TU TẬP TỨ BẤT HOẠI TỊNH ( TIẾP)
…Sống gần gũi họ, bởi vì
cái đời sống của họ là cái đời sống nó đúng cái giới hạnh, họ không có chạy
theo cái dục lạc và những cái người đó họ mới có những cái pháp họ tu và họ tu
như thế nào mà họ được như thế đó. Và vì vậy mà mình đến những người đó mà mình
học cái pháp của họ, mình nương vào những hành động đó. Cho nên là ở đây Phật dạy chúng ta mà muốn cho cái tâm mình
không phóng dật thì mình phải thân cận, thân cận là mình phải sống gần gũi với
bậc đó, rồi mình học những cái pháp của họ, của những bậc Thánh đó. Họ đã tu tập nó, họ học những cái pháp để hiểu những cái pháp
làm sao mà họ sống được như vậy.
Ví dụ như giờ Thầy ăn
ngày một bữa, Thầy sống như thế nào mà Thầy ăn được một bữa và Thầy sống như
thế nào mà Thầy không ngủ, Thầy sống như thế nào mà Thầy nhập được thiền định,
Thầy sống như thế nào mà Thầy không có giết hại chúng sanh? Do đó mà các con
được thân cận những bậc đó thì các con sẽ học hỏi được những cái pháp và nương
tựa cái gương hạnh của các bậc đó thì các con sẽ thấy mình giải thoát hoàn
toàn.
Và vì vậy mà đức Phật
bảo mình phải thân cận những bậc thánh, mình nương tựa vào những bậc thánh và
đồng thời những bậc chơn nhân. Bậc chơn nhân không phải là những bậc thánh đâu.
Bậc Thánh là những người mà họ sống y
như những người phàm phu họ sống gần ở bên những người khác nhưng mà cái lối
sống của họ nó không phải sống ở trên cái xa hoa, cái cuộc sống mà dục lạc của
thế gian. Mà đời sống của họ nó là đời sống thánh thiện, cái đời sống giải
thoát. Còn những bậc chơn nhân thì họ ở
trong rừng trong núi, họ ở những cái nơi mà túp lều tranh, hang đá, là những
cái bậc chơn nhân. Và
nếu mà mình được gặp những cái bậc đó nữa thì nó quý biết là bao nhiêu vì mình
sống cái đời sống mình bỏ hết cái cuộc đời, mình không còn sống ở trong cái xã
hội này nữa. Coi như là mình tách lìa ra cái xã hội để mình thực hiện con đường
tu tập của mình đến rốt ráo. Và từ cái mà mình rốt ráo rồi thì mình mới
trở về mình sống cái đời sống thánh thiện. Mà đời
sống thánh thiện để cho mình làm gương cho người khác, để cho mọi người người
ta nương vào cái gương hạnh của mình. Và cái lời nói của người khác nó ở gần
bên mọi người, đó là những bậc thánh.
Cho nên thí dụ như trong
thời gian mà Thầy đang ở trong thất Thầy tu mà các con được sống ở gần bên
những cái bậc mà họ đang ngồi ở trong thất mà tu hành mà những cái giới hạnh,
những việc làm của họ rất là nghiêm túc lắm, đó là những bậc chơn nhân. Còn
những cái người mà đang sống như Thầy hiện giờ mà đang sống gần bên quý thầy
đó, đang sống gần bên các con để dạy các con, rồi lấy gương hạnh mình để làm
gương cho các con soi để mà các con tu tập đó thì đó là những bậc Thánh. Do đó
những cái đời sống của họ nó khác lạ hơn cái đời sống thường tình của thế gian.
Thay vì đời sống thường tình của thế gian thì người ta nằm giường cao rộng lớn
còn cái đời sống của những bậc Thánh thì người ta nằm giường tre, hoặc người ta
nằm trên đất hoặc người ta nằm trên đá. Đó là những cái đời sống có thánh
thiện. Người ta không còn dính mắc với vật
chất nhưng người ta sống ở trong với mọi người nhưng người ta không tách lìa
mọi người, người ta không tách lìa thế gian mà người ta sống ở trong cái thế
gian, người ta đem cái gương hạnh sống đó mà người ta hướng dẫn cho người khác
để cho người khác buông xả, để cho người khác không khổ.
Cũng như bây giờ có một
người làm ăn đổ nợ đổ nần họ khổ sở hết sức mà bây giờ không biết cách thức
nào mà giải quyết được thì họ gần gũi các bậc Thánh thì họ bạch thầy:
Con gặp những trường hợp làm ăn như
vậy, bây giờ khó khăn vậy, bây giờ làm sao con thoát ra khỏi cảnh
khổ. Thì gặp cái vị đó, thì cái vị đó sẽ chỉ cách thức cho
họ thấy cái đường đi nhân quả, nhân quả của chính bản thân người đó
và người đó thấy được đường đi nhân quả thì họ giải quyết ở trong
cái nhân quả, cho nên đem lại cái cuộc sống của họ không còn nợ nần,
không còn khổ đau nữa. Từ lâu họ lầm chấp rằng mình vì cái vấn đề
làm ăn như thế này, bây giờ lỡ người ta biết được cái điều kiện
mình như thế này rồi họ cười họ chê mình như thế này, thế khác, cho
nên mình khó sống ở trong xã hội này quá. Nhưng mà gặp bậc Thánh
nó không sợ cười chê đâu, mà cái khổ tâm nhất là cái nợ nần, rồi cái
lời cái vay nợ của người ta, tiền lời của mình mỗi ngày cứ mỗi
chồng lên, rồi càng ngày lún sâu lún sâu riết rồi mình phải chết,
nhiều khi rồi mình phải đi ở tù nữa là khác. Còn bây giờ, ngay bây
giờ mình còn một cái phần nào đó, mình giải quyết cho tất cả cái
nhân quả này đi, mình trả sạch cái nợ đi, mình trả sạch cái nợ đi
thì từng đó mình bây giờ còn một đồng thì mình ăn một đồng, một
cắc mình ăn một cắc. Lúc bây giờ tâm hồn mình thanh thản, đó là mình
giải quyết nhân quả. Còn nếu mà để cái nhân quả này càng ngày nó
càng lún sâu hơn nữa thì chỉ còn có nước mà đi ở tù hoặc là chết,
tự tử chứ không thể nào mà sống được hết.
Đó là gặp những bậc
Thánh người ta chỉ đường đi nhân quả rồi mình sáng ra, mình thấy: ờ
mình hồi đó mình cứ sợ người ta cười chê mình, cho nên vì vậy mình
cứ vay vốn, vay thêm, vay thêm bỏ vô để mình đi tiến tới cái chỗ mà
tìm cái danh giả, cái hư giả mà cuối cùng mình càng lún sâu, càng
chết. Cho nên gặp được những bậc mà chơn tu, những bậc Thánh hiền
thì người ta chỉ cho mình cái nhân quả, để rồi từ đó mình thấy bây
giờ bán nhà bán cửa, bán tất cả những cái gì đó trả cho hết cái
nợ để không còn cái lời nữa, cuối cùng mình giải quyết được cuộc
sống. Bây giờ còn ở trong túp lều nhưng mà mình thanh thản, cái khả
năng, cái tài của mình nó vẫn còn, từ cái chỗ mình trở về với hai
bàn tay không để rồi mình vươn lên thì trong một năm, hai năm mình sẽ
giàu có trở lại bằng cách là mình không vay nợ ai nữa hết. Còn bây
giờ hồi nào tới giờ mình không hiểu cho nên mình cứ ngỡ tưởng mình
cứ vay tiền, vay nợ người ta để bỏ vô để làm nhưng mà cuối cùng làm
mà chúng ăn hết mình không có đồng nào hết. Càng ngày mình càng
khổ.
Vừa rồi có một
người Phật tử đến gặp Thầy, cũng ở trong cái trường hợp mà Thầy đang
giảng hôm qua cho các con chứ đâu ai, nhưng vì trong cái nỗi khổ của họ
nên họ mong ước gặp Thầy để mà giải quyết cho sự khổ của họ. Chính
cái người Phật tử này mới thưa hỏi, Thầy chỉ dạy cho họ cách thức,
đường đi nhân quả của chính bản thân của họ, họ đã từ cái ngày mà
gieo cái nhân quả đó. Bây giờ khi mà nhận ra được lời nói của Thầy
rồi thì họ xin hứa với Thầy là họ về họ bán sạch họ giải quyết
để tâm hồn họ được giải thoát, để họ trả hết tất cả cái nợ, không
còn cái nợ (cái lời đó), tức là sạch đi, dứt được sự khổ đau của
cuộc đời. Đó thì các con thấy.
Nếu mà gặp người
khác thì họ bảo bây giờ phải vô chùa lạy Phật, cầu Quan Âm, tụng kinh
Pháp Hoa cho nhiều đi rồi đức Phật Quan Âm phù hộ. Rồi cuối cùng cứ vay nợ đổ
vô đây thì cái người Phật tử này riết riết chắc là có thể nói là đi vào tự tử
chết chứ không sống nổi. Bởi vì càng ngày cái lời nó càng đổ vô mà mình làm thì
người ta ăn chứ mình không có ăn mà riết rồi mình chết. Còn Thầy dạy thì họ
chấm dứt ngay liền, nhân quả đoạn dứt liền, chuyển liền, đời sống họ thanh
thản. Rồi bắt đầu cái tài, cái khả năng của họ có họ sẽ vươn lên làm lại một
cuộc đời mới mẻ và thánh thiện hơn, không nợ nần ai hết.
Đó thì các con thấy
trong cái vấn đề mà gặp bậc chơn nhân và bậc Thánh nó lợi ích rất lớn. Còn cuộc
đời mà các con không gặp bậc chơn nhân, bậc Thánh thì cuộc đời tu hành của các
con cũng phí mà thôi. Bởi vì cái gương hạnh không có sống đúng giới hạnh, không
có sống đúng thánh thiện nè, rồi pháp môn họ tu không có đúng nữa rồi làm sao
các con đi tới được. Cho nên các con thấy này, như hồi nào tới giờ người ta dạy
các con niệm Phật phải không? Các con biết rất rõ ai cũng biết niệm Phật hết, đúng
không? Thế mà bây giờ niệm Phật các con có thấy giải thoát chưa? Chưa có người
nào mà giải thoát hết. Mà bây giờ ngay Thầy dạy các con nè, lấy thân niệm Phật
nè, mà các con thấy bao giờ có người ta dạy các con thân niệm Phật đâu. Chưa
từng. Mới chỉ nghe lời Thầy dạy lấy thân mà niệm Phật, lấy Tâm mà niệm Phật,
lấy Thọ mà niệm Phật, lấy các Pháp mà niệm Phật. Đây là lần đầu tiên ở trong
cuộc đời mà theo Đạo Phật các con mới nghe. Mà phải không? Các con thấy cái
điều đó có không? Nhưng mà các con lấy thân niệm Phật nè, lấy thọ niệm Phật nè,
lấy tâm niệm Phật nè, lấy các pháp niệm Phật nè, các con thấy giải thoát ngay
liền tức khắc. Có không, các con thấy không. Đầu tiên các con vô quy y Tam bảo
nè, là nương tựa vào ba ngôi Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng thì người ta dạy các
con niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chứ gì. Các con nói niệm Phật là nam mô
Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng. Rồi gặp nhau chào hỏi cũng nam mô Phật, mà cuối
cùng rồi không giải thoát gì hết, đụng nhau có khi nảy lửa nhau rồi cải lộn
nhau nữa chứ đừng nói, làm ăn thì cũng hơn cũng thua chứ chưa chắc là nhường
nhau. Đó thì niệm Phật mà niệm kiểu đó có giải thoát không? Còn ở đây Thầy dạy
các con niệm Phật có giải thoát hoàn toàn. Nếu mà các con nghe lời Thầy dạy
đúng, dùng pháp hướng trạch ra những cái pháp để nó áp dụng đúng cách thì các
con sẽ thấy thân tâm của các con thậm chí như cái thọ của các con đau nhức đến cái mức độ cuối cùng các con vẫn thấy thản
nhiên, thấy giải thoát hoàn toàn không có sự đau khổ nữa.
Ở đây thì cái phóng dật
là một cái điều rất khó, không phải dễ cho nên muốn mà không có tâm phóng dật
thì các con phải gần các bậc Thánh hiền, bậc chơn nhân. Do những cái hành động
sống của họ, do những cái pháp của họ tu hành thì các con sẽ được giải thoát.
Cho nên hàng ngày các con phải tu tập và trau dồi những cái pháp của những bậc
chơn nhân, có như vậy tâm các con mới không phóng dật.
Ngày xưa đức Phật thấy
tất cả chúng sanh đau khổ, lăn lộn ở trong sanh tử luân hồi là vì không xa lìa
được dục tâm phóng dật cho nên Ngài xót thương mà nói cái bài kệ. Đức Phật thấy
chúng sanh do cái tâm phóng dật của mình mà không có làm sao dứt được cho nên
Ngài mới nói cái bài kệ để cho chúng ta hiểu qua cái bài kệ này để mà chúng ta
ngăn ngừa cái tâm phóng dật của mình.
Đây cái bài kệ như thế này
:
Khó
thấy được vô ngã
Không
dễ thấy sự thật
Với
người có hiểu biết
Xa lìa tâm phóng dật
Vị
ấy đã thấy rõ
Đâu còn có vật gì
Nghĩa là nó đâu còn dính
vật gì đâu, mình không phóng dật thì đâu còn dính vật gì đâu . Đây bây giờ Thầy
đọc bài kệ qua rồi Thầy giải thích cho thấy.
Khó thấy được vô ngã - nghĩa là các pháp đều là vô ngã, không có cái
ngã thật. Nhưng mà mình cứ thấy à cái đồng hồ, có cái đồng hồ rồi làm sao mà
nói là vô ngã thật. Nhưng mà đâu ngờ rằng cái đồng hồ này nó bây giờ nó có, đem
lửa đốt nó rồi còn không. Nếu mà nó thật thì nó đâu có cháy, phải không?
Nó không thật cho nên nó có rồi nó phải hoại diệt, nó đâu có thường hằng
được. Cho nên bây giờ thấy nó chạy vậy chứ mai mốt cái nó hư nó đứng đó thì còn
có nước quăng đống rác ai thèm nữa. Các con thấy không, cái máy này bây giờ nó
đang chạy tốt như vậy mai mốt nó hết chạy, sữa không được nữa thì quăng đống
rác chứ còn ai mà thèm nữa, để làm chi trong nhà cho chật. Cho nên nó có không,
nó có ngã không? Cho nên nó thật sự là vô ngã cho nên nó thường có sự... Bây
giờ nó mới rồi lần lượt nó cũ rồi nó hư hoại đi.
Cũng như cái thân mình,
mình nói nó thường, thường sao được. Thường sao mà hồi nhỏ thì nó mạnh khỏe,
bây giờ nó già yếu, bây giờ nó ho hoài nó muốn chết rồi, bây giờ cái sức khỏe
nó càng gầy rồi, nó không biết nó đi ngày nào rồi vậy mà sao nói nó là thường,
là ngã được. Thật sự là nó vô ngã. Cho nên tuy rằng nói là khó thấy được vô
ngã. Mình thấy mọi vật nó điều có thật, tại sao nói mình vô ngã? Ông Phật ông
nói nghe thấy lạ nhưng thật sự là nó vô thường chứ đâu có thường đâu, phải
không. Khi mà vì vậy, vì các vật nó có thật nhưng mà trong cái bản chất của nó
không có thường tồn được, nó không có vĩnh viễn được cho nên Phật nói vô ngã. Nhưng
mà thấm được cái lý vô ngã đó thì chúng ta phải tu cái Định vô lậu, nó thấm
được cái lý vô lậu nó chứng được cái lý vô ngã. Cho nên lúc bây giờ
chúng ta đâu còn thương, ghét, giận hờn ai đâu vì đâu có cái gì mà thường còn,
các pháp đều là vô thường vô ngã.
Không dễ gì thấy sự
thật - nghĩa là khó mà
nhìn được cái sự thật của mọi vật, của thân tâm của mình, của các pháp xung
quanh. Cái bàn cái ghế, tất cả mọi cái này đều nói là không có thì không thể
nào mà chúng ta có thể thấy được nhưng mà sự thật nó không có. Trước kia nó đâu
phải là cái bàn như thế này, nó toàn là những bột nhựa, do đó người ta đưa vào
máy móc rồi người ta đổ nó vào cái khuôn rồi nó thành cái bàn nó mới có. Chứ
hồi đó là những hột nhựa, do cái sự kết hợp nhau từ những cái này đến những cái
khác nó mới trở thành một cái bàn chứ đâu phải khi không mà có được cái bàn.
Chúng ta có cái tập giấy này từ những cái cây, cái vỏ, từ những cái cọng lau,
cọng sậy người ta cho vô những máy xay cho nhuyễn rồi người ta chế nước cho nó
nhão, nó thành một cái chất bột rồi do đó người ta mới chế vào những chất hóa
học như thế nào nó làm cho chất bột đó trắng đi rồi người ta đổ lên khuôn mới
cán thành cuốn giấy như thế này, bây giờ nó mới có giấy. Thì bao nhiêu cái vấn
đề hợp chất nó lại nó mới thành cái tờ giấy cho chúng ta. Thế mà chúng ta thấy
tờ giấy chúng ta nói khó. Nó do duyên hợp mà nó có nhưng mà khi duyên hợp nó
hết rồi nó tan thì có cái gì là còn có nữa. Cho nên nhìn nó thấy mà sự
thật như vậy mà thấm nhuần được cái sự thật như vậy thì chúng ta phải có một
quá trình tập luyện về cái Định vô lậu, còn nếu mà chúng ta không
chịu khó tập luyện thì cái gì nó cũng thật hết, thật hết. Cho
nên hở ra chút gì thì chúng ta cũng thương, cũng ghét, cũng khóc,
cũng giận, cũng hờn, cũng phiền não ở trong lòng đủ mọi cách.
Với người có hiểu
biết, như các con thấy,
cái người mà hiểu biết thì người ta thấy vật gì người ta cũng không
có để cái tâm người ta dính mắc nó, không phóng theo cái dục đó. Cho
nên nó không dính mắc, mà không dính mắc thì người ta thấy thanh
thản, người ta thấy không có bận rộn, người ta thấy không có lo lắng
nữa.
Vị ấy đã thấy rõ, thấy rõ cái sự thật các pháp của thế gian là vô
thường, nó vô ngã, nó luôn đeo đẳng đến cái sự đau khổ cho kiếp con
người. Cho nên có nhiều người người ta hiểu Phật pháp rồi, người ta
buông sạch xuống hết. Còn bây giờ mình hiểu hiểu chứ mình thấy nó
còn thật mà, nó đâu có phải là vô ngã, nó đâu phải vô thường, nói
nó khổ chứ đâu phải khổ. Mình lấy cái bát múc nước mình uống thì
nghe nó cực hơn mình lấy cái ca chứ gì. Cho nên mình thấy cái ca này
xinh đẹp, còn cái bát của mình nó nặng nề mà nó bằng đất, nó đâu
có bằng cái này. Do cái sự so sánh đó, mà mình thấy cái bát đất
với cái này, hai cái dù có tốt, có xấu đi nữa, nó cũng là vô
thường. Ngày hôm nay nó còn mới thì nó vậy, ngày mai nó cũ rồi,
còn cái gì là tốt đẹp nữa đâu. Thân chúng ta còn không giữ được,
thời trai trẻ để cho nó già còm, mặt nhăn, da nó nhăn nheo như thế
này, còn gì nữa. Như các con còn trẻ, sao các con không ráng giữ nó
trai trẻ hoài đi, trẻ đẹp hoài đi để cho bây giờ như mấy cô lớn lớn
nhăn hết rồi, còn cái gì. Nếu mà nó thường thì thôi ráng mà giữ cho
nó thường, cho nó đẹp hoài đi, cho nó trẻ hoài đi, cho nó khỏe đi. Không
có một người nào mà giữ được hết, thì như vậy thì chắc chắn là có
sự hoại diệt, có sự vô thường thật ở trong đó.
Cho nên do đó thì
chúng ta phải chuẩn bị, đừng có phóng tâm mà chạy theo mọi vật mà
lầm, mà không thật rõ nó. Cho nên chúng ta vứt đi, bỏ đi, đừng có ham
vật gì hết, thậm chí như tất cả cái lòng thương yêu của chúng ta
đối với con cái, đối với mọi người, chúng ta thấy nó cũng là
không thật đâu, phải buông nó xuống hết đi, buông nó xuống, để rồi
chúng ta tìm một cái lối giải thoát cho chính bản thân của mình, ra
khỏi cái sự đau khổ của cuộc đời này.
Đối với con người
phóng dật là một pháp rất ác. Đối với chúng ta cái tâm phóng dật
nó rất ác, nó trói buộc khiến cho người này ở kiếp này sang đến
kiếp khác, nghĩa là nó trói buộc chúng ta ở kiếp này đến kiếp khác
vì cái tâm phóng dật đó mà nó lôi chúng ta trở thành những cái
nghiệp, trở thành những nhân quả. Cho nên kiếp này đến kiếp khác mà chúng ta không có lìa ra
được.
Phật không phóng dật
nên Phật ra khỏi sanh tử luân hồi. Ta còn phóng dật làm sao ta ra khỏi
sanh tử luân hồi được. Nghĩa là còn một cái vật nhỏ, còn một cái điều kiện
nhỏ như Thầy nói, cái bọc ni lông mà không bỏ được thì đó cũng gọi
là cái tâm phóng dật, còn dính cái vật đó. Mình cứ nghĩ rằng thôi
để dành đó, mai mốt có gì đó mình bỏ hay hoặc là mấy cô ngoài này
để cái bọc này bữa nào mình ra mình hái đọt lang hoặc là đọt rau,
rau gì đó, rau trai đem vô cho cô Út có cái bọc này đựng dễ. Cứ nhét,
để dành để dành đó. Do đó cũng chưa phải là chúng ta bỏ. Nghĩ là
nó tiện đó, nhưng sự thật ra chúng ta phải dẹp hết đi, đừng có nghĩ
ở trong này người ta có nghĩ gì thì người ta lo người ta nghĩ người
ta ra người ta hái đem rổ, đem rá gì đó, còn không thì thôi, còn mình
thôi dẹp hết đi.
Nghe nói vậy đó rồi
cô Út cô giận lắm đó, phải không? Bởi vì kiểu Thầy dạy đó là cái
kiểu nghĩa là buông xuôi. Còn cô Út thì cô lo cái đời sống, mà chơi
kiểu đó thì chết rồi, lấy cái gì đâu mà luộc mà ăn đây, đâu có lẽ
mà ăn cơm không được. Cho nên ít ra cũng phải có đọt lang hoặc là có
rau gì mà ăn mới được, mà mấy cô làm như vậy là quá đỡ rồi. Bây giờ
Thầy dạy cái kiểu này thì thôi chết. (...) Ờ rồi lấy gì mà bỏ
nhãn, ba con dơi ăn hết rồi.
Ở đây Thầy nói cho
các con nghe, là nói đây là nói cái người giải thoát, còn mình chưa
phải trong cái hoàn cảnh giải thoát nhưng mình tập dần để tới giải
thoát chớ. Chứ lý đâu mà các con nghe nói rồi bắt đầu các con bỏ
không ăn được không? Thầy thì bây giờ Thầy bỏ không ăn được chứ các con
chắc hông được. Thì như vậy là các con chưa làm được thì thôi, khoan
khoan, để cô Út cô rầy là phải. Thầy thì dạy một điều mà cô Út thì
dạy một ngả. Hai người không giống nhau ở chỗ nào. Đúng vậy. Cô Út
thì thực tế mà Thầy thì nói về con đường giải thoát là như Phật
mà. Thành ra Thầy đi tới thành Phật. Còn cô Út thì bây giờ phải sống
rồi mới lần mới đi tới thành Phật chứ kiểu như Thầy dạy, kiểu này
chắc là tiêu luôn. Bây giờ chưa làm Phật được mà hông chịu ăn, hông
chịu làm nữa thì thôi chắc chết.
Ta còn phóng dật thì làm sao ta
thoát khỏi sanh tử luân hồi được. Biết tâm phóng dật là tâm rất là nguy
hiểm và tai hại rất lớn cho đời người. Ta nên trạch pháp câu này,
dùng làm pháp hướng như lý tác ý, hàng ngày tu tập và trau dồi thân
tâm ta. Đây là cái câu pháp hướng đây:
Phóng dật là một pháp
môn rất ác nối tiếp sự đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác không bao
giờ dứt. Là tu sĩ phật giáo ta phải thấy rõ, quyết tâm dũng cảm,
gan dạ, kiên trì dứt bỏ tâm phóng dật, từ giã, từ khước, xa lìa tâm
phóng dật. Phóng dật là tai họa là nguy hiểm, hãy đi đi đừng ở trong
ta nữa.
Đó các con thấy cái
câu pháp hướng chưa? Ngay liền mà chỉ cho nó biết cái sự khổ đau, cái
sự dính mắc của nó, để rồi chúng ta chỉ mặt nó: Mày là tai họa, là nguy hiểm, hãy đi đi,
đừng ở trong ta nữa.
Mấy con phải nhớ cái
câu pháp hướng này, khi mà hàng ngày mà chúng ta trong cái giờ ngồi
thiền trước giờ mà tu cái định hiện tại an lạc trú hơi thở thì
chúng ta cũng đặt cái pháp hướng này nhắc nó, rồi đuổi nó đi, đừng
để nó ở gần bên mình nữa, rồi bắt đầu mình mới hít thở mình tu
định hiện tại an lạc trú. Các con nhớ cái giờ nào có thể trước khi
mình bước đi, mình đi kinh hành để mình tu cái chánh niệm tỉnh thức
thì mình cũng đặt cái câu này trước. Bởi vì mình biết nó là cái tai hại, cái
nguy hiểm cho đời mình, vì vậy mà nó dễ phóng dật, nó phóng tâm
mình chạy theo thứ này chạy theo thứ khác. Cho nên do đó mình phải đuổi
nó đi được một lần rồi mình mới tu cái định.
Đó là mình dùng cái pháp
hướng để mình đuổi nó để mình sống tâm mình như tâm Phật không phóng dật. Luôn
lúc nào mình nhắc nhở nó như vậy là nó thấy vật gì nó cũng không dính mắc hết.
Ngược với tâm phóng dật
là tâm sống trầm lặng, sống độc cư, sống một mình. Thì cái tâm phóng dật thì nó
làm cho mình ồn ào, mình chạy theo vui vẻ nói chuyện này kia. Còn cái tâm ngược
lại với cái tâm phóng dật là cái tâm sống trầm lặng, cái tâm sống độc cư, sống
một mình.
Nhìn vào cuộc sống tu
hành của quý vị thì biết ai là người phóng dật, mà ai là người không phóng dật,
ai là người mà trôi lăn ở trong sinh tử luân hổi, ai là người chấm dứt sinh tử
luân hồi, ai là người có thần lực, ai là nguời không thiền định, ai là người có
thiền định. Nhìn lối tu hành của họ thì biết rõ, tại sao vậy? Tại vì nhìn vào
cái tâm phóng dật của họ, cái người mà phóng dật thì không bao giờ họ có thiền
định và không có thần lực gì hết. Mà người không phóng dật họ sống trầm
lặng, họ sống độc cư, họ sống không nói chuyện, họ sống một mình họ luôn luôn
lúc nào họ cũng giữ tâm lặng lẽ của họ thì qua cái lối sống của họ thì biết
liền. Bởi vì nhìn vào cái thất của các con thấy cái này nhiều thì biết là
cái tâm phóng dật chưa hết. Mà nhìn vào cái thất càng ngày càng thấy trống ra,
càng ngày càng thấy bớt ra chỉ còn có bộ đồ mặc không thì kiểu này là kiểu sống
hết phóng dật rồi. Mà hết phóng dật rồi thì cái người này phải có đủ thần lực
rồi và cái người này họ có thiền định rồi, và cái người này họ có những cái lối
sống nó không giống như thế gian nữa, thì nhìn vào đó mình biết rồi. Còn nhìn vào cái số chúng họ thích nói chuyện này
chuyện nọ chuyện kia, qua lại nói chuyện thì biết rằng những cái người này họ còn
tâm phóng dật đó, nó chưa hết.
Ai phóng dật tu hành
chẳng có gì, ai không phóng dật tu hành có nhiều kết quả tốt, thiền định gì họ
cũng đạt được. Nghĩa là cái người mà tâm mà phóng dật thì họ tu hành hoài mà
chẳng có ra gì hết, còn cái người mà tâm không phóng dật thì họ tu hành càng
ngày càng có những cái kết quả càng tốt. Đưa đến cái kết quả đó làm cho họ cảm
thấy thích thú ở trên quãng đường tu tập của họ.
Cho nên đây là cái phần
mà tâm chúng ta niệm Phật. Lấy tâm chúng ta niệm Phật, mà tâm Phật thì không
phóng dật do đó chúng ta niệm Phật cũng giữ gìn tâm không phóng dật. Mà tâm
không phóng dật thì kết quả càng ngày càng đi đến ở chỗ từ giới luật đến thiền
định, đến thần lực, đến đại oai thần, đại oai lực, đều là chúng ta có được đầy
đủ cái thần lực đó trên bước đường tu tập giải thoát và chấm dứt sự sanh
tử luân hồi.
Đó thì đến đây là cái
phần mà Tâm niệm Phật đã hết, và chúng ta sẽ tiếp tục. Bây giờ hồi nãy là chúng
ta có Thân – Thọ – Tâm niệm Phật rồi. Giờ đến Pháp niệm Phật chứ gì?
PHÁP NIỆM PHẬT
Bây giờ Thầy sẽ lược về
phần Pháp niệm Phật rồi sau đó chúng ta sẽ có cái pháp hành để mà lấy pháp niệm
Phật. Trước khi chúng ta hiểu rồi thì chúng ta còn phải biết pháp niệm
Phật là sao? Đây mới là cái khó mà quý thầy, không có các con thì cũng
không làm sao mà hiểu được cái pháp niệm Phật. Thân, thọ thấy hiểu rồi, tâm thì
niệm Phật được rồi, giờ thì pháp niệm Phật nghe thấy lạ lùng. Cái này mới gọi
là khó chứ, pháp làm sao niệm, ở đâu mà niệm được đây? Mà pháp thì vạn pháp,
cái bàn cái tủ cái ghế làm sao nó niệm Phật được. Vậy mà nó niệm được mới giỏi
đó.
Đây các con sẽ nghe,
pháp niệm Phật, vậy pháp nghĩa là gì? Trước tiên mình nghe pháp niệm Phật, thường
thường pháp ở đây mình hiểu đầu tiên là những lời của Phật dạy gọi là pháp phải
không? Rồi sau đó các pháp thế gian, rồi các pháp xuất thế gian. Một lời nói là
pháp, một hành động làm là pháp, một cái bàn là pháp, một cái vật này đều là
pháp, một cái nhà đều là pháp, một cái hành động gì chúng ta làm đều là các
pháp hết. Mà cái pháp nó chỉ chung cho tất cả mọi vật cho nên tất cả mọi hành
động, tất cả mọi lời nói đều là pháp. Còn ở đây pháp này là cái gì mà nó niệm Phật đây? Chúng ta phải hiểu cái nghĩa của nó chứ không
khéo chúng ta không hiểu là chúng ta cũng nghĩ rằng cái lời nói của Phật là
pháp còn ngoài ra cái vấn đề đó không phải là pháp thì chúng ta đã hiểu sai.
Vậy pháp nghĩa là gì?
Pháp không chỉ cho lời dạy của đức Phật mà pháp ở đây chỉ phải
hiểu là pháp giới. Phải hiểu nó là pháp giới chứ không phải pháp là lời
nói, là cái bài kinh. Thí dụ như nói Tứ diệu đế hoặc Tứ chánh cần đó là cái
pháp, Phật nói cái pháp. Còn cái pháp này là pháp giới.
Pháp giới là gì? Một cái sắc tướng, bây giờ như các con đang
ngồi trước mặt Thầy đây mỗi người có một cái sắc tướng, mà sắc tướng đó là mỗi
người có một cái thân tứ đại, thì mỗi cái thân tứ đại đó gọi là sắc tướng. Các
con nói ra một cái lời nói, một cái âm thanh, người thì âm thanh này, người thì
âm thanh khác. Hoặc là con chim con vật nào nó phát ra cái âm thanh thì âm
thanh đó gọi là pháp. Rồi một cái hoàn cảnh xảy đến, hoàn cảnh đó là một pháp.
Một cái đối tượng xảy đến, một cái sự việc xảy đến thì cái đó là một pháp, một
pháp dần dần đều gọi là pháp. Đây
là pháp giới, pháp giới nghĩa là cả thế gian này, vạn hữu, vũ trụ của chúng ta
đều là pháp hết. Vậy thì cái pháp niệm
Phật là như thế nào? Cái pháp niệm Phật là niệm như thế nào?
Bây giờ chúng ta
thấy nè, thân Phật là một cái pháp, đối với cái thân Phật cũng là một cái pháp.
Lời nói của Phật cũng là cái pháp, ý nghĩ của Phật cũng là cái pháp, tất cả mọi
hành động gì của Phật đều là pháp hết. Vậy toàn thân Phật khẩu hành, ý
hành, thân hành tất cả đều là thiện pháp. À bắt đầu bây giờ mình xét
qua ông Phật, những cái hành động những cái gì của ông Phật biến ra hành động hết đều phải là thiện pháp. Nếu là ác pháp làm khổ người ta thì sao gọi là
ông Phật được. Cho nên Phật làm, Phật nói, từ cái cử chỉ đi đứng nằm ngồi của
Phật đều hoàn toàn là ở trong thiện pháp hết. Cho nên cái pháp của Phật là cái
pháp thiện, không thể nào là cái pháp ác được. Vậy các pháp niệm Phật thì phải
là pháp lành, cho nên bây giờ mình lấy các pháp ác cho nó niệm Phật thì nó phải
lành thì mới gọi là niệm Phật chứ còn nếu nói nó pháp ác thì nó có niệm Phật
được không? Cũng như cái hành động, cái miệng ông Phật, ông có chửi ai không? Cái
pháp mà không chửi ai thì ông khuyên lơn người ta, an ủi người ta cho người ta
vui vẻ thì cái pháp đấy là pháp lành. Cho nên khi các pháp niệm Phật thì nó
cũng làm những điều lành chứ không thể làm cái điều ác được.
Đây Thầy cho cái ví dụ,
người trí thì nghe cái ví dụ thì dễ hiểu hơn còn bây giờ nói thì các con khó
hiểu, cho nên ở đây dạy các pháp niệm Phật thì phải là pháp lành. Lấy cái pháp
nào, cái bàn, cái ghế cái này cái kia niệm Phật thì nó lành.
Giờ Thầy ví dụ này, bây giờ cuốn
tập này có người nói nó là cuốn tập của tôi. Cái cuốn tập này là cái pháp cho
nên mình là cái người mà lấy pháp niệm Phật rồi thì mình có tranh cuốn tập này
của tôi nữa không? Phải không, người ta muốn thì mình cho đi, vậy
có ai tranh cãi đâu vì vậy mà nó lành không. Còn giật cái này là của tôi, chị
nhận bậy rồi, cái này là sai, chị muốn giật của tôi sao được, hai người đánh
lộn thì đó là pháp ác rồi. Còn cái này khi mà các pháp niệm Phật đã nói niệm
Phật rồi thì nó phải lành, người ta muốn thì cho người ta chứ sao lại muốn giật
lại. Các con hiểu điều đó chưa, cho nên pháp niệm Phật thì nó thiện quá mà, mà
biết như vậy thì ai muốn gì mình cứ cho hết. Phải không, cái bọc ở trong nhà
mình mình đựng rau mình cũng cho luôn thì đâu có ai cãi. Đó là cái tốt nhất bởi
vì trên bước đường tu theo Phật rồi, mình hiểu các pháp đều là vô thường hết.
Cho nên ai muốn gì vui lòng mình cho hết. Ví như cái bát ăn cơm của mình,
ai có muốn thì mình cũng cho luôn đâu có gì, ngày mai thì đâu có gì lá cây rừng
thì có nhiều cái lá dầu lớn như vậy nè. Phải không, các con thấy Thầy bây giờ
có cái bát Thầy mang đi ăn cơm, mang đi khất thực ăn cơm nhưng ngày mai
đi ra đường họ nói thấy cái bát của Thầy đẹp quá con muốn xin làm kỉ niệm. Được
rồi được rồi cứ lấy đi. Thầy giờ lấy cái gì đi xin cơm đây? Vô trong rừng Thầy
mới bẻ, kéo cái nhánh cây dầu xuống. Các con biết cây dầu không, cái lá bự vậy
nè, Thầy mới lấy năm bảy cái lá như vậy Thầy kết nó lại Thầy chầm cái bồ đòan
trời nắng Thầy đội lên đầu. Tới chỗ khất thực Thầy để đó rồi Thầy xin cơm Thầy
bỏ vô đây thì Thầy đem về Thầy ăn có gì đâu phải có mang bát. Cái người tu bao
giờ cũng có trí tuệ hết, rồi người ta có xin cái đó nữa mình cho cái đó nữa rồi
mình về trong rừng mình hái cái lá khác mình làm nữa, làm sao hết lá rừng. Phải
không, cái đời sống tu hành chẳng có gì là của mình hết, ai muốn cái
gì mình cho hết cho nên gọi là pháp niệm Phật.
Còn bây giờ các con thấy
cái này tốt quá tôi làm sao tôi cho anh được. Vậy đâm ra nó chưa niệm Phật,
pháp này chưa tốt, thấy không. Ông Phật thì ổng xả hết mà cho nên cái mà đối
với pháp niệm Phật là phải có tâm các con hiểu chứ? Cho nên bây giờ cái y này
có người muốn mà Thầy nói không có cái y này Thầy làm sao. Như vậy là cái pháp
này chưa niệm Phật được. Phải không, niệm Phật thì phải cho người ta chứ. Cho nên
các con thấy ai muốn Thầy cho hết rồi bắt đầu thì mình lấy những cái vật mà
người ta thấy xấu quá người ta không muốn nữa thì chắc chắn người ta không ai
xin, lấy cái y rách mà đắp lên chắc không ai xin, lấy vải tha ma mà người
ta bỏ chắc người ta sợ quá người ta đâu có xin. Mấy cái này người ta còn xin,
mấy cái này người ta muốn để làm kỉ niệm. Thầy nhớ có người còn lấy đôi dép
Thầy cất để dành để làm kỉ niệm để mai mốt Thầy có chết đi họ lấy cái đó họ
thờ.
Bởi vậy cho nên tất cả
những cái pháp mà niệm Phật nó là pháp lành, bây giờ các con hiểu pháp niệm
Phật rồi chứ gì? Chứ hồi nào không khéo các con không hiểu pháp niệm Phật đâu.
Bởi vì niệm Phật như vậy cái pháp niệm Phật nó làm cho tâm hồn mình giải thoát
dữ lắm, nó không còn cái gì là cái của mình hết.
Ví dụ có một người thân
bị chết, mà bây giờ đó, tức là đứng trước cái pháp tử biệt sanh ly của một cái
người chết đó. Bây giờ mình thấy cái người thân của mình, cha mẹ mình chết mình
đứng trước cái người chết đó mình thấy mình buồn khổ, tâm mình khởi buồn khổ
thì cái pháp tử biệt sanh ly mà mình buồn khổ thì pháp đó pháp thiện pháp hay
ác pháp? Pháp ác các con, nó khổ là pháp ác chứ sao. Mà bây giờ mình vui cười
nó thiện không? Đâu thiện con, vui cười nó cũng ác, bởi vì thương nó cũng khổ
phải không, mà vui cười nó cũng khổ. Cho nên mình chẳng buồn khổ, mình chẳng
buồn chẳng khóc mà cũng chẳng vui. Chết thì đó là nhân quả, các pháp nó vô
thường thì cha mẹ phải chết thôi. Vậy mà các con thấy không khi đứng trước cái
mất mát của mình như cha mẹ mình chết đi mà mình không phải là vô tình mà mình
biết đó là nhân quả, đó là tứ đại, các pháp đều là có cái sự vô thường như vậy
cho nên tâm mình nó không phải vui. Vui thì nó cũng là ác pháp mà buồn khổ thì
nó là pháp ác cho nên hai cái này bởi vì trong cái vui nó sẽ có cái buồn, nó
đối đãi mà . Thì tức là các con vui tức là các con không thương cha mẹ. Ông bà
hồi đó đối xử với tôi quá tệ cho nên ổng chết là tôi mừng, thấy không. Nhưng mà
các con cười tức là các con vui, hồi đó cha mẹ của mình đối với mình như thế
nào đó nên bây giờ mình vui lắm thì đó cũng là pháp ác rồi. Đâu có đúng,
cho nên mình không vui bởi vì trước cái sự sinh tử luân hồi của mỗi người ai
cũng giống như ai cho nên mình không khổ trước cái chỗ mất mát đó mà mình cũng
không vui trước cái chỗ mất mát đó. Đó là cái tâm thanh thản của mình. Các con
thấy không? Đó là cái thiện pháp, đúng là lành, thấy cái pháp lành chứ còn
không khéo mình nói tui buồn tui vui là hai cái pháp đối đãi. Nó đối đãi thì nó
có buồn có vui thì nó có những nhân quả của nó chứ. Còn nếu mà không buồn không
vui thì đâu có thiện đâu có ác đâu mà có quả nên mình không có còn...
Vì vậy mà trong đạo Phật
trước cái mất mát đó người ta không có khóc mà người ta cũng không có cười mà
người ra rất thản thiên vì người ta đã biết được nhân quả. Cho nên các pháp
niệm Phật đều là thản nhiên. Cho nên nó bất lạc, bất thọ khổ mà, thản nhiên ở
trong cảnh đó. Nếu quý vị buồn tức là pháp ác, nếu quý vị không buồn tức là
pháp thiện, không buồn mà không vui thì nó pháp thiện, chứ vui nữa là không
được. Vậy pháp thiện tức là pháp niệm Phật, cái tâm mà thanh thản trước cái sự
mất mát. Đó là mình đang ở trong cái pháp niệm Phật, pháp đó nó đang niệm Phật,
nó mới giữ được cái tâm của mình lúc bấy giờ.
Nếu quý vị bị người ta
mắng chửi đó là quý vị gặp pháp ác, nghĩa là mình gặp pháp ác. Nhưng quý vị
dùng pháp đó niệm Phật thì pháp đó có tức giận nữa không? Nếu mình thấy người
ta chửi mình, bây giờ mình gặp các pháp ác rồi đây, mình lấy cái pháp này cho
nó niệm Phật đi. Thì trong khi nó niệm Phật thì tâm mình có chửi người ta
không? Các con thấy không? Bây giờ mình gặp pháp ác mà, là pháp bắt ác
pháp nó phải niệm Phật. Bởi vì cái pháp đó nó đến với mình, người
ta chửi mình chứ người ta chửi người khác sao bắt cái pháp của người
ta niệm Phật được sao. Phải không? Bây giờ người ta chửi mình chó nè.
Như vậy là mình gặp pháp ác rồi. Tôi sẽ lấy pháp ác này bắt nó
niệm Phật. Do đó cái tâm của mình bắt nó niệm Phật, nó có chửi
không? Ông Phật, ông đâu có giận. Phải không? Còn các con không bắt cái
pháp niệm Phật cho nên các con xùng lên: Mày chết đó nghen, mày chửi tao chó, mày cũng phải trâu.
Phải không? Các con thấy điều đó không? Đó là các con không lấy pháp
mà niệm Phật. Còn Thầy ở đây lấy pháp niệm Phật, cho nên tâm Thầy
không giận. Phải không? Như vậy là Thầy biết tu, tức là Thầy biết lấy
pháp niệm Phật. Có đúng không? Phải đúng chớ. Lúc bây giờ chúng ta
biết lấy pháp niệm Phật mà. Ông
Phật thì đâu có giận. Vậy thì pháp này nó có ác đi thì tâm chúng ta
biết lấy nó niệm Phật, thì tức là nó phải thiện liền. Vì vậy
mà cái bà này hay cái ông kia chửi mình, nó chửi sao mà như chửi cục
cây, không biết gì hết. Tại vì pháp ông đem lại tui, tui bắt nó niệm
Phật hết rồi. Cho nên giờ nó đâu có giận. Thôi ông về chứ ông chửi một
hơi nữa tui bắt nó niệm Phật hết đó là tiêu ông luôn. Cuối cùng không
ai làm gì mình được hết mà mình giải thoát hơn, phải không các con
thấy không?
Đó là mình biết lấy
pháp mà niệm Phật. Thầy nói đơn giản vậy phải không? Cho nên các con,
nhiều khi các con không biết lấy pháp mà niệm Phật mà trái lại. Thí
dụ như bữa đó, cô Út rầy rà mắng Thầy luôn, Thầy lấy pháp Thầy niệm
Phật: Trời ơi như vậy mà tâm Thầy ngồi như cục đất, còn Đào thì cái
mặt sụ sụ xuống. Có không? Thầy nói thật mà. Tại vì không biết lấy
Pháp niệm Phật còn Thầy biết lấy pháp niệm Phật. Cho nên Thầy biết
lấy 4 chỗ niệm Phật mà Thầy giải thoát, còn các con chẳng biết niệm
Phật nên không giải thoát. Có không? Thầy nói thật mà. Ở đây bằng
chứng cụ thể mà. Cho nên các con thấy rõ ràng. Bởi vì cái
người tu người ta có pháp rồi mà pháp của bậc Thánh, bậc chơn nhơn
rồi thì làm sao mà người ta khổ được? Người ta như cục đất rồi. Còn
các con không có pháp cho nên cái miệng méo xèo, con mắt đổ nước mắt
đó, không có giải thoát được.
Ở đây Thầy dạy cụ
thể quá mà, pháp hay quá mà, tại các con không chịu tu thôi, chứ
chịu tu là giải thoát từng phút, từng giây. Cho nên đạo Phật nói:
đạo Phật không có thời gian đến để thấy được sự giải thoát của nó.
À bây giờ các con
lần lần mới hiểu pháp niệm Phật rồi chứ gì? Hay quá phải không?
Nếu không tức giận thì đó là pháp niệm Phật, còn tức giận thì
pháp đó không niệm Phật. Phải không, thấy rõ không?
Nếu quý vị bị nhức
đầu, đau nhức khó chịu, quý vị gặp pháp thọ này rồi. Cái đầu mình
đang nhức tức là mình biết cái pháp nhức rồi, cái pháp thọ ở đây nó
nhức nè. Cũng như mấy con, trời ơi cái vai tui đau quá, tui đau khớp
xương nhức quá, như vậy kiếm thuốc mà uống đi, như vậy là các con bị
pháp đó mà quên không lấy nó niệm Phật mất rồi, chứ còn lấy nó
niệm Phật thì đâu có đau. Phải không? Các con nhớ, ở đây Thầy đi từng
bậc từng bậc để các con thấy dùng pháp niệm Phật để cho nó thấy nó
giải thoát mà. Bởi vì biết niệm
Phật là giải thoát hết.
Nếu quý vị bị nhức
đầu, đau đớn khó chịu, quý vị gặp pháp thọ này, lấy đó mà niệm
Phật thì pháp đó không còn lo sợ đau đớn, thống khổ nữa đối với
quý vị, nếu mà quý vị biết dùng cái pháp đó thì tức là bắt nó
niệm Phật thì nó niệm Phật thì nó sẽ hết đau nhức. Tại sao vậy?
Tại vì có lần đức Phật nói như thế này nè: Khi mà chúng ta gặp cái thọ đau nhức mà đến
cái sức mà chịu đựng tận cùng của sinh mạng của chúng ta mà tâm
chúng ta bất động thì nó sẽ mát lạnh. Phải không? Bây giờ mình bắt nó niệm
Phật thì nó mát lạnh chứ có gì đâu, bởi vì ông Phật ông mát lạnh
chứ đâu có nhức đầu đâu. Đó cho nên chúng ta thấy do bắt cái pháp đó
mà nó niệm Phật, bắt cái pháp thọ khổ này nó niệm Phật thì mình
cũng sẽ hết đau khổ.
Bởi vậy các pháp
đến với quý vị mà quý vị biết lấy đó niệm Phật thì tâm của quý
vị có kết quả giải thoát ngay liền. Đó thì quý vị thấy cái chỗ
mà tu tập của Phật pháp nó thực tế và cụ thể mà đây là chúng ta
mới lấy, đầu tiên là lấy thân thọ tâm pháp của chúng ta mà niệm phật.
Phải không? Lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Phật, Thầy vừa dạy rồi,
rồi bắt đầu từ đây về sau chúng ta lấy thân thọ tâm pháp mà niệm
Pháp. Phải không? Rồi từ đây về sau chúng ta lấy thân thọ tâm pháp của
chúng ta để niệm Tăng.
Bây giờ để kết luận
cái chỗ này, cái chỗ mà lấy thân thọ tâm pháp của chúng ta mà niệm
Phật. Vậy thì còn những pháp hành của lấy pháp mà niệm Phật thì
tiếp tục ngày mai, ngày tới Thầy sẽ dạy các con về pháp hành lấy
pháp mà niệm Phật. Chứ còn pháp hành, nãy giờ Thầy chỉ giải thích
cho các con hiểu chứ các con có pháp hành chưa? Các con mới hiểu à
mà chưa có pháp hành phải không? Mới có hiểu sơ sơ thôi. Vậy thì Thầy
sẽ dạy cho các con cách thức mà cái pháp hành lấy pháp mà niệm
Phật. Còn hồi nãy lấy tâm mà niệm Phật, lấy thọ niệm Phật. Lấy
thân niệm Phật nó có pháp hành kèm theo rồi phải không? Ở đây thì
Thầy mới tổng quát cho hiểu. Bởi vì pháp niệm Phật nó khó hiểu,
phải giải thích cho các con hiểu đã. Rồi khi hiểu rồi bắt đầu mới
dạy cho các con: Ờ mỗi cái pháp mà nó đến thì mình phải trạch
pháp nó như thế nào để mình áp dụng nó như thế nào. Cũng như người
biết áp dụng rồi thì người ta biết lấy cái pháp liền người ta áp
dụng liền qua một cái trạch pháp người ta, ngay có đối tượng người ta
mắng mình thì ngay đó mình trạch cái pháp đó ra mình nhắc: Ờ bây
giờ phải lấy cái pháp này niệm Phật liền, đừng có để cái tâm mình
động, phải bất động, do đó cái bắt đầu mình nghe người ta chửi mà
cái tâm mình bất động. Bởi vì mình bắt cái pháp của họ nó vô niệm
Phật rồi. Bởi vì mình lấy cái pháp của người ta mình đem vô cho nó
niệm Phật rồi thì do đó cái tâm mình bất động giải thoát. Nó ly hết
tất cả cái các pháp ác ra rồi, nó không còn ở trong tâm mình.
Vậy thì Thầy sẽ tiếp
tục ngày khác Thầy sẽ dạy các con về cái hành pháp, cái giới hành
của cái pháp mà các pháp niệm Phật để các con học được những pháp
này để cho nó trọn ở trong cái vấn đề tu tập của mình là lấy thân
thọ tâm pháp mà niệm Phật. Rồi sau đó thì các con sẽ học đến mà
lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Pháp, lấy thân thọ tâm pháp mà niệm
Tăng.
Đây mới bước đầu vô
mà các con đã thấy nó có những cái đặc biệt, những cái vi diệu của
con đường tu tập của nó.
Bây giờ Thầy sẽ kết
cái phần kết này để cho thấy rằng đức Phật cũng đã xác định cho
chúng ta biết rằng, cái pháp Tứ bất hoại tịnh, như Thầy đã nói đã
dạy cho các con biết nó còn có những cái tên mà Thầy đã nói ra cho
các con biết, còn gọi là cái tên Tứ kỉnh pháp, tức là cái
pháp mà cung kính mà nơi Phật Pháp Tăng, tức là ba ngôi Tam bảo mà
người ta gọi là quy y Tam Bảo đó. Thì mình biết cái tứ bất hoại
tịnh này, nó còn gọi là tứ pháp kính, 4 cái pháp kính. Vậy thì 4 cái pháp kính này mà cái người
mà biết cách tu hành thì ngay cái đời sống chúng ta đã giải thoát
được cái tâm của mình, không còn đau khổ nữa, không cần tu nhiều pháp
đâu, tu bao nhiêu đây thì chúng ta cũng đã thấy chấm dứt được sanh tử
luân hồi.
Ở đây Phật kết luận,
tứ pháp kính là gì? Là Thánh đế, là
Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn thì người
ấy trải qua cái thời gian mà tu tập, nếu mà người đó thật sự tu tập
rồi thì thấy được kết quả của nó, người đó có thể tự tuyên bố về
mình như sau. Sau một thời gian tu tập cái pháp mà tứ bất hoại
tịnh này, người đó sẽ tuyên bố cho chúng ta biết rằng. Ở đây Phật nói
người đó mà thực hiện thì họ sẽ tuyên bố như thế nào. Họ sẽ tuyên
bố cái pháp họ tu hành, nó như thế này: Đối với ta sẽ không còn ở địa ngục nữa, nghĩa là bây giờ
mình có lúc nào mình hờn giận đâu các con. Phải không? Mình đâu có
lúc nào mình buồn khổ nữa đâu các con. Bởi vì thân thọ tâm pháp của
mình hoàn toàn nó niệm Phật hết thì nó giải thoát hoàn toàn, nó
đâu còn địa ngục nữa. Cho nên Phật nói đối với ta, không còn địa
ngục nữa, sẽ không còn có tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa sứ
ác thú nữa. Nghĩa là tất cả khi
mà cái người mà tu cái pháp này thì coi như là không có địa ngục đối
với họ, không có sanh vào cõi bàng sanh, không có cái cõi ngã quỷ,
đọa sứ đau khổ ác thú nữa. Nghĩa là họ không bao giờ sanh trở thành
ác thú nữa. Tâm họ nó quá thiện rồi, nó đâu còn gì nữa đâu mà nó
trở thành những cái cõi ác đâu. Đó là cái tuyên bố đầu tiên của họ.
Ta
đã chứng quả, nghĩa là con đường đi chưa đến tới cái đích nhưng mà
dự lưu, thì chúng ta đã dự vào cái phần Thánh, nghĩa là ta đã
chứng vào dự vào cái phần trở thành những bậc Thánh chứ không phải
là còn những phàm phu tục tử nữa. Nhất định không đọa ác đạo, sẽ đạt
được chánh giác. Nghĩa là ngay từ cái chỗ mà tu cái tứ bất
hoại tịnh này, chúng ta sẽ tuyên bố rằng chúng ta sẽ đạt được chánh
giác, nghĩa là trở thành những bậc giải thoát hoàn toàn, chấm dứt
sanh tử luân hồi. Chứ không phải là còn…, thấy biết rất rõ ràng.
Thôi bây giờ Thầy nói
thật sự, các con cứ nghiệm xét đi, nếu mà các con nãy giờ nghe Thầy
giảng như vậy mà các con sống đúng như vậy, từ pháp niệm Phật nè,
từ thọ niệm Phật nè, từ tâm niệm Phật như vậy nè, từ thân niệm
Phật như vậy, các con thấy lòng các con có bao giờ mà buồn khổ
không? Có cảnh giới nào mà lôi các con được không? Phải không? Như vậy
còn cái cảnh địa ngục, còn ác thú còn cái ngạ quỷ ở chỗ nào trong
những cái vấn đề hiện tại này nữa. Cho nên các con ngay cả pháp đó
là các con đã thành Chánh giác rồi, thành bậc chánh giác rồi. Cho nên
ở đây người ta còn khiêm tốn, Phật còn khiêm tốn: sẽ thành chánh
giác. Cái tâm mà giải thoát như vậy là cái tâm ly dục ly ác pháp
rồi. Mà ly dục ly ác pháp rồi thì cái sự mà sử dụng để cho các
con nhập Tứ thiền, để làm chủ sanh tử thì nó bao lâu, chớp mắt mà
thôi, đâu còn lâu nữa.
Nhưng các con thấy
cái pháp Thầy dạy từ lâu chưa từng ai dạy các con niệm Phật kiểu
này, mà hôm nay có Thầy dạy các con niệm Phật kiểu này. Thầy nói một
năm mà các con niệm kiểu này đi rồi các con sẽ thấy các con sẽ
thành ông Phật chứ đừng nói. Phải không? Các con sẽ tu đi. Đừng có tu
cái gì khác hết mà hồi nào tới giờ các con niệm Phật bao lâu không?
Nhất là cô Quang Tịnh niệm Phật giữ lắm nè. Phải không? Con niệm Phật
giữ lắm mà bây giờ chưa có hết phiền não trong bụng, còn người ta
dạy niệm Phật thì mau hết liền.
(tu sinh nói, không nghe rõ)
Ờ thì con thấy nè:
lấy thân niệm Phật.
Thôi bây giờ con sẽ
nghe băng lại, đó thì con sẽ niệm. Lấy thân niệm Phật nè, lấy tâm
niệm Phật nè, lấy thọ niệm Phật nè, lấy các pháp niệm Phật như
Thầy giảng rồi đó, các con nghe rồi, rồi nó ở đâu nó có trạch pháp
ở đó, để mà các con lấy đó mà các con nhắc tâm mình hàng ngày để
tới khi gặp đụng nó thì các con biết sử dụng liền, thì ngay lúc bấy
giờ địa ngục không có ở dưới tâm các con nữa. Như vậy là niệm Phật
theo cái kiểu mà Nam Mô A Di Đà Phật tới bây giờ thì chưa giải thoát
mà Thầy dạy như vậy nếu một năm mà chuyên cần thì chắc các con niệm
Phật mau giải thoát lắm. Đúng không? Phải ráng đi chớ? Nghe hay thì
phải làm chớ? Hay mà không làm thì ai làm cho? Bởi vì Phật nói phải
tự thắp đuốc lên mà đi, chứ không thể nào mà người khác thắp đuốc
cho mình được.
Như vậy là các con
đã hiểu biết được rồi thì phải cố gắng thêm lên cho cái sự tu tập
của các con có tiến bộ hơn. Và đồng thời hôm nay thì có một người
bên nam có gửi cho Thầy một bức thư nhân dịp vì không có thời gian và
Thầy cũng góp ý thêm với các con có những ý kiến. Bởi vì ở đây qua
cái sự giảng dạy của Thầy và qua cái tâm nguyện của Thầy thì mọi thầy
cũng có góp những ý kiến. Có người thì, sau các con sẽ nghe băng,
có người góp ý kiến với Thầy là ngày tháng gần hết rồi, xin Thầy
dạy cho biết Tứ thiền và Tam minh để chúng con nắm cho vững cái đó
mà tu hành cho nó nhanh chóng, chớ còn thời gian nó không còn lâu nữa
mà mỗi Pháp thì cái thời gian dài quá, nhất là cái pháp hành thì
nó còn nhiều nữa. Do vì vậy Thầy sẽ trả lời ở trong đó, còn ở đây
là cái góp ý rất là to lớn ở trong bước đường vì lợi ích chúng
sanh, vì cái sự giải thoát cho mọi người, vì cái hạnh phúc cho mọi
người ở trên thế gian này thì vị thầy này có góp ý kiến với Thầy
như thế này:
Con được nghe Thầy giảng dạy, được biết nguyện vọng to lớn
của Thầy cứu độ chúng sanh với ước vọng lập Trung tâm an dưỡng, từ thiện xã
hội. Khuya rồi sau khi đi kinh hành con dừng lại và nhớ đến những phương trình
mà Thầy vạch ra, con tự nghĩ nếu Thầy không làm thì ai làm được cho đất nước,
cho xã hội mình. Con tư duy và bỗng có một ý kiến sáng lên trong tâm con, con
xin trình bày cho Thầy nghe, nếu có gì sơ sót cúi xin Thầy lượng thứ cho.
Kính bạch Thầy, với hoàn cảnh đất nước và xã hội hiện thời không
có người đủ gương hạnh để dìu dắt quần chúng làm điều thiện, tránh điều ác nên
việc cần thiết là phải đào tạo một số người có khả năng hiểu biết giáo lý Phật
pháp, đạo đức nhân quả, đầy đủ giới hạnh nghiêm túc. Sau khi được Thầy huấn
luyện hai, ba năm Thầy cho về địa phương, ở trong chùa hoặc cất cốc riêng. Việc
sống và tùy duyên, tùy hoàn cảnh để đi hoằng hóa Phật pháp theo chương trình
Thầy dạy, từ gương hạnh Thầy dạy quý vị này sẽ làm gương hạnh tại địa phương,
hòa đồng với dân chúng.
Hai, gương hạnh này sẽ thu hút được lòng tín ngưỡng của nhiều
người họ có thể hướng dẫn thêm nhiều người bước dần về đạo.
Ba, còn một việc quan trọng mà con muốn nói đây là quý
vị đó sẽ đến các viện dưỡng lão, cô nhi viện, bệnh viện, trại cùi,
trường học, nhà thương, câu lạc bộ, cán bộ hưu trí để hòa nhập và
phổ biến đường lối đạo đức nhân quả.
Như vậy Thầy sẽ có vô số Trung Tâm an dưỡng, sẽ có một
Trung tâm an dưỡng to lớn của xứ Việt Nam và có thể lan truyền đến
nhiều nước khác mà Thầy không tốn kém tiền bạc xây dựng nuôi dưỡng
mà sự thành công sẽ to lớn và dễ dàng hơn. Nên con kính đề nghị xin
Thầy tổ chức Tu viện với chương trình đào tạo 2 loại Tăng Ni: Tăng Ni
thể nhập và Tăng Ni thể hiện. Các vị Tăng Ni thể nhập chuyên tu để
làm gương hạnh là trụ cốt của đạo Phật. Còn các vị Tăng ni thể
hiện sẽ phục vụ một thời gian sau đó có thể trở về Tu viện để
tiếp tục tu giải thoát, chỉ cần một thời gian tư tưởng đạo đức nhân
quả sẽ lan rộng thấm nhuần lần lần trong dân chúng, người dân chỉ
biết làm việc thiện, nước Việt nam sẽ là cõi cực lạc.
Kính bạch Thầy, với ý nghĩ thô thiển của con với tâm
lành con có ý như vậy, nếu có gì sơ sót, kính xin Thầy miễn thứ
cho.
Kính Bạch Thầy!
Đó là cái lời gợi
ý và góp ý với Thầy. Thầy thấy cái điều này thì nó cũng rất là
hay nhưng các con biết rằng, làm một cái việc gì nó cũng phải có
nhân sự, cái nhân sự đó là phải đào tạo nhưng mà cái giáo trình mà
đạo đức nhân quả thì mặc dù từ lâu Thầy có dạy nhân quả nhưng cái
giáo trình đó chưa được biết. Và đồng thời cái giáo án mà về phật
pháp từ thấp đến cao từ dễ đến khó thì hiện bây giờ nó chưa có cái
giáo án nữa. Cho nên người ta chưa biết con đường của đạo Phật thế
nào đúng mà thế nào sai. Bây giờ cái giáo án mới ra đời nè, rồi
lần lượt cái giáo trình mà của đạo đức nhân quả thì Thầy mới lần
lượt. Có một mình Thầy mà làm mọi mặt thì các con hiểu như trong
băng Thầy đã nói. Trong cái cuộc đời mà tu hành xong rồi, cách đây 17
năm, khi mà tu xong rồi thì Thầy trở về thăm Hòa Thượng. Cái đầu tiên
trước nhất là Thầy về thăm Hòa Thượng, trình lại cho Hòa Thượng biết
rằng Thầy tu hành như thế đó, kết quả làm chủ được sự sống chết như
vậy và đồng thời thì Thầy xin Hòa Thượng nhập Niết bàn. Nếu mà Hòa
Thượng đồng ý trong lúc đó thì Thầy sẽ xin Hòa Thượng 7 ngày đêm Thầy
sẽ nhập định ở tại Tu Viện Chơn Không và cái ngày mà xuất định ra,
Thầy sẽ xin xả bỏ cái thân này trong một sự tu tập của mình để làm
niềm tin chung cho tất cả chúng, cho tất cả Phật tử hầu như những
người này đang theo Hòa Thượng tu hành, người ta thấy rằng trên con
đường tu tập có một bậc ngồi thiền suốt 7 ngày đêm bất động. Đó là
làm cái gương cho người ta thấy rất cụ thể. Bởi vì Thầy về tại Tu
Viện Chơn Không, bây giờ tức là gương hạnh đó làm sao ai mà lại không
đến xem. Phải không? Cái thứ 2 là cái ngày mà cuối cùng Thầy ra định,
xuất định ra đó, ngày đó là cái ngày Thầy xả bỏ thân này, Thầy nhập
diệt, bằng cách tự tại hẳn hòi đàng hoàng, muốn đi hồi nào đi. Như
vậy sau khi Thầy ra đi rồi thì Thầy để lại cho Hòa Thượng cái tài liệu,
cái kinh nghiệm tu hành đó, Hòa Thượng sẽ nghiên cứu mà dạy chúng. Từ
đó Thầy hoàn toàn là không có danh lợi, Thầy từ giã Thầy ra đi rồi
nhưng mà Thầy để lại kinh nghiệm đó để cho Hòa Thượng độ người ta, dạy
người ta tu hành, để người ta cũng được kết quả được làm chủ như Thầy chứ không phải không.
Đó là cái vai trò
thứ nhất. Mà trong cái lời thỉnh nguyện sắp sửa các con sẽ nghe, Thầy
đã có nhắc lại trong cái lời thỉnh nguyện đó. Cái phần thứ nhất thì
nó không đạt được kết quả, Hòa Thượng yêu cầu Thầy ở lại để giúp Hòa
Thượng chấn hưng Thiền Tông chứ không cho Thầy nhập diệt. Cho nên cái
điều kiện thứ nhất là không thành rồi.
Đến cái điều kiện
thứ 2 là sau khi mà Thầy được Hòa thượng giao cho một khu đất ở Phước
Hải, Thầy nhận cái khu đất đó, rồi Thầy tổ chức ở khu đất đó. Thì
lúc bấy giờ thì coi như quý thầy ở Thường Chiếu đăng ký ra ngoài đó
ở ngoài đó hết, làm cho Thường Chiếu náo động. Lúc bây giờ coi như
là, thấy cái sự náo động ở Thường Chiếu như vậy là nó đã tan vỡ
cái vai trò thứ 2 rồi. Lẽ ra quý thầy tuần tự, Thầy chọn người nào
thì ra đó. Đây, các thầy đều ào ào đăng ký xin ra đó hết, bỏ Thường Chiếu
hết, trắng bóc à. Lúc bấy giờ nó rất là náo loạn, làm cho trong
Thường Chiếu rất là khó khăn. Cho nên Thầy cũng gặp cái khó khăn đó,
vậy mà có cái lời thỉnh nguyện sám hối đó là những điều kiện khó
khăn đó là do quý thầy ham tu chứ không phải gì, muốn theo cái cách
thức tu hành của Thầy để làm chủ sanh tử chứ không phải gì. Cho nên
xin ra đó hết. Đó là cái khó khăn thứ 2.
Đến cái khó khăn thứ
3. Là sau khi ra thất ở đây 3 năm, nhập thất ở đây, Thầy mới soạn ra 2
cái cuộn băng. Cái cuộn thứ nhất là Phật Môn Bảo Huấn, các con được
nghe rồi chớ? Cuộn thứ 2 là Trở Về Với đức Phật, so sánh giữ 2
loại thiền: Thiền Đông Độ và bốn thiền của Phật để cho Hòa Thượng
nghiệm xét cái đó, để cuối cùng Thầy chỉ cần Hòa Thượng muốn hỏi
Thầy: Tại sao mà so sánh 2 cái thiền như vậy, giải thích cho Hòa Thượng
nghe? Thầy chỉ cần giải thích cho Hòa Thượng như thế nào để cho thầy
trò nắm cho vững cách thức kinh nghiệm tu tập này. Thì đồng thời
ngay tại Trúc Lâm đó thì Hòa Thượng vẫn giảng dạy họ như thường nhưng
mà trong đó Thầy chọn những người mà đã quyết tu tìm đến cái sự
giải thoát. Đâu phải cái số đó là nhiều được? Năm, sáu người là hết
sức rồi chứ gì? Do đó Thầy chọn 5-6 người đó. Do đó Thầy xin Hòa
Thượng cho họ ở trong cái khu vực riêng biệt và Thầy về Trúc Lâm Thầy
ở một bên với các vị đó mà Thầy dẫn dắt các vị đó, đào tạo họ
trong 5 năm hay 3 năm hoàn toàn họ tu xong, thì đó là người nòng cốt
của tu viện Trúc Lâm. Từ đó thì Thầy coi như là Thầy xong cái nhiệm
vụ giúp Hòa Thượng rồi. Thầy đã nói ở trong băng mà, Thầy chỉ làm cái
viên gạch để cho Hòa Thượng xây lại cái tòa nhà của Phật giáo mà.
Thì đó là Thầy muốn làm cái viên gạch, không có để cho người ta biết
tai tiếng mình là người như thế nào hết. Chứ không phải Thầy dạy như
bây giờ đâu, mà Thầy chỉ âm thầm ở đó để mà Thầy độ cho những người
mà làm được. Để từ đó người ta thấy con đường thiền tông của Hòa
Thượng có những người tu làm chủ được sanh tử, rồi những người mà
muốn được như vậy thì sống đúng giới hạnh của Phật qua cái sự
hướng dẫn của Thầy. Còn những người nào mà chưa sống được, ăn ngày
3 - 4 bữa thì cứ sống, Hòa Thượng giảng kinh, thuyết giảng cho họ sống
thường thường để chọn lấy những người mà đi sâu vào. Và đồng thời
những người đó họ còn làm việc từ thiện hoặc này kia trong xã hội
thì tốt thôi.
Nhưng mà 3 lần không
đạt được, 3 lần không đạt được. Cho nên cuối cùng Thầy phải viết cái
giáo án này ra để dựng lại những cái gì của Phật pháp, để làm
sáng tỏ. Chớ nếu mà những người này mà được hướng dẫn mà tu xong
rồi thì lần lượt người ta cũng đã biết cái đường nào đúng, cái
đường nào sai rồi. Cho nên những cái gì lần lượt rồi họ sẽ bỏ đi
mà âm thầm nó không có bị chống đối. Phải không? Nó âm thầm trong
đó, nó đâu có chống đối, người ta thấy đúng là người ta cứ theo,
người ta thấy người giữ gìn giới hạnh, ăn ngày bữa, sống tu hành mà
có kết quả. Còn những người ăn 3 bữa, không kết quả, tự nó bỏ ra hết. Các con hiểu cái điều đó. Mà không có
nghe nói: Ờ bây giờ chống cái này nè, người ăn 2 bữa người ăn 3 bữa.
Như bây giờ có cái giáo án của Thầy Thầy đập sạch xuống hết, thì
không phải người ta điên cái đầu người ta không, người ta tự ái người ta
chịu nổi không? Đâu có chịu nổi, phải không? Nếu mà dựng lại Phật pháp mà không chỉ cái sai của họ thì
người ta cứ hướng dẫn, người ta nói người ta đúng không hà. Còn
mình vạch ra như vậy người ta mới thấy được cái sai cái đúng.
Do đó bất đắc dĩ mà
đến cái giai đoạn cuối cùng này, Thầy nói không phải là Thầy sợ ai
mà Thầy trốn, mà Thầy ẩn bóng để làm một cái gương để may ra đủ cái
duyên mà người ta hướng đúng cái đường lối mà Thầy đã vạch ra cho họ
đã nghe. Thì cái việc đúng mà họ đã theo tu như vậy thì cái con
đường mà của Thiện Huệ vạch ra, mà trong giáo án mà Thầy đã dạy thì
các con thấy rất rõ 2 cái lộ trình.
Cái lộ trình thứ nhất, là cái lộ trình của một người cư
sĩ, tức là thể nhập, thì cái người này phải thực hiện cái đạo đức
nhân quả chứ gì? Đem cái nhân quả này dạy cho mọi người
trên thế gian này, trên cái hành tinh này, thì một cái hành động
thiện thì người ta chấp nhận người ta làm mà hành động ác thì
người ta không làm, người ta biết đó là ác. Nhưng bây giờ cái giáo
trình mà nhân quả đã viết ra thì người ta sẽ học cái giáo trình
này người ta biết cái hành động đó là hành động ác, hành động đó
là hành động thiện người ta biết. Mà hành động ác người ta không làm,
người ta không làm thì tức là người ta đem lại cái kết quả tốt cho họ,
cái đời sống giải thoát cho họ thì ai lại không ham cái giải thoát,
ai lại muốn mang cái khổ đến cho mình. Các con hiểu điều đó. Cho nên
do đó cái người mà thể nhập ở trong con người thì đó là những
người cư sĩ chứ không phải là người tu sĩ.
Cho nên cái lộ trình
thứ nhất mà Thầy nói đó là cái lộ trình chiếc áo cư sĩ hoàn toàn
họ đem cái đạo đức giải thoát này dạy. Rồi trong các trường học
được đem cái đạo đức này dạy cho các em mầm non của Tổ quốc, đều
là trang bị cho nó một cái đạo đức, đạo đức nhân quả. Vì vậy mà
nó lớn lên không bao giờ mà nó có thể giết người được, không có thể
nó làm một cái điều ác, không bao giờ nó có thể lấy trộm hay cướp
giật của ai được hết, hoàn toàn nó thấy những điều đó là điều
không đúng, điều xấu. Còn bây giờ mình không dạy nó cái đạo đức nhân
quả, nó biết cái gì đâu là thiện, biết cái gì đâu là ác. Cho nên
từ những người này cho đến những người khác đều là phải học đạo
đức nhân quả, đó là cái bổn phận và trách nhiệm đầu tiên mà Thầy
mới có ý định mà xây dựng cái Trung Tâm An Dưỡng từ thiện để đem
cái này.
Nhưng mà bây giờ Thầy
đã di chúc lại, Thầy ủy thác lại cái này cho những cháu còn trẻ
tuổi, có đứa thì mới sanh, có đứa thì 5-6 tuổi, có đứa thì 10
tuổi mười mấy tuổi, có đứa còn đang đi học. Tất cả những người này
đều là những người thông minh, những đứa con thông minh của Tổ quốc,
những đứa con có cái khả năng giỏi và có đủ duyên phước cha mẹ có
thể cho đi học ở các trường Đại học ở ngoại quốc. Để làm gì? Để
sau này nó đem về, nó trở thành những cái đứa nhân tài của Tổ quốc,
thì nó đem cái đạo đức đó mà nó truyền cho đất nước của chúng ta,
nó truyền cho tất cả những người dân của chúng ta.
Bởi vì nó là những
người thí dụ như nó lãnh đạo đất nước thì tức là nó phải có
những quyền hành của nó, nó mới ban hành ra, bây giờ đem những cái
đạo đức nhân quả này mà Thầy đã muốn, đã dạy cho gia đình nó từ lúc
bé cho đến bây giờ. Nó đã được những cái đạo đức đó, nó đã học
được những đạo đức nhân quả đó, nó đã thấm nhuần, nó trở thành
những đứa con rất là ngoan ở trong gia đình, những đứa học trò rất
giỏi ở trong gia đình. Cho nên nó toàn là những đứa giỏi, giỏi cả
nước chứ không phải giỏi trong sơ sơ đâu. Nhưng mà phải nói rằng đó
là những cái di chúc của Thầy, để tuổi trẻ sau này nó sẽ mang cái
đạo đức này, nó trở thành những môn học cho tất cả những người dân
ở trong Đất nước. Thì đó là cái hoài bão, cái ước vọng của Thầy.
Nhưng ở đây Thiện Huệ thấy rằng chúng ta cần phải tiếp tục ở trên con
đường này sớm chừng nào tốt chừng nấy cho nhân loại.
Nhưng các con là phần
bên nữ, các con cũng có thể là những người mà có thể là những nhân vật,
những người mà có thể đem lại những cái đạo đức nhân quả cho mọi
người, chớ không phải không. Nhưng mà các con thấy từ cái ngày mà
các con về đây, các con chuyên tâm để tu thiền định để mà giải thoát
chứ các con đâu có nghĩ rằng nhân quả. Cho nên bây giờ mà nói mà
mở cái lớp đào tạo 2 năm 3 năm về đạo đức nhân quả. Cái đạo đức
nhân quả đó, nếu mà muốn mở nó thì phải có cái giáo trình của
nó, chứ còn nếu mở nó mà không có giáo trình thì làm sao, cũng
từ lâu tới giờ các con thấy Thầy dạy nó có cái giáo án nào mà dạy
về tu theo đạo Phật không? Chưa có đâu. Các con về các con tu hơi thở
Thầy dạy hơi thở, các con tu cái gì thì nương theo cái đó mà dạy mà
dẫn dắt các con, chứ chưa có đặt ra một cái vấn đề gì hết. Mà Thầy
chỉ có đặt kỷ luật ra là: ăn, ngủ rồi độc cư. Rồi bắt đầu đó là
nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thôi, người nào mà không chấp nhận
được thì chịu thôi, chứ chưa có cái giáo án nào hết, bây giờ mới
viết ra cái giáo án.
Viết ra cái giáo án
thì vạch ra 2 cái lộ trình để cho các con thấy rõ, cái nào đúng,
cái nào sai, có vậy thôi. Chứ chưa có dám nói gì hết. Nhiều khi Thầy
giảng Thầy thấy những cái sai trên cái bước đường giảng, kinh sách nó
để lại những cái sai quá sai, bắt buộc Thầy đập những kinh sách
đó đi thì nó đụng chạm với quý thầy, các bậc tôn túc quá nhiều. Cho
nên hầu hết cái số băng của chúng ta, sau khi chia nó làm 2 phần. Cái
phần mà xây dựng Phật pháp thì chúng ta được cho người khác nghe. Còn
cái phần mà đập phá những cái sai của Phật pháp thì chúng ta chưa
cho nghe. Tại sao vậy? Tại vì nghe, thì bây giờ họ đang sống như vậy
thì chột bụng, chột dạ họ quá đi. Bởi vì họ đang sống kiểu đó thì
ai lại chịu nổi được. Cái lời nói mà Thầy đập thiệt, đập tan nát đi,
Thầy bảo họ hôi bò, hôi heo không à. Phải không? Họ tức quá đi. Chớ
phải chi nói vừa vừa đi, Thầy nói quá nặng đi. Cho nên không có thể nào
mà chúng ta nghe cái đập phá.
Nhưng mà sau khi mà
cái xây dựng, họ được nghe, họ chấp nhận đúng. Chừng này nghe cái
đập phá thì họ không chột bụng nữa. Còn bây giờ đương không vậy mà
nghe nói họ hôi này hôi kia thì họ tức quá. Chê họ thúi này thúi
kia, họ giận quá rồi, họ không có chịu đựng nổi. Cho nên ở đây chúng
ta phân biệt cái số băng của chúng ta ra thì nó có những cái số băng
xây dựng. Như các con nghe Thầy dạy, như Pháp niệm Phật, thì đó là xây
dựng lại cái pháp niệm Phật mà không nói cái niệm Phật của người
khác sai nhưng mà đem lại cái ích lợi của pháp niệm Phật. Cũng như
Thầy nói tu Tứ vô lượng tâm, tu tập cái tâm từ mà bằng cái sức tỉnh
thức của các con thì các con thấy cái đó là thực tế. Cho nên nó mang
lại cái kết quả của sự tu tập. Vì vậy các con thấy những cái mà Thầy
dạy, cái đó gọi là xây dựng lại. Dựng lại những cái Phật pháp mà họ
đã quên cái pháp hành đi, họ không hiểu cách thức tu tập, cho nên nó
không có đem đến cái sự giải thoát cho họ. Vì vậy mà bây giờ thấy:
ờ dạy như vậy hay quá rồi, niệm Phật kiểu này là giải thoát ngon
quá rồi, họ thấy xây dựng ngon quá rồi. Nhưng mà tới chừng mình cho
nghe những cuộn băng đập xuống thì rõ ràng tại họ sống tầm bậy
không đúng giới luật cho nên họ hôi gà, hôi bò, hôi heo rồi tùm lum
thì họ không buồn nữa. Đúng là ổng dạy hay quá mà bây giờ ổng nói
mình vậy là đúng. Bây giờ hồi nào tới giờ mình đâu có tưởng mình
hôi, ai dè ông nói bây giờ mình mới nhìn lại thiệt cái mình mình hôi
heo thiệt. Tại vì làm thịt heo phải hôi chứ sao? Thì bắt đầu mấy ổng
mới nhận ra được. Còn bây giờ đùng cái vừa xây dựng mà vừa đập phá
thì không được đâu. Cho nên sau những cuộn băng, lời giảng của Thầy thì
tức là Thầy kiểm tra lại hết, Thầy mới soạn lại hết thì như vậy là
sau này...
Đó là những chương
trình sau những cái ngày mà ra hạ rồi thì các con về thăm nhà, hoặc
là người nào về tạo chỗ tu hành thì cứ về. Còn riêng Thầy thì Thầy
cũng đi tìm cái nơi nào mà yên ổn nhất để rồi Thầy mới ngồi lại
Thầy soạn tiếp tục cái chương trình mà giáo án này và đồng thời
Thầy cũng sẽ nhuận lại cái số băng này cho đàng hoàng rồi Thầy sẽ gửi về
cho cô Út. Đồng thời, Thầy soạn luôn cái giáo án, cái giáo trình của
đạo đức nhân quả để giúp. Bây giờ để con chuẩn bị như vậy.
Đó là những cái
điều mà Thầy bàn với các con. Cho nên trong cái vấn đề mà sẽ sau này
mà có đủ cái duyên thì khi mà cái giáo trình mà đạo đức nhân quả
ra đời thì cõ lẽ là có những cái lớp mà của các Thầy sau này như
Chơn Huệ hoặc là như Minh Tông bắt đầu sẽ dạy đạo Phật, không phải vô
ngay dạy mà thiền đâu. Không phải dạy các con tu thiền đâu mà bắt đầu
dạy đạo đức nhân quả, tức là cái lộ trình thứ nhất của người cư
sĩ để chuẩn bị cho họ, họ phải học nhân quả.
Bây giờ nói về nhân
quả các con có biết nhân quả là như thế nào đâu, chỉ nói nhân quả:
Ờ thiện thì nó đem đến cái phước mà ác thì nó như vậy. Cái nhân
quả không có đơn giản đâu. Chẳng hạn như con làm một cái hành động
thiện đó mà hành động thiện đó nó sẽ đem đến cái quả gì, các con
sẽ không hiểu. Bây giờ người ta nhức cái đầu này, các con đem viên
thuốc cảm cho họ uống nè, cơn nhức đầu của họ giảm đi, giảm bớt
nhức đầu đi, thì cái quả sau này khi mà giúp cái viên thuốc đó, cái
quả sau này đem đến cái quả gì cho con. Chứ không phải là con đem cái
viên thuốc cho người ta uống nhức đầu, rồi sau này con có lúa gạo,
có cơm ăn đâu. Không phải cái điều đó. Hoặc là con đem viên thuốc cảm cho
người ta uống cho giảm bớt cái nhức đầu đó nó đem lại cái quả cho con là sau
này con lại có nhà cao cửa rộng hay làm quan làm vua, không phải. Cái hành động
thiện đó nó sẽ đem cái quả thiện của nó trực tiếp vào cái chỗ đó chứ không phải
cái khác được.
Cho nên đường đi nhân
quả mà thông suốt thì chúng ta mới biết được cái hành quả. Ví dụ như bây giờ
mình đem một bát cơm cho người khác thì ngày mai mình không có thiếu cơm ăn,
mình đem một cái áo hay hoặc là vải mình cho người khác thì ngày mai hoặc là
một lát nữa mình không có áo thì mình sẽ có người ban áo cho mình. Hoặc là cái
phước đến mình làm ra cái áo mặc của mình rất nhiều, không có thiếu. Mình làm
cái gì thì có cái đấy. Cũng như bây giờ mình đem cho họ viên thuốc thì thay vì
hôm nay mình bị nhức đầu nhưng mà mình không có điên gì mà mình đi tắm trong
lúc đổ mồ hôi như vậy. Mình không có nhức đầu, mình không có uống thuốc, vì
người ta uống thuốc cho mình rồi, các con hiểu không. Thay vì mọi lần thì như
thế này, mình đang đổ mồ hôi như thế này mình chạy vô nhà tắm mình mình tắm
liền, vô cái mình bị cảm liền. Nhưng đằng này khi mà cho người ta viên thuốc
rồi thì bửa nay nó có cái chuyện gì đó cho nên trong lúc đổ mồ hôi thì mình lại
ngồi nói chuyện với người ta mà quên đi cái chuyện tắm của mình đi, do đó qua
cái cơn có thể mình bị cảm làm cho mình nhức đầu. Chớ không phải là cho người
ta viên thuốc rồi nó đem đến cái quả khác cho mình được. Nó cũng đem đến cho
cái quả của mình là cái cơn đau nhức đầu đó, nhân nào thì quả đấy chứ. Cho nên
mình phải hiểu biết như vậy, thành ra cái hành động của mình làm cái gì đó mình
biết được cái quả đó. Mình biết được cái quả đó cho nên mình sáng suốt trong
cái chỗ đó vì vậy mà cái đường nhân quả mình không lầm. Mà mình không lầm thì
tức là mình đâu có bị nhân quả chi phối mình được, cho nên mình giải thoát chứ
gì. Vì vậy mà hằng ngày mình đem lại cái phước do chính hành động của cái hiểu
biết của mình trong cái nhân quả.
Nhưng ai là người viết
nhân quả để nói được cái hành động nhân đó, quả đó mà cho nó đúng thì người đó
phải thông chứ không thông làm sao viết được. Cũng như trong kinh nhân quả mà
mấy người Trung Hoa họ viết bảo rằng đem tiền bạc để cho người ta sơn son thép
Phật hoặc là đúc tượng Phật, hoặc cất chùa thì sẽ được làm quan, làm này kia.
Bà con xúm với nhau muốn được làm quan mới đem tiền bạc cất chùa, cất riết rồi
không thấy làm vua làm quan gì hết mà gần như là đem tiền bạc của mình đem riết
rồi lo làm ăn một cách gian xảo ở trong đó. Thì cuối cùng tưởng rằng cất chùa
to thì sau này được làm quan không ngờ lại quan bắt mình bỏ tù.
Cái nhân đó là cái nhân
nó ngược ngạo như vậy thành ra cái người viết nhân quả đó không đúng. Mà thậm
chí người ta nghe thấy nhân quả là người ta nghĩ là phải đi xuống địa ngục cho
nên có cái cuốn Hồi Hương Nhân Quả mà cái con thấy đó. Các con đọc cuốn Hồi
Hương Nhân Quả đi xuống địa ngục ở dưới,
như vậy viết nhân quả kiểu đó là viết mê tín mất rồi. Một nhà nho bị bắt lộn bị
diêm vương lên lôi linh hồn lộn ổng đem xuống dưới đi dạo dạo chơi mấy bữa cho
về, cái kiểu đó thiệt là nói dốc không à.
Cho nên ở đây Thầy nói
để cho các con thấy rằng trong cái sự tu tập của mình là cái thực, bởi nhân quả
nó là cái thực, chúng ta sống trong nhân quả, sanh ra từ nhân quả chết đi ở
trong nhân quả cho nên nó cái thực không thể nào là cái mơ hồ được. Vậy mà cái
người viết ra bộ sách nhân quả, con có đọc cái cuốn nhân quả của thầy Thông Huyễn
viết chứ? Nhưng mà nó còn trong cái tưởng quá nhiều, phải không. Nghe thì nó
hay hay nhưng mà sự thật ra nó đâu có phải vạch cái đường đi nhân quả như vậy. Thầy
có nói với thầy Thông Huyễn không thể viết luật về nhân quả như vậy được mà
phải viết sửa lại. Ở đây còn viết trong
cái tưởng chứ chưa phải là viết thực của cái nhân quả. Thực nhân quả sắt trái
ớt cho người ta trái ớt thì mai mốt mình cũng ăn lại trái ớt chứ không thể nào
ăn trái chanh được hoặc là ăn trái cam được đâu, trái ớt cay thì mình cũng phải
cay thôi, mà trái cam ngọt thì mình cũng phải ngọt thôi. Nó không thể nào khác
được cho nên gọi là nhân quả. Hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy cái người viết
nhân quả không phải là cái người không hiểu viết được, muốn viết nhân quả hồi
nào là viết được.
Bởi vì nhân quả nó ba
cái thời gian lận, hiện giờ mà thấy cái người đó ở trong cái quả của họ như thế
nào thì người ta biết quá khứ của họ đã làm cái điều ác gì rồi. Rồi bây giờ
thấy trong hiện tại họ đang sống đó người ta biết tương lai của người đó họ sẽ
ở trong cái cảnh giới nào người ta biết được. Do người ta nhìn cái hiện tại
nhưng chưa đủ mà còn phải thông suốt cái đường đi lối về của nhân quả nó mới
trọn vẹn được. Trong kinh nhân quả của Phật dạy thì nó đứng ở hiện tại mà nó
suy ra cái quá khứ, nó đứng ở trong hiện tại mà nó suy ra cái vị lai. Còn chúng
ta ở đây thì chúng ta không phải như vậy mà bằng cái đôi mắt thực tế của nhân
quả, đường đi lối về của nhân quả. Ờ, vị này làm cái chuyện đó thì phải đem đến
cái quả đó, mà vị kia làm cái chuyện đó phải đến cái quả đó. Cái nhân đó thì
cái quả đó, dạy cho người ta thấy. Bây giờ anh làm cái chuyện này anh sẽ được
cái này, anh làm cái chuyện kia anh sẽ được cái kia, anh làm cái chuyện nọ anh
được cái nọ. Anh làm cái quả báo ác này thì anh sẽ thọ lấy cái ác này, nó không
sai chút nào thì người ta mới tin nhân quả, mình nói trật người ta không tin.
Chẳng hạn bây giờ người ta làm chuyện đó mà nó được cái quả khác thì người ta
đâu tin. Người ta làm cái điều ác đó mà nó xảy ra điều ác khác thì người ta đọc
kinh nhân quả người ta đâu tin được. Cho nên phải nói cho đúng chứ nói sai là
rất khó, không phải dễ. Cho nên nói đâu nó phải có kết quả đúng y như vậy thì
cái nhân quả đó nó mới là cái bài học xác thực, khó lắm chứ không phải chuyện
dễ đâu. Các con đừng tưởng mà viết nhân quả, Thầy viết giáo án này thì dễ lắm
mà viết nhân quả không phải dễ đâu. Nó còn phải cần có trí tuệ suy xét nó đúng
hay là không mới dám kê cái bút lên mà viết cái điều đó chứ không phải viết bừa
được. Nói làm sao mà cho nó thực tế và cụ thể để người ta tin cái nhân quả chứ
mình nói bừa thì cái đạo đức nhân quả này ai tin, chỉ gạt người ta thôi chứ đâu
có phải dễ đâu.
Cho nên trên cái vấn đề
làm việc viết giáo trình của nhân quả không phải là cái chuyện của người tầm
thường được, mà cũng không phải chuyện của người không có cái khả năng đó mà
làm được. Phải hết sức thận trọng, mỗi một nhân quả nói ra phải hết sức thận
trọng chứ không phải muốn nói bậy nói bạ gì nói đâu, khó lắm chứ không phải dễ.
Làm cho cái nhân quả sống trong cái đời sống của người ta được để người ta hành
được cái nhân quả để đem lại cái lợi ích là một cái nhiệm vụ và trọng trách rất
lớn. Mình phải nói sao cho thực chứ đừng có nói láo ở trong đó không được, chứ
không phải thường đâu. Các con đừng tưởng nghe nói viết nhân quả đâu phải dễ
đâu, như Thông Huyễn viết kiểu đó là thời gian sau cuốn đó người ta chỉ đọc hồi
đó thôi chứ ít hôm năm, mười năm sau người ta để nó trong nhà bếp chứ người ta
không thèm đọc nữa. Bởi vì nó tưởng thôi nó đâu có đúng sự thật đâu.
Đến đây bây giờ các con
tiếp tục nghe băng.
Trước khi tiếp tục bài
học giáo án lấy pháp niệm Phật. Chúng ta đã học lấy thân niệm Phật, lấy thọ
niệm Phật, lấy tâm niệm Phật rồi bây giờ lấy pháp niệm Phật. Nhưng trước khi học
lấy pháp niệm Phật thì Thầy trả lời cho thầy Thiện Thuận có hỏi Thầy trong cái
vấn đề mà tu tập. Và Thầy thấy cái vấn đề này cũng rất là quan trọng nên Thầy cũng
thu vào băng để coi như là rút tỉa từ những kinh nghiệm để chúng ta tu đừng có
sai lệch.
Đây là thầy Thiện Thuận
hỏi Thầy:
Bạch Thầy, cho con xin
hỏi thêm về cách phá âm thanh, nếu ám thị bằng câu trạch pháp như trên thì con
phải ám thị ra lệnh lúc ngồi thiền khi còn ở hơi thở năm giây hay mười giây
hoặc hai mươi giây hay là ám thị cùng một lúc với ra lệnh cho các hành ngưng và
hơi thở ngưng, xin Thầy chỉ thêm. Đó là một cái điều rất là quan trọng mà hầu
hết là cái số người dùng cái pháp hướng khi mà nó chưa đúng cách mà ở trên chỗ đó
mà hướng tâm bảo nó ngưng hơi thở hoặc là bảo nó phá âm thanh thế này thế khác
mà chưa đúng cái trạng thái. Khi
mà chúng ta ở trong cái mức định nào đó thì chúng ta mới phá được cái âm thanh
hoặc là phá cái thọ. Còn chưa ở trong những
cái định mà chúng ta vội hướng tâm phá âm thanh thì coi như là một cái người
bình thường như vậy mà bảo âm thanh đừng có nghe chắc chắn là muôn đời nó vẫn
nghe chứ không bao giờ nó hết nghe được.
Cho nên ở đây thầy Thiện
Thuận hỏi khi mà ngồi thiền thì còn ở trong hơi thở năm giây hoặc là mười giây
hoặc là hai mươi giây. Nghĩa là cái hơi thở bình thường là năm giây rồi bây giờ
thở chậm ở trong mười giây hoặc là đến hai mươi giây rồi mới ám thị hoặc cùng
một lúc mình ám thị. Nghĩa là mới vào mình tréo chân lên mình ám thị nó nhắc nó
đừng nghe âm thanh hoặc các hành phải ngưng đồng thời một lượt. Như vậy thì ở
đây Thầy sẽ trả lời. Và khi xả ra bằng những câu nào? Lúc xả ra thì ám thị như
thế nào? Đó là những điều rất là quan trọng. Và kế thầy Thiện Thuận có báo cáo
trạng thái đang tu của mình:
Bạch Thầy con dùng câu pháp hướng phá âm thanh của Thầy chỉ kết
quả qua những lần đau rát chân, nay đã không còn đau nữa mà âm thanh vẫn còn
nghe không giảm tí nào. Và hiện giờ ngồi thiền thì chân nó cứ bung ra hoài, vừa
kéo chân lên xong con mới ám thị chưa được nửa câu thì chân đã bung ra rồi, xin
Thầy chỉ thêm cho biết.
Đó là những điều kiện
rất là quan trọng khi mà chúng ta biết dùng cái pháp hướng, nếu mà không biết
dùng cái pháp hướng thì chúng ta không có làm sao mà chúng ta nó có cái hiệu
quả của pháp hướng được, nó phải đúng cái trạng thái nào. Muốn dùng pháp hướng
phá âm thanh, khi nào xét thấy sáu thức bám chặt và nằm yên trên cái tụ điểm.
Đó, bây giờ Thầy nói muốn phá âm thanh bên ngoài cho đừng có nghe đó thì lúc
bấy giờ chúng ta phải nhận xét sáu cái thức. Trước tiên mà chúng ta kéo chân
lên ngồi thì chắc chắn chúng ta phải điều cái thân rồi, điều cái thân cho vững
vàng, coi ở đâu cho nó vững, ngồi rất là vững vàng rồi tới điều cái tâm. Điều
cái tâm tức là điều sáu cái thức cho nó nằm yên trên một cái điểm. Lúc bấy giờ
sáu cái thức nó đã bám chặt nó nằm yên trên một tụ điểm thì nó có một trạng
thái yên lặng, nó yên lặng trong thân và ngoài thân.
Quý thầy lưu ý cái phần
này rất là quan trọng, nếu mà khi chưa có sự yên lặng mà vội hướng, mới kéo
chân lên mà vội hướng thì nó không có kết quả đâu. Mà cái hơi thở chúng ta thở
còn ở năm giây thì tức là chúng ta còn ở trong cái dạng hơi thở bình thường.
Bây giờ chúng ta ở trong cái định nào, khi bắt đầu chúng ta đã ly dục, ly ác
pháp được thì chúng ta biết rằng chúng ta có một cái tâm thanh thản, và cái tâm
thanh thản đó chính là cái tâm ly dục ly ác pháp. Luôn luôn chúng ta có tầm tứ
nhưng tầm tứ đó nó đều là thiện pháp chứ không phải là ác pháp nữa. Bởi vì
chúng ta ly dục ly ác pháp rồi thì nó đâu còn là ác pháp nữa cho nên hoàn toàn
cái tầm tứ đó đều là thiện. Nhưng chúng ta phải tiến tới một cái giai đoạn nữa
là thay vì cái hơi thở của chúng ta ba giây hay năm giây trong cái bình thường
của cái trạng thái thanh thản của sơ thiền. Thì đó là chúng ta biết rằng chúng
ta đã ly dục ly ác pháp rồi thì biết cái tâm thanh thảnh đó là cái tâm đang ở
trong trạng thái của sơ thiền.
Nhưng không có nghĩa là
chúng ta đang ở trong cái trạng thái sơ thiền này mà phá âm thanh được. Cho nên
ở trạng thái như là cái hơi thở mà ba giây hay năm giây này mà chúng ta thở
hướng tâm bảo cái âm thanh không nghe, bảo nhĩ thức đừng có nghe âm thanh nữa
thì chắc chắn không thể kết quả đâu. Do đó chúng ta phải thở chậm và nhẹ để
chúng diệt cái tầm, còn cái tứ. Diệt cái tầm còn cái tứ đó là một cái định chứ
không phải, bởi vì cái sơ thiền cái tầm tứ nó có. Nhưng bây giờ chúng ta mới
diệt cái tầm mà chúng ta còn cái tứ. Như Minh Tông đã nói: Diệt cái tầm còn cái
tứ là luôn luôn lúc nào mình cũng phải có cái pháp hướng mình nhắc cái tầm của
mình, chớ không phải là hướng phá âm thanh. Mà hướng để cho cái tứ của mình nó
tác ý ra mà cái tầm nó hoàn toàn không có nữa. Còn bây giờ mình tầm tứ đã diệt
hết rồi. Nếu mà cái không tầm không tứ diệt hết rồi không còn gì nữa mà cái hơi
thở đó nó khoảng năm giây, mười giây hoặc hai mươi giây mà đến khi đó chúng ta
không còn nhận ra hơi thở vì hơi thở quá nhẹ. Nhưng thời gian hơi thở thì nó
khoảng là mười giây, hai mươi giây hoặc năm giây, nhưng hơi thở chúng ta lúc
bây giờ chúng ta không thấy hơi thở, tức là không còn cái niệm của hơi thở nữa.
Do đó mà chúng ta biết
tầm tứ đã diệt. Tức là chúng ta đã nhập nhị thiền. Nhưng chúng ta đâu có ở
trong cái trạng thái của nhị thiền vì vậy mà chúng ta giữ cái hơi thở, chúng ta
còn biết hơi thở ra và hơi thở vô. Do đó chúng ta nằm trên cái hơi thở ra vô đó.
Nhưng chúng ta biết rằng có cái niệm không phải là nhị thiền nhưng có cái niệm
nằm ở trên cái lộ trình đó mà chúng ta ở cái trạng thái đó để chúng ta phá các
loại thược tưởng. Vì ở cái trạng thái của nhị thiền thì bước sang qua tam thiền
là nó có những cái trạng thái tưởng xảy ra như hào quang ánh sáng hoặc là thân
bay bổng hoặc là thân cảm giác khinh an hỷ lạc hoặc là những trạng thái này
trạng thái kia xảy đến trong cái tâm và thân chúng ta lúc bây giờ. Bởi vì tầm
tứ diệt đương nhiên chúng ta xem như là một cái người đang ngủ, chúng ta xem
như cái thân của chúng ta đang ngủ. Vì thế mà cái giấc chiêm bao nó sẽ thực
hiện, nhưng ở đây giấc chiêm bao nó không phải là cái người nằm ngủ mà mộng
chiêm bao mà đây là do chúng ta tu tập mà chúng ta diệt tầm tứ. Cho nên ý
thức của chúng ta nó phải ngưng, nó ngưng vì vậy mà nó không có tầm
có tứ, mà không có tầm tứ thì cái tưởng thức nó phải thể hiện. Cho
nên vì vậy mà cái đoạn đường này chúng ta phải bám cái hơi thở, chứ
mất hơi thở thì những cái trạng thái của tưởng nó sẽ xuất hiện,
thì nó giống như một người đang mộng, đang chiêm bao.
Biết rõ như vậy thì
chúng ta muốn phá âm thanh thì nó phải phá ở chỗ nào? Hiện bây giờ
chúng ta chưa phá được âm thanh mà chúng ta đang phá các loại tưởng.
Chúng ta biết rằng chúng ta phải phá các loại tưởng, vì vậy mà nằm ở
trên cái hơi thở mà diệt tầm tứ này, nó không có tầm tứ này thì
nó có một trạng thái yên lặng chứ nó chưa phải là vắng lặng. Do nằm
ở trên cái trạng thái yên lặng này thì 6 cái thức của chúng ta phải
bám chặt trên cái tụ điểm, không được cho nó di chuyển chỗ này đến
chỗ khác, nó phải nằm yên lặng ở đó và nó phải thấy cái hơi thở
từ cái chỗ tụ điểm đó xuất phát cái hơi thở ra và cũng từ cái tụ
điểm xuất phát hơi thở vô. Chứ không phải thấy hơi thở hoài đi vô
mũi, rồi cũng từ ở trong mũi này thấy cái hơi thở đi ra và cái biết
của chúng ta bám tại nhân trung đây biết hơi thở đi ra, đi vô như vậy.
Không phải. Cái đó là cái sai của quý thầy. Cái mà quý thầy phải
nhận ra từ cái tụ điểm đó, nó phải
thấy cái hơi thở nó xuất phát, nếu hít vô thì thấy hơi thở từ cái
chỗ nhân trung đó nó có hơi thở nó xuất phát nó đi vô trong cái lỗ
mũi của quý thầy, nó đi vô ở trong cơ thể của quý thầy và cũng từ
khi quý thầy thở ra, nó không phải ở trong phổi của quý thầy thở ra
mà quý thầy phải thấy từ cái tụ điểm đó nó đang có hơi thở thở ra,
chứ không phải là từ trong mà thở ra. Vì vậy mà 6 cái thức của quý
thầy mới bám chặt trên cái tụ điểm đó, nó mới nằm yên lặng ở trên
đó được.
Và vì vậy mà nó sẽ
không xảy ra cho quý thầy một trạng thái hỷ lạc, khinh an hoặc cảm
giác nặng của thân ở chỗ này hay chỗ khác hoặc nhức đầu hoặc nặng
đầu hay hoặc là có nhiều cái mà có thể xảy đến cho quý thầy. Hễ càng
đi xa hơn thì nó có những thần thông đặc biệt của nó hơn, nó càng đi
sâu hơn trong cái kéo dài cái thời gian dài ra. Ở trong cái trạng thái
này thì quý thầy luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác hướng tâm ám thị
phá các tưởng, chứ không phải phá âm thanh. Chừng nào mà quý thầy
thấy cái sức tỉnh của mình, ngủ mà không còn chiêm bao nữa thì bây
giờ quý thầy phá âm thanh mới có kết quả. Và khi nào mà chúng ta
muốn nhập được tam thiền thì phải ly hỷ toàn bộ không còn cái trạng
thái xảy ra cho cái tâm ta vui mừng nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta mới ở
trên cái chỗ mà trạng thái yên lặng của hơi thở của Tam thiền này
mới phá âm thanh và phá thọ. Cho nên Phật gọi là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, cái chỗ này là cái
chỗ buông hết, buông sạch hết tất cả những âm thanh, sắc tướng, tất
cả những cái thọ, cái đau đớn, tất cả mọi cái đều là buông xuống
hết.
Nhưng buông xuống thì
chúng ta phải nương như thế nào? Phải ở trên cái hơi thở của Tam
thiền chứ không phải ở trên hơi thở của Nhị thiền. Và ở trên cái hơi
thở của Tam thiền thì quý thầy cái đầu tiên mà quý thầy nhận ra
được mình có ly được các hỉ chưa, mà ly được các hỉ thì chiêm bao
của quý thầy đã hết rồi. Cho nên quý thầy nằm ngủ mà suốt đêm mà
thân thì ngủ ngáy mà tâm thì biết hơi thở ra vô không có mê. Còn nếu
mà quý thầy còn chút chiêm bao thì hãy cố gắng tu tập cái tỉnh thức
ở trong giấc ngủ. Để cho cái tâm nó tỉnh, nó không mê, thì nó mới
không chiêm bao, mà nó không chiêm bao thì các thầy mới ly các trạng
thái hỉ mà ly các trạng thái hỉ được thì đương nhiên cái hơi thở
của quý thầy đang dừng thì tức là nó đang ở trong Tam thiền. Chỉ cần
mất hơi thở là quý thầy đã nhập tam thiền. Mà còn hơi thở tức là còn
cái niệm thì đó là còn cái đường đi để chúng ta tiến tới Tứ
thiền, quý thầy hiểu như vậy.
Do như vậy là chúng ta
phải giữ cái tâm của mình ở cái chỗ cái trạng thái của hơi thở và
cái trạng thái yên lặng, cái nơi của Tam thiền đó thì mới hướng tâm
phá âm thanh. Thì lúc bấy giờ cái pháp hướng của quý thầy nó có
hiệu quả, nó làm cho quý thầy không còn nghe âm thanh bên ngoài nữa.
Chớ còn hơi thở của quý thầy đang ở Nhị thiền, mới diệt tầm tứ mà
chiêm bao của quý thầy còn mà quý thầy vội phá âm thanh thì phá chưa
được đâu. Bởi vì những trạng thái tưởng mà quý thầy chưa có ly thì
làm sao mà quý thầy đi tới nữa được, đâu có tiến tới nữa được, cho
nên rất là khó. Cho nên xét cuối cùng, do cái chỗ mà quý thầy biết
được cái cấp độ yên lặng của nó, cái yên lặng của nhị thiền, nó
không giống như cái yên lặng của trạng thái của tam thiền.
Do mà phân biệt được
cái chỗ này, khi mà 6 cái thức nằm yên trên cái trạng thái của Nhị
thiền mà bám chặt cái tụ điểm của Nhị thiền thì lúc bấy giờ chúng
ta sẽ hướng tâm ám thị để mà phá cái gì? Tức là chúng ta phá cái
hỉ. Vì vậy mà tiếp tục ở trên cái bước đường tu tập này thì trong
khi sắp sửa ngủ thì quý thầy phải tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ.
Đặt cái niệm hơi thở trước mặt của mình, rồi biết hơi thở ra biết
hơi thở vô, để giữ tâm mình cho đến 5 phút - 10 phút rồi mới bắt đầu
cho nó ngủ, sau đó chúng ta tăng dần tăng dần cho đến khi chúng ta nằm ngủ hoàn
toàn nó tỉnh thức cái tâm thì tỉnh thức mà cái thân thì nó ngủ. Lúc bây giờ
chúng ta đã biết chúng ta đã vượt qua các trạng thái hỉ rồi cho nên bây giờ ngủ
mà nó không có mê vẫn biết được cái hơi thở. Do đó gọi là đặt niệm hơi thở tỉnh
thức ở trong giấc ngủ. Vì vậy mà chúng ta không có mệt nhọc không có mất ngủ mà
chúng ta rất là tỉnh táo, và cái sức tỉnh rất là cao. Và vì vậy mà khi đi đến
mức độ yên lặng của Tam thiền thì cái sức tỉnh nó phải hơn cái sức tỉnh thức ở Nhị
thiền.
Quý thầy hiểu cái điều
đó, do đó khi mà muốn phá âm thanh thì quý Thầy phải đến cái trạng thái Tam
thiền tức là cái sự yên lặng của Tam thiền rồi mới hướng tâm mới phá âm thanh
để chúng ta phá sạch xả lạc xả khổ, xả
niệm thanh tịnh đó, thì lúc bây giờ cái tâm của chúng ta nó vắng lặng. Khi
mà xả hết rồi không còn nghe âm thanh không còn cái thọ mà tác động ở trong
thân của chúng ta, không còn một cái cảm giác nào, nó chỉ còn một cái trạng
thái của không gian và thời gian bây giờ nó rất là vắng lặng.
Đó quý thầy nhớ kỹ, nó
vắng lặng tức là trạng thái của định Tứ thiền. Thầy muốn nói dùng cái danh từ
như vậy nhưng mà khi quý thầy đã nhập đến đó thì quý thầy sẽ biết được cái
trạng thái vắng lặng. Cũng như Minh Tông nó nói rằng con đã nhận ra được cái
trạng thái của Tứ thiền tức là trong khi đó nó có nhận ra cái trạng thái vắng
lặng, lúc bây giờ không nghe âm thanh nào mà tác động vào nhưng nó không lâu nó
còn bung ra. Cho nên giữ để mà an trú, thiện xảo mà an trú kéo dài cái trạng
thái vắng lặng đó thì nó không được, nó không được kéo dài lâu, cho nên thấy được
cái bóng dáng của tứ thiền nhưng chưa ở được trong đó.
Vì vậy mà chúng ta biết
được như vậy nhưng vì chúng ta thấy được bóng dáng vắng lặng đó nhưng vì chúng
ta chưa phá, chưa có trọn vẹn mà chúng ta nhập Tam thiền. Giấc mộng chúng ta
còn, chiêm bao chúng ta còn, hỷ chúng ta chưa ly hết cho nên do đó chúng ta chỉ
thấy được bóng dáng của Tứ thiền chứ chúng ta chưa nhập được vào nó. Có được
một chút thôi, chúng ta mới thấy được trạng thái vắng lặng.
Thầy nói khi mà nhập Tứ
thiền thì nó vắng lặng, cả cái không gian vũ trụ này nó không còn có một tiếng
động nào hết và cả cái thọ chúng ta nó không còn có cái ngứa ngáy hoặc là mỏi
mệt, hoặc là nhức chỗ này đau chỗ kia nữa. Nó không tác động được chúng ta chỗ
nào hết, như vậy mới gọi là cái trạng thái của Tứ thiền.
Nhưng muốn biết được cái chỗ chúng ta dùng
pháp hướng có hiệu quả hay không là phải đúng cái trạng thái yên lặng, cái mực độ nào mà dùng pháp hướng để phá âm
thanh, mà dùng pháp hướng để phá thọ, phá các loại tưởng. Thì bây giờ một cái
người mà chưa có diệt tầm được mà cũng muốn phá âm thanh thì Thầy thấy tầm chưa
hết mà làm sao phá âm thanh. Cho nên bây giờ chúng ta muốn diệt cái tầm, muốn
cho hết cái tầm tức là đừng có cho vọng tưởng đó thì chúng ta phải hướng tâm,
bắt buộc cái ý thức của chúng ta nó phải luôn luôn, nó phải tác ý ra, như một
cái lý tác ý ra “ý thức phải bám chặt hơi thở”. Cứ một lát lâu lâu mình lại
nhắc “ý thức nhớ bám chặt vào hơi thở, không có được quên”. Do đó
chúng ta nhắc nó vậy rồi chúng ta giữ cái trạng thái tâm của chúng ta kéo dài
ra chừng một phút hai phút nó không có một cái tầm gì hết, do đó chúng ta tiếp
tục tác ý ra nữa.
Cứ như vậy thì chúng ta
nhập được một cái định, cái định đó gọi là vô tầm và hữu tứ. Đó, chúng ta đi từ
từ rồi sau đó thì chúng ta mới xả, khi mà chúng ta xả hết cái pháp hướng ra mà
chúng ta thấy cái tầm nó không có tác động được, nó không có khởi ra được thì
chúng ta đã biết rằng tầm tứ chúng ta đã diệt được. Do đó lúc bấy giờ chúng ta
chỉ cần hướng một lần chúng ta nhắc tứ không còn tác động ta nữa, không cần
dùng pháp hướng đó nữa mà chúng ta chỉ cần nhắc hơi thở chậm, nhẹ hoặc hơi thở
phải nhẹ xuống nữa. Đừng có, cái ý thức không có được nhận cái hơi thở nữa cho
nên cái hơi thở mất đi. Lúc bấy giờ nó không còn cái đối tượng của hơi thở
thì cái ý của chúng ta nó mất cái đối tượng mà nó không tầm không tác ý
ra thì lúc bây giờ tầm tứ đã diệt. Do đó chúng ta nhập cái định diệt tầm diệt
tứ, tức là tương đương với Nhị thiền.
Bây giờ cái trạng thái
yên lặng ở đó chúng ta đã biết nó như thế nào rồi, chúng ta vô đó chúng ta biết
chỗ nào rồi, nhưng mà chúng ta trở ra hơi thở để biết hơi thở chứ còn để mất
hơi thở thì tức là mất đối tượng, tức là nhất tâm mới hợp định. Còn cái tâm của
chúng ta đối với cái niệm thì làm sao gọi là định. Cho nên vì vậy chúng ta phải
ra cái niệm, nhờ cái niệm hơi thở ra và hơi thở vô chúng ta mới ly được các cái
trạng thái hỷ mà chúng ta nhập tam thiền. Chứ nếu mà không có hơi thở thì chúng
ta cứ nằm ở trong nhị thiền thì nếu mà chúng ta khéo léo mà an trú cho nó nằm
đó một ngày hai ngày thì nó cũng Nhị thiền chứ không phải Tam thiền được. Đó
quý Thầy hiểu cho nên quý thầy lấy cái lộ trình hơi thở cho nên trong cái bài
kinh Phật nói nếu muốn nhập Sơ thiền thì chúng ta cũng nương vào hơi thở ra hơi
thở vô để mà chúng ta khéo tác ý nó thì chúng ta nhập cái Sơ thiền. Mà đến cái
Nhị thiền chúng ta cũng nương cái hơi thở ra và hơi thở vô khéo tác ý nó thì
chúng ta sẽ nhập nhị thiền. Mà đến Tam thiền cũng vậy, đến Tứ thiền cũng vậy mà
cho đến diệt thọ tưởng định thì đức Phật cũng bảo chúng ta nương vào hơi thở mà
để hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý nó để mà chúng ta nhập được cái thọ tưởng
định. Đức Phật dạy chúng ta qua cái bài pháp rất là tuyệt vời, lộ trình hơi thở
chúng ta rất là hay để mà chúng ta sử dụng nó đi hết quãng đường nhập định này
cụ thể và rõ ràng. Và cái hơi thở càng chậm và nhẹ thì nó mới tới cái mức độ nó
ngưng được, chứ bây giờ hơi thở còn ba giây, năm giây như vầy làm sao ngưng
được.
Đó, chúng ta thấy quá cụ
thể. Do vì vậy mà trả lời cho thầy Thiện Thuận thì nhớ là cái trạng thái tâm
của chúng ta phải nằm yên trên một tụ điểm. Vì vậy mà trải qua quá trình tu về
thiền định này, bốn thiền này thì phải tạo cho nó có một cái tụ điểm. Cái tụ điểm tức là một cái cọc cũng như là chúng
ta đóng một cái cọc rất là cứng, chắc do đó chúng ta mới cột sáu cái thức, xem
như sáu cái thức của chúng ta là sáu con vật. Sáu con vật cột chặt ở trong cái
cột đó mà nó không có lôi, nhổ được cái cọc thì sáu con vật nó quay một hơi thì
nó sẽ nằm tại đó hà. Còn nếu mà nó lôi cây
cọc nó văng qua bên đây văng qua bên kia thì mặc tình con nào nó lôi chạy
vùng hết thì như vậy chúng ta chẳng có cái chỗ nào mà chúng ta nằm yên được.
Cho nên ở đây chúng ta nói cái tụ điểm nhưng sự thật đó là một cái cọc để chúng
ta cột sáu cái thức của chúng ta nằm ở trên đó. Vì vậy mà người tu là phải có
một cái tụ điểm, mà nếu không có cái tụ điểm như một người mà cột sáu con vật
mà không có cái cọc thì không thể nào mà cột được đâu. Sáu con vật của chúng ta
con nào nó cũng lôi theo nó hết. Bây giờ thí dụ như con mắt thì nó lôi
theo hình ảnh, mà cái lỗ tai thì nó lôi theo âm thanh. Tất cả mọi cái nó lôi
theo nó chứ nó không có chịu đi chung một hướng đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta
phải cột chặt nó. Đó là cái tụ điểm, nếu không có tụ điểm thì không làm sao quý
thầy có thể phá âm thanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét