THẬP THIỆN (TIẾP THEO)
Không
nói dối
Bởi
vì con nai nó đâu có chạy luôn. Nó chạy nó chun dưới cục đá dưới đít
của ông. Cho nên nếu ông nói: Ờ có con nai nó chạy nó chui dưới đít
của tui đây thì như vậy nhà vua lôi con nai ra, chắc chắn là cái tội
sát sanh của mình thôi. Cho nên giữa hai cái giới này ông Phật không
biết làm sao hết nên đành câm miệng mà thôi. Còn nếu HT Thiện Hoa dạy
chúng ta kiểu này chắc là dạy nói láo rồi. À bây giờ vua đến hỏi:
-
Có con nai chạy ngang đây không?
-
Có, có, nó mới chạy đây, nó chạy luôn đây nè.
Thay
vì nó chạy đường này, ông chỉ: Ờ, nó chạy đường này nè. Tui thấy
nó chạy đây.
Do
đó, chỉ bậy để ông vua đừng có giết con nai. “Do không giết hại con
nai thì ông Phật đành nói láo” cho nên HT viết câu này Thầy thấy Thầy
không chấp nhận. Bởi vì Phật dạy quá rõ. Các hành động của Phật
quá rõ, thà chịu khổ mà không phạm vào các giới. Cho nên Phật nói
thà chết chứ không phạm giới mà. Do cái giới mà nói láo này là
không được. Vì vậy mà Đức Phật phải làm thinh, làm thinh nhà vua tức
quá hỏi:
-
Sao ông làm thinh?
Trời
ơi, tức quá thì nhà vua mới rút gươm ra xẻo 2 lỗ tai ông, xẻo rồi đau
quá ông cũng làm thinh luôn, rồi chặt 2 cánh tay ông cũng làm thinh,
móc 2 con mắt ông cũng làm thinh luôn. Nhà vua đành phải đầu hàng mà
đi thôi chứ không có làm sao được hết. Thì các con thấy, trong cái sự
tu hành là người ta giữ giới đến mức mà người ta bị xẻo 2 lỗ tai để
cho ông ta sợ đi ông ta nói, chặt 2 cánh tay ông ta cũng không nói nữa,
móc 2 con mắt cho ông ta đui mà ông ta không nói. Mà nhà vua mà, có
quyền sanh sát người ta. Chỗ nào nhà vua cũng giết được hết. Vì
vậy, cơn tức của nhà vua đang dí con nai mà ông dấu. Tức là tức giận
là phải tra ông này mới lòi ra nhưng cuối cùng ông Phật ông giữ giới
cho đến chết, chết là chết chứ không nói gì nữa.
Đó
các con thấy HT dạy một cái điều mà Thầy thấy không được. Cho nên
vấn đề mà vọng ngữ, vấn đề nói láo là cả một vấn đề. Một khi
chúng ta nói một cái sự không đúng rồi thì hối hận lương tâm dữ
lắm, nó đau khổ dữ lắm chứ không phải không đâu. Cho nên đừng có
tưởng tầm thường, một người tu hành chân chính người ta rất sợ việc
nói láo, nói là nói thật không được nói láo.
Cho
nên ở đây Thầy sửa lại như thế này: “Nếu nói dối cứu khổ phò
nguy cho người và vật thì ta còn không nói, huống là nói dối hại
người lợi mình thì còn không nên nói hơn nữa”, chứ Thầy không
để câu nói như vậy, Thầy thấy nó không đúng trong cái đạo, dù là
người cư sĩ cũng không được cách nói dối đó nữa, thà là chúng ta
chết.
Kinh
Thập Thiện dạy: Người không nói dối được 8 điều lợi ích:
1. Được mọi người tin tưởng.
2. Lời nói ra được người người
kính yêu.
3. Miệng thường thơm sạch.
4. Lời nói thường êm ái.
5. Được an vui như ý nguyện.
6. Lời nói không buồn giận và
vui vẻ.
7. Lời nói được mọi người vâng
theo.
8. Trí tuệ thù thắng không ai
hơn.
Đó
là phần khẩu miệng của mình không nói dối đó.
Thấy
cái gì thì nói thấy, mà không thấy thì nói không thấy. Chứ không
phải không thấy nói thấy, mà thấy nói không thấy. Nói ngược trở lại
như vậy là không được. Cái gì mình nghe thấy thì mình nói nghe
thấy, mà nghe lờ mờ không rõ cũng không nói. Cho nên Thầy nói ở đời
người tu hành theo Đạo Phật là không nói là tốt nhất, nói ra coi
chừng lầm lạc. Cái miệng của chúng ta có 4 điều ác, điều này nó
kẹt ở điều khác, nó khó. Cái thân chúng ta có 3, cái ý chúng ta có
3 mà cái miệng chúng ta nó nhiều quá cho nên chúng ta phải dè dặt
cẩn thận, nó là cái chỗ đau khổ nhất cho con người ở đời, chứ không
phải là vừa.
Bởi
vậy học Thập Thiện rồi, chúng ta mới biết các nghiệp của
miệng nó nặng lắm. Nó tới 4 chỗ lận. Có một mình nó mà
chiếm hơn người ta hết, nó làm anh cả của người ta hơn hết trong này
mà. Thành ra mình phải coi chừng cái miệng của mình, nó độc lắm
chứ không phải không. Nói ra cái lời nói của mình có thể giết người
mà, chứ không phải thường đâu. Cái lời nói còn hơn gươm đao. Vì vậy
chúng ta phải cẩn thận lời nói. Muốn nói ra một cái gì phải suy
nghĩ. Cho nên người xưa người ta nói: muốn nói một lời nói phải suy nghĩ 7
lần, người ta gọi là là đánh lưỡi 7 lần đó.
Nói
lời thêu dệt
Người
đời thường hay trau dồi, trau chuốt lời nói, đi buôn vật xấu nói tốt.
Đây là cái hành động thứ 2 cái miệng của mình là lời nói thêu dệt.
Bây giờ chúng ta học tới cái hành động thứ 2 của cái miệng là nói
lời thêu dệt. Lời nói thêu dệt đó ở đây người đời thường hay trau
dồi, trau chuốt các lời nói của mình. Đi buôn vật xấu thì nói tốt
để bán cho được giá, gạt người mua về không xài được. Chỉ một chút
lòng nhỏ mọn, hờn ghen, liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên
thù hận có thể giết hại lẫn nhau, làm tổn hại tánh mạng của người
khác. Chỉ một chút lòng ghanh tị, thù vặt, bèn dùng lời thêu dệt
để lung lạc lòng người hoặc để quyến rũ hay gạt gẫm người khác làm
tổn hại danh dự và tài sản người khác, cốt để đem lại lợi ích cho
mình được nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt cho mình.
Minh thêu dệt này nọ kia để đem lại những lợi lạc, cái của cải tài sản là một,
rồi được tiếng tốt này kia cho mình. Đó là lời nói thêu dệt.
Ngược
lại, người không nói lời thêu dệt, dùng lời đúng đắn, chánh lý,
không gạt gẫm, không lừa bịp, không làm tổn hại danh giá tài sản
thậm chí cho đến tánh mạng. Thêu dệt tức là đặt điều nói xấu người
khác, khiến cho người khác buồn khổ, có thể đi đến tự tử, quyên sinh
tánh mạng.
Vì
thế Thập Thiện dạy người không đặt điều nói xấu người khác có điều
lợi ích cho mình thì:
1. Được mọi người quý mến.
2. Thường đáp được những câu hỏi
khó khăn.
3. Có đầy đủ uy tín cao quý
trong cuộc đời.
Đó
là những điều chúng ta không có nói thêu dệt, không có đặt điều ra.
Thêu dệt làm cho nó có vẻ đẹp hơn hoặc là người đó không tốt mình
nói tốt hoặc là người đó tốt mà mình nói cho người khác là người
đó xấu. Mình đặt ra cái này, thêu dệt ra cái này cái kia để làm cho
người ta nghi ngờ người này, người nọ, người kia. Đó là các lời thêu
dệt.
Chẳng
hạn bây giờ có ông mai, ông đến làm môi giới, đến bên gái thì nói
cái thằng đó như thế này, thế khác mà nó thì uống rượu, hút sách,
nó thì chơi bời, nó không biết nghề nghiệp gì hết mà lại đằng gái
thì ca ngợi cái thằng con trai trên mây xanh, gọi là thêu dệt đó. Rồi
đến đằng nam để làm mai cho đằng nam thì nói cô ta là vậy: công dung,
ngôn hạnh đầy đủ, con người hiền đức này kia rõ ràng. Nhưng mà trời
ơi, rước về nhà rồi một cái, họ trên trời ngồi rớt xuống! Thì do
đó những cái lời nói của ông mai như vậy là thêu dệt làm mai mối.
Rồi tất cả những cái điều mai mối như mua đất, mai mối làm cái này,
mai mối làm cái kia đều là có sự thêu dệt trong đó hết, để cho người
ta nghe người ta tin người ta mới đi mua, đi làm cái chuyện đó, đó là
những cái môi giới. Thì những cái thêu dệt đó là lời nói thêu dệt.
Chúng ta không nên làm những điều đó, mà hãy tránh.
Thực
ra những cái điều mà nói xấu người khác, thêu dệt ra cái tốt - cái
xấu cho người khác, nói người ta không có chuyện đó mà nói người ta
làm cái này, làm cái kia, làm cái nọ tồi tệ để cho mọi người không
hiểu tưởng người đó là người xấu để người ta tránh xa người đó, đó
là những người thêu dệt, là những người mà không tốt. Vậy thì
chúng ta hiểu biết được như vậy chúng ta cố gắng tránh, giữ gìn cái
miệng của mình, đừng có nói những cái đặt điều ra mà nói xấu kẻ
khác hoặc nói tốt người khác, người nào xấu thì nói xấu, tốt thì
nói tốt, mà tốt xấu mặc họ chúng ta nói làm gì.
Theo
Thầy thiết nghĩ xấu người ta làm ác thì nhân nó chịu, mà tốt người
ta làm thiện thì người ta hưởng được cái phước quả, còn riêng mình
mình nói người ta tốt xấu làm gì, mình khen cũng không khen, chê cũng
không chê, điều đó là điều tốt của người tu theo Thập Thiện. Chứ
không phải là đem cái chuyện của người ta tốt mình nói, rồi cái
chuyện người ta xấu mình cũng nói. Thầy thấy cái chuyện xấu của họ mình
không dấu, mà cũng không nói; mà cái chuyện tốt của người ta mình
cũng không phô bày, mà cũng không nói ra.
Hầu
hết như các con bây giờ Thầy nói như thế này, các con sẽ ca ngợi khen
Thầy thế này thế khác, nhiều khi ca ngợi Thầy như ông Phật thì tức cũng
là lời thêu dệt đó, không đúng đâu. Thầy cũng là bằng xương, bằng thịt
cũng như mọi người nhưng qua cái nhìn của các con, các con có niềm
tin ở Thầy, nhiều khi Thầy không có thần thông, các con nói Thầy quá
thần thông, nào là phóng hào quang, đặt điều nói láo đó là thêu dệt
đó. Thầy đem những cái ví dụ để các con thấy, bởi vậy Thầy thấy
có những người mến Thầy, trọng Thầy rồi ca ngợi Thầy một cách không
đúng đắn, cho nên trong kinh Phật có dạy là khen mà không đúng
thì cái đó làm hại Phật, mà chê không đúng cũng không làm hại Phật
được. Cái gì đúng là đúng, cái gì mà không đúng là không
đúng. Cho nên mình có nói đi nữa thì người ta nói mèo khen mèo dài
đuôi thôi, chứ cũng không có gì hết. Cho nên để cho người ta còn
nghiệm xét, chẳng hạn Thầy tu hành đúng thì để người ta còn thấy.
Các con nói mà nói Thầy tốt thế này, Thầy như thế này thế khác,
điều đó chẳng bao giờ mà người ta tin ở các con. Các con có nói gì
thì người ta cũng chẳng tin. Người ta còn thấy qua cái hạnh của
Thầy, người ta còn thấy qua cái đức của Thầy. Cho nên vì vậy, ngay
cả Thầy mà các con còn như vậy thì các con nói ờ cái chị này tốt,
cái chị này tu như thế này, cái chị kia tu như thế kia... họ có tin
không? Cũng như bây giờ Thầy nói Mật Hạnh tu vậy, Minh Tông tu
vậy…các con có tin được không? Chưa chắc đã tin. Bán tín bán nghi.
Chưa chắc. Rồi lần lượt các con sẽ thấy những người đó tu được cái
gì, cái gì… À vị này giới hạnh nghiêm túc, giờ giấc nghiêm túc, tu
hành đúng đắn, vị này nhập định được, hơi thở ngưng, cái gì lần
lượt các con cũng thấy hết thì chừng đó các con mới tin, còn bây
giờ Thầy nói cũng chẳng qua Thầy nói, Thầy nói đúng sự thật đó
nhưng các con chưa tin đâu.
Cho
nên cái thêu dệt các con muốn làm cho người ta tin chứ gì nhưng mà
người ta có tin mình được không? Cho nên cái nói của mình có ích
lợi gì thì nói. Cho nên chẳng nói gì hết để cho người ta còn
thấy được vậy. Cũng như bây giờ các con nói các con tu được, thì cái
đó là cái thêu dệt. Mình được, mình biết chắc mình được không, để
cho một người khác nhìn thấy cái chỗ được của mình. Người ta thấy
được tức là người ta biết chớ sao. Gì mà mình còn giận, còn hờn,
còn phiền nào, còn ủ ê cái mặt như là éo xào …mà nói tui tu được
là tu được cái chỗ nào đâu. Cho nên cái chúng ta chẳng nói được mà
chúng ta được an vui, được thanh thản thì người ta sẽ thấy được cái
an vui, thanh thản đó mà người ta biết mình. Cho nên mình nói
ra có lợi ích gì. Vì vậy, những cái lời nói mà chúng ta
chưa có chứng nghiệm được cho nên chúng ta không nói. Vì
vậy không nói thêu dệt, không nói những lời nói đó.
Hôm
nay Thầy nói hết để cho các con biết được cái chỗ chúng ta giữ gìn,
cái khẩu hành thứ 2 này là không nói lời nói thêu dệt. Không khéo
chúng ta tưởng mình nói như vậy là đúng, không có sai, nhưng mà cái
nói như vậy không có hay lắm, nó không tốt đâu.
Về
cái khẩu hành thứ 3
Là
không nói lật ngược. Nói rồi không nói ngược trở lại. Là nói lật
ngược đó. Người đời có lắm kẻ nhiều mồm mép, vừa nói đó một lúc
sau nói lật ngược lại. Lấy quấy làm phải mà lấy phải làm quấy.
Nghĩa là người ta lanh mồm, lẻo mép lắm, nói rồi cái lật ngược lại,
tức là nói tui không nói đâu, hồi nãy ai nói chứ tui không nói đâu
nhưng chính mình nói, ai cũng nghe hết nhưng mà dám nói như vậy đó,
thì cái chuyện qua một hai ngày tưởng đâu người ta quên rồi, mình nói
mình vẫn có cái sửa những cái lời của mình để biến những lời của
mình không có nói như vậy. Thì tất cả những cái này là những lời
nói lật ngược, nói ngược trở lại cái sự thật.
Hạng
người này là hạng người nhiều chuyện, họ là kẻ tụm ba tụm bảy
chuyên nói xấu người khác, đem chuyện người này nói ra, nói vào, biêu
xấu khiêu khích người khác, gây phe, gây nhóm, tạo cảnh bất hòa, thù
hận và còn đem chuyện người này dèm pha với người kia, nhạo báng
người nọ, chê bai người khác, làm cho họ tức giận hoặc xấu hổ đau
khổ, dùng môi mép đứng trung gian gây ác cảm đôi bên để đi đến kiện
thưa.
Người
không nói lưỡi hai chiều thì không có chuyện lôi thôi với mọi người, không
bị người ta lôi ra làm chứng cớ, còn ngược lại những kẻ ấy đều
gọi là người nhiều chuyện. Người không nói lưỡi hai chiều không làm
phiền muộn ai hết, được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần đều
kính mến.
Người
không có lưỡi 2 chiều thường dùng lời êm ái, an ủi, khuyên dạy giúp
cho mọi người được hòa thuận, thương yêu nhau khiến cho mọi người đều
vui vẻ, an lòng. Người này đến đâu, ở đâu cũng được mọi người kính
yêu, gặp việc khó bất hòa người này đứng ra thu xếp, hòa giải một
cách dễ dàng.
Người
không nói lưỡi hai chiều khiến gia đình sum họp an vui, tình làng
nghĩa xóm hòa thuận kính yêu nhau.
Kinh
Thập Thiện dạy: Người không nói lưỡi 2 chiều được 5 điều bất hoại:
1. Nhơn bất hoại.
2. Sống trong gia đình sum họp
3. Đức tin bất hoại.
4. Pháp hạnh bất hoại.
5. Thiện hữu tri thức bất hoại.
Nghĩa
là như thế nào?
· Nhơn bất hoại: tức là người
mà không nói lưỡi hai chiều thì mọi cái tình người xung quanh của
mình, nó luôn luôn giữ trọn, nó không làm cho hoại diệt. Còn mình mà
cái người nói 2 chiều thì những tình người xung quanh mình nó sẽ không
giữ trọn được, nó bị hoại diệt.
· Sống trong gia đình
sum họp: thì
hiểu rồi.
· Đức tin bất hoại: Nghĩa là cái
người mà không nói lưỡi 2 chiều được mọi người cái lòng tin, không bao
giờ hoại diệt cái lòng tin trong lòng của họ.
· Pháp hạnh bất
hoại: Cái
hạnh của người mà không nói lưỡi 2 chiều thì cái pháp đây là nói
tất cả những cái hành động của chính mình, của bản thân mình không
có bị hoại diệt, luôn luôn giữ đúng cái pháp hạnh của nó, cho nên
nó không bao giờ lật ngược cái gì hết. Thì cái người luôn luôn có
những cái hạnh mà nó không bao giờ bị hoại diệt.
· Và thiện hữu
tri thức bất hoại: nghĩa là luôn luôn người này có những thiện hữu
tri thức sống sát ở bên họ. Nghĩa là có những người rất là thân
tình, có những người rất là thương mến họ, có những người rất tận
tình với họ để giúp họ từ cái này đến cái kia, gọi là thiện hữu
tri thức bất hoại.
7. Không
nói lời hung ác
Cái
hành động thứ 7 này là cái hành động của miệng là không nói lời
hung ác. Đây là cái hành động cuối cùng của khẩu nghiệp chúng ta,
của hành động miệng chúng ta. Lời nói hung ác là lời nói dữ, vu
khống người khác, phao phản, bươi móc việc xấu của người khác. Lời
nói cộc cằn, thô lỗ mắng nhiếc, mạ lụy người, làm cho người khác
tức giận, khổ sở, đau đớn.
Người
không nói lời nói hung ác thường dùng lời nói khen, khen ngợi, lời
lẽ ôn tồn, trang nhã hiền hòa, lời nói luôn luôn làm cho mọi người
được an vui, yên ổn. Thì cái lời nói mà không hung dữ là cái lời
nói mà rất êm ái, còn cái người mà nói hung dữ thì lời nói to,
nói rất lớn và những lời nói thô tục, những cái lời mắng nhiếc
người, những cái lời nói vu khống người. Có những người nói lời
nói vu khống thì nói nhỏ nhẹ lắm nhưng mà vu khống người ta đó cũng
là lời nói ác đó, mà mình nói xấu người ta cũng thuộc diện là
lời nói ác đó. Mình bươi móc chuyện xấu của họ cũng là lời
nói ác đó. Mình phao người ta cái này cái kia đó cũng là lời nói
ác đó. Chứ không phải là lời nói ác là mình chửi mắng, nạt
nộ người ta là lời nói ác đâu.
Lời
nói cộc cằn là lời nói ác, mà nạt nộ người ta cũng là lời nói
ác nhưng phải biết là có nhiều lời nói mà chúng ta không có cộc
cằn, không thô tục, nhưng mà chúng ta bươi móc cái chuyện xấu của
người ta, chúng ta nói xấu người khác, chúng ta phao tin vu khống
người ta, đó cũng thuộc diện lời nói ác. Nói mà làm cho người ta
bị tù tội, bị chết, người ta không ăn trộm mà nói người ta ăn trộm,
người ta không tà dâm mà mình nói người ta tà dâm, người ta không có
giết người mà mình nói người ta giết người. Thì những cái lời nói
đó là những lời nói ác. Mặc dù là cái lời nói đó rất nhẹ nhàng:
“tui thấy cái người đó giết cái người kia” nhưng sự thật ra người đó
không có giết, nhưng vì thù hận nhỏ trong lòng của mình, họ không
nói lời to, họ chỉ vu khống, phao du người ta làm cái chuyện như vậy
để cho người đó ở tù chơi. Đó là những lời nói ác.
Cho
nên lời nói ác phải biết phân biệt như thế nào để mà chúng ta biết
lời nói ác, chứ không khéo người ta cứ nghĩ rằng, có lời nạt nộ,
chửi mắng hay mắng nhiếc người ta mới là lời hung ác thì nó không
phải đâu. Hung ác có nghĩa là lời nói dữ, lời nói làm cho người
ta khổ đau thì đó là lời nói hung ác.
Hiểu
rõ như vậy thì chúng ta mới biết được mà cảnh giác, để mà không
thốt ra cái lời nói đó, thì chúng ta mới giữ được cái hành của
miệng mình. Còn nếu mình không hiểu thì mình sẽ tưởng là mình nói
như vậy không phải là lời nói hung ác. Cho nên ở đây, Thầy giải thích
cho nó rõ để cho các con học cho nó kỹ vì nó là cái căn
bản đạo đức của Đạo Phật. Nó là 10 cái điều mà đạo
đức của Đạo Phật mà chúng ta cần phải trau dồi, cần phải tu tập,
cần phải dứt bỏ, đó là những điều mà chúng ta cần phải hết sức tu
tập, nhiệt tâm tu tập, siêng năng tu tập, chứ không phải chỉ nói miệng
suông được mà phải đem hết cái thân tâm của chúng ta thực nghiệm đúng
10 điều lành này.
Cho
nên kinh Thập Thiện dạy: Kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được 8
món công đức:
1. Nói đúng pháp. Nghĩa là
lời nói chúng ta luôn luôn bao giờ cũng không sai.
2. Lời nói có ích lợi.
3. Lời nói đúng chân lý.
4. Lời nói khôn khéo.
5. Nói điều gì ai cũng vâng theo.
Ở
đây cái chỗ 4 là lời nói khôn khéo, có cái khôn khéo mà xảo trá, nhưng
cái khôn khéo ở đây là nói lời nói không có dữ dằn, làm cho người
khác nghe nó êm tai, thuận tai, làm cho người khác nghe lời nói mà
người ta được vững bụng, không sợ hãi, yên tâm đó là lời nói khôn
khéo. Nhiều khi chúng ta không khôn khéo, chúng ta nói nó cũng
đúng như vậy, cũng như vậy mà không dùng lời nói khôn khéo làm cho
người khác nghe người ta thấy đau khổ trong tâm, mà người khác đã đau
khổ trong tâm thì lời nói đương nhiên được xem là lời nói không khôn
khéo, đương nhiên được xem là lời nói hung ác.
Nghĩa
là cái lời nói nào mà làm cho người ta đau khổ thì lời nói
đó đều là lời hung ác hết, nó bao gồm cả lời nói dối, lời nói
thêu dệt, lời nói lật ngược đều là thuộc về lời nói hung ác hết,
chớ không phải riêng những lời nói này là lời nói hung ác đâu.
Cho
nên phải hiểu ở đây, cái chỗ 4 lợi ích của lời nói thứ 4 này là
lời nói khôn khéo đó là chúng ta phải biết sử dụng lời nói chúng
ta như là chúng ta cầm một cái bào, một cái cưa để cưa cây hoặc một
cái dụng cụ nào đó làm cái nghề gì đó, phải tinh xảo. Cái
lời nói của chúng ta phải sử dụng như một ông thợ mà rành nghề sử
dụng cái vật dụng của nghề đó. Cũng như một nông dân ông sử dụng
cái cuốc của ông. Cũng như một người thợ cưa, thợ mộc họ sẽ sử
dụng cái cưa, cái bào của họ. Cũng như cái người viết văn thì họ
sử dụng cái ngòi bút, thì chúng ta là cái người mà tu theo Đạo
Phật mà tới cái lời nói hung ác này đó thì chúng ta sử dụng cái
lời nói khôn khéo của chúng ta để làm cho mọi người đều vui, thì
điều đó chúng ta sử dụng phải khéo léo, phải thiện xảo, chứ không
phải thiếu cái này mà được.
Đến
cái chỗ này thì chúng ta tập dần đi cái chỗ mà chúng ta không có
nói lời hung dữ thì nó đưa đến cái chỗ mà chúng ta có những lời
nói khéo léo.
Từ đó nó phát sinh ra chúng ta có những lời nói rất là khéo léo.
5. Nói điều chi ai cũng vâng theo.
6. Lời nói được nhiều người tin.
7. Lời nói không bị ai chê.
8. Lời nói được yêu mến.
Đó
là 8 cái điều mà chúng ta cần phải hiểu để mà giữ gìn 4 cái hành
động của cái miệng mình.
Vậy
tóm lại,
4 cái hành động của miệng mình thì khi mà học biết được 4 cái hành
động thiện này, thì từ đây về sau chúng ta phải cố gắng mà thực
hiện giữ gìn cái khẩu nghiệp.
Trước
tiên chúng ta nên tập độc cư, nên giữ cái miệng của mình, mà thường
Thầy nhắc các con là sống trầm lặng, sống trầm lặng, như vậy là
mình sống ở trong cái tâm hồn trầm lặng của mình, mình ưa thích
trầm lặng này, mình sống trầm lặng này, mình ca ngợi trầm lặng
này, mình tìm cái nơi để mình được sống trầm lặng. Do những điều
kiện đó mà trong kinh Phật đã dạy chúng ta, tức là dạy chúng ta giữ
gìn khẩu nghiệp của chúng ta. Mà Phật dạy độc cư cũng nhằm mục
đích là sống trầm lặng. Sống giữ gìn 4 cái điều lành của cái cái
miệng chúng ta. Như vậy chứ không phải gì.
Sau
một thời gian mà chúng ta tịnh khẩu, chúng ta không nói thì từng đó
khi chúng ta mở miệng ra, cái miệng chúng ta nó không có lanh
đâu, nó chậm chạp lắm, rồi từ đó chúng ta nói lời nào nó có
sự suy nghĩ nó nói, nó nói rất chín chắn. Nhưng mà chúng ta nói
riết rồi, nó nhanh nó bén nhạy rồi, cái đầu óc chúng ta chưa có
nghĩ kịp nó đã nói trước rồi. Cái miệng chúng ta nó đi
trước cái ý, chứ không phải nó đi sau cái ý. Cho nên chúng ta
phải khéo léo để giữ gìn làm sao cho cái miệng chúng ta đi sau cái
ý thì nó mới tốt. Còn nếu nó đi trước cái ý coi chừng nó phạm
vào 4 cái điều ác của cái miệng chớ không phải là điều lành đâu.
Đó
thì hôm nay Thầy tóm lược để thấy 4 cái điều của cái miệng, 4 cái
hành động của cái miệng thì rất quan trọng cho cái cuộc đời mà tu
tập theo Đạo Phật chứ không đơn giản đâu.
Về
phần ý, chúng ta có 3 cái hành động của ý
Vậy
thì cái hành động của ý. Đầu tiên đó là: Không tham muốn.
Con
người bị cám dỗ 5 thứ dục lạc. Người ta mà có tâm tham là vì có
đối tượng để cho nó tham, không có đối tượng nó lấy gì tham? Cho nên
nó có 5 cái đối tượng của nó. Đó là 5 món dục lạc. Vậy thì 5 món
dục lạc này là cái gì? À, tiền của, đó là một. Sắc đẹp của phụ
nữ đó là hai đó. Danh vọng, tức là làm quan, làm vua hoặc là đỗ
bằng này bằng kia, những cái danh vọng đó, hoặc là được tiếng người
ta nói mình là những nhà bác học, hoặc là những danh y, hoặc là
người ta ca ngợi mình là chơn tu. Tất cả những cái danh đó là danh
vọng đó. Tất cả những cái này, ngay cái danh Đức Phật đã dạy chúng
ta: Được danh, được lợi (tức là tiền bạc đó), rồi được sự cung kính
thì chúng ta nên ẩn bóng đi, thì đó là bậc chân tu.
Do
Phật nhắc như vậy tức là chúng ta xa lìa cái gì? À, tiền bạc, sự
cúng dường đó. Rồi danh, danh vọng. Rồi sự cung kính. Đó là những
cái mà bậc chân tu phải tránh nó. Thì ở đây nó cũng nằm trong cái
ngũ dục lạc, cho nên từ cái chỗ này chúng ta mới thấy rõ được cái
ý của Đạo Phật, đối tượng của con người bị cám dỗ đó là 5 thứ
dục lạc này. Rồi đến ăn uống là một trong 5 cái dục lạc này. Rồi đến
ngủ cũng là một trong 5 cái dục lạc này. Cho nên chúng ta đọc lại
là: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ.
Đó là 5 cái đối tượng dục lạc, làm cho tâm của chúng ta khởi lên ham
muốn.
Vì
vậy mà cái hành động của ý chúng ta là cái chỗ ham muốn. Mà ham
muốn, có những đối tượng làm cho nó ham muốn. Vậy thì trong thế
gian, người đời không ai tránh khỏi 5 thứ này, nghĩa là sống trong
cuộc sống thế gian thì người ta không mắc cái này thì người ta cũng
mắc cái kia, người ta dính tâm tham của chúng ta, không bám cái này
thì cũng bám cái kia. Không thể nào mà rời khỏi 5 cái thứ dục lạc
này hết.
Vì
vậy mà Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy được cái đối tượng của cái
ý mà nó có cái hành động tham muốn của nó là phải có 5 thứ dục
lạc. Nếu tham muốn, mong cầu, chạy theo nó, tức là chạy theo 5 cái
dục lạc này, đạt được thì sanh tâm vui mừng, còn ngược lại thì trở
nên buồn khổ, sầu não. Nghĩa là chúng ta đạt được 5 cái thứ dục
lạc này, dù là một thứ đi nữa mà đạt được chúng ta cũng mừng nữa
chứ chưa nói cả hết 5 thứ. Mà không được thì sanh ra buồn não, khổ
sở. Nhiều người vì đạt không được những cái trong 5 cái dục lạc này
họ sẽ sanh muốn đi tu theo Phật. Cái kiểu này thật ra họ tu như vậy
đó, theo Thầy nghĩ chắc là họ thành ma chứ không thể nào mà giải
thoát được hết.
Đòi
hỏi dục lạc không được rồi bỏ đi tu thì cái kiểu đó không phải cái
người mà thấy được cuộc đời là khổ, thấy được cuộc đời sinh ra là
bao nhiêu cái thứ khổ dày đặc ở trong đầu của mình. Cho nên nếu mà
vô tu thời gian sau đó mà được người ta cung cấp tiền bạc, rồi cúng
dường, rồi xây chùa lớn cho mình thì bắt đầu cái anh này hết tu rồi
vì anh vui rồi, anh đạt được cái mục đích là dục lạc rồi. Cho nên
từ đó ông thầy bị dục lạc mất rồi. Cho nên vì vậy mà mình thất
vọng, thất tình, rồi mình vào chùa mình tu, cuối cùng thì đến chùa
ở một thời gian sau thì 5 cái thứ dục lạc này lần lượt nó đến,
đến nó ve vãn, nó khêu gợi, từ đó anh đâu phải là người có tâm tu,
xa lìa nó đâu. Tại vì anh đạt không được 5 cái đối tượng dục lạc
này, vì vậy mà anh bị nó cám dỗ thì từ cái hình thức của một vị
tu sĩ bị rơi vào trong cái này. Đó là những cái lạc lầm, cái không
hiểu của Thập Thiện.
Mà
khi một người hiểu biết, người ta mới thấy được 5 cái đối tượng này
làm cho chúng ta rất là đau khổ, nó cám dỗ chúng ta rất là lớn,
rất là mạnh. Lòng ham muốn của người đời khi được toại nguyện thì
phải trải qua vô vàn cực khổ. Nghĩa là chúng ta nếu mà ở ngoài đời
chúng ta muốn có tiền, chúng ta phải làm lụng hết sức mới có tiền.
Nhiều khi chúng ta phải tính toán suy tư, phải làm kinh tế bằng cách
này, bằng cách khác. Có nhiều khi chúng ta phải vào tù ra khám rồi
chúng ta mới lập nên sự nghiệp chứ không phải là ít. Chúng ta phải
khổ sở lắm thì cái sự nghiệp chúng ta mới có được chứ không phải
dễ. Nhiều khi mà chúng ta thành lập được cái sự nghiệp rồi chúng ta
ngồi ở trên đống vàng chưa chắc chúng ta đã yên. Ở đây Thầy nói như
Tâm Như đã chứng kiến được ngồi trên đống vàng mà chưa yên đâu. Thầy
là ngồi trên cái cục đá mà Thầy rất yên, bởi vì ăn trộm nó không lấy
cục đá; còn người ta ngồi trên đống vàng nhiều khi bước ra một bước
thấy mất mạng liền tức khắc, nó không yên cho nên tâm họ bất an, luôn
luôn bất an.
Lòng
tham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô
vàn cực khổ nhưng hưởng thọ thì sự vui đó thì rất là nhanh chóng.
Vì thế chúng ta cần phải suy tư cho kỹ càng. Đó là cái vấn đề tiền
bạc đó.
Bây
giờ tới sắc đẹp đây
Tham
sắc đẹp thì phải tổn phí tiền bạc rất nhiều lại còn mất sức khỏe
và hao tổn tinh thần.
Tham
tiền bạc thì phải đọa đày thân mạng lao động vất vả, đầu óc suy tư,
tính toán, kinh doanh để làm ra tiền, thân và tâm không bao giờ được an
vui, ngơi nghỉ, ngồi trên đống tiền như ngồi trên đống lửa.
Tham
danh vọng, quyền cao tước trọng thì phải vào luồn ra cuối nịnh bợ,
ton hót hoặc đem lo hối lộ. Chẳng hạn Thầy học dở mà Thầy muốn đậu
để muốn cho người ta nói Thầy đậu tú tài, Thầy đậu cử nhân thì giờ
mình phải đem tiền đem bạc hoặc là quà biếu cho mấy ông thầy chấm
thi, hoặc là coi ông thầy đó cho những bùa phép gì đó để rồi mình
quay cho nó đậu. Tất cả những cái này đều là những cái phải luồn
cúi, nịnh bợ bằng cách là bắt buộc mình làm như vậy để cho mình
tạo được cái danh vọng đó. Đó là cái sai cái không đúng.
Tham
ăn uống thì món ngon vật lạ thì lại mắc nhiều bệnh tật khó trị, ăn
uống phải điều độ - ăn uống phi thời thức ăn sẽ thành độc dược.
Tham
ngủ nghỉ thì trí tuệ tối tăm, mê muội, sanh biếng nhác thiếu ý chí
chủ động, thiếu nghị lực, dần dần biến thành kẻ ăn bám vào người
khác.
Người
cư sĩ theo Đạo Phật thường hằng ngày khắc phục và chiến đấu chống
lại lòng tham muốn của mình để không bị 5 thứ dục lạc này lôi cuốn.
Nhờ thế mới có được đời sống tri túc, thiểu dục, đơn giản, thanh tao
và an nhàn. Nhận được sự lợi ích cho đời sống con người khi đã lìa
xa tâm ham muốn thì được thảnh thơi, vâng vui, an lạc, không còn khổ đau
phiền não nữa. Phật dạy: Diệt tâm tham muốn là diệt đế.
Diệt đế là Niết Bàn là trạng thái tâm hồn thanh thản. Chỉ
cần không ham muốn là quý vị đã đạt được cảnh giới Niết Bàn. Chỉ
có 1 chút thôi, chúng ta đừng ham muốn, đừng có ham thích những cái
dục lạc đó thì ngay đó chúng ta đã có Niết Bàn rồi, có cần gì mà
phải tu nhiều, chỉ có 1 chút tâm đừng ham muốn là đủ rồi.
Vậy
thì quý vị có cần gì mà phải cực khổ ngồi thiền, nhập định làm
chi cho nó mất công? Chỉ cần dẹp qua cái lòng ham muốn là đã được
rồi. Nhưng nói như vậy đâu phải chuyện dễ. Nếu dễ như vậy thì ai cũng
làm Phật, cũng nhập được Niết Bàn được hết rồi. Khó lắm, cái lòng
ham muốn của chúng ta khó lắm, khó mà dứt được nó lắm.
Quý
vị đừng hiểu rằng khi tâm ham muốn dứt thì cuộc sống sẽ trở thành
tẻ nhạt. Có
nhiều người họ nghĩ rằng khi còn ham muốn thì chúng ta còn thích
thú, còn làm cái này còn làm cái kia, giờ hết ham muốn rồi bắt
đầu đời sống của mình không còn cái gì nữa hết, thôi chắc chắn là
ngồi đó mà chờ chết thôi chứ có ước muốn gì nữa đâu. Đó là cái
hiểu lầm lạc của quý vị, nó trở thành tẻ nhạt, nó trở thành vô
vị, không còn ý nghĩa gì trong cuộc sống. Còn ham muốn thì còn thấy
hy vọng cái này cái kia cho nên mình đâm đầu mình chạy bên đây chạy
bên kia mình tìm nó. Còn giờ hết ham muốn rồi còn tìm gì nữa đâu.
Cho nên đời sống bây giờ nó tẻ nhạt, sao mà lạnh lẽo vô cùng, con
người mà tâm không ham muốn nữa chắc chắn là tiêu chứ còn gì! Đó
là cái hiểu mà đứng ở trên núi này mà hiểu cái núi kia, làm sao
hiểu được!
Chúng
ta muốn hiểu nó chúng ta phải đi vào xem nó như thế nào. Vì vậy
Phật dạy ly dục thì được tâm thanh thản, giải thoát. Từ
cái chỗ mà mình không còn ham muốn nữa, mình lìa xa cái lòng dục
của mình, lòng tham lam đó thì cái tâm mình nó thanh thản, nó thanh
thản tức là nó giải thoát, chứ đâu phải tẻ nhạt đâu. Do
còn cái ham muốn mà không đạt được nó mới thấy tẻ nhạt, còn bây giờ
người ta không ham muốn thì tức là nó thanh thản, cho nên nó đâu tẻ
nhạt. Vì cái chỗ tẻ nhạt này do cái ham muốn mà không đạt được bây
giờ bắt buộc mình ngồi đây mà không ham muốn, chứ trong tâm của mình
một khối ham muốn ở trong đó. Cho nên nó mới thấy tẻ nhạt. Phải
hiểu được cái lý như vậy còn nếu không ông Phật ông bảo mình ly dục
mà hết dục rồi gọi là Niết Bàn. Thì trời ơi, cái Niết Bàn gì nghe
nó buồn khổ, sao nó không ham muốn gì hết trong đó. Thì như vậy mình
tu làm gì nữa. Cho nên từ đó mình mới thấy được cái mấu chốt của
nó, là cái mầm của nó là ham muốn dục lạc mà không đạt được. Cho
nên bây giờ ngồi đây cái tâm ham muốn cho nên mới thấy tẻ nhạt, nó
mới thấy lạnh lẽo ở trong đó. Chứ còn cái người mà người ta không
còn ham muốn thì người ta ly được nó rồi thì cái tâm hồn nó thanh
thản, nó giải thoát, nó đâu có tẻ nhạt, nó đâu có buồn khổ.
Cho
nên quý vị hiện giờ các con thấy như thế nào, cho các con độc cư, mà
riết độc cư các con thấy buồn khổ đó là tẻ nhạt đó, là vì
cái tâm ham muốn các con còn, chứ còn nếu cái tâm ham muốn, cái tâm
tham nó hết rồi thì đâu còn cái chuyện mà nó tẻ nhạt nữa đâu! Cho
nên các con sống độc cư thấy an lạc là vô cùng thì không bao giờ
thích nó nữa. Còn bây giờ thấy nó tẻ nhạt quá, nó buồn quá, thôi
đi ra nói chuyện chút cho nó vui, tức là các con sẽ không giữ được
hạnh độc cư. Vì vậy mà cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời
làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản giải thoát. Chính vì
mà các con sống không được độc cư là cái tâm ham muốn các con còn,
tham muốn nó còn đó. Các con hiểu chỗ đó mới thấy được cái
chỗ mà Thầy dạy nó rất là thực tế, cụ thể. Cho nên hầu hết một
số người tu hành về đây rất đông mà cuối cùng đến độc cư họ phải ra
đi, ra đi còn lại được 2 người mà thôi. Thì đủ biết rằng tại cái tâm
ham muốn của họ còn, cho nên họ thấy tẻ nhạt, cô đơn, buồn bã. Vì
vậy mà họ không chịu nổi, họ phải rời đi.
Sống
là sự trả nghiệp chớ không phải sự tham đắm, si mê về dục lạc. Ở đây, cái câu
nói này các con phải hiểu, nó rất là đầy đủ ý nghĩa của nó. Bởi
vì hầu như người ta lầm lạc, người ta tưởng cuộc sống này là phải
tham đắm những cái dục lạc đó, 5 cái dục lạc đó. Nhưng cuộc sống
là cuộc sống trả nghiệp, bởi vì cái nghiệp nó sinh ra chúng ta ra do
đó, những quả đó phải sẵn sàng cho cái bản thân của chúng ta rồi
vì vậy chúng ta phải trả nghiệp, thay vì vừa trả nghiệp vừa tạo
nghiệp thì nó mới có cuộc sống vị lai. Nếu mà chúng ta trả cái
nghiệp này mà chúng ta không tạo cái nghiệp mới thì làm sao có cuộc
sống tương lai được. Cho nên qua cái bài kệ Nhất Dạ Hiền thì quý vị
còn nhớ 2 câu đầu Thầy đã nói như thế nào không?
Quá khứ không truy tìm
Vị lai không ước vọng
Phải
không! Nếu mà quý vị không có truy tìm cái quá khứ, không có ước
vọng ở vị lai thì hiện tại quý vị sẽ sống như thế nào? Thanh thản!
Còn nếu quý vị đi tìm cái quá khứ, rồi ước vọng ở tương lai thì
như vậy quý vị còn có được an vui không? Như vậy là quý vị truy tìm
ở quá khứ và ước vọng ở tương lai thì đó là tham đắm, si mê của
dục lạc chứ đâu phải là người trả nghiệp?
Chúng
ta biết chúng ta sinh ra là những người đang trả nghiệp chứ không phải
chạy theo tham đắm của dục lạc. Chúng ta không hiểu được vậy, chúng ta
chạy theo tham đắm dục lạc vì vậy mà chúng ta tạo những cái nghiệp
mới, vừa là chịu trả những nghiệp cũ, và trái lại tạo thêm những
nghiệp mới do cái sự không hiểu biết. Quý vị có hiểu được
chỗ này quý vị mới thấy được con đường của Đạo Phật vạch ra chúng
ta một cái lối để chúng ta biết rằng chúng ta phải diệt trừ tất cả
nghiệp. Vì nghiệp là ông chủ mà sanh chúng ta ra, là chủ nhân sai
khiến chúng ta.
Người
đời lầm tưởng dục lạc là có thật, nghĩa là 5 cái món dục lạc hồi
nãy Thầy có nói như trên thì người đời, người chưa hiểu Phật Pháp
thì người ta thấy cái đó là cái thật. Mà chính bây giờ các con
người nào cũng là biết 5 thứ dục lạc đó nó không thật nhưng mà cái
không thật đó là quý vị mới ngộ được cái lý
không thật của 5 món dục lạc cho nên các vị chưa chứng được
cái lý của 5 món dục lạc này. Vì vậy mà các vị biết nó
như vậy, hiểu nó như vậy nhưng mà vẫn thích ăn. Phải không? Vẫn thích
ngủ. Đêm nào mà không ngủ là quý vị thấy nó khổ sở vô cùng tận. Đó,
quý vị có hiểu được điều đó không? Cho nên tiền bạc tuy rằng bây giờ
mình không có nhưng mà vẫn còn thích chứ đâu phải không thích. Rồi
sắc đẹp, đâu phải không thích. Rồi danh, không phải không thích. Tất
cả những cái này, 5 món dục lạc này đều biết nó là không thật
nhưng rồi quý vị vẫn còn thích nó.
Nếu
biết nó không thật thì quý vị muốn nó như thật, mà không thật này
thì quý vị phải tu tập như thế nào? Nếu quý vị không tu mà quý vị
cứ ngồi hít thở thì làm sao mà thấy nó như thật được? Cho nên quý vị
hiện giờ biết nó không thật nhưng vẫn thấy nó thật. Cho nên luôn luôn
dính mắc nó. Không thể nào mà chúng ta thoát khỏi nó được. Do vì
vậy mà hằng ngày mà Thầy dạy quý vị cái Định vô lậu để
làm gì? Để quý vị ngồi xếp bằng lại thân nó bất động, tâm nó yên
lặng, từ đó quý vị đặt cái niệm ngũ dục lạc này: ăn, ngủ; thức ăn
quý vị quán bất tịnh; ngủ nó sinh ra mê muội hôn trầm, quý vị đặt
cái niệm trước mặt, từ đó cái tri kiến ở trong đầu của quý vị nó
sẽ phóng ra, nó làm cho quý vị không còn dính mắc say mê nữa. Từ đó
quý vị mới thấy rõ được cái sự giải thoát nơi tâm hồn của quý vị.
Quý vị mới chứng được cái lý, cái lý không thật của nó, cái lý
của 5 thứ dục lạc này nó không có thật mà quý vị lầm chấp nó cho
nó là thật, cho nên quý vị mới có cái tâm tham đắm nó, si mê với
nó.
Đó
là quý muốn 5 cái dục lạc này nó không thật, nó không có thật quý
vị phải đặt niệm nó ở trước mặt, quý vị dùng cái tri kiến giải thoát của quý vị, quý vị phải
rõ có những tri kiến, cái tri kiến đầu tiên của quý vị là quý vị
hiểu, quý vị ngộ là 5 cái dục lạc này nó không thật, quý vị biết
đó là cái tri kiến của quý vị. Nhưng mà khi quý vị
đặt cái niệm 5 cái thứ dục lạc này trước của quý vị, quý mới
phóng ra cái sự hiểu biết, suy tư hiểu biết, quán xuyến sự hiểu
biết đó thì 5 cái thứ dục lạc này nó sẽ trở thành không có thật.
Do đó từ ngày này tu tập tới ngày khác tu tập cứ đặt cái niệm đó
trước mắt, quán xuyến rồi xả bỏ tất cả những dục lạc này để không
còn nó ham thích. Trong cái giờ mà nó buồn ngủ, tức là nó còn cái
dục lạc đó chứ gì, nó ham ngủ này nó còn mệt mỏi, nó còn lừ đừ,
nó còn muốn đi ngủ nè. Do đó quý vị thấy quý vị phải chiến đấu
nó bằng cách là quý vị phải đi kinh hành, quý vị phải động thân,
quý vị phải chiến thắng nó đừng cho nó ngủ trong cái giờ đó, nhất
định là không cho. Từ đó quý vị mới chiến thắng được cái dục lạc
này, từng cái dục lạc. Từ cái dục lạc ăn, nếu quý vị mà không quán
nó bất tịnh thì cái món ăn đó quý vị thích là quý vị không bao
giờ chứng nó cái lý như thật được, cho nên quý vị không thấy nó bất
tịnh. Còn để món ăn trước mặt quý vị, rồi quý vị đặt cái niệm đó
trước mặt quý vị, rồi quý vị quán bất tịnh cái thức ăn đó đi, lâu
ngày một lần hai lần ba lần, một ngày hai ngày, một tháng, hai tháng
tới một năm thì quý vị không còn muốn ăn nữa. Nghĩa là quý vị thấy
thực phẩm ăn để mà sống chứ không còn thèm ăn, thèm uống gì nữa
hết.
Đó
như vậy là cái phương pháp mà đặt niệm trước mặt để mà tu cái Định
vô lậu nó lợi ích cho quý vị như vậy. Làm cho cái tâm mà tham đắm
ngũ dục lạc này nó không còn dính mắc nữa.
Không
ngờ do si mê, tham đắm dục lạc nên tạo ra biết bao nghiệp ác. Do nghiệp ác mà
chúng ta mới chịu biết bao sự khổ đau. Đó, từ cái chỗ mà chúng ta
đắm đuối theo những cái dục lạc này mà chúng ta tạo ra những cái nghiệp
ác. Muốn đạt được nó, nó phải có nhiều thứ ác ở trong đó, chứ
phải khi không mà nó đạt được, do đó mà chúng ta lại tạo ra nhiều
cái nghiệp mới, làm cho chúng ta đời đời kiếp kiếp nó tiếp diễn
nhau ở trong cái nghiệp lực của nó chứ đâu có gì khác hơn để rồi
chúng ta mãi mãi đau khổ triền miên bất tận, kiếp này đến kiếp
khác.
Kinh
Thập Thiện nghiệp đạo dạy: Kẻ nào không tham đắm dục lạc thế gian
thì được 5 món công đức tự tại:
1. Ba nghiệp thân, khẩu, ý được
tự tại. Về nhân các căn đầy đủ. Về nhân tức là 3 cái ý của mình
được tự tại về cái thân của mình. Các căn đầy đủ, sáu cái căn
chúng ta đầy đủ không hao mất.
2. Của cái được tự tại. Nghĩa
là của cải chúng ta nó không có sự hao mất cái này, cái kia, cái
nọ. Nó rất là tự tại.
3. Phước đức tự tại.
4. Ngôi vua tự tại. Nếu mà chúng
ta làm vua thì nó rất tự tại, nó không còn lo giặc giã, nó không
còn lo quan quân của mình ăn lo hối lộ làm những điều xằng bậy dân
chúng đau khổ, toàn là những người quan trung thành, đều là thanh
liêm, đều là vì dân, vì nước mà lo chứ không là ăn lo hối lộ. Có
nhiều người làm vua mà ngồi ở trên ngai vàng mà quan cuả mình, xung
quanh mình, làm việc với mình những ông quan này ăn no hối lộ
làm cho dân khổ mà ở trên mình không hay biết cho nên ông vua đó đâu có
tự tại không. Rồi làm vua mà giặc giã đánh ở biên cương chỗ này chỗ
nọ chỗ kia thì ông vua đó có tự tại không? Không bao giờ tự tại
được. Cho nên cái người mà giữ gìn được cái công cái tâm mà không có
những tham muốn này, tránh xa được 5 món dục lạc này thì ông vua
được cái phước báu là tự tại trên ngôi vua. Đó là cái thứ 4.
5. Được hưởng lợi gấp trăm lần.
Đó
là về cái phần của cái ý mà chúng ta tu được cái tâm không tham
muốn thì được như vậy.
9.
Không sân hận
Cái
tâm của chúng ta, cái ý của chúng ta dễ sân hận lắm. Tâm sân hận là
tâm đau khổ, tâm hung, tâm dữ tợn. Tâm sân hận vốn không có, chỉ
vì chúng ta lầm chắc thân tâm của mình là ngã thật từ đó mới
luôn luôn bảo vệ, che chở, nếu ai chạm đến nó, tức là cái thân tâm
của mình đó tức thì cơn sân nổi lên đùng đùng.
Cho
nên ở đây quý vị thấy do cái chỗ nào mà có cái tâm sân của mình? Do
cái chỗ lầm chấp cái ngã của chúng ta. Vậy thì cái thân của chúng
ta là cái ngã của mình, tâm của chúng ta là cái ngã của mình, lầm
chấp cái đó cho nên người ta đụng tới cái ngã, ngay đó mình giận lên
liền. Cho nên vì vậy mà chúng ta tu cái Định vô lậu thì
chúng ta đặt cái thân và cái tâm để quán cái thân của mình có cái
ngã ở trong đó không? Nó vô ngã. Cho nên Phật dạy: Vô thường, khổ,
không, vô ngã. Nó không có cái gì hoàn toàn, cái ngã cũng không
có, nó vô thường. Cái thân này nay vậy mai khác. Cho nên khi mà đặt
niệm như vậy chúng ta phá trị cái ngã, mà phá trị cái ngã thì còn
cái gì mà chúng ta sân, cho nên chúng ta phá ngay cái gốc của nó đi
thì cái sân của nó sẽ không có.
Còn
bây giờ chúng ta cố gắng, ờ biết mọi pháp là vô thường này kia mà
chúng ta không đặt niệm để tu tập cho nó thấm nhuần được như cái lý
chơn thật của cái vô ngã đó thì lúc bấy giờ chúng ta có nói tất
cả các pháp người ta chửi mình cũng là giả, cũng không thật, người
ta mắng mình cũng là điều vô thường bằng cách này cách khác nhưng
mà đó là cái lý để mà chúng ta hiểu, chúng ta ngộ, chưa phải là
chúng ta thấm được cái lý chứng được cái lý đó.
Cho
nên vì vậy chúng ta đặt cái niệm trước mặt của chúng ta, cái vô ngã
trước mặt của chúng ta, đặt cái thân tâm chúng ta rồi chúng ta quán
xét nó vô ngã. Nó vô như thế nào, nó không ngã như thế nào, cái tâm
nó như thế nào, chúng ta 4 cái chỗ để mà chúng ta quán xét nó, để
nó trở thành vô ngã. Từ đó cái tâm sân của chúng ta nó không bao giờ
có nữa. Cho nên ở đây Thầy giảng ra nó, để cho chúng ta có một cái
hành động tu tập để diệt trừ cái tâm sân của mình, để thực hiện được
điều lành mà cái tâm không còn sân nữa. Chớ không phải nó không sân
rồi mình nói, mình giảng suông mà không biết hành động tu thì như vậy
mà không biết cái định nào để tu cho được cái tâm hết sân thì như
vậy chúng ta chưa bao giờ hết sân.
Trước
kia, Thầy dạy quý vị tùy thuận nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng trong
mọi điều kiện, để cho quý vị sống trong cái cuộc đời... Tùy thuận
bằng lòng mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh để tâm sân, tâm phiền não
của quý vị không có nhưng Thầy thấy qua cái sự thiếu sót đó làm cho
quý vị chuyên tâm về cái thiền định hơi thở nhiều hơn mà cái định vô
lậu không có. Chỉ có cái ngộ được cái lý của nó cho nên quý vị chỉ
chịu đựng mà nhẫn nhục, chịu đựng mà tùy thuận, chịu đừng để mà
bằng lòng. Mà cuối cùng thì xét thấy qua cái tu tập của quý vị
Thầy biết có 1 sự thiếu khuyết ở trong đó cho nên nó mới giậm chân
tại chỗ, vì vậy bây giờ quý vị sẽ theo ngay cái lời dạy của Đức
phật đặt cái niệm trước mặt để mà quán cái thân vô ngã, cái tâm vô
ngã, từ đó nó không có cái ngã thì cái tâm sân nó sẽ không có nữa.
Một
niệm tâm sân khởi thì trăm ngàn tai họa đem đến, biết vậy hàng ngày
chúng ta thường nhắc tâm: giận hờn là đau khổ, là bao nhiêu tai
nạn xảy đến, giận hờn khiến gia đình bất an, không vui, vậy từ đây
về sau tâm không được giận hờn, tâm phải như cục đất. Thì như
vậy đây là cái phương pháp hướng tâm tu, tức là phương pháp ám thị. Kèm
theo phương pháp ám thị, chúng ta phải đặt cái niệm vô ngã thì
như vậy chúng ta mới hoàn thành được cái tâm không sân hận,
không giận hờn nữa.
Đó
thì quý vị phải áp dụng cả 2 phương pháp chứ không phải
áp dụng có một phương pháp không thì nó không đủ đâu, không đủ sức
mà chuyển nó đâu, vì bằng chứng là trải qua thời gian quý vị cũng
dùng pháp hướng, quý vị ám thị rất nhiều mà nó chưa thành tựu
được. Cho
nên hôm nay quý vị đặt luôn cả cái thân, cái tâm nó vô ngã để quý vị
quán xét, quán triệt, để thấm nhuần thấu suốt cái lý vô ngã của
nó, để quý vị phá đi cái lậu hoặc của quý vị. Cộng lại các phương
pháp tu tập vậy làm cho tâm sân của quý vị không còn có nữa. Hàng
ngày phải nhớ câu này, nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho thấm nhuần cho
tận xương tủy, có như vậy tâm sân hận mới đoạn diệt.
Đó
là Thầy đưa ra 2 cái pháp để quý vị tập luyện để cho cái tâm sân
này nó hết.
Do
dằn không được sự giận hờn nên từ việc nhỏ sẽ nở ra việc to lớn,
từ đó biết bao nhiêu tai họa xảy đến không lường trước được. Tâm sân
nó thường mang đến nhờ sự rắc rối và tạo ra vô vàn đau khổ. Nếu tâm
sân không dằn được có khi gây ra án mạng tạo cảnh tù tội chung thân.
Quý vị phải ý thức sân hận nó thường mang đến tai họa cho loài
người, chính nó làm mất đi hạnh từ bi của người tu sĩ và lòng nhân
ái của người thế gian. Thế thì cái tâm sân của quý vị nó diệt đi
cái lòng từ bi của vị tu sĩ. Mà tâm sân của quý vị nó sẽ diệt đi
cái lòng nhân ái của người cư sĩ. Vì vậy quý vị phải tìm mọi cách
mà chấm dứt nó đi.
Trong
tứ chánh cần Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh, không cho sanh,
đã sanh cần phải đoạn diệt, như vậy là cái tâm sân của mình tự
nó đâu có đâu. Cho nên bây giờ đừng cho nó sân, mà đừng cho nó sân các
vị phải sống như thế nào? Cho nên các vị phải sống độc cư, không có
duyên để cho nó tạo ra cái cảnh sân đó, mà có duyên tức là cái tâm
sân nó sẽ sanh ra. Còn quý vị chung đụng mãi với nhau thì tâm sân quý
vị làm sao tránh khỏi.
Đó
là những điều mà quý vị cần phải tu tập, cần phải sống cho đúng. Đoạn
diệt các pháp ác là một điều khó khăn, phải có nghị lực, ý chí
cương quyết. Như bây giờ tâm sân của quý vị nó bừng bừng nổi
lên, bây giờ quý vị ngắt lìa nó, bảo quý vị đừng có sân liền, quý
vị có làm nổi không? Nếu một người không có ý chí, không có nghị
lực, chắc gì quý vị giữ được nó, đoạn dứt nó được. Cho nên nói khi
mà pháp ác sanh lên thì ngay đó phải đoạn dứt nó liền. Bởi vị trong
tứ chánh cần Phật dạy: Các pháp chưa sanh thì không cho sanh, đã sanh
phải đoạn diệt nó liền. Đoạn diệt nó liền quả là khó khăn,
nếu mà không có ý chí, không có nghị lực thì không thể nào đoạn
diệt nó được, chúng ta hãy đem hết ý chí dũng mãnh để chiến thắng
những cơn sân phát khởi ào như thác đổ.
Muốn
làm chủ hoàn toàn tâm mình không để một phút giây sân hận khởi lên
thì phải dùng tuệ tri, quán xét, đặt niệm trước mắt. Đó là Thầy
nhắc lại cái chỗ tu cái Định vô lậu đó. Chúng ta phải rõ: thứ
nhất chúng ta phải trau dồi tâm từ bi của mình; thứ 2 chúng ta phải
quan sát thọ, tưởng, hành, thức, vô ngã, vô thường. Chúng ta
phải đặt cái niệm sắc thọ tưởng hành thức. Sắc là cái thân của
mình. Thọ là cái cảm giác. Cái tưởng là cái ngồi tưởng nhớ. Cái
hành là cái hoạt động. Cái thức là cái biết của mình. Đặt nó để
mà chúng ta quan sát, để chúng ta tu cái định vô lậu, phá cái ngã,
cái chấp ngã của chúng ta. Chúng ta cho nó là thường còn, cho nó là
có ngã thật cho nên nó mới có cái tâm sanh đó. Cho nên phải đặt cái
niệm đó.
Cái
thứ nhất là quý vị phải nhớ trau dồi cái tâm từ bi vì Phật dạy
cái tâm từ bi nó sẽ đối trị cái tâm sân mà ở đây nó chưa đủ đâu, trau
dồi từ bi chưa đủ đâu. Bởi vì chúng ta biết có cái ngã cho nên có
trau dồi cái từ bi bao nhiêu đi nữa thì cái ngã nó vẫn nổi lên thì
từ bi chúng ta sẽ mất. Cho nên chúng ta phải đặt cái niệm để
chúng ta dùng cái Định vô lậu để chúng ta quét sạch cái chấp lầm
của chúng ta về sắc thọ tưởng hành thức này. Do đó chúng ta quán vô
ngã, vô thường khổ không thì tức là nó làm cho cái đối tượng đó
không còn có nữa, tâm sân nó bị diệt đi nhờ thông hiểu.
Bởi
vì cái giai đoạn đầu chúng ta vào đạo Phật chúng ta phải đi tìm
hiểu cho rốt ráo, vậy bây giờ hiểu rồi, chúng ta trau dồi tức là
chúng ta dùng Tứ vô lượng tâm, từ - bi - hỷ - xả mà chúng ta tu. Rồi
bây giờ chúng ta dứt bỏ, chúng ta phải tu tập Tứ chánh cần là chúng
ta dứt bỏ. Rồi chúng ta tu tập, chúng ta tu Định vô lậu, rồi Định
chánh niệm tỉnh thức, đó chúng ta thấy tất cả các pháp chúng ta
đều kê vào để mà chúng ta tu tập. Từ đó mà chúng ta mới
quán các pháp bất tịnh, quán lý duyên hợp, quán vô ngã, vô thường,
khổ … chúng ta quán tất cả các pháp.
Do
sự tu tập đúng cách như vậy, chúng ta mới thực hiện được Thập Thiện
chứ đâu phải Thập Thiện mà dễ dàng. Nó đâu có đơn giản như chúng ta
nghĩ, học hiểu rồi chúng ta bỏ qua, rồi chúng ta bỏ qua thì Thập
Thiện chẳng qua là đống sách rởm, đống kinh chứ không phải là nó có
điều lành chân thật. Có đạo đức chân thật nơi tâm hồn của chúng ta
thì tâm sân hận mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui, giải thoát.
Kinh
Thập Thiện đạo dạy: Kẻ nào làm chủ được tâm sân thì được 8 món công
đức. Đây là 8 sự công đức của việc tu tập về tâm sân của mình:
1. Tâm không tổn não.
2. Tâm không giận hờn.
3. Tâm không tranh giành.
4. Tâm được hòa hợp.
5. Tâm được từ bi.
6. Tâm thường làm lợi ích và an
vui, an ổn cho mình cho chúng sanh.
7. Thân tướng được trang nghiêm.
8.Có đức tánh nhu hòa và nhẫn
nhục, khi chết đi được sanh vào cõi thiện.
Đó
là 8 công đức mà người tu tâm này được thì đạt được 8 công đức đó.
10.
Không si mê
Bây
giờ đây là cái hành động cuối cùng của ý của chúng ta, đây tức là
không si mê. Si mê là u mê, không hiểu rõ, không biết đúng sự thật,
hiểu biết mà không đúng chân lý. Si mê là tà kiến.
Người
không si mê là người phán đoán rành rẽ, nhận định một cách rõ ràng,
không biện minh che đậy sự ngu si u tối và lầm lạc của mình. Cho nên
cái người si mê không phải cái người đó không hiểu biết, cái người
đó rất hiểu biết nhưng họ hiểu không rõ, không đúng, không đúng cái
lý, họ hiểu qua một cái tâm tham đắm, dính mắc ngũ dục lạc. Họ rất
là thông minh mà họ vẫn là u tối, bởi vì họ hiểu mà họ không làm
cho cái tâm của họ được an vui, được yên ổn.
Người
không si mê thì không có cố chấp, ngoan cố theo cái sự hiểu biết riêng
tư chủ quan của mình. Cái người si mê họ ngoan cố, họ cố chấp, họ
chấp chặt những cái sự hiểu biết của họ, cho nên ai mà động đến
cái sự hiểu biết của họ thì họ tranh luận, họ lý luận đủ cách để
họ bảo vệ cái sự hiểu biết của họ. Cho nên cái người mà thông minh,
người mà không si mê thì người ta không bị cố chấp cái đó nên ít khi
nào người ta tranh luận với kẻ khác. Người ta chịu nhịn thua người
khác. Còn cái người mà si mê thì họ thích tranh luận. Không phải
những người si mê là người không hiểu, họ hiểu họ mới tranh luận
nhưng mà họ tranh luận theo kiểu kiến chấp của họ, cái sự ngoan cố
của họ, cái sự cố chấp của họ chứ không phải là cái sự ngu si, ngu
ngờ họ không biết.
Không
si mê, không tin những tà thuyết, người mà không si mê thì những tà
thuyết họ không bao giờ họ tin; không đúng chân lý, những tà kiến, mê
tín dị đoan, không làm cho người này tin được. Cái người mà si mê
những cái gì mà nó mù mờ, họ thấy những cái gì đặc biệt kỳ quái
là họ tin theo chứ không có sáng suốt, cho nên đó là những người si
mê.
Người không si
mê là người có trí tuệ thông minh, thấu suốt lý nhân quả. Đây
các con sẽ nghe cái chỗ mà người không si mê là cái người
mà thông minh phải thấy ở chỗ nào, còn cái người thấy hoàn
toàn ngoài vấn đề này thì người đó đều gọi là người si mê. Người
không si mê là người có trí tuệ, thông minh, thấu suốt lý nhân quả
luân hồi. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ 2 là biết rõ thế giới này
không có thế giới siêu hình. Biết rõ lý duyên hợp. Đó, phải biết rõ
thập nhị nhân duyên, đó là lý duyên hợp, thế giới thành hoại, cái
thế giới mà chúng ta thành hoại này nó do đâu mà thành và do đâu mà
hoại, đó vì vậy mà chúng ta phải thấu suốt được cái nghiệp đó.
Ở đây nói thế giới thành hoại là phải thấu suốt được nghiệp.
Người
không si mê thấy biết và thấu suốt 4 chân lý của kiếp người, 4 chân lý của
kiếp người là Tứ diệu đế; biết rõ nơi đến nơi đi của kiếp người, người
ta ở đâu người ta đến đây, người ta về chỗ nào, thì cái người đó họ
phải thấu rõ được cái điều đó, chứ họ không mơ hồ đặt câu hỏi không
biết chúng ta từ đâu mà đến, chúng ta chết rồi chúng ta đi về đâu,
thì cái đó còn mơ hồ. Cho nên đó là những người còn si mê, dù là
một nhà bác học, dù là một người có bằng tiến sĩ nhưng họ vẫn
đặt câu hỏi đó, họ chưa biết, do đó họ còn si mê chứ chưa phải là
người không si mê.
Biết
rõ con người là duyên hợp. Người không si mê là biết rõ con người là
duyên hợp, các pháp trên thế gian này đều vô thường, vô ngã, khổ, đều
là duyên hợp, đều là vô thường, vô ngã không có ngã, nó luôn luôn là
cái khổ. Biết nhân nào, duyên nào sanh ra con người. Biết địa ngục,
thiên đàng ở đâu. Biết các cõi trời, biết rõ ma phạm thiên vương, quỷ
thần. Biết rõ con người có linh hồn hay không linh hồn. Biết Bát chánh
đạo và các pháp tu hành giải thoát. Người biết rõ như vậy là người
không si mê. Người không thấu rõ những điều này được xem là người si
mê dù người đó có học thức cao, đậu bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ và
những nhà bác học rộng rãi hiểu xa mà vẫn còn mù mờ không rõ
những điều trên đây cũng được xem là vô minh, si mê.
Vì
thế Đức Phật xác định người si mê có 4 cách. Nghĩa là
trong bài kinh đức Phật xác định, Thầy sẽ đọc lại cái chỗ đức Phật xác
định:
Một,
“Có
người đi Đông, đi Tây học hỏi cái này, cái nọ hiểu biết nhiều chuyện
kim cổ, thời tiết, chính trị, văn học, khoa học, kiến trúc, hội họa,
thi thơ…có thể gọi người này tri kiến hoàn toàn nhưng những sự hiểu
biết này tâm họ luôn bất an đều được gọi là phi phạm hạnh, si mê
hạng nhất”. Cái sự hiểu biết của họ được Phật xác định là người
phi phạm hạnh, si mê hạng nhất. Chúng ta phục lăn Đức Phật ở chỗ
này. Mặc dù những người này họ thông hiểu vậy, nhưng tâm họ vẫn
bất an chứ chưa phải là được an, vì vậy Đức Phật gọi là thuộc loại
si mê hạng nhất.
Đây
là cái phần thứ 2, Phật gọi: “Y cứ vào kinh sách mà giảng
nói ra hoặc những truyền thuyết, sự hiểu biết, sự giảng dạy, sự
giảng nói này mà tâm họ vẫn bất an thì đây được gọi là phi phạm
hạnh, si mê hạng nhì”. Trong kinh điển Phật chỉ cho chúng ta thấy, dù
cho những người đó thuyết giảng mà tâm họ luôn bất an, còn chạy theo
ngũ dục lạc thì người đó vẫn là người bất an.Vì chúng ta thấy họ
thọ hưởng những cái dục lạc thế gian là biết rằng họ bất an chứ
không phải họ an được mặc dù họ thuyết kinh rất hay, họ giảng rất
hay nhưng họ vẫn sống trong dục lạc là biết tâm họ bất an thì đó là
si mê phi phạm hạnh thứ nhì.
Ba, suy luận, lý
luận, thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng tác mà tâm còn dính
đầy danh sắc, tâm luôn bất an thì đây là phi phạm hạnh, si mê hạng 3.
Đó thì chúng ta thấy Đức Phật xác định 3 cái hạng này. Còn cái
hạng thứ 4 nữa, thuộc về loại si mê đó chứ không phải là hạng thông
minh đâu, nhưng mà chúng ta nhìn thấy là hạng thông minh chứ không si mê
chút nào hết, nhưng tại vì họ không hiểu cái lý giải thoát cho nên
từ đó cái tâm họ bất an mà Đức Phật cho cái hiểu của họ chỉ là cái
hiểu si mê chứ không phải là cái hiểu giải thoát.
Bốn, đần độn, ngu si.
Đây tới cái người mà đần độn, nói ra không có hiểu, Đức Phật ghép
cho họ vào cái loại si mê đó. Đần độn, ngu si tức là nói gì họ
cũng không hiểu, hỏi cái này thì đáp cái kia, hỏi cái kia thì đáp
cái nọ, họ không hiểu họ nói tầm bậy tầm bạ không trúng. Phật nói
“trườn uốn như con lươn”, họ trườn qua bên đây, lách qua bên kia trả lời
theo cái kiểu đó tức là cái hạng người mà không hiểu đó. Tâm người
này thường bất an. Đó là hạng người phi phạm hạnh, si mê thứ 4.
Đó
thì nắm đủ hết 4 hạng người này ở trong cái mà Đức Phật xếp trong
hạng si mê, thì nó nằm trong cái ý si này thì nó nằm trong những
cái điều kiện mà Phật vạch ra cho chúng ta biết rằng, chúng ta sẽ
xét thấy những hạng si đó là cái tâm họ luôn luôn bất an, họ không
có thấu hiểu. Như vậy là hiện bây giờ quý vị hoàn toàn đang
có sự hiểu biết rất thấu suốt kinh sách mà tâm quý vị bất an đều
được gọi là si chứ chưa được gọi là thông minh đâu. Đó bây giờ quý
vị có ai mà xác định mình là người không si không? Chắc chắn là
không có rồi đó. Vì vậy hôm nay Thầy dạy Thập Thiện mà quý
vị xét qua các bài kinh của Phật xác định cho chúng ta ở điểm si.
Chứ nhiều khi chúng ta chưa biết là ai si đâu, chưa biết như thế nào
gọi là si đâu, bây giờ quý vị đã rõ rồi.
Bây
giờ cũng hết giờ rồi, Thầy xin dừng tại đây, rồi sẽ tiếp tục kỳ
tới chúng ta sẽ học tiếp theo cái phần này, nó rất nhiều để rồi
cái phần mà kết luận cái Thập Thiện. Như vậy chúng ta học 2 ba lần
rồi mà chưa hết Thập Thiện thì quý vị thấy cả cái giáo án mà Thầy
trong 3 tháng không viết không biết nó có tròn hay không nhưng mà Thầy
cố gắng cô đọng lại chừng nào tốt chừng nấy. Nhưng mà Thầy giảng
như vậy Thầy tin rằng quý vị chắc có lẽ dễ hiểu, còn cô đọng lại
không biết là nó có thể hiểu nổi không nhưng mà Thầy ráng như thế
nào để cho quý vị hiểu cho rõ, mới học có Thập Thiện mà quý vị
đã thấy được đã nhận được cái rõ của cuộc đời này qua những cái
si mê, cái sân hận. Những cái pháp để mà tu, để diệt tham sân si của
mình. Thì tất cả những cái này chúng ta đều đi lại đúng con đường
của Đạo để chúng ta thực hiện từ bước đầu. Để rồi cái giáo án
này ra đời thì quý vị là những người thực hành ngay từ bây giờ và
tiếp tục kế tiếp sau này khi Thầy ẩn bóng không có mặt thì quý vị
cứ theo đó. Mà con đường này Phật đã dạy đó là Thầy của quý vị,
chứ không phải Thầy, Thầy chỉ là người có kinh nghiệm tu hành rồi
góp nhặt lại những lời Phật dạy mà thành lập lại một cái con
đường đi có thấp đến cao, có dễ đến khó, để cho quý vị đi được chứ
Thầy không có cái gì của Thầy ở trong này, hoàn toàn Thầy không có.
Thầy chỉ kết tập lại cho nó đúng từ thấp lên cao của nó thôi chứ
hoàn toàn không có cái gì mới, toàn là của Phật dạy. Cho nên Thầy
không có gì hết, Thầy chỉ có cái công để mà giúp cho quý vị biết
con đường đi, đi cho đúng và từ đó quý vị sẽ đi trên con đường đó,
nó sẽ tới đích giải thoát, chứ không có gì mà khó khăn hết.
Từ
tới Thầy giảng thiền định, bốn cái thiền của Phật thì Thầy giảng
cũng rất rõ, biết từng cái sai, cái đúng của mình để quý vị cảnh
giác mà quý vị đi trên con đường đó, mà lúc bấy giờ không có Thầy
quý vị vẫn đi được trên con đường đó mà không sai.
Đó
thì hôm nay Thầy ra công, Thầy cố gắng mà Thầy thấy một số băng mà
hằng ngày nó cứ như thế này thì chắc chắn chúng ta phải tốn một số
băng cũng rất nhiều, vì cái Thầy giảng nó khác, mà cái viết ra
thành cuốn sách thì nó khác, bởi vì giảng Thầy phải lặp đi lặp
lại, nhắc đi nhắc lại rất nhiều, giảng rồi phải cô đọng lại và
nhắc lại để cho chúng ta nhớ tới, nhớ lui. Những cái lời
mà Thầy giảng mà ghi được trong băng, cái gì mà Thầy nhắc nhiều thì
cái đó nó làm cho quý vị thấm nhuần chứ không phải là nó thừa đâu,
nó không thừa đâu. Cho nên vì vậy khi mà viết ra thành
sách thì những cái điều đó chúng ta phải gạch bỏ hết bởi vì lặp
đi lặp lại thì sách nó không thể vậy được. Cho nên chúng ta phải
viết cái nghĩa đó rồi thì đi tới cái nghĩa khác. Cho nên cái cuốn
sách mà viết ra, cái giáo án này viết ra mà in thành sách thì tức
là nó không có lặp đi lặp lại bằng những cái lời nói của Thầy ở
trong băng đâu. Bởi vì Thầy nói ở trong băng tức là lặp đi lặp lại,
làm cho quý vị thấm nhuần được cái đạo lý của nó, nhấn vào cái
chỗ nào mà đúng, chỗ nào sai để cho quý vị tu tập cái đó nhiều,
cái ít. Cái nào mà Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều tức là cái
chỗ đó quý vị phải tu tập nhiều, còn cái chỗ nào mà Thầy lướt
qua là cái chỗ đó nó không cần thiết lắm để hiểu mà thôi.
Đó,
quý vị nhớ những cái điều như vậy cho nên cái lời nói của Thầy ở
trong băng rất là quan trọng chứ không phải thừa đâu. Những cái mà
Thầy lặp đi lặp lại đó là cái để nhắc nhở cho quý vị tu hành
nhiều cái chỗ đó, tập luyện nhiều cái chỗ đó hơn, chứ không
nên coi thường những cái chỗ đó.
Đó
là những cái Thầy trao lại những cái điều mà Thầy nói hôm nay là
khi mà Thầy không còn gặp quý Thầy nữa, không còn gặp quý vị nữa
thì quý vị còn nghe được cái lời mà nhắc đi nhắc lại rất nhiều,
đó là một cái lời ông cha đã nói với các con phải lo làm ăn như
vậy, như vậy thì mới sống được ở trong cõi thế gian này, mới tìm
được con đường giải thoát, đó là quý vị phải nhớ.
Vì
vậy hôm nay được những điều này thì quý vị phải nỗ lực thực hiện
những gì Thầy nói, phải làm cho đúng đừng làm sai. Bởi vì không còn
con đường nào mà có thể đạt được cái sự làm chủ sanh tử, chấm dứt
luân hồi bằng cái con đường mà Thầy vạch ra cho quý vị đi. Nghĩa là
từ trước đến giờ, hàng bao nhiêu năm chưa có thành lập được cái giáo
án này. Mặc dù Thầy đã nói HT Thiện Hoa, ngài viết cái bộ Phật
Học Phổ Thông, đó là cái giáo án đầu tiên của Phật giáo từ thấp
đến cao để chúng ta biết rõ ràng, nhưng đây là giáo thuyết để chúng
ta hiểu Phật giáo chứ không phải là cái giáo trình để chúng ta tu
tập.
Còn
Thầy viết cái giáo án này là giáo trình tu tập, ngay từ vô cái
giáo trình đầu tiên thì một người cư sĩ đến với Đạo Phật thì phải
thay đổi 6 cái nghề nghiệp liền, thì các vị thấy rõ ràng cái hành
động chúng ta phải thay đổi tức là chúng ta tu đó, nó bước đầu vào
hành động. Còn cái kia khi mà vào thì HT dạy cho chúng ta nghe, hiểu,
biết cái lịch sử của Đức Phật, cho nên nó đâu có biến ra cái hành
động của quý vị đâu. Rồi Tam quy, rồi Ngũ giới, chỉ nói như vậy thôi,
chứ đâu biến ra cái hành động. Rồi dạy tới Thập Thiện, quý vị có
thấy biến ra hành động được không? Đâu có dạy chúng ta áp dụng cái
định vô lậu để tu Thập Thiện như thế nào, dạy Tứ vô lượng tâm thực
thiện Thập Thiện như thế nào, trau dồi nó như thế nào, dạy Tứ chánh
cần để đoạn dứt ác. Dạy tứ chánh cần thì HT dạy Tứ chánh cần,
chứ đâu có nói áp dụng trong Thập Thiện, còn Thầy dạy rất rõ để
cho quý vị biết áp dụng vào chỗ nào, chỗ nào ở trong 10 cái điều
lành này. Vì 10 cái điều lành này là con đường cuối cùng giải
thoát tham sân si. Vì ý của chúng ta mà diệt được tham sân si là 3 độc, mà
3 độc diệt được tức là chúng ta đã sống ở trong Niết Bàn rồi.
Cho
nên nói đến Thập Thiện quá tầm thường nhưng xét qua 3 cái độc của
tham sân si này, chúng ta thấy nó không tầm thường đâu, nó cả 1 vấn
đề, bao nhiêu Thiền định của Phật nhắm vào chỗ này để giải quyết
nó, để cho nó đi đến con đường giải thoát hoàn toàn. Cho nên những
cuộn băng mà Thầy giảng cho quý vị mà được thu như thế này nó là
một gia tài quý báu mà của Phật đã từng để lại mà từ xưa đến giờ
nó là những bài kinh rải rác, nó không kết tập được cái thấp, cái
cao, cái dễ, cái khó cho nên quý vị không biết cái đường nào mà quý
vị vào.
Hôm
nay Thầy đã chỉ cho quý vị biết cái đường vào, biết cách thức tu
tập, như nãy giờ quý vị đã nghe rõ rồi chắc chắn quý vị sẽ biết
được cái đường lối mà quý vị sẽ tập cái gì trước, cái gì sau. Đây
mới có giai đoạn 1 thôi, còn giai đoạn 2, giai đoạn 3 rồi giai đoạn 4,
lần lượt tất cả các giai đoạn tu tập đều được Thầy bố trí, bố cục
một cách chặt chẽ, vừa hiểu mà vừa tu, vừa học, vừa tu, nó có cái
thực hành, nó có cái sự trau dồi, nó có sự dứt bỏ ở trong đó nó
rất rõ ràng mà Phật đã dạy trong những bài kinh Thầy thấy quá
tuyệt vời.
Không
có một tôn giáo nào mà nó thực tế và cụ thể như là giáo lý của
Đạo Phật dạy chúng ta thực hiện từ thân tâm của chúng ta chứ không
phải dạy chúng ta mênh mông ở ngoài, không phải dạy chúng ta mê tín
cầu khẩn, cúng bái mà dạy chúng ta thực hiện ngay cái đau khổ trong
thân tâm của chúng ta.
Cho
nên ở đây trên con đường mà tu tập, Thầy thấy quý vị là những
người có phước nhất ở trong cuộc đời này, được nghe những cái
này mà do từ kinh nghiệm tu hành của Thầy nói ra mà không sai một
mảy của Đức Phật ngày xưa đã dạy các đệ tử của Ngài. Cho nên không
bao giờ chúng ta lầm lạc được, chúng ta có một cái bản đồ, có một
cái lối đi, có một con đường tu tập thật sự rõ ràng bằng hành động
của chúng ta, chúng ta làm chủ được cái sống chết và chúng ta chấm
dứt được tái sanh luân hồi của mình, cụ thể rõ ràng không còn mơ hồ
nữa, không còn lạc lầm nữa, Thầy xác định điều đó là điều thực.
Đạo Phật thực, rất thực không có dối ai hết, không có gạt người,
không nói như vậy mà không làm được, làm được nhưng mà phải tu tập cho
đúng cách, chớ tu tập không đúng cách thì không đạt được. Thôi đến
đây Thầy xin chấm dứt.
***
SÁU
NGHIỆP ÁC TỔN HAO CỦA CẢI VÀ PHÍ SỨC
Bây
giờ các Thầy nghe tiếp theo. Lúc hồi nãy Thầy có giới thiệu 6 cái
nghiệp ác làm tổn tài hao của và phí sức:
1.
Là đam mê rượu chè
Vậy
thì uống rượu, ở đây Phật nói có 6 cái lỗi chứ không phải nói đơn
giản, khi một người mà uống rượu có 6 cái lỗi để đưa đến cái chỗ
hao tài tốn của.
- Vậy thì cái lỗi thứ
nhất của nó là mất của. Nghĩa là cái người mà say rượu thì khi
mà say rồi thì tiền bạc bỏ trong mình thì người ta lấy không có
biết, hoặc là mình đi say sưa rồi làm rớt mất thì mình không có
biết, cho nên gọi là say rượu mất của.
- Hai là sanh bệnh,
người mà say sưa thì cái thân nó dễ bệnh tật.
- Ba là hay gây gổ.
- Bốn là tiếng xấu đồn
xa.
- Năm là dễ sanh nóng
giận.
- Sáu là trí tuệ mỗi
ngày một giảm dần.
Người
nào mải mê uống rượu thì sạt nghiệp, cửa nhà của họ mỗi ngày một
tiêu tan. Đó là cái vấn đề uống rượu thì quý thầy thấy ở đây rõ
ràng là khi mà mình đi uống rượu thì chắc chắn phải có mang tiền
theo, thì khi mà say rượu rồi thì tiền bạc vứt mà không có cần
thiết cho nên mất của mà không biết, và khi mà uống rượu nhiều thì
cơ thể nó hay sanh bệnh tật. Đó là hiển nhiên mà không ai chối cãi
được, khi Phật dạy thì chắc chắn phải đúng như vậy. Người say rượu
thì hay gây gỗ. Chắc ở trong đời của chúng ta, chúng ta cũng thấy
những người say rượu chứ không ai mà không gặp, thì cũng biết rằng
cái điều mà Phật dạy không có sai chút nào hết. Thì người say rượu
khi say sưa thì không còn biết dơ, biết sạch, không còn biết tốt xấu;
giữa đường, ngoài hè phố, dưới mương rãnh, chỗ dơ bẩn họ đều có
thể nằm ở trên đó được hết. Cho nên họ múa tay múa chân, họ la, họ
hét, họ chửi mắng người này người kia thì lúc bấy giờ người đi qua,
kẻ đi lại người ta thấy cái ông đó như vậy thì người ta nói người
này nói với người kia, cho nên tiếng xấu đồn xa, đó là vậy.
Năm
dễ sanh nóng giận. Cái người uống rượu thường mà các Thầy thấy rất
rõ là cái tánh họ dễ nóng lắm, ai nói gì đó thì ngay đó muốn
đánh người ta liền, không bao giờ họ có cái tâm nhẫn nhục được, cho
nên họ rất dễ giận hờn.
Về
phần trí tuệ, cái người mà uống rượu say sưa thì mỗi ngày chúng ta
thấy họ u mê, họ không hiểu, nhiều khi nói mà họ không thông suốt,
cũng như họ mải mê say rượu mình khuyên họ cái đúng để cho họ chừa
bỏ nhưng họ không bao giờ còn nghe mình nữa. Khi cái người mà uống
rượu say sưa, nó đã quen rồi thì khó mà dứt bỏ. Vì vậy mà họ không
còn làm lụng để mà giàu sang như người khác, họ chẳng cẩn biết gì
đối với cái gia đình của họ, của cải của họ lần lần tiêu hao.
Đó
là 6 cái điều kiện mà một cái điều kiện thứ nhất mà chúng ta đã
thấy rất rõ là nếu mà người cư sĩ va vấp vào cái sự uống rượu say
sưa thì đó là đưa tới của cải tài sản của họ hao mòn.
2. Về phần cờ bạc
Cờ bạc có 6 lỗi chứ không phải
nghe nói đơn giản cờ bạc là không có lỗi mà cờ bạc có 6 lỗi. Vậy 6
cái lỗi đó là gì?
1. Là tài sản hao
mòn.
2. Hai là thắng
thì bị người oán.
3. Người hiểu
biết chê cười.
4. Mọi người không
kính trọng.
5. Người tốt xa
dần.
6. Sanh tâm trộm
cắp.
Người
nào mải mê cờ bạc thì sản nghiệp của họ mỗi ngày một sa sút. Đúng
vậy! Thứ nhất là tài sản của họ hao mòn vì họ đâu có dễ thắng
mọi người, lần lượt ngồi không, không làm cứ thích chơi, đánh bạc
thì làm sao mà có thêm của cải được cho nên bao nhiêu của cải thì
chỉ còn chặn đứng lại rồi bắt đầu hao mòn dần, riết rồi bán nhà,
bán cửa vì cái tánh ham mê cờ bạc. Do như vậy mà tài sản lần lượt
hao mòn cho đến khi kiệt quệ.
Hai,
thắng thì bị người oán nghĩa là mình thắng mình được tiền thì
người ta lại thù oán, có thể người ta phục rượu mình say để rồi
người ta tìm cách giết mình hoặc là người ta hại mình bằng cách
này, bằng cách khác. Do đó thắng thì bị người khác oán mình. Người
mà đi bài bạc mà không có đi một mình mà khi thắng thì chắc chắn
dễ bị giết chết hoặc bị ám hại nơi sòng bạc chứ không có đi về nhà
được. Đó là những điều Đức Phật xác định trong bài pháp này Thầy
thấy rất là đúng, không có sai chỗ nào hết.
Ba,
người hiểu biết chê cười. Cái người mà hiểu biết, người ta thấy cái
người ham mê cờ bạc là người ta thấy người tham lam không đúng cách,
làm những việc không đúng cách cho nên họ chê cười những người đó.
Bốn,
mọi người không kính trọng. Người mà đức hạnh, có hiểu biết không
bao giờ kính trọng những người đó. Và đồng thời cái người mà ham mê
cờ bạc thì những người bạn tốt, những người tốt ở trong xã hội,
dần dần họ không chơi với những người đó. Rồi khi thua quá không còn
tiền bạc, nhà cửa tiêu mòn nhưng cái tánh ham cờ bạc nó vẫn còn do
đó mới sanh ra trộm cắp để đi bài bạc hoặc là trộm cắp để rồi
mình sống nuôi sống mình, từ đó là bước đường cùng của cái người
mà ham mê cờ bạc.
Do
vậy mà cái người cư sĩ phải hiểu biết 6 cái điều tai hại khi chúng
ta cờ bạc, nó đưa đến cái tội lỗi như vậy, cái xấu xa như vậy, cái
đau khổ như vậy. Cho nên người cư sĩ cần phải tránh và bỏ cái tánh
ham mê cờ bạc để đem lại cái sự an vui hạnh phúc và tài sản của
mình không bị sa sút. Đó là cái điều thứ 2 mà Phật dạy cho người cư
sĩ.
Cái điều thứ 3 là phóng đãng, có
6 lỗi:
1. Không tự giữ
lấy thân
Là
cái người phóng đãng tức là người đi du thí, du thực bằng cách này bằng
cách khác, cho nên không giữ lấy cái thân của họ, nên họ có thể hao
mòn hoặc là đau bệnh hoặc là ham vui, những cái vui quá rồi cái thân
của họ tiều tụy, càng ngày càng suy giảm. Đó là cái thứ nhất.
2. Cái thứ 2 là
không giữ gìn được của cải
Khi
mà phóng đãng họ tuôn ra, họ xài phí, của cai bao nhiêu họ tuôn ra như
nước cho nên họ không giữ gìn của cả của họ được.
3. Không bảo
trợ được con cháu
Nghĩa
là cái người phóng đã họ không bao giờ mà lo cho con, cho cháu họ,
họ không bao giờ nghĩ đến con cháu họ, họ không giúp đỡ cho con cháu
họ.
4. Cái người mà
phóng đãng này họ thường hay sợ hãi, cái tâm họ thường hay sợ hãi
5. Những điều ác
khổ sẽ ràng buộc xác thân họ, nghĩa là người phóng đãng khi mà vui
chơi, khi mà mải mê với bạn bè (loại phóng đãng) thì họ bắt buộc
thế này, bắt buộc thế kia, làm cho mình không còn thoát ra khỏi, cho
nên thấy khổ mà vẫn đâm đầu vào cái khổ mà không thể nào ra khỏi
cái sự ràng buộc đó
6.Thường sanh dối
trá
Cái
người phóng đãng này tâm họ luôn dối trá gạt người này, gạt người
kia, nói qua nói lại không bao giờ nói sự thật được. Bởi vị cái tâm
phóng đãng nó thì không thể nào mà nói thật được là vì họ mải mê
theo sự vui chơi thích thú của họ, họ phóng dật ra ngoài, họ chạy
theo cái sự đắm mê của ngũ dục lạc cho nên họ không còn nghĩ đến
tài sản, nhà cửa của họ. Cho nên lần lượt của cải tài sản của họ
một ngày một hao dần mòn. Đó là cái tâm phóng đãng, cái người phóng
đãng, cho nên nó có 6 cái điều tội lỗi làm cho thân và của cải, con
cháu, tâm thường sợ và luôn luôn thân xác họ bị gò bó xung quanh
những điều ác, người ác làm cho họ không dứt ra được. Thường thường
là họ hay dối trá, gạt người này, gạt người khác. Đó là cái người
cư sĩ khi hiểu biết được cái sự phóng đãng là nguy hiểm như vậy là
tai hại như vậy cho nên cố gắng mà giữ gìn đừng để tâm phóng đáng.
Đừng có chạy theo những điều cám dỗ của dục lạc thế gian mà tạo
cho sự nghiệp mình tiêu mòn.
4. Say mê kĩ nhạc, có 6 lỗi.
Tức
là người mà hay ca hát thì có 6 lỗi đó là điều thứ 4. Vì vậy đó.
1. Ưa ca hát
Cái
người say mê kĩ nhạc thì hay ca hát, bài ca này cho đến bài ca khác,
ngâm, vịnh. Đó là cái sự ưa thích ca hát.
2. Thích khiêu vũ
Người
mà ưa ca hát họ lại thích khiêu vũ.
3. Mê đàn địch
Tức
là họ ưa ca hát thì họ phải thích đàn địch
4. Chuộng tiêu sáo
Hễ
họ ca hát đàn địch khiêu vũ thì họ cũng thổi sáo, thổi tiêu. Cho nên
họ cũng thích những điều sáo tiêu.
5. Là ưa đánh trống
Họ
cũng ưa thích đánh trống.
6. Mê thổi kèn
Tất
cả những điều kiện nhạc cụ mà để phát ra những âm thanh thì cái
người mà say mê kỹ nhạc đương nhiên là họ phải thông suốt những cái
điều này. Vì vậy mà khi thông suốt những điều này thì họ còn biết
đặt tâm hồn của họ vào trong say mê của âm thanh, âm thanh và những
điệu nhảy nhót, khiêu vũ chứ họ không có còn nghĩ đến cái sự sống
của một người biết đạo, một cái người rất là sợ hãi về cái sự
cám dỗ của sự ca hát, khiêu vũ vì đó nó có thể đưa đến chỗ sanh ra
cái tâm theo người xưa nói không có cái đạo luân, nghĩa là người ta nói
xướng ca vô loài, nghĩa là họ cho rằng những người mà ưa ca hát thì
họ không giữ được cái đạo đức luân thường, nay thì người này, mai họ
kết với người kia. Cho nên ở đây theo ngày xưa đúc kết điều đó.
Nhưng
trái lại thì theo Thầy nghĩ Phật không nghĩ như vậy. Mà Phật muốn
thấy rằng cái người mà ưa ca hát, khiêu vũ, đàn địch, tiêu sáo, đánh
trống, thổi kèn thì những người này họ không làm ăn theo cái người
mà an vui yên ổn mà bằng cách là họ đem những câu hát tình tứ gợi
cho những người khác thương vay, khóc mướn, làm cho người khác do
những tiếng tiêu, tiếng sầu đó mà làm cho người ta khổ đau, cho nên
vừa làm mình thổn thức trong lòng của mình vừa tạo cho người ta
thổn thức trong lòng của người ta. Do như vậy khi mà người cư sĩ đến
với Đạo Phật thì Đức Phật muốn khuyên họ không nên làm những cái
điều đó là vì mình nghe âm nhạc, mình nghe tiếng đàn, tiếng ca làm
cho tâm hồn mình dào dạt, làm cho tâm hồn mình bất an chứ không được
giải thoát, chứ không phải là xướng ca vô loài cũng như ngày xưa
người ta đặt cho người ưa ca hát là không đàng hoàng, nay thì cặp
người này, mai thì lấy người khác. Nó không đúng nhưng ở đây cái mục
đích của Đạo Phật là không hiểu như vậy mà phải hiểu qua tiếng hát,
tiếng ca, tiếng đàn, tiếng trống … nó làm cho tâm hồn chúng ta lúc
vui, lúc buồn. Nó không giữ cho tâm hồn chúng ta được thanh thản, được
giải thoát làm cho chúng ta say mê mà quên đi những công việc làm để
sống bằng cách lương thiện chứ không phải vô lương thiện.
Đó
là những cách mà ở đây Phật dạy để nhằm mục đích chúng ta tránh
những cái điều làm cho mình dao động tâm và đau khổ cũng như người
khác, cho nên chúng ta không nên say mê kỹ nhạc mà hãy giữ
tâm của mình luôn luôn được thanh thản, được an ổn thì tốt nhất.
Hầu
hết trong thế gian này nói về ca nhạc, khiêu vũ và tiêu sáo, đàn
địch thì chắc chắn ai cũng mê thích vì họ cho đó là một môn giải
trí, nhưng sự thật theo Thầy thiết nghĩ qua một bài nhạc nó làm cho
người ta xúc động nhưng sự thật nó không phải như vậy. Một
bài nhạc làm cho họ khích động họ có thể chết họ cũng không từ
nan. Đó là những lời ca tiếng nhạc mà làm cho tâm hồn người
ta có thể bất an theo điệu nhạc, theo lời ca, theo văn thơ. Cho nên Phật
muốn cuộc sống của người cư sĩ cũng như người tu sĩ luôn luôn phải
bình thản, phải vững vàng, phải bất động thì đó là một cuộc sống
mới được an vui, còn lúc thì thương vay khóc mướn qua tiếng ca, tiếng
nhạc như vậy là nó giả dối, nó không thật.
Người
nào mải mê kỹ nhạc thì sản nghiệp, nhà cửa của họ ngày một sa sút.
Thật sự ngày xưa như vậy nhưng người mà chuyên môn ca nhạc, khiêu vũ
đàn địch tiêu sáo thì họ cũng lấy cái nghề mà làm sống thì cũng
có khá giả chứ không phải như sự xác định mà nhà cửa họ suy sụp.
Nhưng ở đây theo Thầy thiết nghĩ nó không phải sợ sạt nghiệp, của cải
sa sút, suy mòn mà chỉ ngại cho tâm chúng ta thương vay khóc mướn theo
giọng ca, tiếng hát mà thôi, làm cho tâm chúng ta bất an. Và cũng từ
đó mà tâm hồn chúng ta luôn luôn dễ dao động không được tự chủ.
Điều thứ 5: Kết bạn với người
ác, có 6 lỗi.
1. Dễ sanh khinh
lờn.
2. Ưa chỗ thầm
kính
3. Dụ người nhà
khác.
4. Mưu đồ chiếm
đoạt tài sản của người
5. Mưu đồ tài lợi
về mình
6. Ưa phanh phui lỗi
người
Đó
là kết bạn với người ác thì cái tâm của chúng ta sẽ có 6 cái điều
mà nó dễ sanh ra.
Thứ
nhất,
kết bạn với người ác thì họ làm những điều ác thì chúng ta sanh
theo những điều ác đó, mà cái tâm của mình sẽ coi thường những điều
ác, sanh ra những sự khinh lờn, không có sợ hãi mà chúng ta làm
những cái điều tội lỗi mà chúng ta không sợ.
Ưa
chỗ thầm kín nghĩa
là chơi với người ác thì hay làm cái chuyện thầm kín, thầm lén,
bằng cách này bằng cách khác để mà làm lợi cho mình. Hoặc là dụ
người khác làm điều này điều kia như dụ người khác ăn trộm, dụ
người khác đi làm cái chuyện tà hạnh, đó là dụ dỗ người khác.
Hoặc là dụ người khác đi ăn cướp, đi giết người. Hoặc dụ người khác
làm những chuyện sát sanh, giết con vật này hoặc con vật khác.
4.
Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người, nghĩa là chơi với người ác thì
luôn luôn lúc nào cũng nghĩ mưu cách này, mưu cách kia mà lấy của
cải tài sản của người khác.
5.
Là luôn luôn mưu đồ cái gì đem về cái lợi cho mình, tiền bạc và danh
dự đều là có thủ đoạn, mưu cách để mà đem lại cho mình những cái
lợi, cái danh đó. Cho nên chơi với người khác thì đủ mọi cách họ có
thể tìm cái gì có lợi cho họ mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét