết, cho nên nhân cái cơ hội đó
thì ngay liền ông Ca-diếp triệu tập cái cuộc họp để mà tập kết kinh luật, kinh
luật tạng chứ không để mà chờ cái cơ hội nào khác nữa. Đó là cái dịp may, nhân
cái đám tang đó mà làm cái việc kết tập kinh tạng rất dễ không khỏi phải đi từ
cái xứ này đến xứ khác mà mời các vị đại đệ tử của Phật. Vì lúc bấy giờ các vị
đại đệ tử của Phật thường là đi du hóa, đi dạy đạo ở các nơi xa xôi cho nên
nhân cái dịp mà đức Phật nhập diệt thì họ về các đám tang đó cho nên Ngài
Ca-diếp lợi dụng chỗ đó dễ dàng để gặp từng người nói với họ là chúng ta sẽ ở
lại để mà để kết tập xong cái giáo lý cái giới luật của Phật xong rồi chúng ta
sẽ trở về cái địa phương của chúng ta để giáo hóa chúng sanh.
Thì lúc bấy giờ các ngài đều thấy cái mạng mạch của Phật
pháp còn hay là mất là do cái chỗ còn kinh tạng, kinh giới này, mà còn thì mạng
mạch của Phật pháp mới còn, chứ đức Phật đã mất rồi, mà lời di chúc của đức
Phật nói hẳn hoi rõ ràng là giới luật là thầy của các vị Tỳ kheo sau này. Mà không kết tập thì lấy cái gì làm thầy được, chứ đâu phải
chỉ ông Ca-diếp hay hoặc là ông nào đó làm thầy thì thôi chứ ông đó ổng khỏi
cần phải kết tập làm chi kinh sách. Còn đằng này đức Phật lại chỉ cái giới
luật, thì thử hỏi chúng ta làm sao, các bậc Tỳ kheo, các bậc Thánh tăng trong
lúc đó bây giờ đức Phật đã chỉ định cho một cái người mà thừa kế Đạo Phật như
vậy, thì nó một là cái giới bổn rồi, nó là một cái giới rồi không thể nào mà
không viết thành văn bản được. Cho nên buộc lòng các ngài cũng phải tập trung
nhau lại để kết hợp thành một cái văn bản thật sự của đạo Phật, để làm cái
khuôn vàng thước ngọc cho các vị Tỳ kheo nương theo đó mà thực hiện con đường
tu hành giải thoát.
Đó thì hôm nay
chúng ta xét như vậy thì chúng ta thấy cái chỗ mà kết tập của ông Ca-diếp lần
đầu tiên nó không phải là cái sự cạn cợt đâu, mà là cái sự tích cực hết sức để
duy trì mạng mạch của Phật giáo về sau chứ không phải là cái việc làm tầm
thường đâu. Lời di chúc của Phật ngay đó là trước đó vài giờ là Phật chưa thị
tịch đó, thì Ngài đã nhắc đi nhắc lại cái lời này mà sau đó thì Ngài thị tịch
rồi, cái lời đó còn nó còn một bên với các vị đại Thánh tăng chứ không phải
Ngài nhắc một tháng, hai tháng thì nói các ngài quên, mà đằng này vừa, trong
khi vừa sống đó, vừa nhắc cái lời cuối cùng đó thì Ngài là thị tịch, thì lúc
bấy giờ thì các ngài phải nhớ mãi rằng Phật pháp còn thì giới luật còn, Phật
pháp mất thì giới luật mất.
Đó, thì như vậy
là chúng ta thấy cái lời của Phật nói ở đây nhắn nhủ các đệ tử của mình “giới
luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Cái câu nói này nó tha
thiết đến độ Thầy nói không có thể lường được cái chỗ đó, mà một người tu sĩ
Đạo Phật mà đọc đến câu này mà chúng ta phạm giới, thì chúng ta không thấy làm
sao mà chúng ta không đau khổ, nếu chúng ta phạm giới tức là chúng ta đã làm
mất Phật pháp rồi, chúng ta đã hủy hoại Phật pháp rồi. Cái lời nói này nó làm
cho mỗi một vị tu sĩ của Đạo Phật nó thâm tâm nó sâu sắc đến cái mức độ nào,
không ngờ mà người ta sao mà không có một cái tâm trạng đau đớn như vậy. Ngày
ăn ba bữa mà họ nỡ tâm họ ăn được, Thầy không hiểu sao, họ sung sướng ở trong
những ngôi chùa cao tháp lớn, họ sung sướng, họ đầy rẫy những vật dụng ở trong
phòng ốc của họ, mà họ sung sướng được mà cái lời nói của Phật: “Giới luật còn
là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Nếu chúng ta chẳng phải là đệ tử
của Phật, chẳng phải là đệ tử xuất gia của Phật thì chúng ta làm gì cũng được,
mà chúng ta là đệ tử xuất gia của Phật, là một vị Tỳ kheo mà tại sao chúng ta
nỡ tâm trước cái lời di chúc tha thiết đến mức độ này mà chúng ta nỡ phá giới
luật của Phật.
Thầy không hiểu
làm sao mà các bậc tôn túc, các vị lớn của chúng ta đã từng là dịch ra những
kinh sách luật đã nói đến những điều… trong giới bổn. Bởi vậy Thầy thấy, là một
cái khi mà đọc đến đây, nhiều khi đọc qua cái lời di chúc của Phật nói đến cái
lời mà Thầy phải thấy cái bổn phận và trách nhiệm của một vị tu sĩ, Thầy thấy
rưng rưng nước mắt. Thầy nghĩ rằng một người tu sĩ phải có bổn phận và trách
nhiệm giữ gìn cái mạng mạch của Phật pháp, mà giữ gìn nó bằng gì đây, bằng cái
lời nói “Giới luật còn là đạo ta còn,
giới luật mất là đạo ta mất”. Lời nói của ông cha lành từ ngàn xưa còn văng
vẳng mãi bên tai chúng ta, mà thế nào người ta sung sướng được, thế nào mà
người ta chạy theo dục lạc được để cho Đạo Phật mất. Đó là những điều mà cái
người đệ tử của Phật phải từng tâm niệm thâm sâu nỗi khắc khoải trong lòng của
mình nhìn thấy Phật giáo đi xuống mà đau lòng đứt ruột.
Đó là lần kết
tập an cư thứ nhất sau khi đức Phật nhập diệt, đó cũng là lần kết tập kinh luật
thứ nhất tại hang Thất Diệp với sự tham gia của 500 vị đại A-la-hán. Ngay sau
khi tôn giả A Nan tụng xong kinh tạng, kế tôn giả Upali tụng luật tạng, đại
chúng tham dự buổi kết tập này ấn chứng và thông qua không có điều chi thêm
bớt, thêm hoặc bớt. Do thế tạng kinh và tạng luật đầu tiên được tuyên bố là
hoàn thành. Theo một giả thiết người ta cho sự kết tập của thời ấy không có ghi
chép lại thành văn tự chỉ là thống nhất do miệng tụng tâm ghi nhớ mà thôi.
Riêng phần về ý kiến của tôi (ý kiến của Thầy đó), thì tôi không hiểu đơn giản
như vậy được, khi kết tập là phải có viết thành văn tự không thể kết tập mà chỉ
kết tập chỉ đọc suông để ghi nhớ. Vả lại lúc bất giờ kết tập kinh luật là một
điều quan trọng của Phật giáo, không thể các ngài sơ sót như vậy được. Các ngài
bấy giờ là các bậc Thánh tăng, là các Đại đệ tử của đức Phật, làm việc này với
thánh trí để duy trì kinh luật của Phật giáo. Cho nên Phật nhập diệt trong khi
chúng tăng còn đông đảo, còn đông đủ, lợi dụng đều có mặt của các bậc thánh
tăng, ngài Ca-Diếp mời chư tăng ở lại kết tập đều là những tay thượng thủ của
Phật giáo lúc bấy giờ, chứ không như ý kiến của Thánh Nghiêm. Thánh Nghiêm là
cái người mà viết cái bộ luật đó, ý kiến phỏng đoán, nghĩa là ông phỏng đoán,
ông cho rằng không có viết thành văn bản đó, sau ngày Phật diệt độ có một số
các trưởng lão Tỳ kheo không nhận lời mời của ngài Ma-ha-ca-diếp tham gia hội
kết tập lần thứ nhất. Đó là cái ông Thánh Nghiêm ổng phỏng chừng rằng sau cái
ngày mà Phật nhập niết bàn thì không có một số Trưởng lão khi mà ông Ca-Diếp
mời, thì cái số Trưởng lão đó không có nhận cái lời mời tham gia kết tập kinh
sách, thì cái điều đó là cái điều sai, khi mà còn các bậc đại Thánh tăng của đệ
tử, mà trong khi đức Phật mà tịch thì chắc chắn các ngài phải về hết.
Theo Thầy thiết
nghĩ thì không có người nào có thể bỏ cái đám tang mà của một vị đạo sư của
mình hết, họ phải về. Và lợi dụng cái đó ông Ca Diếp khỏi phải đi xứ này xứ kia
để gọi các ngài về, cho nên rất là tiện lợi, vì vậy ngay đó là kết tập liền.
Còn ở đây đó là phỏng chừng, phỏng đoán và đồng thời ông Thánh Nghiêm ổng còn
phỏng đoán là cái kiểu mà không viết thành văn tự nữa. Đó là cái sự phỏng đoán
theo cái sự nghiên cứu giới luật mà thấy nó lộn xộn, nó lu bù thì ông nghĩ rằng
như vậy có lẽ là tại không có cái bộ giới luật chính cho nên các ngài muốn thêm
thắt như thế nào là tự ý thêm thắt. Do đó mà cái sự suy tư, cái kiến giải, cái
tưởng giải của Thánh Nghiêm thì nó lệch lạc, nó không đúng. Bởi vì các bậc
Thánh tăng người ta nghĩ rằng làm một việc gì người ta cũng phải có ý tứ chứ.
Bây giờ nói rồi đến chừng đó nó không thành văn bản thì lấy cái gì mà làm thầy
của chúng tăng đây, rồi nay ông này nói vậy, mai ông khác nói sao.Phải lấy nó
làm thành văn bản, bởi vì bây giờ chúng ta làm một việc gì đó nó phải có văn
bản, có chứng cớ thì nhà nước người ta mới xử được, còn mình nói khơi khơi làm
sao người ta xử được. Cho nên mình muốn thưa kiện ai cũng phải văn bản, chứ
mình nói tôi vậy vậy tôi đúng vậy người kia cũng nói vậy, ông nội ai biết ai
đúng ai sai, phải thành văn bản người ta xem đó. Thì giới luật là thầy của mình
thì cũng phải thành văn bản thì kinh giới nó cũng vậy, giới bổn nó cũng phải
vậy cho nên không lý một cái người Thánh tăng, trong những vị Thánh tăng như
vậy mà không hiểu cái điều đó sao? Phải chi trong cái thời đó nó không có chữ
thì thôi, đằng này chữ viết người ta có ba bộ kinh Vệ Đà hẳn hoi, thì lý đâu mà
các thầy, các vị Thánh tăng đó lại không biết chữ viết cho nên chỉ ngồi nghe
chơi không à thì như vậy làm sao có cái tập hợp. Bởi vì giới luật là cái làm
cho hòa hợp chúng tăng mà, nó là thiện pháp nữa mà, cho nên phải có một sự văn
bản rõ ràng.
Mà cái sự nói về
vấn đề mà nghi vấn rằng khi đức Phật nhập diệt thì có một số vị trưởng lão Tỳ
kheo không có nhận lời mời, điều đó đều sai với trách nhiệm của quý vị hết mà.
Dù bây giờ người nhỏ người lớn đi nữa thì trừ ra những người còn giữ lại ở
những địa điểm của mình nơi xa xôi đó thì những người đó về không được thôi,
chứ toàn bộ mà nếu mà có mặt ở đó thì người ta tham dự hết. Nhưng mà rất đông vì
vậy mà người ta chọn lấy 500 vị thượng thủ, tức là 500 vị Alahan kết tập chứ
còn cái số Tỳ kheo mà chưa chứng đạt Alahan thì hàng vạn mà về cái đám ma đó
chứ đâu phải ít.
Thôi bây giờ Thầy
đặt vấn đề như Hòa Thượng TT tịch đi, có phải hàng vạn đệ tử về không chứ đâu phải
là ít, còn đức Phật ngày xưa còn bao nhiêu nữa. Đâu có chuyện đó mà nói cái
chuyện mà dễ dàng như vậy, nói cái chuyện mà tưởng như vậy được. Cho nên những
cái người mà nghiên cứu về giới luật của Phật mà thấy nó khó khăn rồi chỉ tưởng
ra thế này, tưởng ra thế kia làm cho lệch lạc cái lịch sử trong cái thời các đệ
tử của Phật cũng như trong cái thời của Phật.
Chỗ này chúng ta
phải hiểu, nếu là những bậc thánh Tăng thì kỳ kết tập kinh luật lần thứ nhất
thì các vị đều phải thấy bổn phận của mình đối với Phật giáo. Còn hay mất là ở
chỗ kết tập kinh sách này. Cho nên không thể nào từ chối lần kết tập này được.
Nghĩa là dù bây giờ dù ông Ca Diếp có đi mời ở xứ này xứ kia thì các ngài cũng
không có quyền mà từ chối, cái bổn phận của các ngài khi được Phật dạy như thế
nào thì các ngài về nghe: “Ờ cái đó ông
Anan ông đọc, ông nói cái đó, cái bài kinh đó, tôi nghe hồi đó Phật dạy là khác
ông phải sửa lại, cái này ông không hiểu, tôi hiểu nên tôi chứng quả Alahan như
vậy đó”. Thì các ngài phải có bổn phận về để chỉnh đốn lại cái giáo lý của đức
Phật chứ, giới luật của đức Phật chứ, đằng này nó còn từ chối nữa. Như vậy cái
vị đại đệ tử của Phật trong thời đó mà từ chối như vậy thì vị đại đệ tử đó có
trách nhiệm với đạo Phật không, không có trách nhiệm. Coi như là đạo Phật ngoài
cái vấn đề đó, đây là ngoại đạo chứ đâu phải là đệ tử của Phật, cho nên phải
thấy cái bổn phận trách nhiệm của mình, mạng mạch của Phật pháp còn hay không.
Một đấng giáo chủ như đức Phật đã đưa ra một cái tôn giáo như
vậy là các vị đệ tử phải có sự hợp tác với nhau để mà trùng tu, để mà làm cho
nó trường tồn mãi mãi dưới cái thế gian chứ. Các thầy có nghe thấy khi mà đức
Chúa không, khi mà ngài tịch rồi thì các thánh đồ của ngài luôn luôn lo lúc nào
cũng kết tập lại những cái gì mà của Chúa để làm cho cái đó nó luôn luôn sống
mãi với con người. Thì các đệ tử Thánh tăng của chúng ta cũng vậy chứ đâu phải
là những người thiếu trách nhiệm cho nên ở đây nói mời mà không đến, từ chối
thì cái chuyện đó là chuyện bịa đặt chứ còn Thầy nghĩ rằng người tu hành… Bây
giờ Thầy nói nếu một người nào mà kết tập kinh sách đúng, mà ở chỗ nào đúng,
nói đúng giới luật của Phật mà mời Thầy, Thầy đi ngay liền không từ chối. Mặc
dù trong lúc bấy giờ Thầy ẩn bóng nữa, Thầy thấy trách nhiệm của Thầy phải đem
hết cái khả năng của mình ra để giúp cái người đó để hoàn thành phận sự của họ
đối với Phật pháp để trường tồn, chứ chưa nói… Thầy không lộ hình ra là vì danh
vì lợi nhưng mà khi mà làm lợi ích cho Phật pháp Thầy lộ hình ra tức khắc để
làm cái chuyện lợi ích chứ đâu phải Thầy ẩn bóng.
Thầy nói thật sự
cho quý thầy thấy rằng trong vấn đề trách nhiệm, bổn phận của người tu sĩ phải
thấy mạng mạch của Phật pháp, sống còn là do nơi mình, mình làm sao cho nó sống
còn chứ đâu phải mình làm cho nó chết. Đó là cái mà chúng ta học để chúng ta hiểu
trong cái vấn đề mà giới luật hôm nay mà Thầy dạy ra, để chúng ta biết giới
luật nào mà là thầy của chúng ta. Tới đây Thầy sẽ phân tích cho quý thầy thấy
cái giới luật nào là thầy của chúng ta mà đức Phật đã di chúc.
Vì nó phải được
trung thực với lời dạy của đức Phật, của đức bổn sư, không thể thiếu vắng một
vị nào ngoại trừ những vị ấy đã nhập diệt cũng như những đệ tử của các trưởng
lão thì không tham dự có thể được. Nghĩa là các đệ tử của các bậc Thánh tăng
thì họ không tham dự thì có thể được, họ chưa chứng quả Alahan thì có thể được
và họ chưa có trực tiếp nghe lời của đức Phật dạy thì được, chứ còn những bậc
đã được trực tiếp nghe lời Phật dạy cho mình tu hành chứng quả Alahan thì chắc
chắn là bổn phận của mình phải tham dự chứ không có thể. Dù ở xa bao nhiêu dù
cái sự việc của mình đang phải làm công việc gì lớn lao gì cũng phải là thấy
cái vấn đề đó nó không lớn lao nữa, mà chỉ có vấn đề kết tập kinh và luật của
Phật là cái vấn đề quan trọng nhất thì các ngài phải có bổn phận, phải trở về
để mà góp những ý kiến, những điều mà mình đã thực hiện được ở trong cái đời
sống giải thoát của chính mình. Thì đó là bổn phận của các ngài, các ngài phải
thấy chứ các ngài không có từ chối được.
Vì vậy, vì các
vị còn đang tu học theo với thầy của mình chưa bao giờ được trực tiếp với Phật,
vả lại có gặp cũng rất ít khi. Sau 100 năm Phật nhập diệt các đệ tử lớn của đức
Phật đều lần lượt nhập diệt hết. Nghĩa là 100 năm sau đó, các đệ tử của Phật
như ông Anan người này người kia lần lượt họ nhập diệt hết. Bởi vì Phật nhập
diệt rồi sau 100 năm thì các đệ tử đều nhập diệt. Khi đức Phật còn tại thế thì
giới luật rất nghiêm chỉnh chúng Tỳ kheo không dám vi phạm. Khi đức Phật nhập
diệt và các đệ tử của đức Phật cũng lần lượt nhập diệt theo. Giới luật không
còn ai chăm sóc kỹ lưỡng nên lần lần quí thầy dễ duôi đối với giới luật nên lần
lần, nên lần lần các ngài tự thay đổi giới luật theo cuộc sống tu hành của
chính môi trường, các hoàn cảnh. Do thế tu sĩ giới luật không còn nghiêm chỉnh
nữa. Khi giới luật mà có sự thay đổi không còn nghiêm chỉnh, nghiêm trì nữa,
thì 37 phẩm trợ đạo để tu hành của Đạo Phật cũng không có hiệu quả.
À, tới cái giai
đoạn cái giáo án mà giai đoạn thứ 3, tức là cái giới hành, dạy về giới hành, ở
đây là Thầy nói về giới bổn, giới hạnh còn mà về cái giới hành, tức là 37 phẩm
trợ đạo mà Thầy dạy tới cái giai đoạn giáo án thứ 3, là dạy 37 phẩm trợ đạo. Đó
gọi là giới hành, bởi vì giới luật thì phải có giới hành nó không phải pháp
luật, vì pháp luật nó không có cái hành mà cái bắt buộc. Qúy thầy phải hiểu,
còn giáo pháp của đức Phật, giới luật là một cái pháp môn tu, cho nên nó phải
có một cái hành để mà tu. Vì vậy mà 37 phẩm trợ đạo đó là giới hành chứ không
phải là cái gì khác hơn hết. Phải hiểu như vậy chúng ta mới hiểu được giới luật
của Phật là một pháp môn để đưa chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát chứ không
phải là trói buộc chúng ta để làm cho chúng ta khổ sở. Đó 37 phẩm trợ đạo để tu
hành của đạo Phật, nếu giới luật mà không nghiêm trì rồi, thì 37 phẩm trợ đạo
mà để tu hành thì nó không còn hiệu quả nữa. Nó không còn hiệu quả nữa vì giới
luật bị phá rồi thì 37 phẩm trợ đạo này chỉ là nói suông chơi chứ còn không có
thực hành được nữa. Mà giới luật chúng ta nghiêm chỉnh thì 37 phẩm trợ đạo này
là cái giới hành để chúng ta thực hiện những cái giới luật nó nghiêm chỉnh và
nó giải thoát. Từng cái giới luật mà chúng ta áp dụng trong 37 phẩm trợ đạo này
bằng cách là trau dồi, rèn luyện, bằng cách tu tập ở trong 37 phẩm trợ đạo này,
làm cho chúng ta đạt từng giới một, mà mỗi giới chúng ta đạt được là có sự giải
thoát trong tâm hồn của chúng ta. Đó là cái chỗ tu hành của chúng ta là như vậy.
Cho nên nói giới luật tức là nói giáo pháp của đức Phật.
Tại sao vì 37 phẩm trợ đạo chỉ giúp cho người tu tập có hiệu quả là phải trì
giới luật nghiêm chỉnh. Nói cách khác là 37 phẩm trợ đạo của đạo Phật
nhằm phát triển thiện pháp, chấm dứt các ác pháp.
Đó thì các thầy
cứ thấy Phật bảo là mình tu trên thân quán ngoại thân để khắc phục tham ưu là
ác pháp. Đó thì rõ ràng là, như Tứ Niệm Xứ đó Phật dạy đó, mình trên thân quán
thân rồi để cho mình khắc phục những tham ưu ở trong đời, ở trong tâm của mình,
đó là ác pháp chứ gì. Thì chúng ta thấy đó là cái giới hành, cái giới hành của
Phật pháp ở trong cái giới luật.
Chấm dứt các ác
pháp, nên người nghiêm trì giới luật thì 37 phẩm trợ đạo là pháp tối thượng,
còn những người phạm giới, phá giới thì 37 phẩm trợ đạo chỉ là pháp môn Tiểu
Thừa. Nghĩa là họ xem như là 37 phẩm trợ đạo nó nằm ở trong cái pháp môn gọi là
Tiểu Thừa. Cho nên nó đâu có làm cái gì được đâu, họ phá giới thì tức là nó trở
thành Tiểu Thừa rồi chứ làm sao mà gọi là giải thoát được, mình gọi là Đại Thừa
được. Do thế, khi mà tu sĩ không nghiêm trì giới luật thì tất cả pháp môn cũng
đều có sự thay đổi. Nghĩa là không nghiêm trì giới luật thì pháp môn tu hành nó
thay đổi.
Mặt B:
Ba mươi bảy phẩm
trợ đạo tuy rằng nói vậy chứ nó có sự thay đổi, nó không có đúng như cái điều
kiện, bởi vì thí dụ như nó thay đổi như thế nào? Phật dạy như lý tác ý, thì họ
không biết cái gì hết thì đó là sự thay đổi của họ rồi, họ đâu có biết đó là
cái pháp hành của họ, (...)cho nên gọi là Phật giáo phát triển.
Khi mà 37 phẩm
trợ đạo nó thuộc về Tiểu Thừa rồi, thì bắt đầu họ không còn biết lối nào họ tu,
như cái lời Phật dạy như tùy pháp quán pháp, hay hoặc là ức chế pháp hay hoặc
là tịnh chỉ pháp đều họ ngơ ngẩn họ không biết nữa. Nói về bốn thiền họ chỉ
nói: Ly dục ly bất thiện pháp nhập sơ thiền, họ nói vậy chứ họ không biết ly
dục bằng cách nào nữa hết, họ không biết cách thức nào, bởi vì ly dục là giới
luật rồi, mà giới luật là phải dùng những cái pháp hành nào để mà chúng ta mới
thực hiện được cái giới luật, cho nên 37 phẩm trợ đạo nó thuộc về Tiểu Thừa. Vì
vậy bây giờ họ không còn pháp mà tu, cho nên họ phải phát triển để phá giới
luật, nghĩa là Phật giáo càng phát triển bao nhiêu thì lại phá giới luật bấy
nhiêu.
Rồi họ phát
triển pháp môn tu tập, không còn tu tập theo các pháp của Phật như trong kinh
nguyên thủy đã dạy, nghĩa là bây giờ họ tu tập theo cái kiểu mới chứ không phải
theo cái kiểu cũ, như bây giờ họ ngồi họ lại giữ tâm, họ bằng cách này hoặc
cách khác, hoặc là họ niệm kinh, hoặc là họ niệm Phật để cho tâm được nhất tâm,
hoặc là họ giữ tâm mình bằng cách này hoặc cách khác để cho nó không có vọng
tưởng.
Tất cả những cái
điều kiện như trong kinh Kim Cang dạy: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, họ giữ cái
tâm mình đừng cho trụ chỗ nào để cho Phật tánh kia sinh ra thì đó là những cái
họ phát triển mới, còn đạo Phật chúng ta muốn giữ cho cái tâm nó được thanh
tịnh, được giải thoát thì nó phải ly dục ly bất thiện pháp, nó khác xa, hai cái
pháp đều tu khác xa không giống nhau. Cho nên họ phát triển họ đi dần dần đến
cái chỗ xa lạ với 37 phẩm trợ đạo của Phật.
Vì không có bậc
tu chứng nên chư tăng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy rồi lý giải theo kiến thức
của mình, từ kiến giải riêng tư của mình nên bất đồng mọi ý kiến, kiến giải của
người khác. Nghĩa là cũng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy chứ họ không có đi xa.
Họ lấy kinh sách Nguyên Thủy rồi họ nghiên cứu, vì họ không có tu chứng cho nên
kinh nghiệm tu chứng của họ không có, cho nên cái trụ cột, cái cốt lõi nó không
có, cho nên từ đó cái tư tưởng của họ nó xiên bên đây, nó xiên bên kia. Họ
nghiên cứu cuốn kinh Nguyên Thủy, tạng kinh Nguyên Thủy thì họ lại kiến giải
thế này, kiến giải thế khác. Người thì kiến giải cái này, người thì kiến giải
cái khác nó không có đồng với nhau một cái sách hành, cho nên do đó mà họ kiến
giải ra rồi họ không đồng nhau cho nên họ chấp cái kiến của họ, họ bị kiến chấp
đó đi, rồi họ mới có sự tranh chấp với nhau họ nói người này thấp, người kia
cao họ nói đủ thứ. Cho nên vì vậy mà cái loại kinh mà phát triển nó làm cho, đó
là cái kiến chấp của những người mà tu không chứng.
Từ những kiến
giải bất đồng và phi phạm hạnh nên đưa đến kết quả phân chia bộ phái, đó là sự
việc xảy ra từ 100 năm đến 300 năm sau khi Phật nhập diệt độ. Khi Phật diệt độ
100 năm sau, có cuộc kết tập lần thứ hai tại Vệ Xá Ly, cuộc kết tập này không
có nghĩa là kết tập kinh luật mà chỉ là giải quyết sự phân chia của các bộ
phái. Kết quả kỳ này chỉ là thành lập giới luật của các bộ phái riêng tư.
Đó, phải nhớ là
cái sự kết tập lần thứ hai này ở tại Vệ Xá Ly (thì lần kết tập này) là giải
quyết cái sự bất đồng của chư tăng, do mỗi người mỗi ý kiến riêng tư ở trong
giáo lý Nguyên Thủy, mà thành lập những cái bộ phái, do đó nó có 20 cái bộ
luật, 20 cái bộ luật chứ không phải là như chúng ta thấy nó còn bây giờ là
chúng ta còn thấy sáu bộ đó. Chứ lúc bấy giờ nó 20 bộ phái là nó phải có 20 cái
bộ luật. Bởi vì một tập thể nào nó cũng phải có nội quy, có kỷ luật của nó, nó
mới giữ được cái tập thể đó, nó mới được yên ổn của nó, còn nếu không có thì
lấy cái gì mà làm cái chuẩn cho họ sống chung với nhau được, cho nên nó phải
có, phải đặt thành vấn đề là phải có 20 cái bộ luật.
Một lần nữa
chúng tăng lại cách xa giới luật của Phật, thêm bớt và sửa lại rất nhiều và
người ta đã dẹp mất cái bộ luật mặt thực của giới luật kết tập lần đầu tiên. Bởi
vì bây giờ họ kiến chấp như vậy đó, làm sao họ để cái bộ luật mà đầu tiên đó
được, buộc lòng họ phải đốt đi, hoặc là họ phải xé bỏ đi. Mỗi bộ phái có giới
luật riêng để lưu truyền trong bộ phái của mình. Thượng Tọa Bộ chiếm đa số luật
tạng, còn Đại Chúng Bộ chỉ có một bộ luật mà thôi.
Ở đây thì theo
như ở trong kinh sách thì nói là cái bộ phái Thượng Tọa Bộ thì nó lưu truyền
trong cái bộ phái mình thì nó chiếm đa số về luật tạng, nghĩa là nó còn giữ một
cái số mà nguyên gốc của nó chứ còn nó cũng có sự thay đổi rất nhiều trong đó.
Còn Đại Chúng Bộ thì chỉ có một bộ luật mà thôi, nghĩa là trong Đại Chúng Bộ nó
chia ra làm nhiều bộ phái lắm nhưng mà nói nó chỉ có một bộ luật mà thôi thì
hầu hết là cái bộ luật của nó, nó đều giống nhau là cái bộ luật phá giới, chứ
không phải là cái bộ luật không phá giới. Cho nên nó gần giống nhau chia làm 20
bộ luật, nhưng mà 20 bộ luật đó thì có bên Thượng Tọa Bộ nó còn giữ được giới
luật chiếm đa số luật tạng của Phật, còn có cái gốc chút, còn cái phần mà của
Đại Chúng Bộ thì nó phát triển theo cái kinh điển phát triển, thì cái giới luật
đó nó phá sạch cho nên nó mới đẻ ra cái giới luật bồ tát giới đó, thì nó phá
sạch cái giới luật của nguyên gốc đi cho nên nó đặt thêm thứ này thứ kia để nó
phá giới ở trong cái giới luật của Phật. Do vì vậy đó mà nó gần như là cái Đại
Chúng Bộ nó chỉ có một cái bộ luật chung là cái bộ luật phá giới mà thôi.
Giáo pháp của
đức Phật là Tam Vô Lậu học Giới - Định - Tuệ, là cơ sở, là trung tâm thiện pháp
của sự phát triển tu tập, đó cũng là một giáo án ngắn gọn nhất và cô đọng nhất.
Ngay từ thời đức Phật còn tại thế, các vị đại đệ tự của người đều lấy tam vô
lậu học làm cơ sở giới luật của mình tu tập. Nếu chẳng trì giới luật thì sự
tiến tới con đường giải thoát trở thành vô vọng. Vì thế tất cả đệ tử của đức
Phật đều là những bậc trì giới nghiêm chỉnh và người nghiêm chỉnh trong giới
luật là ông Upali.
Chúng ta thử
kiểm lại xem, thử kiểm thảo lại xem, giới luật dù là căn bản của Phật pháp tại
sao người tu giới luật không cảm thấy thích thú, hứng thú. Nguyên lai người ta
hiểu giới luật của đạo Phật như một pháp luật trong quốc gia. Người ta không
hiểu giới luật của Đạo Phật là một pháp môn toàn thiện đem lại sự giải thoát và
ích lợi lớn cho con người.
Ở đây chúng ta
phải hiểu giới luật của đức Phật chính là những pháp môn tu hành, ngoài giới
luật ra không có pháp môn tu hành nào khác riêng, cho nên 37 phẩm trợ đạo, từ
lúc trợ đạo lành, tức là trợ giúp làm cho thành tựu thiện pháp. Giới bổn
Patimokkha chẳng qua là những oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật thể
hiện qua giới hạnh trong giới kinh của đức Phật chứ không có gì mới mẻ và riêng
biệt, chỉ người sau không hiểu biến thành bộ kinh giới riêng biệt với kinh điển
của Phật.
Ở đây Thầy xin
giải thích thêm để hiểu chỗ này: nghĩa là khi chúng ta nhìn qua 37 phẩm trợ đạo
thì chúng ta biết nó là cái giới hành của giới bổn, giới luật của Phật. Cho nên
giới luật của Phật thì chúng ta biết nó là cái giới luật của Phật là cái thiện
pháp, còn giới bổn chẳng qua là những oai nghi tế hạnh để cho người ta bổ túc
vào 25 cái giới hạnh mà trong giới kinh Thầy đã dạy. Bởi vì 25 giới hạnh, nó
nói tổng quát, nó nói chung mà cái chi tiết li ti thì nó chưa có nói ra. Mà
giới bổn thì nó nói những cái oai nghi tế hạnh đó, cũng như Thầy vừa giảng cho
quý thầy nghe đó, những cái hành động nhỏ nhặt của chúng ta mà còn tâm ham
muốn, còn cái tâm vội vàng ở trong đó, thì đó là cái giới bổn nó sẽ chỉ những
cái vi tế đó để mà chúng ta thấy rằng đó là còn cái tâm dục chưa có ly, còn cái
tâm ham muốn, còn cái tâm vội vã, còn cái tâm muốn mình mau, người khác đến
trước mà phải chịu sau mình, đó là còn cái tâm tham. Cho nên cái giới bổn là nó
chỉ cái vi tế đó để cho bổ túc thêm cho 25 cái giới hạnh trong kinh, mà chúng
ta đã học rồi.
Chúng ta thấy
được như vậy, chúng ta thấy cái giới bổn có quan trọng đâu, nó đâu phải là thầy
chúng ta được, nó chỉ thêm để những cái oai nghi của chúng ta được nó làm sáng
tỏ trên cái giới hạnh mà thôi chứ nó đâu có trong giới đức, nó đâu có nằm trong
cái giới đức được, mà nó đâu có nằm ở trong, bởi vì kinh giới chúng ta thấy nó
đâu có nói về thiền định được, mà kinh giới nó đâu có nói ra, cái kinh giới bổn
đó thì nó đâu có nói ra cái giới Tuệ được.
Còn ở đây giới
kinh của chúng ta nó có giới Hạnh, giới Đức và giới Tuệ, nó đầy đủ, trọn vẹn
của một còn đường toàn diện là giới, giới bổn của Phật. Mà giới bổn của Phật
như vậy là, Thầy nhắc lại có một vị Bà La Môn hỏi đức Phật, sau khi đức Phật
nhập diệt thì ai là người thừa kế đức Phật để dẫn dắt chúng Tỳ kheo sau này?
Đức Phật nói một người mà phải có đủ ba cái điều kiện thì người đó sẽ là thay
Phật dẫn dắt chúng tăng sau này. Ba cái điều kiện đó là gì? Phật nói đó, là cái
người đó phải có hạnh lực đó là cái thứ nhất, phải có thần lực là cái thứ hai,
phải có huệ lực, thì cái đó là cái thứ ba, ba cái này có thì người đó mới mới
xứng đáng là hướng dẫn chúng tăng sau này, thì chúng ta nhìn thấy các bậc thánh
tăng chưa có người nào mà xứng đáng có được ba cái oai lực này.
Một người được
cái giới Hạnh mà không được cái giới Đức thì nó chỉ tạm thời nó chưa có tròn
đầy được cho nên mới có vị đệ tử này đệ nhất cái này, đệ nhất cái kia chứ đâu
có ai mà đệ nhất hết cả, giống như Phật đâu được, mà chỉ có giới bổn là đệ nhất
đủ hết, như Thầy đã giảng rồi. Thì các thầy thấy trong giới bổn, giới đức có
này, giới hạnh có này, giới tuệ có đó là đủ ba cái oai lực của một vị tu sĩ để
lãnh đạo chúng tăng sau này cho nên đức Phật không di chúc cái người mà thừa kế
Phật là ai, không phải là giới luật sao?
Còn bây giờ
chúng tăng nhìn ông Ca Diếp thì có cái hạnh đầu đà, mà ông Xá Lợi Phất thì có
cái đại trí tuệ mà thôi, còn ông Mục Kiền Liên thì có đại thần thông thôi, đệ
nhất thần thông thôi, mà ông La Hầu La thì có mật hạnh thôi. Thì các thầy thấy,
mỗi người có một góc độ thì làm sao tròn được cái oai lực đó mà làm thầy cho
chúng Tỳ kheo sau này.
Cho nên không có
người nào mà thừa kế chúng ta là tại vì chúng ta thấy đức Phật khen ông này đệ
nhất, ông kia đệ nhất cái này cái nọ cái khác, thì nó không tròn đủ rồi. Mà
không tròn đủ thì tức là chưa có đủ một cái oai lực mà có thể nhiếp phục chúng
tăng tu hành theo đúng cái sự giải thoát của đạo Phật. Chỉ có đức Phật là người
mới là người đủ ba cái oai lực đó, đó thì chúng ta đọc lại kinh chúng ta thấy
cái chỗ mà Phật nói, chúng ta xác định nhìn chúng Tỳ kheo của Phật, nhìn những
cái bậc thánh tăng mà đệ tử của Phật không đủ ba cái oai lực đó thì làm sao mà
cái người hướng dẫn chúng Tỳ kheo sau này được, chỉ có giới luật mới đủ mà
thôi. Cho nên Thầy giảng giới luật để chúng ta thấy giới bổn của đức Phật, là
cái giới luật nào. Còn cái giới bổn mà chúng ta đã học mà các ngài đã kết tập
thành đó là chi tiết của giới hạnh chứ đâu phải là gì, cho nên đọc đến chúng ta
thấy từ một trăm giới chúng học rõ ràng là những chi tiết lặt vặt nhỏ nhặt chứ
đâu phải là cái gì khác hơn hết.
Xét như vậy
chúng ta mới thấy được cái giới nào là cái giới làm thầy của chúng ta, chứ còn
không chúng ta cứ lấy giới luật đó làm thầy chúng ta như cái cây khô vậy, tu
riết muốn chết luôn à, sống gì mà trời đất ơi quá khổ vậy nè, có giải thoát thứ
gì đâu người ta ăn mình ngồi đó mình nuốt nước miếng có sung sướng chỗ nào.
Vì thế, giới bổn
được xem như là pháp luật trong một quốc gia, cho nên tu sĩ tu giới luật quá
khó khăn và xem như mất tự do, bị giới luật ràng buộc thế nên kinh điển Đại
Thừa và Thiền Tông phá vỡ giới luật của đạo Phật, phá giới luật tức là phá pháp
môn tu hành của đạo Phật.
Người thuyết
giảng giới luật gọi là giới sư, họ thuyết giảng khó khăn khiến cho người tu
theo giới luật không có đường giải thoát, toàn thấy cuộc sống rất khổ hạnh đụng
đâu cũng phạm phải lỗi lầm, lỗi lớn lỗi nhỏ, tâm hồn họ không được thanh thản an
vui. Do không hiểu giới luật nên người tu giới luật thành một pháp môn khắc
khổ, cằn cộc.
Tại sao đệ tử của Phật lại có người được Ngài ca
ngợi, tán thán đệ nhất pháp môn này, đệ nhất pháp môn kia? Giới luật là một
pháp môn có thấp có cao, có hạnh, có đức, có tuệ. Nếu ai kiên trì ở chỗ nào,
làm gương hạnh tu tốt cho người khác thì đức Phật gọi là đệ nhất. Như tôn giả
Upali là trì giới hạnh đệ nhất, nghĩa là ông giỏi về giới hạnh đệ nhất. Nghĩa
là ông Upali ông giỏi về giới hạnh đệ nhất. Mà giới đức ông chưa giỏi, bởi vì
giới đức ông phải thiền định giỏi chớ còn đằng này giới đức ông đâu có giỏi và
giới tuệ ông cũng chưa có giỏi, cho nên ông chỉ có cái giới hạnh không à, cho
nên vì vậy ông chỉ có ở cái góc độ đó làm sao ông xứng đáng là ông làm thầy của
mình ở sau này. Đó là chúng ta thấy cái chỗ mà Thầy vạch ra để thấy cho rõ được
cái tại sao đức Phật không di chúc là cái ông đó là thầy mình mà lại là di chúc
giới luật là làm thầy mình?
Tôn giải Xá Lợi
Phất giỏi nhất về tri kiến giải thoát, giỏi nhất về tri kiến giải thoát thuộc
phần thứ nhất giới tuệ, đệ nhất trí tuệ. Nghĩa là đức Phật gọi ông Xá Lợi Phất
là đệ nhất trí tuệ đó, thì ông giỏi về tri kiến giải thoát ở trong cái phần mà
thứ nhất của giới tuệ, chúng ta nói khi mà cái tâm mà nó định tĩnh rồi thì ở đó
ông phát triển cái giới tuệ thứ nhất nó phát triển cái tri kiến và cái chánh
kiến, cái tri kiến nó sáng suốt vô cùng, thì ông ở đây ông sáng suốt, Phật chưa
nói mà ông giải thích được, Phật chưa bao giờ nói cái bài pháp đó mà người hỏi
ông giải thích, người đó đến hỏi Phật thì Phật nói ta cũng nói cỡ vậy thôi, thì
đó ông phát triển được cái tuệ, cái giới tuệ ở chỗ cái mức độ đó chứ chưa phải
là toàn bộ cái giới tuệ. Bởi vì giới tuệ nó có 33 cái giới lận, chứ đâu phải ít
mà ông chỉ phát triển ở chỗ đó thì đức Phật chỉ khen ông ở chỗ đó chứ đâu thể
khen ông toàn bộ được. Cho nên ông đâu phải cái người mà làm thầy chúng ta
được.
Còn tôn giả Mục
Kiền Liên thì giỏi nhất về giới tuệ thứ ba, thần thông đệ nhất cái chỗ mà một
thân biến ra nhiều thân, muốn biến ra cái gì cũng được hết, thì cái đó là cái
giỏi về cái giới tuệ đó, mà cái giới thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất thì ông
cũng luôn luôn lu mờ chớ ông đâu có, Phật nói sao ông nói lại như vậy chứ ông
đâu có dám nói trật đâu.
Còn ông Xá Lợi
Phất thì Phật chưa dạy ông dám nói trước được mà nói không sai ý của Phật chút
nào hết, còn ông này khai triển chỗ đó không nổi, cho nên ông chỉ ờ Phật dạy
sao bây giờ chúng Tỳ kheo hỏi sao ông cũng dạy y vậy chứ ông không dám nói,
hỗng dám sai khác. Đó là ông chỉ có cái phần là cái giới tuệ của ông ở cái phần
thứ ba đó, thần thông đệ nhất mà thôi.
Còn ông A Na Luật
thì thiên nhãn đệ nhất, tức là ông giỏi về tuệ thứ tư. Ông giỏi về cái tuệ thứ
tư, cái thiên nhãn, tức là ông giỏi về cái lục thông tức là chỉ có cái thiên
nhãn thôi chứ ông đâu có nhĩ thông được nữa.
Đó thì chúng ta
thấy trong những bậc thánh tăng nó có giỏi từng góc độ của nó mới gọi là đệ
nhất, còn nếu mà người nào cũng đệ nhất hết thì cái người đó mới xứng đáng là
thầy của chúng ta, cho nên ông Phât ổng giao cho một người lãnh đạo Phật Giáo
sau này ổng phải giao cái người đầy đủ chứ ổng giao cái người mà không đầy đủ
thì Phật giáo nó suy đồi sao? Thế mà chúng ta có ông thầy đầy đủ chúng ta quẳng
ông thầy đó đi. Rồi bây giờ chúng ta đặt hai chục ông thầy vô thì chúng ta biết
chọn ông nào đây? Lấy ông nào mà làm thầy mình bây giờ đây, ông nào mà cũng cỡ
tầm vóc là phá giới không thì làm sao là thầy mình?
Đó, thì như vậy
trên cái bước đường tu hành của chúng ta, trong cái thời đại của chúng ta quá
khó, ông thầy giới luật của chúng ta mà bây giờ nói ra thì cứ nói cái đó là
kinh, chứ họ có nói cái đó là giới đâu, mà hôm nay Thầy giảng quý vị mới thấy
đó là giới bổn của Phật đó. Nó phải đủ ba cái oai lực của cái người lãnh đạo
Phật Giáo sau này, thì ông Phật ngày xưa ông đủ ba cái oai lực, bởi vì hạnh lực, thần lực và tuệ lực của ông. Chúng ta phải thấy được cái điều đó mà chúng ta mới
biết rằng giới luật của Phật rất là tuyệt diệu không có phải là cái thứ thường
đâu.
Khi tu hành ta
phải hiểu mỗi đặc tướng riêng của con người, tánh sở trường của người ấy ở đó,
họ phải đạt cái đó cao nhất vì thế đức Phật gọi là đệ nhất, tức là đệ nhất sở
trường của họ. Trong giáo phái, giới luật của Phật cũng vậy, nghĩa là trong
giáo phái giới luật của Phật nó nhiều cái chỗ mà đạt cái sở trường, mà cái
người nào thích cái đó thì họ đạt cái sở trường. Cũng như bây giờ các con là
học sinh nè, các con vô trong trường các con học, tại sao có thằng giỏi toán mà
có thằng giỏi văn, mà có thằng giỏi sử địa, đó là cái sở trường của nó, cái thích
thú của nó, nó phải giỏi môn đó. Cho nên đệ tử của Phật đâu phải toàn diện hết,
nó thích cái nào là cái sở trường của nó, còn cái sở đoản nó học dở, cái thằng
giỏi văn thì toán nó làm mù mờ nó không biết gì hết, vô nó cắn ngòi viết chứ nó
không làm được cái gì hết, mà tới viết văn thì nó viết thao thao bất tuyệt, nó
viết không bao giờ ngòi bút nó dừng, mà tới làm toán rồi nó ngồi nó cắn bút,
thì đó là cái sở đoản của nó. Mà cái sở trường của nó, nó phải thông chứ sao,
đó thì quý thầy cũng biết con người chúng ta nó có đặc tính riêng của nó cho
nên người thì thích Văn, người thì thích Toán, người thì thích cái này cái kia
mà cái sở thích của nó. Còn cái người mà đồng đều hết lại là không giỏi thứ nào
hết, cái nào cũng đều đều, là không có giỏi thứ nào hết, phải hiểu. Mà có người
còn giỏi tất cả các môn nữa đó mới gọi là bậc làm thầy của chúng ta. Mà trong
cái thời của đức Phật chúng ta thấy Thánh tăng không có người nào mà giỏi đồng
đều hết. Đó, thì biết như vậy chỉ có giới luật mới là thầy của chúng ta mới là
đồng đều thôi chứ còn không có ai mà đồng đều được.
Đời nay ít người
thấu đạt giáo pháp này, nên đem phân chia giáo pháp ra từng manh mún, vụn vặt
biến thành nhiều pháp môn, mà mỗi pháp môn chẳng dẫn ai tu hành đi đến đâu cả,
lừng chừng, lỡ dở, tu sĩ ương ương gàn gàn, pháp môn nào chẳng ra pháp môn nào,
giới luật nào cũng chẳng ra giới luật nào. Nghĩa là cái nào nó cũng chẳng ra
cái nào hết à, ương ương gàn gàn, tu chẳng ra tu mà tới đâu cũng chẳng tới đâu,
chỉ có nói mồm nói mép thôi à, mà không làm được cái thứ gì hết. Thì đó, quý
thầy thấy họ phân chia ra làm, họ phân chia họ dám cả gan dám nói 84 ngàn pháp
môn. Phật giáo có 84 ngàn pháp môn chứ không phải có một pháp môn, họ dám nói dóc như vậy đó. Thử họ đếm
thử coi tính ra xem có 84 ngàn pháp môn không, kinh sách nào mà kê ra cho chúng
ta thấy có 84 ngàn pháp môn không, có không? Đếm cho lắm thì cũng cả trăm pháp
môn thì cũng là quá sức tưởng tưởng rồi chứ nói tới 84 ngàn thì đặt ra nói cho
dữ chứ ở đâu mà có dữ vậy. Đó là cái vọng ngữ, quá là đại vọng ngữ chứ không
còn gì nữa hết, dám cả gan nói cái lời nói như vậy.
Rồi nói là Phật
nói chứ có phải nói mà dám nói là mình nói đâu, đưa ông Phật ra ổng nói vậy ổng
không nói láo đến cái mức độ ấy chứ, nói sao ông kê ra thử coi tôi thấy coi ông
nói như vậy có đúng không, cuối cùng xét lại trong kinh sách đi chúng ta đếm
hết đi, từ Đại Thừa qua và Nguyên Thủy Tiểu Thừa đi, chúng ta đếm hết thử coi
đi coi có đủ không? Cộng luôn cả Thiền Tông và cả luôn Thiên Chúa cả luôn tất
cả luôn, đếm hết đi tất cả tôn giáo trên thế gian này coi xem có 84 ngàn pháp
môn được không? Chứ đừng có nói chi nội Phật giáo.
Tại vì sao? Tại
vì không còn người tu chứng pháp môn của Đức Phật nữa nó mới chia ra làm tầm
bậy như vậy đó, là tại vì không có người tu chứng, chứ có người tu chứng người
ta kết tập lại pháp môn nào là ra pháp môn nấy chứ, như bây giờ Thầy kết tập
lại giới luật là giới luật, trong giới luật là pháp môn để chúng ta tu không có
pháp nào khác hơn hết, Đạo Phật gì mà nhiều quá vậy, biết đâu mà tu.
Chỉ có cái pháp
môn đó, rồi có từ cái chỗ thấp đến chỗ cao chứ không phải có nhiều pháp môn,
người muốn tu phải tu cái gì trước cái gì sau thì nó là một pháp môn cũng như
bây giờ chúng ta muốn thi đậu một ông bác sĩ thì chúng ta phải đi học từ lớp 1
cho đến lớp 12 rồi mới vào học trường Y khoa rồi đậu được bác sĩ, cái đường lối
nó phải vậy thì chúng ta phải chứ đâu phải là cái lớp 1 là một pháp môn, cái
lớp 2 là một pháp môn rồi cái lớp 5 lớp 6 là một pháp môn, mấy ông nói sao mà
lạ lùng vậy. Nó chỉ là một cái giáo trình, cái giáo án của người ta học tập thì
nó phải đi từ lớp thấp đến lớp cao thì lại cho nó là mỗi cái cấp bậc học như
vậy là một cái pháp môn à? Mấy ông ngu si quá độ như vậy.
Tại vì không còn
người tu chứng pháp môn của đức Phật nữa, tại vì người tu sống theo dục lạc thế
gian, mới chẻ pháp môn của Phật ra để mình tu theo sở thích, chẻ nó ra để mình
tu theo cái sở thích, chạy theo dục lạc đó, đặt ra cái pháp môn đó để cho mình
chạy theo nó chứ không có gì khác. Bởi vì dục lạc nó cám dỗ quá nhiều mà, sống
cái đời sống giới luật mà họ đặt ra cái giới luật họ thấy khổ quá, sống kiểu
này chắc tu... chứ tu có nổi gì đâu, cho nên đặt ra các pháp môn tu để theo cái
sở thích đó mà thấy như không phạm giới, mà còn có hy vọng là có thể sanh vào
được cõi trời hay hoặc là về cõi cực lạc nó cũng sướng, cũng phè phỡn lên trển
muốn ăn gì cũng có, còn ở dưới thế gian này muốn ăn phải mần cực khổ mới có ăn
cho nên ước ao để lên cảnh giới đó, mới đặt ra những cái điều đó. Tại vì loài người thiếu phước không đủ duyên với Phật pháp.
Đó thì chúng ta
thấy đức Phật nhập diệt rồi, sau 100 năm thì chúng ta thấy lần lượt con người ở
thế gian này thiếu phước, Đạo Phật có đó mà không có chánh pháp để chúng ta
thực hiện. Toàn là chia chẽ ra, chạy theo, biến nó trở thành tà pháp, tà kiến
hết nó không còn cái chánh pháp nữa. Cho nên Phật giáo hiện tiền có trước mặt
với nhân loại, mà pháp môn thì bị chẻ vụn như những miếng giấy xé nhỏ, mà vò
nát nữa chứ chưa nói xé nhỏ không mà còn bị vò nát ra nữa. Không còn dùng vào
một việc gì được cả, chỉ còn bỏ mà thôi. Họ lý luận thế này thế khác là để che
đậy những lỗi lầm tu sai, phạm giới của họ, giống như một lớp nước sơn ở ngoài
còn bên trong là một khúc gỗ mối mọt đục khoét tan nát.
Nếu đem tất cả
kinh sách, luật ra đọc ta thấy có sự sai biệt. Rất nhiều điểm khác nhau có bộ
thì yêu cầu nghiêm trì giới luật, có bộ thì yêu cầu giảm bớt nhẹ nhàng. Nếu đọc
sách luật mà cho bộ này phải, bộ kia phải hoặc bộ này trái, bộ kia trái thì
người đọc sách luật là vô ích, không lợi ích cho đường tu mà bị ảnh hưởng của
những người xưa không hiểu luật pháp của Đạo Phật mà viết ra thành luật thì
giới luật của Phật thành ra bản hiến pháp của quốc gia chứ không phải là pháp
môn tu hành của Phật nữa.
Đó thì quý thầy
thấy bây giờ giới luật của Đạo Phật bây giờ nó thành bản hiến pháp, nó thành
bản hiến pháp cho nên tu sĩ bắt đầu mà vô thực hành, chấp nhận cái bản hiến
pháp này ông nào cũng le lưỡi hết trơn, đâu có chấp hành nổi, mà là giới luật
của Phật là pháp môn tu làm cho người ta giải thoát người ta mới thích thú, còn
cái này vô bắt đầu trời ơi tôi khổ quá trời, giới luật như thế này chết. Đi thì
đi chân trần như thế này, đạp ba cái nước cứt trời ơi về nó ngứa chân gần chết
đêm nó đâu có ngủ được. Đó, đó là những cái bản hiến pháp đó, cái pháp luật của
nhà nước là bản hiến pháp đó, đó cho nên ở đây, chúng ta phải thấy rằng cái chỗ
giới luật của Phật nó không phải là cái chỗ hiến pháp đâu. Do thế, giới bổn
Patimokkha trở thành pháp chế. Đó Thầy xác định cho qúy thầy thấy nó trở thành
pháp chế chứ nó đâu có còn cái giới luật của Phật nữa. Vì vậy tất cả các tu sĩ
bị pháp chế gò bó, khổ sở cho đời sống tu hành, mất sự an lạc thanh thản.
Hầu hết tất cả
các bộ luật hiện hành của Phật Giáo bây giờ, trong các chùa, tu viện đều do
những người không chứng giới pháp của Phật mà soạn hoặc viết ra, rồi tự thêm tự
bớt làm cho giới pháp mang đầy tính chất Khổng Giáo, Lão Giáo và còn có tính
chất thần quyền, mê tín nữa. Đó Thầy nói, như ở trong giới luật các thầy thấy
có một vị giới luật hỏi vậy chứ: Tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm gì
không, hỏi ông thần hộ giới đó: Tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm giới
gì nữa không? Ông thần hộ giới mới nói ông ăn cơm rồi ông không tráng nước bát
nên vẫn còn những cái hột bựa ở trong đó cho nên ông còn phạm giới. Trời đất
ơi! mình là người tu mà hỏi Thần, Thầy không biết làm sao á, nó là cái sự mê
tin, giới luật mà nói cái chuyện đó thì Thầy thấy quá là thần quyền rồi. Đọc
trong kinh giới Thầy thấy Thầy buồn cười những cái chuyện, đặt ra những cái
chuyện đó mơ hồ, pháp luật của Nhà Nước cái hiến pháp của Nhà Nước không biết
có nói cái chuyện đó không? Đơn giản mọi người chỉ biết giới luật tối thiểu là
năm, là năm điều tức là ngũ giới, tối đa là 348 giới, nghĩa là người ta biết có
giới luật từ cái năm điều rồi đến 348 giới là tối đa của Tỳ kheo ni giới.
Đây chỉ là điều
văn mà thôi, một người chỉ biết học thuộc lòng điều văn của giới luật thì chẳng
thành chuyên gia giới luật học bởi vì trong mỗi điều giới có tướng có tánh, có
thể của nó, phần nhiều đều có sự phân biệt khai – giá - trì phạm. Mỗi điều giới
có đẳng cấp khinh trọng cho nên đồng phạm một điều giới mà động cơ phương tiện
kết chẳng đồng, kết tội người ta chẳng đồng. Cùng phạm giới mà động cơ phương
tiện nó phải có sự sai khác chứ không thể nào, mà người đó phạm vậy mà người
kia cũng phạm vậy mà hai cái này nó đều đem ra kết tội người ta y như nhau thì
không đúng. Bởi vì trường hợp người ta phạm tuy là cái giới đó nó phạm vậy
nhưng mà trường hợp nó khác. Ví dụ như bây giờ phạm về giới dâm, mà trong khi
người bị bắt buộc người ta dâm, còn cái người mà vui thích hành dâm thì hai cái
tội dâm thì nó giống nhau, nhưng mà có người bị bắt buộc mà có người không bị
bắt buộc. Như một cô gái bị ép buộc người ta dâm thì cũng kết tội người ta dâm
sao? Cho nên khi mà xử người ta, động cơ phương tiện mà kết cái tội của người
ta, phải thấy cái được nguyên nhân đó. Còn nếu mình kết tội người ta người nào
cũng dâm hết, người nào cũng tội Ba La Di, tội chặt đầu hết thì cái chuyện đó
là cái chuyện không đúng rồi. Còn cái người tìm người ta để hiếp dâm người ta
thì cái tội đó là tôi chặt đầu, đáng rồi. Còn cái người bị người ta bắt buộc
hiếp dâm, mà quý vị cũng bắt chặt đầu người ta thì cái tội đó là tội như thế
nào? Người ta có phải người ta đi tìm cái đó người ta hiếp người khác đâu? Đó
cũng đồng một cái tội. Thầy đem một cái ví dụ như vậy để thấy rằng đồng một cái
tội dâm nhưng mà cái người phạt nặng và cái người phạt nhẹ, và có thể nó là tha
bổng nữa là khác đó chúng ta phải hiểu, không có tội nữa. Do thế phạm tội, phạm
tội khinh trọng mà phương thức sám hối cũng chẳng đồng, nghĩa là tội nhẹ mà sám
hối cũng chẳng đồng nữa, người thì bắt quỳ hương người chỉ phát lồ ra nói rồi
xả hết tội khỏi cần quỳ hương. Còn người phải quỳ hương, còn người phải cấm
phòng nữa. Đó là những cái điều đó thì nó rất khó ở trong giới luật chớ không
phải dễ, chớ không phải dễ đối với người cầm vận mệnh giới luật mà muốn sao
cũng được đâu, bức oan người ta, cái chuyện đó không phải là chuyện đơn giản.
Cho nên ở đây
giới luật của Phật không phải là cái điều đó mà giới luật của Phật giúp chúng
ta từng bước để xả cái tâm của chúng ta ly dục ly bất thiện pháp để chúng ta
tiến tới một con đường giải thoát hoàn toàn tâm hồn. Cho nên giới luật của
chúng ta nhẹ nhàng và nó thảnh thơi, nó làm cho con người của chúng ta mỗi ngày
một giới luật thêm trong thân tâm chúng ta, mỗi một bước giải thoát trong tâm
hồn, thì như vậy mới gọi là giới luật của Phật chứ, mới là ông thầy của mình
chứ. Ông thầy gì mà tới đây cứ đánh tôi hoài à, đập tôi hoài, tối ngày cứ đập
tôi hoài tôi chịu sao nổi ít ra ông cũng phải an ủi xoa dịu, ông cũng phải nói
những lời ngon ngọt tôi mới thích ở ông chứ, còn ông cứ làm cái chuyện này thì
tôi đi tôi bỏ ông chứ tôi đâu có ở đây được. Thì cái giới bổn, hiện hành bây
giờ của Phật Giáo đang dùng nó là như ông thầy kêu mà lấy roi mà quất mình đó.
Tuy nhiên trong
giới bổn có những điều không ghi, nhưng điều gì làm trái với nguyên tắc Phật
Giáo cũng đều coi là phạm giới. Phần nhiều là ở trong giới bổn có những điều nó
sơ sót nó không ghi, nhưng mà có điều thì nó lại làm trái với Phật pháp. Phạm
giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong
lòng bàn tay. Nghĩa là cái phạm giới, phạm giới là gì? Mình phải biết cái chỗ
phạm giới, phải biết cái biện pháp nào để nó trừng trị những cái phạm giới đó
đều phải như là người nắm vận mệnh của pháp giới để mà điều khiển pháp giới,
điều khiển giới luật thì phải rõ ràng như là… Phạm giới là gì? Phải có biện
pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay, mới được gọi
là thông hiểu giới luật.
Một tu sĩ Phật
giáo không những biết về phạm giới, tướng khinh tướng trọng mà còn phải biết về
phương hướng sám hối. Nghĩa là nói chung về mà cái người tu sĩ Phật giáo chúng
ta mà muốn mình làm một vị thầy mà hướng dẫn người ta thì mình phải rõ ràng
được tất cả những cái này thì mới có thể làm thầy người ta. Cho nên sau khi Thầy
tu hành xong rồi, Thầy đã từng nghiên cứu về cái giới luật rất nhiều mặc dù
thầy Thanh Từ bảo Thầy đọc kinh sách Đại Thừa, Tiểu Thừa nhưng mà cái phần
nhiều Thầy nghiên cứu là về giới luật, bởi vì Thầy biết là cái pháp nào khi tu
hành mà Thầy đạt được, vì sau 10 năm ở trong thất Thầy giữ gìn rất trọn vẹn cái
giới luật cho nên Thầy đã biết nó như thế nào.
Cho nên sau khi
về thầy TT bảo Thầy là phải đọc tất cả những sử của Phật giáo, rồi sử của thiền
Trúc Lâm, sử của các vị thiền tông Trung Hoa này, hành tạng của các vị thiền
tông Trung Hoa này, rồi đọc lại kinh sách Đại Thừa này, rồi A Hàm này, Nguyên
Thủy này, Thầy TT dạy Thầy như vậy. Tất cả những cái điều kiện đó phải đọc lại
hết để sau này giúp thầy, đó là cái lời của thầy TT dạy như vậy, nhưng mà Thầy
về Thầy đặt hết thời gian vào nghiên cứu giới luật của Phật, Thầy tìm mọi cái
bộ luật mà Thầy nghiên cứu hết. Thầy thấy con đường giải thoát ở nơi giới luật
chứ không phải ở chỗ Thiền tông hay hoặc là ở chỗ kinh sách nhảm nhí đó. Cho
nên Thầy có đọc tất cả những cái đó, Thầy mới viết ra thành một bộ sách Thầy để
là Đường Về Xứ Phật, Đường Về Xứ Phật là cái lý luận của Thầy bác cái sai, cái
đúng của đạo Phật chứ không phải Thầy giải thích cái gì thêm đâu, cái bài kinh
nào đúng, cái bài kinh nào sai là Thầy đã viết ở trong đó ra. Nhưng Thầy thấy
nó không có phù hợp nên Thầy đem Thầy bỏ Thầy không có xài nó, Thầy để đó như
một cái đống giấy đó thôi, nó không có phù hợp ở trong cái thời đại này ra, đưa
nó ra thì đụng chạm với các bậc tôn túc, các thầy giáo hội ở trong cái thời đại
này, cho nên Thầy hoàn toàn Thầy dẹp nó sang một bên, vì làm khổ người thì
không nên, Đạo Phật đã dạy như vậy, người ta đang có kiến giải, đang có nghĩ là
cái đó đúng mà mình cho nó là cái sai thì người ta đau khổ rồi, mà người ta
nhận đó là sai thì người ta cũng thấy đau khổ người ta rồi, cho nên không có
làm cho người ta đau khổ. Chỉ âm thầm tìm mọi cách làm sao mà chấn hưng được
Phật pháp, làm sao cho người ta thấy cái đúng, cái sai mà thôi.
Cho nên Thầy rất
là nghiên cứu về giới luật, vì vậy Thầy thấy, Thầy đọc hầu như các tác phẩm
giới luật của các vị tôn túc cũng như những người sau này mà viết ra Thầy thấy
thiệt là dẫm lại cái lối mòn của người trước, mà còn dẫm trật nữa là dẫm đúng.
Người nghiên cứu
giới luật của Đạo Phật hiện giờ mà không thông hiểu giới luật Đại Thừa và Tiểu
thừa, thì sự thông hiểu khiếm khuyết quá nhiều. Nghĩa là mình mà không nghiên
cứu cái giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa mà kết hợp lại, thì
tức là sự khuyến khuyết của mình rất nhiều. Chẳng hạn bây giờ ở bên Nguyên
Thủy, các sư bên Nguyên Thủy họ chỉ nghiên cứu cái giới luật của Tiểu Thừa họ
thôi, còn ở bên Đại Thừa của mình thì chỉ nghiên cứu sáu cái cái bộ luật của
mình ở bên Đại Thừa thôi thì tức là mình còn khiếm khuyết rất nhiều chứ chưa đủ
đâu. Cho nên cả cái giới luật ở bên Nguyên Thủy, cả giới luật của bên Đại Thừa
đều phải nghiên cứu coi các tổ, các tổ luật của mình họ viết như thế nào, họ
làm sao, có đúng hay sai. Rồi mình nương vào cái giới kinh, rồi mình xét qua
mình biết họ đúng hay sai, bởi vì khi mà tu hành rồi người ta thấy cái giới
kinh nó rõ ràng lắm, bởi vì mặc dù trong kinh Nguyên Thủy nó có sự thêm bớt một
hai bài kinh nhưng mà cái giới kinh nó rất cụ thể rõ ràng. Bởi vì nó chỉ cho
chúng ta hạnh lực, thần lực và oai lực của nó đủ những giới hạnh, giới đức và
giới tuệ nó đủ, cho nên nó là một bậc thầy của mình vì vậy mình lấy cái đó mình
làm cái chuẩn mà mình xét qua cái kinh giới của các bậc này viết sai hay đúng
mình biết rõ. Bởi vì giới luật là thầy của mình, mà giờ nó là giới bổn là thầy
của mình chứ gì thế mà cái giới bổn mà viết như vậy thì nó làm thầy của mình
được không?
Đó thì hôm nay
Thầy nói để quý thầy rõ được, khi một người mà đã tu học đã có cái sự thành tựu
được sự giải thoát, nó có cái sự thông minh kinh khủng lắm, nó không lường được
cái trí tuệ thông minh đó. Cho nên nó nghiên cứu tất cả nó biết được cái sai
cái đúng. Bây giờ Thầy nói cho quý thầy thấy như thế này, hiện bây giờ nếu có
một người mà tu như Thầy để làm một bằng chứng thì cái hình ảnh của đức Phật
Thích Ca không phải là cái hình ảnh như chúng ta thấy bây giờ đâu. Nói cho quý
thầy biết không phải đâu, nghĩa là chúng ta dẫn tâm trở về quá khứ, chúng ta sẽ
thấy được cái mặt đức Phật Thích Ca thật sự. Mà có một người tu được như Thầy,
thì đó là cái sự ấn chứng với nhau để nói rằng chúng ta thấy đúng, còn bây giờ
có một mình Thầy, Thầy nói ra người ta cho là nói láo, cho nên Thầy đâu có nói
cái chuyện mà mơ hồ đó được.
Cho nên nếu mà
có mười người, một trăm người tu được như Thầy thì đó là cái bằng chứng cụ thể
nhất là tất cả những hình ảnh của đức Phật Thích Ca bây giờ dẹp bỏ hết, chúng
ta không xài cái đó đâu. Thầy nói thật sự với quý thầy bởi vì con đường tu hành
nó không phải là nó còn cái thời gian quá khứ lâu như xưa đâu. Hai ngàn năm
trăm bốn chục năm nay đâu phải là thời gian xa lắc xa lơ gì, cái hình ảnh của đức
Phật Thích Ca nó vẫn còn ở trong quá khứ đó chứ đâu mất. Chúng ta trở về đó thì
cái hình ảnh Đức Phật như thế nào thì nó y như vậy chứ không phải cái mặt nó
như búp bê vậy đâu. Cho nên phải có một người mà tu tập được như Thầy thì chúng
ta sẽ có người ấn chứng với chúng ta tin tưởng. Hai người, mười người, một trăm
người càng làm cho người ta tin thì tất cả những cái bộ mặt mà tượng đồng cốt
chúng ta dẹp hết. Thầy nói thật, còn nếu bây giờ chúng ta dẹp, chúng ta nói ai
tin người ta chỉ nói mình nói huyễn hoặc, nó không có cái bằng chứng cụ thể.
Cho nên Thầy
mong rằng quý thầy nỗ lực tu hành đúng những cái lời mà Thầy dạy đó các thầy sẽ
đạt được, không có lâu đâu. Thầy một mình trong thất mười năm mà Thầy rèn luyện
một mình không có người hướng dẫn mà Thầy còn làm được, còn các thầy làm sao
làm không được, có Thầy hướng dẫn, chỉ có chuyên cần siêng năng, giữ gìn giới
hạnh cho đúng, xa lìa những cái tâm dục, tâm ham muốn của mình, thì phải đạt
được tới đó chứ đâu có gì mà khó. Pháp hành chúng ta rõ ràng cụ thể chứ đâu
phải chúng ta... cái pháp hành là cái pháp dùng để mà chúng ta tạo ra một cái
lực của tinh thần chúng ta rất mạnh mà, sai bảo cái gì cũng được hết thì quý
thầy đã thấy rõ cái pháp hành, ở đây Thầy chỉ dạy các thầy cụ thể chứ đâu phải là
cái chuyện mơ hồ tu hành kiểu ngồi đó mà lơ mơ lơ mơ rồi cái hành đó làm sao
tới đâu. Đó là những cái mà chúng ta cần phải biết để chúng ta thực hành cho
rốt ráo những cái pháp vi diệu như vậy. Bỏ cuộc đời để đi làm những cái gì vĩ
đại chứ bỏ cuộc đời để đi làm những cái việc nhỏ mọn như vậy sao.
Giới luật của
Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa là thứ giới luật phát triển theo các bộ phái,
đó Thầy gộp chung cho quý thầy thấy, phát triển theo các bộ phái, nghĩa là lúc
bấy giờ nó chia ra làm hai mươi bộ phái, thì nó phát triển cái giới luật đó
theo bộ phái chứ làm sao mà còn cái nguyên chất của nó được, cho nên thêm bớt
lung tung, đọc giới kinh Nguyên Thủy chúng ta thấy điều này rất rõ ràng. Cho
nên không thể nào lấy giới luật khô khan cằn cỗi như thế này mà áp dụng vào đời
sống tu hành của tu sĩ có kết quả được. Nghĩa là lấy giới bổn mà bây giờ áp
dụng cho nó làm thầy của mình thì làm sao mà chúng ta giải thoát được. Tuy
nhiên nó chỉ nhắc nhở cho chúng ta ở phần giới hạnh mà thôi nghĩa là nó bổ túc
cho phần giới hạnh rõ nét để cho ngươi tu sĩ nhận ra oai nghi tế hạnh của mình
mà tránh được mỗi hành động nhỏ nhặt sai lầm do giới bổn của các bộ phái đặt ra
theo sở thích riêng tư của họ từng bộ phái.
Nên người giảng
dạy giới luật ít có người theo tu hành được. Cho nên các thầy thấy về cái phần
bộ môn giới luật không phát triển được mà thiền định thì họ phát triển được
lắm, về bộ môn kinh thì họ cũng phát triển được lắm, dạy học rồi này kia, học
trò học kinh cũng khoái lắm, học thiền thì cũng khoái lắm. Nhưng mà đụng tới
giới luật mà dạy thì cái ông thầy cũng phạm giới luôn, thành ra ông dạy thì dạy
chứ đâu dám rầy học trò. Thầy ăn ba bữa giờ ở trong kinh giới nói một bữa mà
thầy dám nói học trò ăn một bữa không? Đâu dám, nói các thầy dạy thầy cũng ăn
ba bữa mà thầy bảo tôi ăn một bữa, thì như vậy ông thầy đã là phạm giới rồi đâu
dám dạy học trò, mà dạy như vậy thì nó có giống không? Tri hành có hợp nhất
không? Như vậy làm sao phát triển được giới luật cho nên giới luật mới chết lìm
chết lịm dần dần. Chỉ dạy cho có chừng vậy thôi, ở trong các trường hạ hoặc
trong cái trường lớp chỉ dạy cho có chừng, cho có giới luật vậy thôi chứ đâu có
dám nói giới luật. Nói ra học trò nó lôi ra hỏi ông thầy ăn một bữa đâu? Chết
mồ ông thầy luôn. Đó là cái sống hàng ngày nó chỉ cho ông thầy thì ông thầy
cũng hoảng sợ luôn nữa, tại sao?
1. Vì giới bổn
Patimokkha khô cằn cỗi, gò bó, trói buộc, câu thúc, không thoải mái, khó chịu,
giới bổn nó thành ra cái pháp luật rồi cho nên nó trói buộc cái người tu dữ
lắm.
2. Người dạy
giới luật phải trì giới nghiêm chỉnh không vi phạm một lỗi nhỏ.
Đằng này người
dạy giới luật mà vi phạm giới luật thì người ta làm sao theo mình tu được, tức
là người dạy giới luật tri hành không hợp nhất. Vì giới luật Patimokkha khô cằn
nên người dạy giới luật không trì giới nổi. Chính cái người dạy giới luật, giới
bổn Patimokkha đó họ cũng không giữ nổi nữa, thì họ làm sao họ dạy giới luật mà
phát triển được. Mà giới luật vi phạm thì sai thì ai ai cũng nhận thấy rõ,
nghĩa là giới luật mà chúng ta vi phạm thì người nào cũng thấy rõ, như bây giờ
nói tôi giữ gìn giới luật mà thấy sáng ông uống cà phê rồi thì tức là ông có
giữ không? Thì như vậy là ông đã sai rồi thì ông dấu đâu được, còn cái gì có
thể dấu Thiền tông thì có thể dấu, chỉ ráng ngồi cho được hai, ba tiếng đồng
hồ, trời tôi nhập định ở trong đó hai, ba tiếng nhưng mà có nhập được gì đâu?
Chỉ ngồi cho có tụ vậy thôi chứ trong đó tâm nó lung tung, cũng như là nó nhảy
múa ở trong đó, cũng như cái rạp hát vậy đó, lúc thì nó ngủ, nó buồn ngủ thì nó
ngủ gục ở trỏng lúc nó hứng rồi bắt đầu nó nhảy múa lung tung như đào kép ở
trỏng, có cái gì mà khác lạ, cho nên ráng ngồi được cũng là cái hình thức để
cho người ta nói: ờ cái ông này ngồi được hai giờ mình mới ngồi được ba mươi
phút mình thua ổng cho nên ổng có cái gì trong đó rồi, chứ thật ra đâu có cái
gì ở trong ấy, đều là đồ điên khùng ở trỏng chứ có cái gì.
Mà giới luật vi
phạm thì ai ai cũng nhận thấy, nên người dạy giới luật không hứng thú bằng
giảng kinh luận thiền. Cho nên cái người mà dạy giới luật riết rồi họ hết dám
à, mà chỉ có cái người dạy kinh, dạy luận, dạy thiền thì khoái lắm, dạy chúng
mê lắm cho nên phát triển dễ lắm. Vì thế pháp sư học giáo lý, giảng kinh có thể
lên tòa thuyết pháp dễ dàng. Nghĩa là mình hút thuốc chứ mình lên mình giảng
kinh được, hổng sao, phải không? Còn cái người mà dạy giới mà lên cầm điếu
thuốc hút hơi bị nguy hiểm, hoặc là để cái lon bia để uống giải lao đó thì chắc
chắn là không được rồi. Cho nên cái ông đó lên tòa hổng được, còn cái ông mà
dạy giới sư dạy kinh thì ông ấy lên tòa được, thuyết pháp rất là dễ dàng. Có
thể thâu đồ chúng nhiều, có thể được cả danh, lẫn lợi nữa. Nghĩa là lúc bấy giờ
mình giảng hay thì người ta tập trung chứ gì, ổng nói hay quá trời, đúng lý nói
mình không có cãi được cái chỗ nào, ví dụ cụ thể nữa, thực tế, sát thực ở trong
cái đời sống của mình nữa, hay quá ông giảng sư này tuyệt vời. Cho nên như vậy
là đồ chúng cũng đông nè, người ta nghe hay thì người ta theo ông thầy đó chứ
gì, do đó thì danh có lợi có, khoái quá chừng mà, còn gì nữa.
Thì như vậy giới
luật nó bắt buộc danh lợi phải tém ra hết cho nên ông thầy ở trong cái chòi
tranh. Còn cái ông thầy dạy kinh này thì trời ơi càng ngày cái nhà, cái chùa ổng
càng sang lên, khoái quá. Cho nên đi làm pháp sư thì khỏe quá, mà đi làm giới
sư thì thấy khổ quá, cho nên ai muốn làm luật sư đâu, phải không? Cho nên thiền sư cũng
vậy, cũng ngon lắm không thua gì cái ông pháp sư đâu. Thiền sư cũng vậy, thiền
sư có thể lên tòa thuyết pháp thiền thu hút nhiều đệ tử và cả danh lẫn lợi nữa
nhưng rất dễ dàng, nghĩa là dùng cái pháp thiền mình nói ra, thì tự tại vô ngại
mà, cả thậm chí như tranh thập mục ngưu đồ mà, xách cá, xách rượu đi mà còn không
phạm mà, phải không? Ăn thịt uống rượu đâu có phạm tội đâu. Cho nên thiền sư dễ
dàng lắm, bao nhiêu tổ sư thiền của mình đã chứng minh điều đó, giải thoát hoàn
toàn đâu có bị ràng buộc, giới của ta là giới thể còn mấy ông là giới tướng mà,
cho nên đâu có bằng tụi tui, phải không? Do chỗ đó đó, cho nên cái ông thiền sư
thu đồ chúng dễ dàng lắm, miễn là ông nói sao, có lý mà hợp lý dạy người ta
ngồi được ba bốn tiếng đồng hồ, bảy tám tiếng đồng hồ thì chắc ăn nhất. Nghĩa
là cái người mới vô ngồi ba mươi phút là đau muốn chết rồi còn cái ông này ngồi
tám tiếng đồng hồ, mười hai tiếng đồng hồ không đau, tập luyện được như vậy,
mình làm cái tướng như vậy là hấp dẫn người ta rồi, cho nên khoái, người nào
cũng ráng ngồi cho bẩy tám tiếng đồng hồ cho ngon, nhưng mà trong đó cái tâm
mình như thế nào, như đống rác.
Hết băng 23.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét