TRAU DỒI TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (HỶ TÂM - XẢ TÂM)
Là tùy hỷ, nghĩa là vui theo. Vui theo có nhiều cách:
- Vui theo với ngũ dục lạc.
Nghĩa là mình cũng có vui theo, mà có vui theo cái đúng mà cũng có
vui theo cái sai. Vui theo ngũ dục lạc là vui theo cái vui ngắn ngủi, cái vui
mê muội. Người phàm phu ngu si mê muội phóng tâm vui theo những vật chất thế
gian, trần cảnh gồm có: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nó đang có một sức
cám dỗ, lôi cuốn con người đi đến chỗ đau khổ bất tận. Đó thì đối diện với cái
sự mà vui theo với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì nó sẽ lôi cuốn chúng
ta đi vào cái chỗ đau khổ bất tận, chứ không có vui. Vì cái vui đó là cái vui ảo
giác, cái vui không thật, cái vui thấy thì vui nhưng nó không thật vui. Cho nên
người ta ví như cái vui đó như là ở xa chúng ta nhìn nó là như hạt kim cương,
nhưng đến gần đó là cái hạt nước mắt của chúng ta. Như vậy thì chúng ta biết đời
chúng ta tại vui theo với những cái điều đó mà nước mắt chúng ta như nước biển
đó. Đó gọi là hỷ vô lượng dục lạc. Nghĩa là nó cũng vô lượng đó. Bởi vì người
ta nói cái tâm người là cái túi không đáy. Mà cái túi không đáy tức là chạy
theo dục lạc của thế gian. Cho nên sự ham muốn dục lạc đó, để hưởng thụ những dục
lạc đó cho nên không bao giờ mà hết sự ham muốn đó.
Ví dụ như chúng ta chạy theo dục lạc thế gian, vừa cất được cái
nhà ngói thấy người ta xây cái nhà tường thì mình theo cái nhà tường, từ đó thấy
người ta có nhà lầu, cái vi la thì mình theo cất nữa. Cũng như bây giờ mình có
xe đạp thì thấy người ta có xe gắn máy, từ cái xe gắn máy đó mình thấy người ta
có xe dream, từ xe dream đó thấy người ta có xe hơi. Mình cứ theo hoài, theo
hoài cho đến khi không biết chừng nào mà cho cùng tận cái chạy theo cái dục lạc
đó. Thì cho nên càng chạy theo thì càng khổ. Do vì vậy mà người ta nói: Ở
xa là giọt kim cương, đến gần thì là giọt nước mắt. Vì vậy đó là hỷ vô
lượng dục lạc thế gian.
Cho nên chúng ta nghe nói Tứ vô lượng tâm, bốn cái tâm vô lượng đó
nó sẽ giải thoát. Nhưng ở đây nó cũng có bốn tâm vô lượng mà đem đến chúng ta cũng
vô lượng khổ đau, chớ không phải giải thoát. Đó là hỷ tâm vô lượng dục lạc thế
gian của những con người vô minh theo thói quen phàm tục, hỷ này vui đó, khổ
đó, như con thiêu thân thấy ánh sáng đèn tưởng là vui thật, nào ngờ là ảo giác.
Do thế mà sanh già bệnh chết nối tiếp nhau mãi mãi, không bao giờ dứt khổ. Hỷ
vô lượng tâm này là những vô lượng tâm vô minh, hỷ này gọi là hỷ ảo giác. Nó
còn có cái tên là hỷ ảo giác. Nghĩa là chúng ta chạy theo cái ăn ngon,
thì bỏ vô miệng nhai nuốt rồi thì cái ngon nó mất rồi, cho nên gọi là hỷ ảo
giác.
- Vui theo với ác nghiệp.
Đó là cái hỷ, cái hỷ vô lượng với những ác nghiệp, bởi vì ác nghiệp
nó cũng rất là nhiều, cho nên vui theo với ác nghiệp. Hồi nãy vui theo với dục
lạc, bây giờ vui theo với ác nghiệp. Vui theo với ác nghiệp là thấy người sát
sanh, uống rượu, trộm cắp, tà dâm, bài bạc, vọng ngữ, hút sách,v.v.. đã không
khuyên can lại còn xúi bảo vui theo, và bằng lòng theo con đường ác đó. Đây là
hỷ vô lượng tâm theo ác pháp. Nó còn có cái tên là hỷ vô lượng tâm theo ác
pháp, bởi vì ác pháp cũng vô lượng chứ không phải có một pháp, hai pháp không.
Cho nên mỗi ác pháp đều đem đến cho chúng ta khổ. Mà con người vì vô minh chạy
theo, vui theo những ác pháp đó. Cho nên gọi là hỷ vô lượng tâm ác pháp.
Từ lâu tới giờ thì quý thầy chỉ nghe nói từ - bi – hỷ - xả vô lượng
tâm là đem lại cái nguồn tốt. Bây giờ nghe Thầy lật ngược trở lại thì thấy hỷ
vô lượng tâm theo ác pháp là khổ đau, theo dục là khổ đau. Như vậy là chúng ta
thấy cái tâm của chúng ta nó có hai nẻo rất rõ: một nẻo tốt và một nẻo xấu.
Một nẻo xấu làm cho tâm vô lượng của chúng ta trở thành xấu. Một nẻo tốt làm
cho tâm vô lượng chúng ta trở thành tốt.
Vậy nẻo tốt là nẻo nào? Nẻo tốt là nẻo của Đạo Phật, nẻo tốt là nẻo
của thiện pháp, nẻo tốt là cái nẻo để được sự giải thoát, an lạc, vĩnh viễn hạnh
phúc. Còn nẻo xấu là luôn luôn lúc nào cũng địa ngục, đau khổ, phiền toái, giận
hờn, tham sân si, mê muội, đó là nẻo xấu.
Tóm lại, hai cái loại trên là hỷ dục, hỷ ác tạo cảnh
địa ngục trần gian trong hiện tại, chẳng đợi mai sau. Nghĩa là hai cái hỷ này
nó tạo cho ta địa ngục ngay tại trần thế này, chớ không phải đợi chúng ta chết
rồi chúng ta đi xuống địa ngục, hay là đọa địa ngục. Mà chính là những cái loại
hỷ này nó đã đem đến cho chúng ta những cái địa ngục.
Vậy thì hôm nay quý thầy đã học được bài này, quý thầy biết địa ngục
là do hỷ dục và hỷ ác của chúng ta mà chúng ta đã tạo thành địa ngục trần gian.
Từ đây về sau chúng ta đã hiểu nó, chúng ta đừng chạy theo nó nữa, đừng có vui
theo nó nữa, mà hãy xa lánh nó đi, mà viễn ly nó đi, từ bỏ nó đi thì chắc chắn
là chúng ta sẽ không tạo địa ngục trần gian.
Đó là những loại hỷ đau khổ của con người trong biển đời trầm luân
này. Người vô minh mê muội không thể thoát ra khỏi vòng tay các loại hỷ này,
nghĩa là cái người mà không sáng suốt. Cho nên đạo Phật là đạo trí, vì có trí
cho nên mới thoát ra khỏi, mà không trí thì thoát ra không khỏi những loại hỷ
này. Nhìn chung quanh chúng ta hiện giờ ai là người đã thoát ra khỏi, ai là người
không vô minh? Thật sự ra chúng ta đang tu tập theo giáo pháp của đức Phật, Giới
- Định - Tuệ, nhưng thoát ra khỏi phải là một trí tuệ siêu việt, nếu không thì
chúng ta vẫn nằm trong vòng tay các loại hỷ này.
Quý thầy xét thấy mình có phải ra khỏi chưa? Bứt khỏi cái vòng tay
này chưa? Chắc chắn chúng ta cũng còn một ít. Nếu chúng ta đã quyết tâm nhưng vẫn
bị vòng tay còn đang bao vây, chưa phải bứt ra hết được. Để rồi đời đời kiếp kiếp
thọ lấy tai ương. Nghĩa là chúng ta nằm trong vòng tay của các loại hỷ này thì
đời đời kiếp kiếp chúng ta luôn luôn lúc nào cũng bị tai ương, chứ không bao giờ
chúng ta thoát khỏi tai ương này.
Muốn trau dồi tâm hỷ vô lượng ta hãy nhắc tâm ta bằng pháp như lý
tác ý. Thì bây giờ tới lúc mà trau dồi đây, hồi nãy là nói để chúng ta hiểu những
loại đó để rồi chúng ta trau dồi tâm của chúng ta đi vào những cái hỷ vô lượng,
làm cho chúng ta hạnh phúc đây. Thì những cái trạch pháp, những câu mình lựa chọn
ra để cho mình hướng tâm, mình nhắc đi nhắc lại cho thấm nhuần, tức là trau dồi
tâm của chúng ta. Đây, cái câu để mà chúng ta trạch pháp ra đây:
Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau, ta hãy
tránh xa cái hỷ này.
Đó là cái câu để mà chúng ta nhắc nhở, để chúng ta biết dục lạc thế
gian: danh lợi sắc đẹp, ăn uống ngủ nghỉ đó là những thứ dục lạc. Hoặc là sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp đó là những cái dục lạc, cái đối tượng để nó tạo
thành những cái dục lạc, cái hỷ dục lạc. Cho nên chúng ta phải tránh xa, phải
lìa xa, phải bỏ ra, đừng có gần nó nữa. Cho nên ở đây câu hướng tâm để mà trau
dồi tâm chúng ta, để hằng chút chúng ta luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác mà xa
lìa nó, vì nó cám dỗ chúng ta rất mạnh, ví nó thu hút chúng ta như đá nam châm,
khó mà chúng ta bứt rời được. Cho nên hằng phải nhớ:
Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau ta hãy tránh xa
hỷ này.
Thì hãy nhắc tâm mình như vậy để cho nó nhớ, nó đừng quên. Thỉnh
thoảng ta lại tác ý như lý này, nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho tâm ta xa lìa, yểm
ly ngũ dục lạc.
Ta nhắc một câu nữa để cho ta tránh xa nó:
Hỷ của dục là ảo giác, không có thật, nó là thuốc độc, là rắn độc
giết hại con người. Ta hãy lánh xa các loại hỷ này.
Đó là một câu nữa xem nó như thuốc độc, xem nó như rắn độc, nó rất
hiểm nguy, nó có thể giết chúng ta lúc nào cũng có thể được hết. Do nhắc tâm
chúng ta thường xuyên như vậy cho nên trước cái ăn ngon, mặc đẹp, trước cái sự
âu yếm tha thướt, thương yêu nồng nàn của thế gian chúng ta luôn luôn sợ hãi.
Nó là hỷ đó, hỷ dục lạc đó, nó làm cho chúng ta khả ái, khả lạc, ham thích. Đó
là những điều mà đưa đến chúng ta đau khổ đó. Thấy đó mà bước vào đụng nó thì
như đụng gai, đụng chông, chớ không phải sung sướng gì đâu, không phải là hạnh
phúc gì đâu. Biết như vậy, thấu suốt như vậy là không vô minh. Không biết như vậy,
không thấu suốt như vậy tức là vô minh.
Câu này ta cũng phải thường xuyên nhắc đi nhắc lại để đoạn dứt
lòng ưa thích dục lạc thế gian. Nhớ câu Thầy đã trạch pháp ra để cho quý thầy
nhắc đi nhắc lại rồi tùy theo đặc tánh của quý vị mà quý vị sửa đi, sửa lại phù
hợp với tâm tánh của mình.
Hỷ vui theo các ác pháp là hỷ tâm vô lượng ác, là làm đau khổ
chúng sanh, giết hại chúng sanh, không có lòng từ bi thương xót chúng sanh. Ta
hãy tránh xa hỷ này, yểm ly hỷ này, từ bỏ hỷ này, xa lìa hỷ này vì hỷ này làm
đau khổ chúng sanh, làm sanh ra địa ngục của chúng ta. Hãy dứt trừ sự vui theo
các ác pháp.
Đó là những câu trạch pháp để chúng ta ghi nhớ, để chúng ta thường
trau dồi tâm mình, để nhắc nhở những hành động ác. Như có 10 điều ác mà chúng
ta đã thấy ở trong thập thiện đã có dạy, đối ngược lại với thập thiện tức là thập
ác. Do chúng ta đã học rồi vì vậy mà chúng ta lấy đó mà thấy tâm mà theo những
hành động đó tức là hành động thập ác. Do vì sự hướng tâm nhắc nhở làm cho tâm
thấm nhuần vì vậy mà luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong thập thiện, mà không có
nằm trong thập ác.
Là người tu sĩ Phật giáo, thấy ai làm ác ta phải lánh xa, còn đâu
lại có sự vui theo. Thấy các pháp ác, thấy sự đau khổ chết chóc của chúng sanh
nếu không giải nguy cứu nạn được ta cũng phải tránh xa để khỏi phải thấy cảnh
tang thương, máu đổ, thịt rơi, đau lòng, nát dạ. Làm sao còn đồng lõa với ai mà
vui theo được. Đó thì quý vị thấy một người tu sĩ Phật giáo không thể nào đứng
trước một thớt thịt của người đồ tể bán thịt được. Cũng không thể nào đứng trước
một tô phở mà người ta bỏ những lát thịt ở trên đó được. Người tu sĩ Phật giáo
người ta nhìn thấy những sự đau khổ chết chóc của chúng sanh thì người ta không
thể nào mà không thương tâm. Vì hằng trau dồi tâm từ bi thì không thể thấy sự
đau khổ đó mà chúng ta đứng lại đó mà nhìn. Nếu không cứu khổ phò nguy được thì chúng ta mau mau tránh chỗ đó, mà không đứng đó để
nhìn sự đau khổ. Cũng như thấy mình không can ngăn được hai người đánh nhau thì
chúng ta hãy mau mau tránh xa, vì chúng ta không đủ khả năng giải quyết được điều
này thì mau mau tránh đi. Không thể nào mà đứng đó để nhìn thấy họ đánh nhau với
sự vui theo, với sự hò hét, với sự cổ võ như vậy là người tu sĩ Phật giáo không
đúng cách. Thấy người ta đánh nhau lỗ đầu, chảy máu, đau đớn mà chúng ta lại
nhìn với một cách vui theo, với một cách sung sướng, với một cách cổ võ ở trong
đó thì không nên làm điều đó.
Vì thế mà chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo nên cẩn thận, dè
dặt trước mọi đám đông. Có những sự đau khổ, tan nát ruột gan của con người, của
chúng sanh thì chúng ta mau mau tránh. Thấy một con vật bị con vật khác giết hại
nằm lăn lóc, một cái thân bẩn thỉu bằng cát đất, bằng máu me, bằng những vết
thương tan nát thì lòng chúng ta cũng không bao giờ đứng đó mà nhìn, trước cảnh
đau đớn đó chúng ta hãy mau mau tránh xa để lòng chúng ta được an ổn.
Nãy giờ chúng ta đã học từ cái hỷ tâm vô lượng theo dục lạc và hỷ
tâm vô lượng theo ác pháp. Bây giờ chúng ta học Hỷ tâm vô lượng giải thoát. Bây
giờ tới tâm hỷ giải thoát rồi này. Hồi nãy là tâm đau khổ đó, giờ là tâm vô lượng
giải thoát.
Hỷ tâm vô lượng giải thoát là vui theo với việc lành, việc từ thiện
của người khác. Đó là vui theo những việc làm nhân từ, phước thiện. Thấy người
đem của cải ra bố thí, lập nhà thương ta liền tán thán, vui theo, tận tâm giúp
đỡ họ trong mọi công việc với lòng hân hoan, sung sướng. Sự vui theo này là một
bước tiến trên con đường thiện nghiệp. Nếu ta có tiền của ta sẽ đóng góp vào
làm việc công ích cho mọi người. Nếu ta không tiền của ta hãy lấy công giúp đỡ
người này để hoàn thành sự an ủi những nỗi bất hạnh của con người trong xã hội.
Vì tâm bi vô lượng, ta nhận thấy trong xã hội có nhiều người bất hạnh nên lúc
nào lòng ta cũng muốn làm từ thiện ban vui, cứu khổ cho mọi người, làm sao cho
mọi người được an vui no ấm, làm sao cho mọi người thoát khỏi bệnh tật, khổ
đau. Những hình ảnh đau khổ của con người và chúng sanh khiến cho người có tâm
bi vô lượng không thể ngồi yên bằng cách tư duy suông. Làm sao giảm bớt và xoa
dịu vết thương đau của chúng sanh, làm sao đoạn dứt những nỗi đau thương của
chúng sanh. Bệnh viện, thuốc thang chỉ xoa dịu sắc thân của họ. An ủi, xóa đói
giảm nghèo là xoa dịu vết thương đau của tinh thần.
Hành bi tâm như vậy cũng chưa đủ. Ta phải làm cái gì hơn để diệt tận
gốc khổ đau của muôn loài? Chỉ có Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện ra đời để mọi người
đến đó được nghỉ ngơi và học tập đạo đức nhân quả, thì ngõ hầu mới ban vui cứu
khổ phò nguy tận gốc. Những việc làm này khiến cho ta hoan hỷ vui theo vì lợi
ích thiết thực cho loài người, chấm dứt nhân ác, tăng trưởng nhân lành. Vì thế
hạnh phúc mọi người tràn ngập cả thế gian này. Còn gì sung sướng cho bằng khi mọi
người biết rõ đường đi lối về của nhân quả, đường đi lối về của nó! Thì ai còn
làm điều ác. Loài người không làm điều ác thì thế gian này là Thiên Đàng, là
cõi Niết bàn, làm sao còn có người bất hạnh trong xã hội.
Đó thì hôm nay các con đã thấy rằng cái ý của Thầy từ lâu, Thầy muốn
xin phép để mà xây dựng một cái Trung tâm an dưỡng. Để làm gì? Để mọi người người
ta được về đó người ta được nghỉ ngơi 1 tuần, 1 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm và
được sự hướng dẫn đường đi nước bước của nhân quả và được dạy họ đạo đức nhân
quả. Để làm gì? Để diệt tận gốc khổ của con người, từ cái hành động họ hiểu biết,
từ đó họ không làm điều ác thì họ đem lại chính họ, họ đem lại nguồn vui hạnh
phúc chơn thật của họ. Tâm nguyện của Thầy như vậy, nhưng nhân duyên chúng sanh
không đủ khó mà thực hiện được cái mộng này.
Ước ao của Thầy mong sao có ngày nào đó chúng sanh có đủ phước để
hưởng được phước báu lợi nhất của Phật giáo là học được Nhân Quả Đạo Đức để đem
lại hạnh phúc chân thật chính bàn tay khối óc của họ đã làm ra cho họ. Không ai
đem đến hạnh phúc an vui chính bằng họ, vì thế đứng trên góc độ của đạo Phật
điều này rất là rõ ràng. Nếu Trung tâm an dưỡng ra đời được thì biết bao nhiêu
người trong xã hội này đem lại hạnh phúc cho nhau.
Thầy còn nhiều cái sự ước ao trong lòng mình khi đã thấy được đạo
Phật. Ước ao chi tất cả các trường học trong đất nước này được học thêm những
môn học giáo dục nhân quả, đạo đức cho học sinh thì hạnh phúc thay cho đất nước
đó, dân tộc đó. Được nhìn thấy những mầm non của Tổ quốc được trau dồi đạo đức
nhân quả thì còn lòng nào vui sướng cho bằng. Nghĩa là khi mà nhìn thấy các em
học sinh được học đạo đức nhân quả, từ đó hành động ác không còn nữa thì chắc
chắn là một con người có ý thức thì chắc chắn là không có nỗi lòng nào sung sướng
bằng hơn nữa. Không phải đem vàng bạc của báu, tất cả những vật báu trong thế
gian này mà cho mà chúng ta vui bằng những cái vui thấy con người làm thiện. Thầy
phỏng chừng đức Phật đã nhập Niết bàn lâu xa xưa mà thấy tất cả chúng sanh đều
thực hiện đạo đức nhân quả Ngài cũng vui mừng, lòng từ bi của Ngài, lòng hỷ của
Ngài rất là hân hoan thấy tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ. Huống hồ là Thầy
còn là người bằng xương bằng thịt làm sao Thầy không sung sướng. Nhìn đất nước
chúng ta mà tất cả mầm non của chúng ta đều thực hiện đạo đức nhân quả thì làm
sao không sung sướng, vì đó là cái nhân tốt cho của Tổ quốc này. Từ đất nước
này đến đất nước kia được trau dồi đạo đức nhân quả thì con người trên hành
tinh này được hạnh phúc an vui. Đó là niềm vui tuyệt đỉnh, vì đã mang đến niềm
vui chân thật của bản thân của mọi người. Chính họ họ đã mang đên niềm vui chân
thật khi họ hiểu ra. Một người tu sĩ đạo Phật không thể làm ngơ trước những điều
này, trước những con người đang lăn lộn trong những nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh
đó là những nhân ác của họ chớ phải đâu ai đem nỗi bất hạnh cho họ. Vì chúng ta
thấu hiểu được như vậy mà chúng ta không ban rải được đạo đức Nhân Quả ban rải
cho họ thì lòng chúng ta se thắt từng giây, từng phút. Chúng ta có lòng bi vô
lượng, lòng từ vô lượng mà đứng trước cảnh khổ của mọi người, mọi vật mà chúng
ta nỡ đang tâm nhìn sao được. Phải đem hết sức mình, phải làm hết tận lực của
mình để cứu khổ muôn loài, để làm cho con người sống hạnh phúc bên nhau, biết
yêu thương nhau. Đó là lòng bi, đó là nỗi mừng của những người biết thương người,
biết từ bi ban rải khắp cùng.
Muốn trau dồi tâm hỷ này ta phải dùng pháp hướng, thường như lý
tác ý. Bây giờ tới đây chúng ta sẽ trau dồi cái tâm hỷ này. Bây giờ chúng ta đã
hiểu nó làm một cái gì đó để cho tất cả mọi người được an vui hạnh phúc thì
không có gì hơn là đem giáo lý Nhân Quả, đạo đức Nhân Quả mà dạy cho từng người,
mà giúp cho từng người hiểu, thì cái này là niềm vui vô lượng không thể kể xiết
được. Vậy thì muốn trau dồi tâm hỷ của chúng ta để chúng ta vui luôn luôn như
thế nào? Thì chúng ta phải thường Như lý tác ý mà nhắc như thế này:
Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác để mình và người
đều vui.
Thì mọi ý kiến, có những ý kiến nó nghịch mình, chứ đâu phải mọi ý
kiến nó giống mình được. Vì vậy phải hướng tâm nhắc, vì muốn được vui theo người,
mà người ta có ý kiến khác, mình có ý kiến khác thì làm sao vui với nhau được.
Cũng như bây giờ người ta chấp kiến người ta, là người học tu như vậy là đúng,
còn mình chấp kiến của mình học tu như vậy là đúng, thì hai cái kiến này nó
không giống nhau. Mà một người trau dồi tâm hỷ vô lượng thì mọi ý kiến đều là
ý kiến của mình. Cho nên chúng ta thường phải nhắc nhở như vậy để chúng ta lấy
ý kiến của người làm ý kiến của mình.
Cho nên khi xưa có ông A Na Luật, ông Kim Tôn Giả và ông A Na Đà
tôn giả, ba người này sống chung nhau. Đức Phật hỏi vậy thì các ông sống chung
nhau có được an vui tu tập không? Thì ông A Na Luật trình bày con sống theo ý của
bạn con, ý của người khác, ý của các Tôn giả, con không sống theo ý con. Thì đức
Phật hỏi các người kia cũng vậy. Người nào cũng nói sống theo ý của các người
khác không có sống theo ý của mình. Thì đức Phật nói đó là tốt, đó là độc cư
đó. Thì các con thấy cái sự độc cư đó mới chính là độc cư chứ không phải ngậm
miệng làm thinh, mà sống y theo ý của người khác.
Thì những câu chuyện nho nhỏ trong thời những đệ tử của đức Phật
đã gây cho chúng ta cái sự thâm sâu hiểu biết là sống qua ý kiến của người khác
thì mình đó là vui theo, vui cái hỷ vô lượng tâm đó. Còn nếu không sống theo ý
người khác thì cái hỷ vô lượng tâm không bao giờ có. Cho nên Thầy nhắc lại câu
này: Ta hãy vui mừng theo những ý kiến của người khác. Vui theo ý
của người ta, người ta nói gì mình cũng vui theo. Ví dụ bây giờ đưa ra mình cất
cái nhà thì có người bảo dựng cây cột chỗ này, người bảo dựng cây cột chỗ khác
thì ý kiến đó có đúng không? Bây giờ có người bảo dựng cây cột đây thì mình cứ
để đây, mình vui theo việc làm đó thì tức là chúng ta sẽ hòa hợp với nhau,
không có gì mà chống trái. Thì câu này: Ta hãy vui mừng theo những ý kiến
của người khác để mình vui, người vui.
Đây gọi là hỷ tâm vô lượng theo ý người. Bởi vì cái ý của người
thì người ý vầy, người ý khác, nó vô lượng cái ý, cho nên mình vui theo vô lượng
ý, tức là hỷ vô lượng tâm. Đó thì thấy như vậy nó rất rõ rồi. Bởi vì đâu có cái
ý này giống ý kia đâu, muôn vàn cái ý. Mà mình hỷ vô lượng tâm thì vui theo
muôn vàn ý của người khác, thì đó là vô lượng ý. Đây gọi là hỷ tâm theo ý người
khác.
Thường hướng tâm nhắc đi nhắc lại nhiều lần để tâm ta không chống
trái ý kiến của người khác, vì thế mới có sự vui chân thật trong lòng chúng ta
và mọi người. Thì các con thấy, các thầy thấy ở đây chúng ta tu tập như vậy,
trau dồi như vậy thì chúng ta mới có được cái hỷ tùy thuận, mới có được cái hỷ
theo ý của người khác. Còn nếu không trau dồi chưa chắc đã là chúng ta thực hiện
được. Hằng ngày nhắc như vậy mà suốt cả năm chúng ta mới sống được cái hỷ theo
ý của người khác. Cái tâm vui theo ý của người khác chớ không phải trong một
ngày, hai ngày, ba ngày mà chúng ta đạt thành được cái điều này. Nếu không trau
dồi như vậy ta khó mà vui theo ý của người khác được.
Bản chất con người thường hay khoe khoang cái hay cái giỏi của
mình. Nghĩa là biết cái gì sơ sơ thôi cũng tỏ ra là mình hay hết. Đó là cái bản
ngã. Mà hễ có bản ngã thì không bao giờ có hỷ tâm vô lượng. Nghĩa là khi chúng
ta có ngã là không có hỷ tâm vô lượng được. Bởi vì cái gì cũng là mình đúng,
còn người khác là sai hết. Cái người khác là lỗi, cái người khác là trật, còn
riêng mình là đúng, cái đó là bản ngã. Mà khi người có bản ngã thì cái hỷ tâm
vô lượng không bao giờ có được. Không thể nào mà 2 cái tâm này đứng gần nhau được.
Hễ có cái này thì cái kia nó mất, hễ có cái kia thì cái này nó mất. Cho nên khi
chúng ta trau dồi hỷ tâm vô lượng tức là chúng ta đã diệt ngã. Quý thầy hiểu
như vậy thì quý thầy mới thấy khi trau dồi hỷ tâm vô lượng tức là chúng ta diệt
cái ngã, mà diệt cái ngã tức là Niết bàn. Cho nên nói vô ngã là Niết bàn, còn
cái ngã tức là không bao giờ có Niết bàn. Mà hầu như chúng ta những người sống
trong thế gian này thường là nuôi lớn cái ngã chứ không bao giờ diệt ngã. Do sự
tu tập hỷ tâm mà diệt được ngã thì hạnh phúc cho chúng ta biết là bao nhiêu.
Là Niết Bàn cảnh giới của chư Phật. Vì thế chúng ta thường nhắc tâm Như
lý tác ý:
Tánh hay khoe khoang cái hay cái giỏi của mình là chướng tâm ngại
đạo, phải từ bỏ xa lìa thói xấu này.
Đó bây giờ chúng ta dùng câu hướng tâm nhắc nó để cho nó biết đó
là cái không hay gì hết đâu, cái đó là cái thói xấu, cái đó là cái bản ngã làm
cho chúng ta đau khổ. Thầy xin nhắc lại câu đó: Tánh hay khoe khoang cái
hay cái giỏi của mình là chướng tâm ngại đạo, phải từ bỏ, lìa xa cái thói xấu
này. Đó mình cho nó là cái thói xấu cho nên mình dẹp nó qua một bên, mà
cái thói xấu đó là cái bản ngã của chúng ta.
Đây là hỷ tâm từ bỏ bản ngã hay là từ bỏ tánh khoe khoang. Hỷ tâm
vô lượng từ bỏ tánh khoe khoang. Bởi vì sự khoe khoang của chúng ta cũng vô lượng,
làm được cái gì là khoe khoang, làm được cái gì nổi lên là cho mình hay hết, học
được một chút cũng khoe khoang cho mình là giỏi. Nhưng mà sự thật mình có giỏi
đâu. Đó là vô lượng cái sự khoe khoang chớ không phải một cái sự khoe khoang.
Vì vậy mà chúng ta dùng cái hỷ tâm, trau dồi cái tâm của mình để mà từ bỏ vô lượng
những tánh khoe khoang này đi, thì tức là vô lượng bản ngã của chúng ta để
chúng ta diệt cái bản ngã vô lượng này. Đó là cách thức mà chúng ta từ tu tâm hỷ
mà chúng ta diệt trừ cái bản ngã của chúng ta, bản ngã vô lượng.
Lại nữa ta phải nhắc nhở tâm ta phải biết vui hòa trong mọi công
việc của mọi người: Lấy việc người làm việc mình. Đó thì câu này cũng nhắc
nhở chúng ta thường xuyên phải biết vui hòa trong mọi công việc của mọi người,
lấy việc người làm việc mình. Đó thì mình nhắc nhở mình như vậy để luôn luôn
hòa mình trong mọi công việc, để cho lòng vui mừng vô lượng của mình trong mọi
sự việc mà không có lúc nào là không vui mừng. Đó là hỷ tâm vô lượng trong việc
làm của người khác. Đó, khi mình dùng câu trạch pháp hướng tâm của mình thì
mình phải biết hỷ tâm vô lượng là vui theo công việc của mọi người. Thì công việc
của mọi người thì nó cũng vô lượng, lát họ làm cái này, lát họ làm cái kia, bữa
nay làm cái này, bữa khác làm cái kia đủ thứ công việc chứ không phải có một thứ
công việc. Cho nên chúng ta vui theo vô lượng công việc của mọi người khác vì vậy
mà vui theo như vậy gọi đó là hỷ tâm trong việc làm của người khác.
Nó có những cái tên, mà những cái tên đó để chứng tỏ rằng câu
hướng tâm của chúng ta cho nó chính xác để dẫn tâm của chúng ta trau dồi chúng
ta cho nó thấm nhuần. Còn nếu không chính xác thì nó không thấm nhuần được. Bởi
vậy phải tu tập sao cho nó chính xác đúng tên đúng họ. Nếu mà dùng cái pháp hướng
mà không đúng tên đúng họ thì nó vô ích công chúng ta tu tập, nó không có hiệu
quả. Mà phải tu tập như thế nào dùng pháp hướng cho nó đúng thì nó sẽ có hiệu
quả rất lớn cho con đường tu tập mà không mất thời gian.
Và ta cũng phải siêng năng thường nhắc hướng tâm như lý tác ý:
Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa, ta hãy theo đó mà hòa mình
trong niềm vui. Nếu ta làm một việc không vui thì đã làm buồn khổ muôn loài vạn
vật, cỏ cây.
Đó thì trong khi mọi vật nó đang im lìm như vậy, bỗng dưng chúng
ta sân lên tức là tự tâm chúng ta đã làm cho vạn vật đó đều xáo động lên hết,
khổ đau. Cho nên có câu tục ngữ nói: Người vui thì cảnh vui theo, mà người
buồn thì cảnh nó cũng buồn theo, đó là tình trạng mà không vui theo đó. Vì
vậy mà một lỡ chút xíu mà chúng ta đã làm cho người khác, con vật khác không
vui ở trong cảnh đang vui đó thì tức là chúng ta đã làm buồn khổ vạn vật chứ
không phải riêng một vật nào.
Thầy nhắc lại cái câu này: Trong vạn vật đều có sự vui chan
hòa, các con thấy trong vạn vật đều có niềm vui chan hòa, cây cỏ rồi
chim chóc nó hòa lẫn với nhau, con người lao động làm tất cả công việc nó có sự
an vui, chan hòa với nhau trong đó. Bỗng dưng có cuộc đánh lộn hoặc là giết
chóc nhau ở trong đó, làm cho tất cả cây cỏ có sự tang thương ở trong đó, cho
nên nó làm sao có sự vui. Vì vậy mà một sự đau khổ lŕm muôn vật ở trong đó có sự
đau khổ. Tại vì đôi mắt của quý thầy không thấy được điều đau khổ đó, chứ
riêng Thầy Thầy có một cảm nghĩ vạn vật đang đau khổ trong cái đau khổ của một
sự việc nào xảy ra trong đó. Vì thế mới chan hòa cái niềm vui ở trong đó. Bây
giờ Thầy đọc lại câu trạch pháp này:
Trong vạn vật đều có sự vui chan hòa ta hãy theo đó hòa mình trong
sự vui. Nếu ta làm một điều không vui thì tức là ta đã làm buồn khổ muôn loài
vạn vật cỏ cây.
Ta thường xuyên trau dồi câu này thì tâm hỷ vô lượng sẽ vui mừng
cùng với muôn loài. Nghĩa là câu này chúng ta thường xuyên nhắc nhở câu này để
chúng ta tránh những điều nhỏ. Thí dụ như bây giờ mình đang đi trên bước đường
đi vào trong thất của mình, mình lỡ mình đạp, trong khi đó tâm hồn của mình
đang ban rải yên vui theo cái sự vui của vạn vật thế mà mình vô tình mình đạp một
con kiến gẫy chân đi, nó lăn lộn, nó rên la, thì trong cái không gian đó và cái
thời gian đó vạn vật xung quanh đó đều bị cô đọng lại cái sự đau khổ đó. Cho
nên vì vậy mà chúng ta phải nhắc cái tâm của mình. Bởi vì người tu sĩ đạo Phật
phải phủ trùm cái tình thương của nó, cho nên Phật nói Tứ vô lượng tâm biến mãn
khắp mười phương chúng sanh. Đó là biến mãn đó, cho nên một cái đau khổ nhỏ của
vật này thì nó sẽ đau khổ toàn bộ cả vạn hữu chứ không phải có riêng một con vật
đó đau khổ đâu. Khi mà cái tâm từ, tâm bi của họ đã thể hiện thì trước cái đau
khổ của con vật đang lăn lộn thì ngay đó tâm chúng ta nhói lên sự đau khổ, thì
vạn vật nó đang hòa mình trong sự an vui đó mà bỗng có một con vật đau khổ thì
tức là cây cỏ đều đau khổ, chứ không phải là chỉ có con vật đó đau khổ không.
Tuy chúng ta thấy như là nó vô tình nhưng sự thật không vô tình. Nó là có một sự
giao cảm, cảm thông nhau, nó rất là rõ ràng.
Tại sao vậy? Khi mà có một người đó họ cất một cái nhà rồi họ trồng
những cái cây xung quanh đó, họ ở, rồi sau đó họ rời họ đi. Những cái cây đó họ
làm sao họ bứng được, nhưng ra đi rồi thì những cây đó lần lượt buồn rồi héo
khô. Chúng ta thấy cây cũng cảm động, cũng xót xa, cũng thương tiếc, cũng nhớ
thương những người mà chăm sóc gần bên nó. Cho nên khi chúng ta mà có những cái
cây ở gần bên chúng ta thì nó sum xuê, nó vui sướng còn những cây ở ngoài rừng
ngoài bụi xa thì nó cằn cỗi, khô héo vì không được vui mừng, vì nó không được sự
nghe qua tiếng nói hoặc là hơi ấm của chúng ta chan hòa với nhau. Đó là những
cái mà chúng ta thấy hầu như là vạn hữu đều chan hòa trong sự sống với nhau.
2.4. Trau dồi tâm xả vô lượng
Bây giờ chúng ta học đến xả vô lượng. Xả vô lượng là gì? Xả là
gì?
Xả là bỏ ra không dùng nữa, không chấp, không kể đến nữa, dẹp nó
qua một bên, gọi là xả. Đó thì xả tất cả mọi pháp tức là bỏ qua hết không còn lấy
cái gì hết. Cho nên Phật dạy chúng ta còn ba y một bát, tức là xả bỏ hết. Xả
nhiều lắm, không thể nào mà xả ít được. Xả vô lượng là bỏ tất cả không còn một
vật gì, một đối tượng, một hoàn cảnh hay một chướng ngại nào còn sót trong tâm
nên gọi là xả vô lượng tâm. Nghĩa là tâm xả sạch, quét sạch, không còn một chút
nào ở trong đó hết thì mới gọi là xả vô lượng tâm.
Xả vô lượng tâm có nghĩa là từ bỏ, từ giã, xa lìa, viễn ly tất cả
các pháp thế gian. Nghĩa là xa lìa hết tất cả các pháp thế gian, không còn để
pháp nào trói buộc, dính mắc mình hết. Vậy các pháp thế gian là gì?
Bây giờ mình phải hiểu nó. Nghe nói các pháp thì không biết pháp
thế gian là sao.Vậy thì các pháp thế gian là gì? Các pháp thế gian là những
pháp trói buộc như mạng lưới chằng chịt, khó thoát ra. Đó là chúng ta chỉ ra,
bây giờ hỏi các pháp thế gian là gì thì chúng ta nói sự ràng buộc, ràng rịt của
nó rồi chúng ta mới nó cái tên tuổi của nó ra. Cái sự trói buộc của nó chặt như
vậy đó, nó làm cho chúng ta khó mà vượt ra được, thì đó là các pháp thế gian.
Cái đặc tánh của nó là trói buộc, xiết chặt, làm cho chúng ta khó thoát ra. Rồi
chúng ta mới kể tên họ các pháp này ra để chúng ta biết.
Các pháp thế gian như là: sắc dục, tiền bạc, của cải, tài
sản, vật chất lớn, vật chất nhỏ, nhà cửa, ruộng vườn, danh thơm, tiếng tốt, tiếng
khen, tiếng chê, tiếng mắng, tiếng chửi, thức ăn ngon, thức ăn dở, ngủ nghỉ,
anh em bầu bạn, cha mẹ vợ con, tình thân quyến thuộc, bà con xóm làng, bạn bè gần
xa, chùa to tháp lớn, miếu đình, tế tự cúng bái, tụng kệ ca ngâm, hát xướng,
ngâm vịnh, tủ giường bàn ghế, chén bát, máy móc xe cộ, ti vi, radio, tủ lạnh.v.v...;
kinh sách, kiến thức học tập các pháp thế gian, thiên văn, địa lý, y học, kiến
thức hội họa, toán học, khoa học, kỹ nghệ học, kinh tế chính trị học, quân sự
.v.v…; dịch số, bói toán và các nghề nghiệp, buôn bán, làm ruộng, thợ mộc, thợ
may, thợ dệt, đi săn, bắt cá, trồng trọt mọi thứ, làm thầy thuốc, thầy thông,
thầy ký, thầy ngải thầy bùa, kế toán, thợ máy, thợ điện v.v… Nói chung tất cả
các nghề nghiệp sanh sống hiện giờ của con người là pháp thế gian. Quý thầy thấy
kể làm sao cho hết được các pháp thế gian, nó tùm lum đủ thứ, mà ai hễ dính vào
là nó bị dính à. Dính cái nào nó cũng dính hết, bứt ra khó bứt ra. Cho nên một
người đổi nghề cũng không phải dễ. Và một cái ly, một cái chén, bát ở trong nhà
nó cũng dính mình. Đó là các pháp thế gian đó.
Cho nên ở đây gọi là xả vô lượng, xả vô lượng pháp. Đó là phải hiểu
vì vô lượng thì các pháp thế gian nó cũng vô lượng chớ không phải kể một số như
vậy là hết pháp thế gian đâu. Từ cái học thuật của chúng ta, từ kiến thức kim cổ,
từ hiểu biết thế này thế kia đều là pháp thế gian hết. Nó làm cho chúng ta dính
kẹt ở trong đó. Cho nên nó gọi là kiến chấp. Đó là những hiểu biết, học thuật của
chúng ta, chấp cái này cái kia, chấp cái nọ làm chúng ta không giải thoát. Cho
nên đó gọi là pháp thế gian, vì vậy xả là nó phải xả hết. Cho nên xả hết nó mới
có giải thoát, mà xả không hết thì nó chấp kiến, chấp cái này đúng, cái này sai
thì có tranh luận, có cãi cọ, có hơn thua thì bản ngã nó bộc lộ ra liền. Còn xả
hết thì nó không có bản ngã. Đó cho nên không phải là mình xả những vật chất
bàn ghế, tủ, đồ đạc, của mình sống không đâu, mà còn xả những tri kiến ở
trong đầu chúng ta nó huân học từ hồi nào đến giờ cũng xả hết. Thậm chí như
kinh sách của Phật cũng xả luôn. Chỉ biết thực hiện trau dồi cho tâm chúng ta xả
sạch thì như vậy là giải thoát. Còn bây giờ chúng ta đã tu tập mà trong đầu
chúng ta còn nhớ ông Phật nói vầy, ông Phật nói khác thì đó là chưa xả, chưa xả
pháp thế gian. Bởi vì cái này chỉ là mượn mà thôi cho nên Phật nói Phật pháp
còn xả huống hồ là pháp thế gian. Cho nên ngay cả những lời Phật dạy chúng ta
còn bỏ xuống huống hồ là những pháp thế gian mà chúng ta cứ dính mắc hoài. Đó
là cái xả vô lượng tâm. Bởi vì cái tâm của chúng ta đến với pháp nào thì nó
dính, vì vậy mà chúng ta phải xả cái tâm vô lượng này để mà xả sạch thì cái tâm
không còn dính vô chỗ nào nữa thì đó là giải thoát.
Cho nên tới cái chỗ này chúng ta mới thấy Tứ vô lượng tâm thật là
rốt ráo. Mà muốn cho được cái rốt ráo này, muốn xả cho được cái này thì
chúng ta thấy trong Thất giác chi tức là thất Bồ đề đó là xả sạch đó. Còn ở đây
chúng ta là những người mới trau dồi tâm xả chứ chưa phải là xả sạch. Để chúng
ta đoạn dứt từng chút, từng chút, cái nào trước và cái nào sau. Để chúng ta bớt
đi phần nào tốt phần nấy. Lần lượt để chúng ta bước vào giai đoạn, lộ trình thứ
2 là xuất gia tu hành là chúng ta đã xả sạch rồi. Cho nên nếu mà không có tu tập
xả vô lượng tâm này mà bước vào con đường, lộ trình thứ 2 của đạo giải thoát
thì chắc chắn là chúng ta chẳng đi tới đâu hết. Cho nên Thầy đem Tứ vô lượng tâm giảng
chỗ xả này rất là kỹ, nếu mà xả kỹ thì vô đó một tuần lễ, một tháng, hai ba
tháng là chúng ta đã chứng đạo quả Bồ Đề. Bởi vì xả sạch rồi còn gì nữa mà không chứng quả Bồ Đề. Quý
thầy thấy rất rõ ở đây mục đích của đạo Phật là đạo buông xả, mà xả vô lượng
chứ không phải xả một thứ. Xả sạch hết. Thì như vậy mới biết đạo Phật là cái đạo
rất siêu xuất, chứ không phải cái đạo bình thường. Bởi vì còn một chút là còn
khổ đau, không thể nào giải thoát được.
Cho đến đây từ chỗ tập luyện trau dồi từ vô lượng tâm, bi vô lượng
tâm rồi hỷ vô lượng tâm thì chúng ta chỉ mới thấy được an vui hòa mình trong vạn
hữu mà thôi. Thì người ta tưởng đâu đó là phản bổn hoàn nguyên, trở về với vạn
hữu, sống một cách an lạc, đó là cái cuối cùng. Nhưng cái cuối cùng là cái xả
hết, không còn để một vật gì hết thì như vậy mới là giải thoát. Và đây là sự
trang bị cho những người cư sĩ còn gia duyên trói buộc để chuẩn bị tinh thần của
họ, để chuẩn bị sự sắp xếp của họ, để họ xả cho sạch, để họ bước vào con đường
xuất gia tu hành trắng bạch như vỏ ốc mà Phật đã thường nhắc.
Khi bước chân vào xuất gia trở thành một vị tỳ kheo thì tâm hồn của
họ trắng bạch như vỏ ốc, thì lúc bấy giờ họ thực hiện không còn bao lâu nữa mà
thành tựu chứng quả Bồ Đề. Còn trái lại người cư sĩ mà
không chuẩn bị cho mình xả sạch ở trong giai đoạn Tứ vô lượng tâm này thì bước
vào lộ trình xuất gia mà tu tập theo các vị tỳ kheo thì khó mà có thể tu tập được.
Không bao giờ có thể xả được. Vì ở đó chúng ta tiếp tục tu những cái hạnh và những
cái việc làm nó khác hơn là người cư sĩ. Nó không còn ngồi đó mà nghĩ bây giờ
phải xả cái bàn, bỏ cái ly, bỏ cái tách, bỏ vợ hay bỏ con nữa. Mà đi vào đây có
sự tập luyện ví dụ như Tứ niệm xứ, Bốn thiền, Bát chánh đạo, Tứ diệu đế… tất cả
những cái này chúng ta vào cái vai trò của người tu sĩ tỳ kheo thì chúng ta phải
thực tập những pháp này. Còn vai trò của người cư sĩ thì phải thực tập pháp Tứ
vô lượng tâm, thì cái xả là cái quan trọng nhất của người cư sĩ. Mà người cư sĩ
không thấy nó quan trọng cho nên nó cứ trói buộc hoài. Mà trói buộc hoài thì
làm sao bước qua lộ trình thứ 2 được. Bị trói buộc làm sao bước qua lộ trình thứ
2 được. Cho nên ở đây nhìn chung quanh quý thầy thấy rõ, mình tu sĩ thật, mình
xuất gia thọ tỳ kheo 5 năm 10 năm, hai chục năm mà mình có xả được không? Vậy
thì xả vô lượng chỗ nào? Tâm mình còn dính dù lớn dù nhỏ, dù ít dù nhiều, cho
nên nó không có xả. Vì vậy mà Thầy phải làm cái gương hạnh là ẩn bóng để xả cho
sạch, để làm cái gương cho người khác thấy rằng Thầy xả cả chùa, tu viện, tất cả
đệ tử đều xả sạch hết. Như vậy mới gọi là xả vô lượng tâm. Còn bây giờ mình ở
đây thì mình có xả được đâu. Chùa cũng của mình, rồi ăn uống cũng không xả. Rồi
đệ tử cũng không xả. Như vậy thì có xả gì đâu. Mình làm lợi ích cho chúng sanh
thì ở đâu lại làm lợi ích không được. Cần gì phải ngồi ở đây để làm trụ trì mà
mới là độ chúng sanh, chỗ nào có người tu thì mình đến đó độ họ, tu xong rồi
thì mình đi chỗ khác có gì mà không xả. Cho nên đời sống du tăng khất sĩ là đời
sống tuyệt vời, xả sạch.
Đến đây quý thầy sẽ thấy được cái tâm xả vô lượng này, nó tuyệt vời
của đạo Phật. Mà nếu một người tu sĩ mà không thực hiện được tâm xả này người
ta nhìn thấy người ta biết được không phải là tu sĩ của đạo Phật. Bởi vì xả tâm
vô lượng, vô lượng cái xả chứ đâu phải là một. Nhìn thấy như vậy chúng ta mới
biết được con đường của đạo Phật, người tu chơn hay là người tu giả. Người tu chơn
thì phải xả hết, người tu giả thì xả nửa chừng hoặc xả ít ít, để cho có chừng
đó mà thôi. Cũng xả, mà chỉ xả cái phần thế gian, còn phần chùa miếu thì không
dám xả, sợ nó mất đi, thì cái đó cũng chưa phải là xả. Mà phải xả sạch
hết.
Đó thì hôm nay Thầy nhắc lại cho chúng ta thấy được cái chỗ tâm xả
vô lượng để chúng ta tiếp tục tu tập mà xả cho hết. Nãy giờ Thầy nhắc lại những
pháp thế gian để cho quý vị thấy đó là các pháp thế gian mà người cư sĩ cần phải
xả. Tất cả những nghề nghiệp cuộc sống gì, tất cả hết, chúng ta phải trang trải,
tính toán sắp xếp, vì đời người có thân là khó, mà được pháp chân chánh như vầy
là khó lắm. Muốn chấm dứt sanh tử luân hồi đâu phải là chuyện dễ. Còn nếu không
thì mãi mãi muôn kiếp trôi lăn trong lục đạo không thể nào thoát ra khỏi. Kiếp
này cũng khổ, kiếp khác cũng khổ.
Nói chung quý vị trước tiên cần phải xả bỏ 5 thứ dục lạc. Nghĩa là
bây giờ chúng ta phải xả cái gì trước đây. Đó, thì nói chung chung nó nhiều như
vậy nhưng lần lượt chúng ta xả cái gì, chứ không phải bây giờ xả một lần, cả thế
gian này chúng ta xả xuống được liền. Cho nên chúng ta phải tuần tự mà chúng ta
xả. Vậy thì tuần tự chúng ta xả cái gì đây? Chúng ta phải xả 5 thứ dục lạc. Đó
những cái đó là những cái gần gũi nhất của chúng ta. Quý thầy nhớ chưa? Ở trên
tuy rằng nói chung chung là các pháp như vậy, nhưng ở đây trước tiên là chúng
ta phải tu tập xả tâm 5 thứ dục lạc gần gũi nhất của chúng ta:
1. Sắc dục
2. Tiền bạc
3. Danh
tiếng
4. Ăn
5. Ngủ
Đó, chúng ta phải xả 5 cái thứ này đi. Vậy thì phải xả như thế
nào?
Chúng ta phải tránh xa sắc dục, đừng có lại gần người nữ. Đó là
cái thứ nhất.
Cái thứ 2, tiền bạc châu báu đừng có cất giữ, cho nên chúng ta xả
nó đi, đừng có cất giữ cái thứ đó. Thứ đó là rắn độc đó, nó sai khiến chúng ta,
chúng ta trở thành nô lệ nó đó. Hễ cái tâm chúng ta khởi muốn, có tiền là chúng
ta mua sắm liền. Cho nên chúng ta xa lánh. Vì vậy trong giới luật của Phật dạy
người tu sĩ không cất giữ tiền bạc. Cho nên mình muốn mà mình không có tiền bạc
cũng chịu thôi, cho nên vì vậy mà nó không sai mình được. Cho nên đó là cái dục
lạc đó.
Danh chúng ta phải xả, ờ nghe người ta khen mình tụng kinh hay, tiếng
tốt hoặc là thuyết pháp giỏi, thôi thôi mình tránh xa đi. Nghe người ta khen
mình tụng kinh hay thì thôi thôi mình đừng có tụng nữa. Tức là mình tránh nó
đi, tức là mình xả nó đó. Còn nghe người ta khen mình tụng kinh hay bắt đầu
mình mở máy thu băng vô để tụng cho mọi người nghe đó là cầu danh. Đó là mình
chạy theo danh. Còn khi nghe người ta khen mình thuyết pháp hay thì thôi chổng
khu chổng gọng mà thuyết ngày này qua ngày khác để người ta khen mình nữa, đó
là danh. Cho nên Thầy mới nói Thầy thuyết pháp cho các con kỳ này thôi, Thầy
không thuyết nữa. Tại sao vậy? Tại vì đó là danh. Nói hoài lảm nhảm cũng như
hát cho mấy con nghe chứ có làm gì. Đó là chạy theo những cái danh. Bởi đó là dục
lạc. Rồi bắt đầu chúng ta xả cái gì?
Ăn. Ăn ngày một bữa, ăn để sống chứ đừng thích ăn ngon. Đó là xả đó,
ly nó ra. Ăn coi như là thứ thuốc để trị bệnh ghẻ đói của chúng ta, chớ không
phải ăn mà ngon ngào gì. Đó toàn là thứ bất tịnh. Do đó chúng ta mới ly những
cái này ra. Xả cái này ra đi. Cái này là những cái gần gũi nhất ở trong thân
chúng ta đây. Nó làm đau khổ chúng ta nhiều nhất. Còn tất cả những cái kia chưa
đâu. Xả được cái này mới xả được những cái kia. Mà năm thứ dục lạc này mà xả
không được thì coi như tiền bạc, của cải, tài sản, vợ con không bao giờ xả được
đâu. Nghĩa là chúng ta không xả được năm thứ dục lạc này thì không bao giờ
chúng ta xả được cái gì nữa hết.
Rồi ngủ chúng ta cũng phải xả đi, chớ không phải buồn ngủ là leo lên ngủ
thì không có được. Xả nó xuống đi, bỏ nó xuống đi. Chừng nào suốt đêm mà chúng
ta nằm tỉnh thức mà chúng ta không ngủ, tỉnh thức đó là chúng ta đã xả rồi. Còn
chúng ta còn ngủ là chưa xả được đâu. Phải nhớ như vậy để chúng ta xa lìa,
chúng ta xả sạch. Xả vô lượng năm thứ dục lạc này đi. Bởi vì 5 thứ dục lạc này
nó biến ra vô lượng cái điều kiện mà chúng ta dính mắc đó. Đó là hôm nay chúng
ta đã biết được 5 điều kiện mà chúng ta cần xả trước.
Kế đó quý vị phải tiếp tục. Nghĩa là xả được 5 thứ dục lạc này rồi.
Bây giờ sắc dục mình tránh xa rồi, tâm mình thấy nó không còn ham sắc dục nữa.
Tiền bạc của mình thấy mình tự tại không cần dùng tiền bạc nữa. Danh tiếng thì
mình cũng không ham nữa rồi. Ăn thì mình ngày một bữa để sống rồi. Ngủ thì mình
thấy tỉnh thức rồi. Thì bắt đầu mình mới tu tới. Chớ còn chưa được cái này mà
mình tu tới nữa thì cái này chưa xả mà cái kia mình tu tới nữa thì nó trói luôn
chứ nó không có xả được ra đâu. Thì các thầy phải nhớ kỹ con đường đạo Phật phải
tu cái nào cho được rồi mới tu cái kế. Còn tu cái này chưa được, ăn thì còn ba
bốn bữa, ngủ thì lúc nào cũng muốn ngủ, tiền bạc thì còn cất cả túi, nghe người
ta khen thì nở mũi mừng, thấy con gái thì nhìn, thì như vậy thì tới tu tập xả 6
cái pháp dục lạc nữa của thế gian thì chúng ta xả không nổi. Bởi vì 6 pháp dục
lạc của thế gian nó hơn cái này nữa. Cho nên khi xả được 5 cái này rồi thì
chúng ta mới tiếp tục xả vô lượng 6 pháp dục lạc thế gian nữa.
Vậy thì 6 pháp dục lạc thế gian này là gì? Là
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đó, bây giờ chúng ta mới thấy 6 pháp này là đối
tượng, là hình sắc, tiếng, hương vị của các pháp thế gian. Nó cám dỗ chúng ta
vô cùng lắm. Còn cái kia là cuộc sống của chúng ta đó, 5 thứ dục lạc đó là cuộc
sống của chúng ta. Còn cái này là cái đối tượng của tâm chúng ta. Nó luôn luôn
cám dỗ, thu hút chúng ta để trở về phục vụ cho 5 thứ dục lạc ở trên. Chúng ta
phải thấy được rõ đường đi của nó. Nó tiếp xúc với sắc, thanh hương, vị, xúc,
pháp. Sắc ở đây không phải là sắc dục như ngũ dục lạc ở trên. Đó là sắc dục,
tình ái. Còn ở đây là hình ảnh, sắc tướng. Thấy một cái máy cát xét, thấy một
cái ca, thấy một cái bàn đó là cái sắc. Mà cái sắc đó nó làm chúng ta ham
thích, nó gợi cho chúng ta thích thú nó thì đó là chúng ta bị sắc cám dỗ. Còn
cái kia là sắc dục nó khác, hai cái này nó khác nhau. Thinh là âm thanh. Hương
là hương thơm. Vị là mùi vị mặn ngọt cay đắng. Xúc là va chạm. Pháp ở đây là những
kiến chấp ở trong đầu chúng ta, những sự hiểu biết ở trong đầu chúng ta gọi là
pháp. Chớ không phải bàn ghế tủ là pháp đâu. Chữ pháp ở đây phải hiểu là những
hiểu biết ở trong đầu chúng ta, hiểu biết cái này nọ kia đó là pháp. Đó cho nên
chúng ta phải xả cái đó ra, xả ly cái đó ra. Bởi vì đời sống chúng ta kể từ khi
được hiểu biết thì chúng ta huân biết bao sự hiểu biết. Phong tục tập quán này
kia nó dính mắc. Cũng như bây giờ mình ở trong chùa, đến ngày kỵ giỗ gì đó của
hòa thượng này hòa thượng kia mà không cúng thì bà con rầy rà vô cùng đó. Hoặc
ngày tư ngày tết mà không cúng bái thì người ta đến chùa mình người ta kiếm
chuyện này chuyện kia đủ thứ hết. Đó là những pháp bắt buộc chúng ta, trói buộc
chúng ta làm nô lệ cho phong tục tập quán đó. Cho nên chúng ta phải bứt nó ra,
vì vậy chúng ta phải xả bỏ nó đi. Mặc mấy ông muốn nói gì thì nói. Tôi làm thầy
tôi phải giữ đúng cái hạnh của tôi, tôi đâu có làm mấy chuyện mê tín như vậy.
Đó như vậy là chúng ta đã phá những cái pháp đó. Phải hiểu những cái gì, chứ
không chúng ta hiểu một cách cạn cợt thì chúng ta thấy chữ pháp này như pháp thế
gian, pháp xuất thế gian, là các pháp… thì cái này không đúng. Phải biết chỗ
dùng chữ pháp nó ở vị trí nào để gọi nó là dục lạc.
Đó thì ở đây Thầy giải thích như vậy để chúng ta biết được để
chúng ta xả bỏ nó. Còn nếu không biết được thì chúng ta lấy gì mà xả bỏ nó được.
Vậy sắc là gì?
Bây giờ đã chỉ cho nó được 6 pháp dục lạc rồi. Người ta thường nói
nó có 5 thứ dục lạc này: sắc thanh hương vị xúc, người ta bỏ pháp. Người ta
quên mất đi đối tượng của pháp là ý của chúng ta. Đối tượng của xúc là thân của
chúng ta. Đối tượng của vị là lưỡi của chúng ta. Đối tượng của hương là mũi của
chúng ta. Đối tượng của âm là lỗ tai của chúng ta. Đối tượng của sắc là mắt của
chúng ta. Rõ ràng là 6 chứ tại sao họ lại bỏ. Họ cứ nói là có ngũ dục lạc thì
ngũ dục lạc là 5 cái ở trên chứ 6 dục lạc ở dưới này là đối tượng để cho tiếp
xúc 6 căn của chúng ta mà sanh ra tâm ham muốn. Thì như vậy chúng ta mới thấy
nó sinh ra cái thọ. Rồi thọ nó mới có ái chứ. Đó là trong thập nhị nhân duyên
Phật đã chỉ cho chúng ta thấy từ cái duyên này nó mới sinh ra duyên kia. Do đó
chúng ta mới hiểu là 6 pháp dục lạc chứ không phải 5 pháp. Bởi vì hầu hết là
quý thầy dựa vào sự hiểu biết không có thực hành cho nên ngắt bỏ cái pháp đi, để
cho gọi những cái đó gọi là dục. Chứ cái pháp không dục sao? Không dục sao còn
chấp? Không thích nó sao lại chấp để tranh luận với nhau? Mình cho pháp mình
đúng, tức là kiến chấp pháp đó. Thì người ta nói mình sai thì mình phùng mang
trợn mắt lên mình cãi, thì không phải là mình thích nó sao. Đó là những cái mà
chúng ta bị nó lôi cuốn ở trong chỗ thích thú, làm cho chúng ta bị dính mắc ở
trong đó.
Đến đây Thầy giải thích từng phần.
Sắc là gì? Sắc là mọi hình ảnh của các pháp.
Nghĩa là cái vật gì ở trong thế gian này thì nó có hình ảnh đó, thì đó gọi là sắc.
Có nhiều người hiểu cái này là sắc dục đó, thì đó là hiểu sai. Mà hễ các hình ảnh
đó thì nó phải có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta. Làm cho tâm ta thích thú, gợi
lên khả ái, khả lạc, khả hỷ. Nó làm cho chúng ta thích nó nên nó khả ái, khả lạc,
khả hỷ. Đó thì những cái hình sắc của mọi vật nó đều có sự như vậy.
Thinh là âm thanh của các pháp có sức cám dỗ và
lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ,
khiến ta thích thú, say mê. Một người mà nghe nhạc rồi đó họ thích lắm, họ gật
gù gật gù theo điệu nhạc. Rồi họ thích thú họ nhảy Rum ba rồi nhảy tùm lum tà
la, họ nhảy đầm rồi đó. Đó là họ thích lắm, cho nên nó gây cho họ những cảm
giác khả ái, khả lạc ở trong đó. Đó là những âm thanh làm cho họ bỏ những thời
gian rất là phí cuộc đời của họ.
Hương là mùi thơm của các pháp có sức cám dỗ và
lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ,
khiến ta thích thú say mê. Những điều này quý thầy không thể chối cãi được. Nghĩa
là chúng ta có nghe cái mùi thơm: chà cái bông này hôm nay thơm quá. Thì đó là
đã khả hỉ, khả ái rồi, đã thích thú rồi. Mình chỉ khen nó như vậy là đủ
biết cái tâm của mình nó đã bị gợi lên những cái khả ái, khả lạc của nó rồi.
Vị là mùi vị ngon ngọt, cay đắng, chua mặn của các pháp có sức cám dỗ
và lôi cuốn tâm ta làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ,
khiến cho ta thích thú, say mê, khó quên. Nghĩa ăn rồi mà còn nhớ cái bánh đó,
nay là một tháng rồi mà: trời, ăn cái bánh đó ngon quá. Bây giờ mà còn nhớ cái
bánh đó, cái ngon ngọt của nó, thì đó là khó quên chứ sao. Cho nên nó làm cho
chúng ta thích thú, say mê cái miếng ăn của chúng ta. Mà ăn rồi, nuốt vô khỏi
cổ rồi thì còn ngọt ngon gì nữa đâu mà cái quên nó không quên. Nó nhớ hoài. Mai
mốt ba có đi chợ, đi thành phố mua cho con cái bánh đó con ăn thấy ngon quá. Mà
nay ăn cả tháng rồi mà còn nhắc ông già đi mua cho mình ăn nữa. Thì đó là khó
quên đó.
Xúc là sự va chạm vào các pháp sinh ra cảm thọ êm ấm, nóng, mát, lạnh
đau nhức, nhẹ nhàng, khinh an, hỷ lạc, lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc,
cảm giác sung sướng, cảm giác mừng vui, cảm giác buồn khổ, v.v.. Đó là xúc đó.
Thì chúng ta thấy những cảm giác mà người tu thiền chúng ta đều gặp những cảm
giác này. Toàn là thứ không có đúng đắn, thứ sai lạc, thứ làm cho chúng ta
thích thú, say mê. Cho nên nó gợi lên cho chúng ta những điều kiện không hay
cho con đường tu tập. Cho nên ngồi tu mà có cái trạng thái nào đó thì biết đó
là xúc tưởng hỷ lạc sanh ra chứ không cái gì khác hơn hết. Vì vậy mà chẳng để
tâm theo nó để mà làm gì. Nói tóm lại thì các cảm giác của chúng ta gồm có 3:
1. Thọ lạc
2. Thọ khổ
3. Thọ bất lạc bất khổ
Chớ không có gì khác hơn hết. Vì có sự xúc chạm đó mà nó mới sinh
ra những cái thọ. Mà sinh ra những cái thọ thì đó là thọ lạc, thọ khổ và thọ bất
lạc bất khổ.
Ở đây quý thầy đã thấy Thầy giải thích như vậy thì chúng ta đã thấy
5 cái dục lạc này quý thầy đã rõ ràng và không có còn chạy theo nó nữa.Vì chạy
theo nó nó khởi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến cho ta thích thú. Cho nên khi
ngồi thiền quý thầy thầy nó có trạng thái khinh an hỷ lạc, say say, lâng lâng,
nó làm cho mình thích thú, cảm giác khoái lạc ở trong đó do đó mình cứ ngồi
hoài, ngồi hoài nhưng đó là cái hang quỷ của quý thầy đó. Không bao giờ mà quý
thầy thoát ra khỏi cái hang này đâu nếu mà quý thầy cứ thích thú nó. Nó gợi cho
quý thầy thích thú nó để chạy theo cái thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ.
Thọ lạc thì nó lâng lâng mà thọ khổ thì nó đau, nó nhức, nó lạnh, nó nóng, nó nặng.
Đó là thọ khổ. Mà thọ bất lạc bất khổ thì quý thầy ngồi thiền nghe không lạc
không khổ gì hết tưởng là nó đúng nhưng mà quý thầy thiếu vận dụng, thiếu chủ động
thì quý thầy đang ở trong cái chỗ bất lạc, bất khổ. Tưởng là mình ngon lành,
thiền định rồi nhưng mà cái đó là rơi vào cảm giác thọ bất lạc, bất khổ.
Ở đây Thầy giải thích để quý thầy hiểu rõ chỗ tu thiền của quý thầy
sai tưởng là chỗ thọ bất lạc bất khổ ở đây đó là đúng, nhưng mà sự thật đó là
sai. Bởi vì ở trên lạc và khổ thì quý thầy hiểu rồi, bây giờ thọ bất lạc bất khổ
cho nó là đúng. Sai. Chúng ta ở trong đó là chúng ta có sự vận dụng, có sự điều
khiển chớ không phải ngồi đó mà hưởng thọ bất lạc bất khổ. Cho nên người tu thiền
mà không biết, tưởng cái chỗ này là tu đúng. Cái chỗ này là định. Đó là hiểu
sai. Người tu thiền là đưa chúng ta đi đến làm chủ sinh tử, làm chủ cái sống chết.
Cho nên từng phút giây vận dụng để đi như thế nào để bắt đầu cái thân không thở,
các hành ngưng mà không chết. Từ đó chúng ta phục hồi nó sống bằng cách thở lại,
hoạt động trở lại rồi trở về hơi thở bình thường thì đó là chúng ta đã làm chủ
được sự sống chết chứ không phải ngồi đó mà thọ hưởng cái thọ bất lạc bất khổ.
Bởi vậy có bao giờ người tu thiền mà người ta vô trong đó để tìm cái lạc ở
trong đó đâu. Cơ thể người ta mệt nhọc quá sức, vì cơ thể người ta ngày càng
suy yếu người ta buộc lòng phải hồi phục nó, cho nên người ta mới ngồi lại
người ta vận dụng để cho cơ thể nó được nghỉ ngơi, nó được thư giãn, mà nó
quân bình, không rối trật tự ở trong đó. Để rồi lấy lại cái sức qua ngày hôm
sau làm việc. Còn quý thầy được hỷ lạc thì vô ngồi để đi tìm cái dục lạc, đó
thì tâm còn bị cái khả hỷ, khả ái, khả lạc, gợi lên những sự mê thích say mê
trong thiền định. Tu hành như vậy là tu hành không đúng.
Pháp ở đây chỉ cho tất cả những sự hiểu biết. Ở đây Thầy xác định chữ
pháp đây. Pháp ở đây chỉ cho tất cả những sự hiểu biết cổ kim đến triết học,
văn học, sử học, địa lý học, thiên văn học, toán học. Toàn bộ kinh sách của
các tôn giáo trên thế gian này đều gọi là pháp. Bởi chữ pháp ở đây là chỉ cho
các môn học, các cái pháp. Thậm chí cả kinh sách Phật nữa, lời dạy của Phật cũng
đều là pháp hết. Đây là pháp thật chứ không phải là cái tượng trưng cho các vạn
hữu xung quanh chúng ta là pháp, cái này chữ pháp kia nó dùng khác. Hồi nãy
Thầy nói vạn hữu là pháp đó là cái chỗ dùng. Bởi vì cái danh từ để chỉ, nhiều
người rất lầm lạc. Tất cả các pháp đó Phật dạy đó là kiến chấp của thế gian. Nó
có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta ưa thích, xem đó là chánh pháp, là
đúng pháp, ôm chặt khư khư, không muốn rời bỏ, cho đó là khuôn vàng thước ngọc,
làm mẫu mực cho đời sống thường nhân hoặc tu hành. Các pháp này có sức lôi cuốn
tâm ta, khiến ta ưa thích, gợi lên những sự hiểu biết này khả ái, khả lạc, khả
hỷ, khiến ta dính mắc không buông xả được. Vì thế cho mới có tranh luận hơn
thua. Đó thì quý thầy thấy cái giải thích của Thầy ở đây, quý thầy thấy rất rõ.
Do cái chỗ mà không thấy rõ các pháp như thế nào để rồi dính mắc ở trong
đó, rồi mới có sự tranh luận hơn thua, mới chia ra pháp này, pháp kia, pháp nọ,
toàn là những kiến chấp mà thôi không có gì giải thoát hết.
Bây giờ quý thầy đã hiểu rõ toàn bộ các pháp ở thế gian là pháp
cám dỗ. Nghĩa là các pháp thế gian là các pháp cám dỗ hết. Thu hút lôi cuốn tâm
con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh khổ đau cho nhau. Thì chúng ta chấp
pháp thôi, chúng ta tranh nhau, chúng ta không nể nang cái gì hết. Chúng ta xạc
nhau bằng lưỡi gươm, miệng kiếm, chúng ta không có từ nan những cái gì hết khi
mà chúng ta chấp cái pháp đó. Bằng chứng là quý thầy cũng thấy người ta tranh
luận với nhau bằng các pháp rồi người ta nói xấu nhau thầy này thầy khác. Đó là
những điều không hay cho những người không thấy các pháp thế gian lôi cuốn họ,
làm cho họ khởi lên khả ái, khả hỷ, khả lạc đó.
Muốn trau dồi tâm ta xả vô lượng các pháp thì phải trau dồi như thế
nào?
Bây giờ muốn trau dồi tâm mình để xả vô lượng pháp thì mình phải
trau dồi như thế nào nó mới xả. Chứ nãy giờ nghe Thầy nói mà không biết cách mà
xả thì chắc chắn là cũng không xả được. Nói là một lẽ, lý thuyết là một lẽ,
nhưng để mà xả làm sao xả được đây? Đó là cái mấu chốt của sự tu tập chúng ta
hôm nay. Muốn trau dồi tâm ta xả vô lượng các pháp thế gian. Đây quý thầy nhớ kỹ
chỗ Thầy nó đây. Cái này rất là quan trọng đây.Ta nên lựa một chỗ thanh vắng, tịch
mịch như rừng, gốc cây, hang đá, khe núi, bãi tha ma, lùm cây, bóng mát dưới
tán cây, ngoài trời hoặc trong chòi lá. Nhớ kỹ những nơi đó là nơi để chúng
ta xả các pháp đó. Tìm những nơi đó mới xả được các pháp. Còn nếu mà không có
những nơi đó thì khó mà xả được các pháp này lắm. Ở giữa chợ mà ngồi, giữa xe cộ
chạy rần rần mà xả các pháp này thì xả không vô rồi. Vậy thì xả như thế nào đây
mà phải tìm những nơi yên tịnh, thanh vắng như vậy để mà xả. Đây Thầy tiếp.
Sau khi ăn uống xong, đợi cơm và thực phẩm tiêu hóa khoảng 2 giờ,
nghĩa là cơm trong bụng mình ăn xong rồi á, phải ăn no chứ không phải được đói
mà vô đó ngồi thiền. Thì đợi cơm tiêu hóa rồi, thì lúc bấy giờ nó tiêu hóa khoảng
2 giờ đồng hồ thì cơ thể chúng ta rất là thảnh thơi. Nó không có đói nữa. Chớ
người đói thì ngồi chắc chắn là xả không được đâu. Bởi vì xả cái đói mà không
được thì làm sao mà xả các pháp được. Cho nên phải ăn cơm xong rồi bắt đầu nghỉ
một chút, khoảng 2 giờ thì bắt đầu nghỉ một chút chúng ta mới bắt đầu.
Khi mà ăn cơm xong khoảng 2 giờ thì chúng ta hãy: ngồi kiết
già, lưng thẳng. Muốn xả các pháp đâu phải là chuyện dễ, nó dính cũng như
là cái dây chằng, là lưới, nó bệnh ở trong thân tâm ta cũng trói chặt như là
dây lòi tói rồi. Bây giờ muốn xả nó là phải ngồi cho vững vàng rồi mới bứt ra từng
sợi chứ đâu có phải xả lơ mơ được. Đó thì thầy dạy cho các con thấy được cách
thức xả.
Ta hãy ngồi kiết già lưng thẳng tại chỗ nói trên, tức là tại chỗ
mà mình tìm nơi vắng vẻ đó và an trú, đặt niệm trước mặt. Đó bây giờ mới đặt niệm
trước mặt. Vậy thì cái niệm gì trước mặt đây để mà xả được nó. Bởi vì các pháp
nó quá nhiều.Và chúng ta phải tu tập như thế nào để mà xả cái niệm gì trước,
cái niệm gì sau. Cho nên khi đặt cái lưng ngồi thẳng thật thẳng, đặt cái niệm
trước mắt, giữ yên lặng, rồi cái niệm đó là cái niệm gì. Bây giờ chúng ta đặt
trước mặt chúng ta là cái niệm sắc dục. Bởi vì từ sắc dục mà chúng ta sinh ra.
Cho nên cái này nó là cái quan trọng. Và sắc dục là con đường sanh tử, luân hồi,
cho nên ta phải lấy nó làm đầu. Sắc, rồi danh, rồi lợi, rồi mới ăn, mới ngủ. Đó
là 5 thứ dục lạc mà đầu tiên hồi nãy đầu tiên Thầy nhắc. Con phải xa lìa, xả
5 thứ dục lạc này thì bây giờ sắc dục là phải xả trước chớ. Mà chúng ta biết
sắc dục là con đường sanh tử, là con đường luân hồi. Là con đường đưa đến người
này khổ cho đến người khác khổ. Chớ đâu phải sung sướng, đâu phải hạnh phúc gì
đâu. Nó là con đường khổ đó. Một mình mình khổ chưa đã đâu, mình đẻ cho nó một
bầy cho nó khổ nữa. Có thằng con nào mình đẻ ra nó sung sướng đâu. Nó cũng trần
ai khoai củ nó mới có cuộc sống chứ đâu có dễ. Nó lăn lộn trong trần ai này đủ
thứ nó mới sống. Bằng chứng như mình nè. Cha mẹ sinh mình ra thử hỏi có phải
mình trần ai không, mình mới ngoi được lên cuộc sống này, còn biết bao người
người ta lặn ngụp ở trong cuộc sống, chưa có cơm ăn, áo mặc nữa. Thì không phải
sanh ra để mà khổ sao. Thế mà cứ mãi chạy theo sắc dục để mà sinh ra. Quá là vô
minh, quá là ngu si. Con đường khổ mà không thấy khổ, cứ đắm đuối say mê. Bởi
vì sức cám dỗ của nó, sức khả hỷ, khả ái của nó làm chúng ta không dừng bước được,
làm chúng ta không xả được tâm.
2.4.1 Xả tâm sắc dục
Rồi ta theo pháp hướng như lý tác ý. Đó bây giờ chúng ta theo pháp
hướng mà chúng ta đặt cái niệm, rồi bắt đầu chúng ta theo pháp hướng như
lý tác ý ra. Thân phải ngồi thẳng đàng hoàng. Rồi bắt đầu chúng ta đặt cái niệm
sắc dục, rồi bây giờ mới hướng như lý của nó mà tác ra. Như vậy lâu ngày chúng
ta mới phá vỡ nó, mới xả được nó sạch, chớ đâu phải xả chuyện dễ, nó dính ở
trong tâm ta, thân của chúng ta là thân dục. Mà xả nó ra đâu phải chuyện dễ, hở
một chút là nó đã dục rồi. Sắc dục là con đường sanh tử. Đây là câu chúng
ta trạch pháp ra để dùng nó mà hướng tâm, mà như lý mà tác cái ý:
Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đầy đau khổ
triền miên bất tận kiếp này đến kiếp khác. Ta xả bỏ, từ khước, thoát ly, ra khỏi,
từ giã, không nên để tâm ta dính mắc nó nữa.
Đó là câu mà để chúng ta đặt niệm trước mặt của chúng ta rồi chúng
ta ngồi yên lặng, một chút chúng ta lại tác ý ra xả nữa. Rồi một lát chúng ta lại
tác ý ra xả nữa, xả hoài, xả chừng nào mà thân tâm chúng ta không còn dục nữa
lúc bấy giờ chúng ta mới viên mãn. Đó là một câu chúng ta thực tập để xả tâm sắc
dục của chúng ta, cái tâm dục của chúng ta. Chừng nào mà chúng ta thấy cái
tâm này nó hoàn toàn sạch hết thì như vậy là chúng ta đã viên mãn được sự tu
tập này.
Chắc các thầy thấy rằng Phật bảo đặt niệm trước mặt, nhưng đức Phật
nói tới đó thôi, không nói nữa. Nhưng Thầy đã hiểu được cái lý này là do sự
kinh nghiệm bản thân của Thầy. Hôm nay Thầy vạch ra để cho quý thầy biết cách
áp dụng để diệt tâm sắc dục của quý thầy, từ đó quý thầy mới thấy con đường giải
thoát thênh thang. Nếu không đặt niệm trước mặt, không dùng pháp hướng như lý
tác ý thì chắc chắn khó mà xả được tâm này. Nó núp đó chứ chưa hẳn là nó đã chết
đâu. Chúng ta nhắc cái tâm hằng ngày cho nó thấm nhuần, thấm tận xương tủy của
nó thì nó mới chạy trốn nó mới đi mất, chứ không khéo thì nó núp ở trong thân
chúng ta để chờ cơ hội, rồi nó bắt đầu bùng dậy như một ngọn lửa. Nó không phải
dễ dàng lắm đâu. Đây là câu trạch pháp để quý thầy dùng nó mà hướng xả tâm, hướng
tâm xả bỏ.
Hàng ngày quý thầy phải siêng năng tu tập trau dồi câu này để đoạn
dứt tận tâm ái dục. Thì luôn luôn phải dùng câu này để đoạn dứt tâm ái dục.
Thì mới mong quý thầy thoát khỏi nanh vuốt của con đường đi sanh tử luân hồi
này, chứ không khéo quý thầy sẽ luôn luôn tu tập chứ tâm đó khó quá, chứ không
phải dễ dứt đâu. Vì chúng ta từ cha mẹ sinh ra cũng nơi từ con đường này, do đó
mà muốn thoát ra khỏi con đường này cũng phải có sự trau dồi hết sức tâm mình
buông xả thì mới dứt ra được, chứ không thể hiểu sơ sơ mà có thể được.
Nếu quý thầy dùng câu trạch pháp này mà chưa xả được thì quý thầy
tiếp tục thì hướng tâm như lý tác ý. Nghĩa là cái câu này nó chưa đạt được kết
quả thấy tâm mình nó còn dục, chưa hết thì quý thầy phải tiếp tục thêm một câu
như lý khác để mà xả nó nữa. Đây cái câu thầy gợi cho quý thầy rồi quý thầy từ
đó tự soạn lấy để cho phù hợp với đặc tánh của mình:
Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, tanh hôi
khó chịu bẩn thỉu vô cùng, tạo muôn ngàn thứ tật bệnh, tai ương, và truyền nối
nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, không bao giờ thôi dứt, một
người để lại muôn người khổ, khổ mãi nối tiếp nhau vô cùng vô tận. Ta phải xả
bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, chẳng dám bén mảng, xem nó như rắn độc, ung nhọt,
cho nó là nguy hiểm nguy nhất, cho nó là tai họa, cho nó là chỗ ác độc, cho nó
là bệnh truyền nhiễm, nan y, không thuốc chữa.
Đó là một
câu để chúng ta trị bệnh sắc dục của chúng ta đó. Câu trên nó chưa nhằm nhò thì
phải áp dụng thêm câu dưới cho mạnh hơn, và như truyền lệnh thì may ra quý thầy
sẽ chấm dứt được cái nỗi khổ của tâm sắc dục của mình.
Cuộc đời tu hành là cả một sự rèn luyện, trau dồi chứ không thể
nói suông được. Thầy nói hết giọng mà quý thầy không về thực tập thì Thầy quá mỏi
mệt, uổng lời của Thầy nói. Thầy đem hết tâm can của mình truyền hết lại
những kinh nghiệm để quý thầy thoát khỏi cảnh địa ngục, cảnh lầm than đau khổ của
kiếp người. Mà quý thầy nghe rồi mà quý thầy bỏ qua thì rất uổng cho Thầy, rất
uổng cái điều mà Thầy đã đem hết tâm huyết dạy lại cho quý thầy, để quý thầy
thoát ra khỏi kiếp trầm luân khổ não.
Đến đây Thầy xin chấm dứt bữa này, và ngày kế tiếp Thầy sẽ giảng để
chúng ta xả nhiều thứ. Bây giờ mới chỉ xả có sắc dục mà thôi, còn nhiều thứ phải
xả nữa. Nếu mà giảng để mà xả cho đầy đủ thì Thầy nói không biết bao giờ mà tận
cùng. Bởi vì vô lượng mà, vô lượng pháp phải nói vô lượng lời, phải nói vô lượng
pháp để mà đối trị, để mà xả nó. Thì sau này Thầy cũng tóm lược một phần trong
5 thứ ngũ dục lạc mà xả nó, để rồi quý thầy biết cách mà từ đó trí tuệ quý thầy
mới thông suốt, rồi từ đó quý thầy mới đặt những niệm rồi mới trạch những pháp
để cho phù hợp để rồi quý thầy do đó mà xả cho sạch, trắng bạch như vỏ ốc.
Bây giờ mới đi vào con đường xuất gia tu hành, trở thành một vị tỳ kheo, một
vị sa môn đúng là những thánh tăng trong thời đức Phật.
Đến đây thì quý thầy đã hiểu rồi thì hãy cố gắng mà thực hiện những
lời Thầy dạy. Rồi Thầy sẽ vui mà Thầy tiếp tục giảng. Nếu không thực hiện thì
Thầy nghĩ rằng mình nói nhiều quá mà quý thầy không thực hiện thì Thầy mệt mỏi
rồi Thầy nghĩ Thầy không giảng nữa.
Bây giờ chúng ta sẽ
tiếp tục bài học Tứ vô lượng tâm. Nhưng trước khi học thì Thầy sẽ đọc lại 2 bức
thơ của thầy Thiện Thiền gửi cho Thầy.
Bức thứ
thứ nhất, cũng trong những bài học có gợi ý rồi thầy cũng có suy nghĩ rồi thầy
viết bức thơ. Rồi sau đó thì có gợi ý đến trung tâm an dưỡng thì thầy cũng có
viết bức thư gởi cho Thầy. Cho nên hôm nay thì Thầy xin đọc lại bức thơ đầu
tiên để cho quý thầy nghe, đồng thời Thầy giảng trạch tại sao, lý do nào mà Thầy
không thực hiện theo lời thỉnh cầu của thầy Thiện Thiền.
Nam mô
bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch
Phương Trượng.
Hôm nay
con có chút duyên sự về nhân duyên ẩn bóng của Phương Trượng. Kính mong Phương
Trượng đại từ đại bi xem xét những lời ngốc nghếch táo bạo của con kính trình
lên Phương Trượng về việc tồn vong của Phật pháp và lợi ích cho tất cả nhân
sinh hiện nay và mãi mãi về sau. Là ngọn đuốc từ bi soi đường cho nhân loại.
Con tạm ví Phương Trượng như hòn ngọc thái hòa. Thủa xưa, khi nhà họ Thái nhặt
được nó có 5 điều kỳ đặc mà các loại ngọc báu khác không có được. Biết nó là
hòn ngọc quý nên đem dâng lên cho nhà vua, vua kêu các nhà chuyên xem ngọc coi
là thiệt hay là giả. Các nhà xem ngọc nói là loại đá quý giống ngọc chớ không
phải là ngọc thật, cho nên nhà vua nói họ Hòa dối vua, khép vào tội khi quân,
chặt tay chân người họ Hòa. Vì uất ức nhà vua không biết dùng ngọc quý lại tin
bọn xem ngọc ngu si không biết gì, cho nên nhà họ Hòa mới đem dâng lên cho nhà
vua ở vương quốc khác. Khi đó nhà vua nước mình mới hối hận, tìm cách đòi lại.
Thì hôm nay Phương Trượng tiện Phật hóa thế gian, ý của con là muốn nói Phương
Trượng liên hệ với Phật tử ở nước ngoài bảo lãnh Phương Trượng đi du lịch, khi
sang bển Phương Trượng trình bày pháp tu và sở chứng. Người phương Tây phương
chuộng khoa học và họ sẽ đem những dụng cụ y khoa ra chứng nghiệm xong và họ sẽ
công bố lên cả thế giới, chừng đó pháp môn tu thiền của Phương Trượng ví như mặt
trời chiếu ánh sáng chói chang cả vũ trụ này, chừng đó VN mới thật là hối tiếc.
Đó là lời
của thầy Thiện Thiền trong bức thư thứ nhất.
Bây giờ
Thầy xin trả lời bức thư này. Nếu mà điều kiện này cách đây 17 năm mà Thầy đã
muốn mình làm một anh hùng hoặc một người vĩ nhân thì Thầy đã làm lâu rồi. Vì
Thầy nghĩ rằng anh hùng cá nhân không bằng anh hùng tập thể, nó truyền thừa mãi
mãi. Hầu hết là mọi người đều có anh hùng cá nhân, vì người ta nghĩ là người ta
làm được cái gì đó thì người ta huân theo cái đó để mọi người biết đều lấy
mình, mà không để cho người khác biết. Và cũng muốn dìm người khác xuống nữa, để
anh hùng cá nhân của mình nó nổi bật lên, nó làm cho sáng tỏ ra. Điều này Thầy
rất suy nghĩ, một vị anh hùng mà làm nên danh biết bao nhiêu những anh hùng vô
danh nằm xuống lòng đất này. Cho nên thí dụ người ta nhắc đến Napoleon hoặc là
người ta nhắc đến Hitle, những nhà độc tài. Thì những nhà đó đều là anh hùng cá
nhân. Cũng như trong đất nước ta thấy có Trần Hưng Đạo, Lê Lợi. Mà những người
này đã thành tựu được những chiến công hiển hách thì biết bao nhiêu người chết.
Nhưng người ta chỉ tập trung đến những người đó, cái danh rất lớn. Biết bao
nhiêu người khổ công tu tập chứ đâu phải chỉ riêng mình Thầy, mà huân lại ở Thầy
chỉ là cái anh hùng, thì Thầy thấy là cái cá nhân, quá cá nhân. Cho nên từ đó
Thầy âm thầm để đào tạo người, lấy kinh nghiệm của mình để dạy cho người cho đạt
được như mình, và những gì họ sẽ làm được hơn mình. Mình âm thầm có thể giúp họ
hơn là để cá nhân mình nổi lên. Đó là Thầy không muốn anh hùng cá nhân, mà chỉ
muốn tất cả dân tộc VN và những con người ở trên thế gian này đều là anh hùng hết.
Những người làm nên lịch sử, làm nên sự vĩ đại của tôn giáo, chứ không phải một
anh hùng cá nhân nào.
Tuy nói
như vậy nhưng cái việc làm của mình nó phải đi từng cái bước một, người này thừa
kế người kia để có một con đường đi, dìu dắt nhau đi để làm nên một sự nghiệp lớn.
Còn một người mà làm nên sự nghiệp lớn, sự nghiệp đó sẽ bị tan hoại. Như chúng
ta thấy thiền Trúc Lâm chỉ có 3 thầy trò mà nương nhau để làm sự việc lớn, từ
đó 3 thầy trò tịch rồi thì thiền Trúc Lâm im bóng. Bây giờ chúng ta nhìn thấy ở
trong nước của chúng ta, trải qua thời gian chúng ta cũng thấy có nhiều vị xuất
chúng anh hùng chứ không phải không, nhưng rồi chỉ có một mà thôi chứ không có
người thừa kế thứ 2 nữa. Rồi đây chúng ta cũng nhận thấy những điều đó hiển
nhiên, trước mắt. Ở đây như quý thầy thấy cô Út là một người chẳng ra cái gì hết,
người ta xem thường lắm. Nhưng kể từ khi mà Thầy thấy rằng một con người nào cũng
có khả năng của họ, mình chỉ cần khai triển họ thôi. Từ đó Thầy chỉ cần khai
triển nhẹ nhàng, tự cô Út phải phát triển cái sức của mình, bởi vì con người
nào cũng có khả năng trí tuệ và cái sức của mình cho nên tự cô cô phải rèn luyện
cô để có trí thông minh sáng suốt. Không thể nào mà cô đứng dậm chân đứng một
chỗ. Nếu cô cứ nương vào người khác hơn mình, nhờ người khác để đẫn dắt mình
thì chắc chắn cô không thể phát triển nổi. Từ đó cô không điều khiển được chúng
nữa. Hôm nay cô điều khiển được chúng nữ chính do bản thân cô, sự điều khiển của
cô và sự hướng dẫn của cô, do sự phát triển mà nhiều khi chính cô không cần phải
học ở Thầy chút nào hết, Thầy thấy rất là tuyệt diệu. Tuyệt diệu là ở chỗ biết
khai triển con người cho họ biết làm nên sự nghiệp, làm nên cái tốt của họ. Đó
là những điều thực hiện ở đây, Thầy thấy cô Út làm sao mà cô có thể điều khiển
được chúng nữ. Thế mà bây giờ cô điều khiển được chúng nữ. Và cô dạy đâu chúng
nghe ( bên chúng nữ). Trước kia thì không bao giờ họ nghe, họ chỉ biết nghe Thầy
mà không bao giờ biết nghe cô Út. Tự cô phát triển những gì mà cô dạy người ta
thực tế, kết quả từ đó người ta mới chịu nghe. Còn bây giờ quý thầy cứ học ở Thầy,
nghe Thầy nói rồi quý thầy cũng nói ra như vậy, làm như vậy thì người ta nghe
Thầy hơn là nghe quý thầy. Bởi vì quý thầy ít ra cũng phát triển những kinh
nghiệm. Tại sao Thầy không đem những kinh nghiệm của Thầy mà dạy trực tiếp mà
Thầy chỉ nhắc nhở phải làm như vậy như vậy rồi quý thầy phải rút tỉa từng kinh
nghiệm của mình ra, rồi từ đó thực tế của quý thầy rồi quý thầy tự phát triển
trí tuệ và kinh nghiệm của mình. Cái đó thực tế để làm cho quý thầy trở thành
những con người có đủ cái sức khai triển được trí tuệ, có sức khai triển trên
con đường Phật pháp, sau này quý thầy còn hơn Thầy gấp mấy.
Giai đoạn
của Thầy khác mà giai đoạn của các thầy sẽ tiếp tục con đường Phật pháp nó còn
khác xa hơn. Con người càng ngày càng đi lên chứ đâu phải đứng lại sao. Cho nên
thí dụ bây giờ Minh Tông được Thầy dạy bảo hoặc quý thầy được Thầy dạy bảo
nhưng mà sau này cái chương trình, cái phương án của Thầy đề ra để đem lại hạnh
phúc cho nhân loại như vậy quý thầy vẫn phải theo đường đó mà hướng tới độ
chúng sanh toàn cả thế giới. Thì như vậy là sự phát triển của quý thầy đến tuyệt
đỉnh thì phương án Trung tâm từ thiện an dưỡng ra đời là để nhằm phục vụ, đem lại
hạnh phúc cho mọi con người khắp thế gian. Thì ước vọng của đạo Phật là đem mọi
con người khắp thế gian thoát ra khỏi vòng đau khổ. Thì đó là một cái hướng, mà
cái hướng đó thì không phải có một anh hùng làm. Còn nếu mà Thầy làm không thì
các đệ tử của Thầy chỉ ngồi đó mà nhìn thôi. Thì người ta sẽ ca tụng Thầy chứ
các đệ tử của Thầy ca gì. Từ đó Thầy mất rồi thì cái chương trình này nó sẽ bị
lụn bại, cho nên Thầy phát triển từ cái chỗ tu tập của các thầy. Các thầy được
theo Thầy, Thầy không thể đem các kinh nghiệm của Thầy được vì Thầy biết rằng
Phật dạy con người có 3 đặc tướng: Nhân tướng, hành tướng và đặc tướng.
Nhất là cái đặc tướng, rất khó, không thể dễ. Cho nên các thầy hỏi cái hơi thở
nào mà nhập sơ thiền, cái hơi thở nào mà nhập nhị thiền, cái hơi thở nào mà nhập
tam thiền, cái hơi thở nào mà nhập tứ thiền. Nó không có một cái mực nhất định
được. Là vì mỗi đặc tướng của hơi thở con người nó có sự khác nhau. Có người
bây giờ thở hơi thở 3 giây là hơi thở sơ thiền, nhưng có người thở 4 giây, có
người thở 5 giây. Làm sao bảo rằng 5 giây là nhập sơ thiền hoặc 2 giây nhập sơ
thiền được. Các thầy phải hiểu điều đó, cho nên đó là đặc tướng của mỗi người
mà vì vậy người hướng dẫn phải tùy theo đặc tướng đó mà hướng dẫn cho người ta
để người ta nhập vào. Cũng như bây giờ đặt ra là 5 giây là nhập nhị thiền, người
nào cũng tới 5 giây là nhập nhị thiền. Có người tới 5 giây người ta không nhập
được mà người ta 7, 8 giây hay 10 giây. Nhưng mà có người tới 20 giây hay là 30
giây người ta mới nhập tam thiền mà có người mới 6 giây người ta đã nhập tam
thiền. Làm sao mà căn cứ mực chỗ nào được mà dạy, đó là cái đặc tướng mà, cho
nên Phật dạy nó có 3 cái tướng của nó rõ ràng, riêng biệt: Nhân tướng, hành
tướng và đặc tướng. Mỗi cái nó có cái riêng biệt của nó ở trong đó. Cho nên
ở đây phải tự người đó phải phát triển theo đặc tướng của mình và ông thầy phải
khéo léo và linh động để hướng dẫn theo đặc tướng của người ta thì người ta mới
nhập được định. Đó thì ở đây nó khó là khó chỗ đó chứ không thể nào có một cái
khuôn sẵn rồi chúng ta vô máy mà chúng ta ép thành hàng loạt hàng trăm cái máy
được. Nó không phải như vậy được mà nó phải có một sự uyển chuyển khéo léo.
Vì vậy
cho nên nếu mà Thầy nói cần thiết một cá nhân anh hùng thì chắc là thiên hạ này
đã biết Thầy từ lâu rồi, Thầy mà háo danh, kêu là đại háo danh thì chắc chắn là
khi mà thầy Thanh Từ mà nhận Thầy ở lại thì lúc bấy giờ Thầy chỉ tìm mọi cách
mà phô trương cái tu tập của mình. Thầy chỉ cần nói là người ta đem điện tâm đồ
người ta đo Thầy trong lúc Thầy nhập tứ thiền, người ta sẽ thấy Thầy hoàn toàn
là không thở là người ta đã hoảng kinh rồi chớ chưa nói gì Thầy câu hữu một vài
cái sự điều khiển được tâm linh của Thầy rồi thì người ta còn kính phục đến bậc
nào nữa. Nếu mà cầu một đại danh thì Thầy sẽ là một anh hùng, một danh nhân
trên thế giới chứ không còn ai hơn. Thầy nói thật, đối với việc làm Thầy biết rất
rõ. Nhưng mà từ 17 năm trời mà đến bây giờ thì có sự kiện xảy ra thì quý thầy mới
nhận biết Thầy được chút ít chứ chả biết gì hết. Người ta đồn Thầy như thế này,
người ta đồn Thầy như thế kia, người ta nói Thầy cho bùa để đi bán mua may bán
đắt, người ta đồn là Thầy biết quá khứ vị lai, là người kiếp này kiếp kia người
ta thêu dệt đủ loại. Người ta nói Thầy đủ thứ hết nhưng Thầy vẫn âm thầm làm, họ
nói gì thì nói. Tại vì họ chưa biết mình, họ khen là họ khen cái kiểu của họ,
mà họ chê là họ chê cái kiểu của họ, tại họ không biết họ chê, chứ làm sao mà
biết mình được. Cho nên đối với Thầy thản nhiên, không có lo lắng gì cái việc
khen chê. Chỉ tìm con người tin tưởng mình, dạy họ đâu họ làm đó. Và cũng vì
cái sự khen chê đó mà làm cho người ta mất niềm tin ở Thầy rất nhiều, cho nên
khi Thầy dạy họ chỉ dựa vào Kinh và những cái lý luận suông người ta nỗ lực tu,
người ta không thấy kinh nghiệm bản thân của Thầy. Nhưng Thầy thấy đó cũng là một
cái duyên, nếu Thầy lộ ra một cái gì thì chẳng qua Thầy lòe bịp thiên hạ để gạt
người ta để thành một cái danh hão, cái danh không thật, cái danh không giải
thoát đâu, mà giải thoát thì phải giải thoát cho thật. Đó thì hôm nay Thầy trả
lời thầy Thiện Thiền. Biết rằng cái điều thầy Thiện Thiền nghĩ tốt, làm như vậy
để cho người ta biết rằng có một người tu như vậy thì Phật giáo nó mới theo đường
lối đó mới chấn hưng lại được. Làm cho Phật pháp sáng tỏ lên, cái nghĩ của thầy
Thiện Thiền là cái nghĩ tốt chứ không phải là cái nghĩ xấu, nghĩ cầu danh. Cái
góc độ của thầy không nghĩ cầu danh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét