Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 08

BA VỊ THIÊN SỨ
Điều ta hiểu là chơn chánh, điều ngươi hiểu là không chơn chánh. Pháp môn này tu trước ngươi lại tu sau, pháp môn này tu sau ngươi lại tu trước, sai lầm rối loạn đảo lộn tất cả, không có pháp, không có phép tắc. Điều ta làm không tốt, điều ngươi làm không tốt đẹp. Điều ta làm tốt đẹp, điều ngươi làm không tốt đẹp. Những điều tự suy luận trên đây là kiến chấp.
Đó là những cái lý luận ở trên mà Thầy đã nêu ra, đó là những kiến chấp của mình, chấp cái kiến của mình, chấp cái sự hiểu biết của mình. Mà có kiến chấp tức là có ngã chấp, nghĩa là có sự chấp ý kiến của mình như vậy, cái hiểu biết mà như vậy tức là mình bị ngã chấp, mà đã có ngã chấp thì phải có hơn thua, tị hiềm. Chúng ta thấy từ cái chỗ ngã của chúng ta mà chúng ta biết được cái gốc nó thì chúng ta hãy cố gắng mà tu Định vô lậu để diệt ngã, xả tâm của chúng ta để chúng ta được giải thoát mà không còn hơn thua nhau nữa. Có hơn thua, ganh tị thì phải có nói qua nói lại, nói tốt nói xấu, đó cũng chỉ vì danh khen - chê của mọi người mà anh em cùng một nhà xâu xé nhau, từ đó tăng đoàn bị phân hóa thiếu đoàn kết. Anh em cùng một thầy một tôn giáo mà chia rẽ nhau.
Bằng chứng như chúng ta thấy tôn giáo của chúng ta thiệt là tan nát, không còn một chút nào hết. Cùng trong một Phật giáo mà kẻ đứng pháp môn này, người đứng pháp môn kia, rồi chỉ trích bài xích nhau. Thầy thấy mọi pháp môn của Phật dạy không có pháp môn nào mà xấu hết, người tu Đại Thừa cũng tốt, mà người tu Tiểu Thừa cũng tốt, người tu thiền Đông Độ cũng quý, người tu Tịnh Độ cũng quý, người tụng niệm, cúng cầu an cầu siêu cũng tốt. Tại sao vậy? Tại vì mọi cái đều là an ủi cho những người đau khổ, cho đời và chính cho mình nữa. Cho nên tất cả những cái này đâu có mà bài bác làm gì, vì mỗi góc độ, mỗi phước duyên của con người đều đứng trong góc độ đó mà thực hiện những điều tốt cho Phật giáo. Cho nên chúng ta thấy, chúng ta có đủ duyên tu tập đúng Giới luật, có đủ Thiền định làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi thì đó là phước duyên của chúng ta ở góc độ sâu hơn, cao hơn một chút. Chứ chúng ta có hơn gì họ, vì chúng ta cũng là một con người.
Họ chưa đủ duyên, chưa gặp được những bậc Minh sư, Thiền đức, cho nên họ tu còn ở ngoài. Nên vì vậy mà họ vẫn làm được những điều lợi ích cho xã hội. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng vì cái tâm danh lợi của họ còn, cho nên họ vẫn còn ham thích, xe xua, sắm xe này, nhà kia, chùa lớn, tháp to. Nhưng họ cũng giảm bớt biết bao nhiêu cái sự ham muốn của họ. Và họ cũng giảm bớt biết bao nhiêu sự ác của họ, họ cũng nghĩ làm cái chùa lớn là để cho mọi người đến chiêm ngưỡng, vẫn thấy được tôn giáo còn mãi mãi, dạy cho họ bằng những bài kinh này bài kinh khác, viết ra những cuốn sách này, bài này là do Phật dạy như thế này như thế khác là để họ hiểu họ làm lành, họ lánh những điều dữ. Thì tất cả những điều mà một quý thầy đang làm đều có lợi ích cho xã hội, đều có lợi ích cho mọi người, giảm được góc độ này thì lợi ích được góc độ này thì họ đủ duyên ngày mai họ đi sâu hơn trên con đường của Đạo Phật để chấm dứt sanh tử luân hồi.
Cho nên chúng ta không nói xấu một người nào, không chê một pháp môn nào mà chúng ta hãy thấy rằng những pháp môn của mọi người đều là tốt cả, đều là của Phật giáo cả. Vì vậy mà chúng ta đoàn kết được trong huynh đệ của chúng ta, từ một ông thầy tụng niệm cúng bái cho đến một ông thầy học thức đỗ tiến sĩ, cho đến một người tu thiền định trong rừng núi, cho đến một người tu Tịnh Độ niệm Phật suốt ngày, đều là anh em của chúng ta cả, không có gì mà chúng ta chia rẽ họ.
Chúng ta hãy thương họ, chúng ta hãy giúp đỡ họ khi chúng ta có đủ khả năng giúp đỡ họ, cho họ thực hiện những gì họ mong muốn. Đừng bài bác họ, cũng như chúng ta thấy họ tu như vậy mà giữ gìn giới đức chưa được, thì đó là cái phước của họ, không nên lấy chỗ sai giới đức đó mà chỉ trích họ, làm cho họ buồn khổ hoặc là làm cho họ căm tức để rồi sanh ra chia rẽ, chẳng ích lợi gì cho Phật pháp mà càng đen tối thêm.
Ngoài mặt họ tùy thuận theo mình, nếu mình nói thế này thế khác thì ngoài mặt họ tùy thuận theo mình nhưng trong tâm họ chẳng mến phục mình, họ còn thầm khinh bỉ anh em trong nhà mình nữa, nghĩa là mình nói ra thế này thế khác hoặc chê cười pháp môn này pháp môn khác, tuy ngoài mặt họ tùy theo mình, họ ừ ừ hữ hữ vậy cho qua mình, hoặc họ luận theo cái chiều hướng của mình mà trong kinh điển của Phật dạy, những người mà không ngăn chặn những điều xấu của mình mà họ cứ tùy theo mình, ừ hữ theo mình để cho mình bộc lộ những điều xấu của mình càng lại xấu hơn thì những người bạn đó là những người xấu. Như Thầy đã giảng rồi thì các thầy thấy những người ngăn chặn mình là những người tốt, mà những người để cho mình nói xấu điều này thế kia họ cứ làm thinh hoặc là họ ừ hữ họ theo mình đó, đó là những người xấu. Vì vậy mà mình lầm lạc cái này đến cái khác, để rồi mình chỉ trích pháp môn này, trỉ trích pháp môn khác, rồi luận thế này luận thế khác. Mình thường sống mình để ý qua những lời Phật dạy: những người mà chê pháp môn này, pháp môn khác đó là những người xấu chứ không phải người tốt, họ xấu là vì họ muốn ca ngợi cái danh của họ, họ muốn làm cho họ tu pháp môn của họ hay cho nên họ dìm các pháp môn của người khác xuống để cho họ trở thành những giáo chủ có đường lối pháp môn tuyệt vời để mình tin mình theo. Nhưng khi mà người ta mở miệng ca ngợi pháp môn của người ta thì lúc bấy giờ chúng ta biết rằng những người đó là những người không tốt và là những người xấu. Như vậy thì chúng ta rất sáng suốt qua bài học này, chúng ta đã nhận được những cái đúng cái sai cho nên chúng ta chỉ biết âm thầm làm thinh không phê phán ai cả.
Xưa đức Phật cũng một lần vào rừng ẩn bóng, cũng chỉ vì chúng ta chia rẽ thiếu đoàn kết. Nghĩa là trong thời đức Phật có một lần trong mùa hạ đó đức Phật phải vào rừng ẩn bóng vì chúng tỳ kheo lúc bấy giờ họ đấu tranh nhau bằng miệng, bằng lưỡi của họ, họ không có đoàn kết nữa, cho nên đức Phật bỏ đi vào rừng mà nhập Hạ, An cư mùa hạ năm đó. Sau đó thì nhờ quý thầy lớn giải quyết được làm cho đoàn kết trở lại, rồi họ đến họ xin đức Phật trở về vì chúng tăng đã đoàn kết.
Cho nên Thầy nghĩ rằng, cái duyên mà Thầy ẩn bóng cũng là có một cái điều đau khổ nhất là đệ tử của Thầy, cho nên Thầy không muốn ở đây để người ta lại tạo thêm những cái tội. Khi nghe một người khác nói về Thầy bằng cách này, bằng cách khác, thì người ta phỉ nhổ lên Thầy. Thì lúc bấy giờ Thầy là người tu hành có giới đức thanh tịnh mà họ phỉ nhổ lên thì họ phải chịu lấy cái hậu quả đó cho nên rất là đau khổ. Vì vậy mà Thầy ẩn bóng thì họ lấy đâu mà phỉ nhổ thầy, cho nên họ thoát ra tội lỗi, và người đệ tử mà theo Thầy mà nói điều này thế kia thì họ cũng thấy Thầy ẩn bóng rồi thì có nói Thầy thế nào Thầy cũng không còn ở đó đón danh, đón lợi gì hết.
Bởi vì khi ẩn bóng thì mình đâu có chường mặt ra gặp ai đâu, mình có còn tiếp với tiền, với bạc, với danh với lợi nữa đâu. Cho nên dù vi tế hay là không vi tế đều là bỏ sạch xuống. Đương nhiên coi Thầy ẩn bóng là đã bỏ hết như người đã chết. Vì vậy mà danh lợi đối với Thầy thì nó không còn nữa. Khi đã ẩn bóng thì tức là không còn giáp mặt với danh, với lợi, với một cái gì rất nhỏ mọn. Cũng như bây giờ khi mà đức Phật đã thị tịch cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm, bây giờ người ta có ca ngợi đức Phật cách gì thì đức Phật cũng đâu còn đón nhận những điều đó nữa. Hoàn toàn đức Phật đã trả lại cho tất cả mọi người. Vì thế mà hôm nay những ý nghĩ mà Thầy ẩn bóng là do các đệ tử của Thầy. Thầy đã thấy nó không hợp thời, không đúng lúc, đã làm biết bao nhiêu người tội lỗi khi họ không hiểu, họ phỉ báng, họ chê bai, hoặc họ ca ngợi Thầy một cách không đúng cách.
Thầy sẽ đọc lại bài kệ mà đức Phật đã dạy chúng tỳ kheo trong thời đó:
Các thầy phải kính thuận
Kiến lập về Phật pháp
Nghĩa là Thầy đã dạy những điều đức hạnh về Phật pháp thì quý thầy phải kiến lập nó thành một đường lối, đường lối lớn để cho mình bước đi ở trên đó.
Phải diệt chúng ma này
Chúng ma tức là chúng ma mà tranh chấp nhau đó, chúng ma mà bêu xấu nhau đó. Đó là Phật gọi là chúng ma đó.
Phải diệt chúng ma này
Như voi phá rừng lau
Sức con voi mà cái rừng lau thì các con biết cái rừng lau nó có nhằm nhò gì, phải chi cái cây lớn thì nó nhọc nhằn, còn đối với voi nó đi ngang qua thì cái rừng lau nó quét sạch hết. Thì các con biết đức Phật ví chúng ta phải quét sạch những cái bất hòa, những cái chấp kiến, những cái chấp ngã để rồi chúng ta hoàn toàn đi lệch lạc, đi sai lạc làm chúng ta đau khổ, làm chúng ta chia rẽ. Chúng ta phải dùng chính sức của mình mà phá nó như voi phá rừng lau.
Chuyên niệm chớ buông lung
Nghĩa là lúc bấy giờ chúng ta đặt niệm luôn luôn ở trong thân và tâm của mình, để giữ tâm không cho buông lung ra, không cho theo cái chiều mà ham muốn danh lợi khen chê đó nữa. Không có theo tình đời nữa mà phải là tình đạo.
Đầy đủ về tịnh giới
Tức là lấy giới luật của mình làm cho thân tâm mình thanh tịnh.
Tâm tịnh tự suy niệm
Tâm mà định được thì mình cố gắng suy niệm để quét sạch những điều sai đó.
Khéo giữ ý chí mình
Luôn luôn lúc nào mình cũng phải lập trường, ý chí mình rất vững vàng, không có để cho tâm buông lung, không có để cho mất đoàn kết, phải thương yêu nhau, phải giúp đỡ nhau. Đó là bài kệ thứ nhất.
Bài kệ thứ hai:
Nếu ở trong Chánh pháp
Những ai không buông lung
Thoát khỏi thân già chết
Dứt hẳn các gốc khổ
Nghe rồi phải siêng năng
Đó, bốn câu kệ trước thì đức Phật nói nếu mà mình thường sống ở trong Chánh pháp, tâm mình không buông lung thì mình sẽ thoát khỏi thân già chết của mình. Rồi dứt hẳn các gốc khổ. Đó là bốn câu kệ để chỉ định chúng ta phải sống đúng như vậy hoặc sống hòa hợp như vậy, an vui như vậy thì gốc khổ bị diệt mất và già chết chúng ta cũng thoát khỏi. Nghe rồi phải siêng năng, đức Phật căn dặn chúng ta đây.
Anh em phải hòa thuận
Như con cùng cha mẹ
Tránh xa lòng tỵ hiềm
Tránh xa nói xấu nhau
***
Để rồi thiên hạ cười
Anh em cùng một nhà
Tiếng tăm xấu vang xa
Anh xấu em cũng xấu
***
Chính mình tự giết mình
Chính mình làm suy đồi
Phật pháp không cửu trụ
Mất đi nguồn đạo đức
Thế gian sanh rối loạn
Nghĩa là mình làm như vậy là Đạo Phật sẽ bị mất đi, nó sẽ không còn mãi mãi, ba ngôi Tam Bảo sẽ mất đi thì thế gian này lấy đâu mà nương tựa để thực hiện đạo đức Nhân Quả, đạo đức không làm khổ mình khổ người. Cho nên chúng ta vô tình mà chúng ta đã làm Chánh pháp mất đi.
Vì vậy, vì sự như vậy mà người ta nhìn vào Tăng đoàn chúng ta chia rẽ nhau. Người học trò nói xấu thầy, người thầy nói xấu học trò thì đó là cái điều không phải. Cho nên ở đây thì tất cả chúng ta phải cảnh giác và thấy cho đúng. Để chúng ta sống cho đúng cái đạo thì chúng ta mới thấy được cái tu hành của chúng ta. Còn nếu mà không sáng suốt một chút, vì cái lòng nhỏ mọn của chúng ta, vì những sự xúc chạm về cái ngã, cái tự ái của chúng ta mà chúng ta đã làm suy đồi Phật pháp.
Đến đây các thầy cần phải suy ngẫm những lời dạy này để thực hiện đời đạo đức cho đúng cách. Dù là người Cư sĩ hay là Tu sĩ cũng phải siêng năng khắc kỷ mình, sống đúng Phạm hạnh của đạo Phật. Đó mới làm vẻ vang cho đạo.
Bây giờ Thầy dạy quý thầy trau dồi Tứ vô lượng tâm.
Lần sau Thầy sẽ tiếp tục dạy quý thầy trau dồi Tứ vô lượng tâm. Còn bây giờ thì hết giờ rồi chúng ta nghỉ.
Cái bài giảng vừa rồi Thầy nhắc lại để chúng ta nhớ. Đây các thầy cần phải suy ngẫm những lời dạy này để thực hiện đời - đạo cho đúng cách:
Là đệ tử của đức Phật dù Cư sĩ hay Tu Sĩ cũng phải khắc kỷ mình sống đúng Phạm hạnh của đạo Phật. Đó mới làm vẻ vang cho đạo.
Bây giờ Thầy giảng cho quý thầy trau dồi Tứ vô lượng tâm. Nhưng trước khi học trau dồi Tứ vô lượng tâm thì Thầy sẽ giảng: người cư sĩ cần phải cảnh giác. Vì ở đây là cái phần giai đoạn 1, là của người cư sĩ tu tập, cho nên chúng ta phải có sự cảnh giác. Rồi sau đó thì Thầy sẽ giảng về Tẩu nhập ma, là vì ở đây mình có trường hợp xảy ra, cái này rất cụ thể để chúng ta học những trường hợp để chúng ta cảnh giác, do đó nó không sợ bị lạc nữa.
Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục lời cảnh giác, người cư sĩ cần phải cảnh giác như thế nào? Tuy chúng ta có hiểu biết, nhưng hiểu biết của chúng ta nó chưa có thâm sâu lắm, cho nên đôi khi chúng ta thấy cái thân của chúng ta, coi như chúng ta quý trọng chứ không phải không, nhưng mà rất xem thường thời gian qua của nó. Nó đưa cái thân của chúng ta lần lượt đi vào cảnh chết mà chúng ta không hay biết. Vì nó là cái vô thường diễn biến hằng ngày, nó thay đổi liên tục, cho nên chúng ta phải cảnh giác nó. Rất là cảnh giác chứ không khéo thì chúng ta sẽ bỏ mạng mà sau này không biết chúng ta có sanh lại làm người được hay không. Đó là cái rất là quý tiếc. Vì có thân người này mới có thể tu tập được. Còn nếu không có thân người này mà thân chúng sanh thì khó mà tu tập lắm, cho nên hôm nay chúng ta được cái quý báu là cha mẹ là người đại bố thí đã cho chúng ta được cái thân người và có trí tuệ hiểu biết, nhờ cái trí tuệ hiểu biết đó mà chúng ta biết được cái đúng, cái sai, cái ác, cái thiện mà chúng ta đã đoạn trừ hoặc là trau dồi để cho chúng ta được giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cho nên đây là một cái thân rất quý giá mà rất là khó, Phật đã ví chúng ta được thân người là khó như một con rùa mù ở giữa biển Đông rộng mênh mông như vậy mà tìm cái bọng cây thì quý thầy hiểu được cái thân chúng ta rất khó chứ không phải dễ, đừng xem thường nó rồi mất đi rồi không bao giờ tìm lại được, biết chừng nào mà chúng ta tìm nó. Hôm nay chúng ta đủ duyên phước được thành làm người, có thân người, có trí tuệ và có được chánh pháp của Phật thì đó là chúng ta đã đủ duyên và quý thầy cũng còn đủ duyên là gặp được một bậc có kinh nghiệm tu hành, một bậc chân tu hướng dẫn thì đó là cái phước báu vô lượng vô biên của quý thầy từ nhiều kiếp chứ không phải trong một kiếp hai kiếp đâu.


BA VỊ THIÊN SỨ
Bây giờ Thầy xin nhắc lại thường thường trong cuộc đời sống của chúng ta, chúng ta thường thấy những vị sứ giả báo tin cho chúng ta biết nhưng chúng ta không lưu ý điều đó cho nên chúng ta vẫn ham vui dục lạc, mà chúng ta quên 3 vị sứ giả đó.
- Một: Cái vị sứ giả thứ nhất là già. Người già tóc bạc, răng rụng.
- Hai: Là người bệnh đau đớn nhức nhối.
- Ba: Là người chết, sình trương hôi thối.
Ở trần thế quý thầy có thấy người nào già nua, đầu bạc, răng rụng, mắt mờ, da thịt nhăn nheo, lưng còng, chống gậy đi đứng lụm khụm, thân thể run rẩy, sức khỏe hao mòn. Ở đời thì quý thầy có thấy những hình dáng đó không? Chắc chắn là điều đó quý thầy đã thấy nhiều lắm rồi. Từ khi chúng ta sanh ra cho đến bây giờ, chúng ta đã thấy biết bao nhiêu là người già cả, biết bao nhiêu là người run rẩy, biết bao nhiêu là cái sự khổ đau của người già, đó là điều mà không thể chối cãi được.
Mà ở đây đó là một Thiên sứ để báo cho chúng ta biết cái sự đau khổ như vậy đó, để mà chúng ta cảnh giác chính bản thân mình. Vì hồi nãy Thầy có nói là được thân người rất khó, mà chúng ta không khéo để nó già như vậy, thì chúng ta khó mà tu. Cho nên Phật nói già là khó tu, bệnh đau là khó tu thế mà chúng ta không suy tư điều sâu sắc đó để mà chúng ta mượn cái thân người này, cái trí tuệ của con người này mà chúng ta vượt thoát ra biển trần gian, biển trần lao đau khổ.
Đó là Thiên sứ thứ nhất. Quý thầy phải tự biết đừng có tâm buông lung chạy theo thế tục, dính mắc ngũ dục lạc, phải chuyên tu Thập thiện, tu tập và rèn luyện về thân- khẩu- ý của mình, từ bỏ việc ác, thực hành các điều lành thì mới thoát khỏi cảnh khổ đau của kiếp người.
Do tâm buông lung tạo ác mà quý thầy phải chịu, không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh em, cũng không phải là lỗi của Thiên đế, cũng không phải là lỗi của Tổ tiên, cũng không phải là lỗi của hàng trí thức, cũng không phải là lỗi của đầy tớ, cũng không phải là lỗi của những bậc tu hành, mà chính quý thầy làm 10 điều ác nên chính quý thầy phải chịu tội lỗi đó. Đó là cái vị Thiên sứ thứ nhất báo cho chúng ta biết, đó là người già, lụm cụm, khổ sở như vậy và đồng thời cái đó không phải chính mình, không phải là chính ai mà làm cho mình khổ đó, mà chính mình buông lung, cái tâm của mình chạy theo ngũ dục lạc ham thích cho đến khi già yếu thì mới thấy được cái khổ đó.
Vị Thiên sứ thứ 2, quý thầy có thấy chăng đó là những kẻ bệnh tật, khốn khổ, nằm lăn lóc trên giường bệnh, thân thể lăn lộn trên phân, giải hôi thối, không thể đứng dậy được, ỉa đái một chỗ, cần phải có người đút cơm cho. Đau nhức từng lóng xương, nước mắt chảy dầm dề, không nói năng được. Quý thầy có thấy những người như vậy chăng, trong cuộc đời này? Chắc chắn điều này chính bản thân chúng ta cũng nhận ra được. Bản thân chúng ta có nhiều khi đau đớn nhức nhối, có nhiều khi chúng ta đứng dậy không nổi, có nhiều khi những người đau thần kinh tọa Thầy thấy cũng rất là khó khăn khi ngồi cũng như khi đứng. Đó là những cái mà chúng ta thấy rất khó. Rồi hiện giờ thì nhiều thứ bệnh chứ không phải một loại bệnh, cho nên bệnh rất là khổ. Chúng ta hôm nay mạnh ngày mai đau chúng ta đâu biết chừng. Cho nên hôm nay chúng ta làm chủ được cái thọ thì chúng ta không còn sợ bệnh đau nữa, tâm chúng ta sẽ bất động. Vì vậy mà chúng ta phải cố gắng mà tu tập. Tu tập làm sao làm chủ được cái già, làm chủ được cái bệnh, làm chủ được cái chết. Thì đó là một cái vấn đề quan trọng của kiếp con người, vì ba điều này nó vây quanh chúng ta, nó làm chúng ta quá khổ. Nhưng chúng ta quên đi, quên đi vì ngũ dục lạc cám dỗ chúng ta quá nhiều, cho nên chúng ta quên đi. Vì vậy mà chúng ta để mất thời gian rất lớn.
Vì buông lung quý thầy không tự biết nên không chịu tu tập về thân- khẩu- ý, từ bỏ 10 điều ác, thực hiện 10 điều lành nên phải chịu lấy những sự khổ đau này. Những sự khổ đau này không phải do ông bà, tổ tiên hay những người khác mà chính quý thầy tạo ra nó. Cái gì cũng do mình, nếu mình dừng tâm buông lung phóng túng, phóng dật mà chạy theo sự cám dỗ của ngũ dục lạc, thì chắc chắn là mình sẽ đình chỉ ở trong 10 điều ác, thì mình thực hiện được 10 điều lành, thì đem đến hạnh phúc và bệnh đau này chắc chắn không đến với mình.
Vị Thiên sứ thứ 3 quý thầy có thấy chăng?
Đó là một người chết mạng chung thân hư hoại, các giác quan đều diệt hẳn thân thể ngay đơ cũng như cây khô vứt bỏ ngoài gò mả cho cầm thú ăn thịt hoặc để trong quan tài dùng lửa thiêu đốt.
Đó là do tâm buông lung cho nên không tu tập về thân- khẩu- ý của mình, cải đổi 10 điều ác, tu tập sống theo 10 điều lành. Do vì thế quý thầy phải chịu khổ đau. Do tâm buông lung này chính quý thầy làm nên tội cho mình, chẳng phải cha mẹ anh em cùng tất cả những người thân quyến thuộc. Chính vì hành động ác của mình mà phải gánh chịu hậu quả khổ đau đó.
Đó là Phật nêu ra 3 vị Sứ giả để cho chúng ta thấy rằng luôn luôn lúc nào nó cũng nhắc nhở thì Thầy tin rằng trong cuộc đời chúng ta nếu không bước ra đường, chứ bước ra đường thì chúng ta sẽ thấy người già rồi người bệnh rồi người chết, chắc chắn là nhan nhản trước mắt của chúng ta, liên tục chứ không phải không.
Hằng ngày nếu mà chúng ta có dịp đi về thành phố thì không ngày nào không thấy xe chở quan tài có người chết. Và nếu mà chúng ta đến bệnh viện, nhà thương, thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy biết bao là người bệnh đau khổ sở. Mổ xẻ, thấy mà ghê gớm, sợ hãi. Thế mà chúng ta không cảnh giác được mình, cứ nghĩ rằng cái thân này còn dài lắm, nhưng thời gian còn ngắn quá không có đủ cho chúng ta tu tập nữa.
Vì đó là những vị Thiên sứ nhắc nhở cho chúng ta, cho nên chúng ta hãy suy tư, ngẫm nghĩ, có thân người là quý, mất thân người biết bao đời tìm lại được. Vì suy nghĩ kỹ lưỡng, vì đắn đo kỹ lưỡng chúng ta thấy đời chẳng có gì hết, chỉ là nhân quả theo nhau mà vay trả chứ không có gì khác. Do đó chúng ta vứt bỏ xuống, để rồi chúng ta thực hiện được những gì để giải thoát chính mình, bứt những sợi dây xiềng xích, thoát ra khỏi cảnh đời đầy ô trược và đầy cám dỗ.
Hằng ngày, quý thầy thường thấy 3 vị Thiên sứ luôn nhắc nhở cho chúng ta thế mà có ai ngờ đâu đến chừng thọ khổ thì ôi thôi cuộc đời sắp tàn rồi, còn làm sao kịp nữa. Thầy xin nhắc lại bài kệ mà Thầy đã có lần đọc cho quý thầy nghe:
Tấc bóng thời gian một tấc vàng.
Tấc vàng dù mất còn tìm được
Tấc bóng thời gian khó hỏi han.
Đó quý thầy thấy bài kệ mà Phật đã nhắc nhở chúng ta từng chút thời gian, không nên phí nó. Nhưng chúng ta đừng vội vàng mà nông nổi, tu điên tu khùng làm cho rối loạn cơ thể thì điều đó là điều sai. Tu phải vừa với sức của mình, phải tùy theo khả năng của mình mà tu tập, chớ không phải nghe như vậy rồi vội vàng nông nổi tu liên tục không nghỉ ngơi, chúng ta có sức đâu mà chịu nổi vì vậy mà đưa đến những bệnh tật, tai nạn, có những cái khó khăn mà chúng ta không thể giải quyết được. Nếu vừa rồi không có Thầy ở đây thì Thầy Thiện Thuận gặp khó khăn có thể trở thành những cơn bệnh khó trị.
Tóm lại những bài giảng trên, Thầy đọc lại bài kệ của Phật:
Người ngu si mê muội.
Tuy đã thấy Thiên sứ
Tâm vẫn còn buông lung
Thấy đó nhưng tâm của quý vị còn buông lung chứ chưa hết đâu, biết đó là khổ đó, cho nên vì vậy mà tâm của quý vị còn mê muội lắm.
Tâm vẫn còn buông lung
Sanh vào chốn ti tiện
Thì ôm lòng sợ hãi
Hễ mình sanh nơi nào mà nghèo khổ, đói khát thì lo lắng, sợ hãi.
Thì ôm lòng sợ hãi
Thầy đọc lại 5 câu kệ trên:
Người ngu si mê muội
Tuy đã thấy Thiên sứ
Tâm vẫn còn buông lung
Sanh vào chốn ti tiện
Thì ôm lòng sợ hãi
Thầy đọc 6 câu kệ dưới:
Nếu người có trí tuệ
Khi thấy Thiên sứ đến
Liền gần pháp Thánh hiền.
Tâm không còn buông lung
Thấy thọ sanh thì sợ
Vì đó già, bệnh, chết.
Đây Thầy giảng, nếu người mà có trí tuệ khi mà thấy Thiên sứ đến thì họ rất sợ, họ liền đi tìm Phật pháp, họ đi tìm những Thánh hiền để mà họ gần gũi, để mà họ tìm cách vượt ra 3 cái vị Thiên sứ này, 3 cái sự nhắc nhở này, họ vượt ra 3 cái khổ này. Cho nên lúc bây giờ tâm họ không còn chạy theo dục lạc nữa, họ không còn buông lung, phóng dật nữa. Họ nghĩ họ thấy sự mà sinh ra làm một niệm sinh ra ở đây, thấy thọ sanh thì sợ, tức là thấy cái tâm niệm mình khởi ra ham muốn cái gì họ quá hoảng sợ, chính đó họ biết được, chứ không phải thấy thọ sanh là sinh đẻ đâu hoặc thấy người khác sinh ra mà mình sợ đâu, không phải, mà mình thấy mỗi tâm niệm của mình sanh ra một niệm gì đó mà nó chạy theo dục lạc nó phóng tâm ra, họ quá sợ hãi.
Vì đó già, bệnh, chết.
Vì cái tâm phóng ra mà chạy theo dục lạc đó nó đưa chúng ta đi đến già, bệnh, chết chứ không có gì khác hơn hết, phải hiểu cái câu này thì quý thầy thấy rõ từng cái tâm niệm của chúng ta mà phóng ra rồi chạy theo cái dục lạc, ngũ dục lạc, dính mắc ở trong đó, nó tạo chúng ta già, bệnh, chết chứ không phải sung sướng hạnh phúc gì hết. Đó là cái ý của Phật muốn dạy để chúng ta thấy rõ được. Cho nên người trí thấy thọ sanh, thấy những cái sanh ra để mà thọ hưởng, thọ là thọ hưởng mà nó sanh ra để thọ hưởng cái dục lạc đó thì họ sợ lắm. Cũng như bây giờ mình ăn miếng ăn này rồi, mình còn sanh ra cái tâm muốn ăn lần nữa thì đó là thọ sanh ra đó, muốn thọ dụng trở lại nữa đó, thì đó là cái nhân mà già, bệnh, chết, nó làm chúng ta đau khổ.
Không thọ sanh giải thoát.
Câu kệ dưới thì Phật dạy: Không thọ sanh giải thoát. Nghĩa là mình không có sanh ra những cái niệm để chạy theo cái thọ dục đó thì mình được giải thoát.
Hết sanh, già, bệnh, chết
Thì từ đó sanh, già, bệnh, chết không còn nữa. Người đó được an ổn.
Thầy đọc lại:
Không thọ sanh giải thoát
Hết sanh, già, bệnh, chết
Người đó được an ổn
Hiện tại sống vô vi.
Chữ vô vi ở đây của Phật không có nghĩa là ngồi đó mà lặng lẽ, mà ở đây ngồi đó mà hoàn toàn chúng ta sống không phóng cái tâm mà thọ sanh theo những cái dục lạc, cho nên gọi là vô vi. Tâm thanh thản không có ham muốn, không có sợ hãi, không có buồn phiền, đó là cái tâm vô vi chứ không phải vô vi ở trong cái trạng thái vô vi như người ta hiểu thì nó không đúng cái nghĩa của Đạo phật, cái đạo Phật mà không dính mắc một cái gì của ngũ dục lạc thì đó là cái tâm vô vi.
Đã vượt qua lo sợ
Chắc chắn đạt Niết Bàn.
Thầy đọc lại 6 câu kệ này:
Không thọ sanh giải thoát
Hết sanh, già, bệnh, chết
Người đó được an ổn
Hiện tại sống vô vi
Đã vượt qua lo sợ
Chắc chắn đạt Niết Bàn.
Đó là cái phần mà cảnh giác để chúng ta nhắc nhở hàng ngày tâm niệm, không phải hiện giờ mà chúng ta giải quyết cuộc sống của người cư sĩ, không phải hiện giờ mà quý vị giải quyết ngay được liền mà quý vị có được hiểu biết như vậy để quý vị chuẩn bị cho con đường hướng tới của mình để cho mình sắp xếp mọi bổn phận của mình làm xong.
Bởi vì cuộc đời mình trước kia mình chưa có đủ duyên gặp Phật pháp sớm, chứ nếu gặp Phật pháp sớm mà khi nghe được cái giáo án này thì Thầy tin rằng chúng ta không lập gia đình, chúng ta không bước thêm một bước nào nữa để cái sức của chúng ta còn thanh niên trai trẻ, chúng ta dồn hết sức tu tập thì may ra chúng ta được làm chủ cái sống- chết của chúng ta, làm chủ được sự tái sanh luân hồi. Còn bây giờ có quý vị thì nhiều quý vị đã lớn tuổi rồi nhưng gia thế bề bộn, vợ con còn nhiều bổn phận phải lo toan, không thể nào dứt bỏ được cho nên không phải vội vàng mà hãy làm hết bổn phận của mình, chứ không phải nghe bài này rồi về vứt bỏ đó, mặc nó làm sao làm, đói khát, thì như vậy chúng ta chưa trả trọn nhân quả thì dù chúng ta muốn ngồi trong một nơi thanh vắng, độc cư tu hành, chắc chắn điều đó không thể thanh tựu được mà phải giải quyết cho tâm chúng ta hoàn toàn an ổn.
Vì bỏ đi mà thấy cả một vấn đề đời sống của bao nhiêu người vì mình mà họ phải khổ, nếu không có mình thì làm sao họ có con cái, có nhà cửa, có tư riêng như thế này, để bây giờ bỏ ra mà đi thì không đúng cách bổn phận của người cư sĩ. Vì Phật đã dạy: Không làm khổ mình cũng không nên làm khổ người, nghĩa là mình muốn tu giải thoát nhưng mình phải làm sao mọi người xung quanh mình, những người mà gọi là thân thương của mình đừng khổ đau. Chứ không phải mình muốn giải thoát mà mình làm bao nhiêu người thương nhớ, bao nhiêu người khổ đau và bao nhiêu người nhờ mình mà trong cuộc sống mới an ổn, rồi mình bỏ ra đi để cho những người đó đói khát, nghèo khổ thì trách nhiệm của mình chưa xong, nhân quả của mình chưa trả được. Vì vậy mình hãy sắp xếp và lo toan mọi mặt để làm sao cho an ổn. Nếu quả nhiên cái nhân mình chưa tu được mà mình sắp xếp được như vậy thì kiếp sau mình vẫn tiếp tục tu được mà tu tốt, tu đúng vì Phật dạy đừng làm khổ mình, đừng làm khổ người. Do cái nhân không làm khổ người nó không còn nghiệp oan trái, còn có cái nhân làm khổ người còn cái nghiệp oan trái mà phải trả kiếp này đến kiếp khác. Do vì giải quyết nó ổn thỏa, thấy được con đường sáng của Đạo, cho nên chúng ta không làm khổ ai. Do một trường hợp Thầy đã thấy có những người cư sĩ ở Hà Nội, họ quá thích tu tập để tìm lấy sự giải thoát của Đạo Phật, họ bỏ cả chồng con, họ đến đây, cả gia đình họ rất là đau khổ vì con thì thương mẹ, chồng thì nhớ vợ.
Nếu một người mà đã quyết tâm theo Đạo Phật, theo đúng cái giáo án mà Phật đã chỉ dạy thì không bao giờ làm khổ gia đình, làm khổ người khác.Vì ngày xưa Đức Phật vì không có đường lối tu tập cho nên Ngài thấy người tu hành là giải thoát, do đó Ngài mới bỏ cha mẹ, bỏ vợ con mà đi tìm con đường giải thoát để thoát ra khỏi 4 điều kiện khổ đó là sanh, lão, bệnh, tử. Do vì vậy mà sau này Ngài đã vạch ra một lối đi, cái đường đi để chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Cho nên trong kinh điển của Phật, Ngài nhắc rất nhiều cái vấn đề này. Là một người tu không được làm khổ ai hết, chứ không phải mình muốn tu rồi mình làm khổ cả gia đình của mình thì như vậy không đúng đường lối của đạo Phật. Vì bây giờ đã có đạo Phật, còn trước kia chưa có đạo Phật mặc dù cái lời khiêm nhượng của Đức Phật Thích Ca nói trước Đức Phật có 7 vị Phật ở quá khứ, nhưng sự thật nếu có Đạo Phật ở quá khứ thì phải có một lối đi, phải có vị giáo chủ hẳn hoi thì Đức Phật đâu có lầm lạc mà đã làm cho gia đình mình khổ sở như vậy. Cha mẹ thì thương con, còn vợ thì thương chồng, con mới sinh ra còn chim chích, cái bổn phận đó là cái nghiệp báo. Tại sao chúng ta đã đào tạo nó ra mà chúng ta bỏ nó bơ vơ như vậy? Nếu là con của vua, cháu của chúa thì nó an ổn ở trong cái sự giàu sang, còn nếu một người mà nghèo đói thì thử hỏi một người vợ làm sao nuôi đàn con được? Có phải khổ sở để cho ai đây? Ai đã tạo ra cái nghiệp này để cho người ta gánh chịu. Đạo Phật không chấp nhận cái sự tu hành như vậy. Cho nên Đức Phật sau khi tu hành thấy không phải cái điều đó là đúng, điều mà bỏ đi là đúng, mà cái điều phải làm sao từ cái bước chân như thế nào để thực hiện đúng cái đạo giải thoát, giải thoát cho mình và giải thoát cho người, đem lại hạnh phúc cho mình, đem lại hạnh phúc cho người. Cho nên Thầy từng dạy quý thầy là làm sao sau khi chúng ta tu hành để được giải thoát hoàn toàn thì phải giải quyết cả mọi mặt trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế chúng ta mới được cái tâm an ổn, chúng ta mới rèn luyện trau dồi, tu tập, dứt bỏ. Còn nếu không được an ổn mà ở trong một cái cảnh rối ren dứt bỏ đi, tâm hồn chúng ta có ở chỗ yên lặng đó mà tu tập được không? Chắc chắn là không được.
Hiện giờ chúng ta có những vị làm trụ trì. Nhưng vì nhiệm vụ làm trụ trì hiện giờ nó không phải là nhiệm vụ tu, cho nên chúng ta lăng xăng với vấn đề cúng bái, tụng niệm hoặc sửa sang chùa tháp luôn luôn, làm sao chúng ta tu hành được? Cho nên chúng ta muốn giải thoát thì chúng ta phải dứt bỏ, trở thành một du tăng khất sỹ không còn danh, không còn lợi, không còn một vật chất gì đeo đẳng bên chúng ta thì như vậy chúng ta mới tu được.
Nhưng chúng ta phải biết tình cảm chúng ta có. Mọi người đối với chúng ta có tình cảm. Chúng ta phải làm sao dứt cái tình cảm đó mới được. Nếu mà khi người ta có tình cảm với mình, mình dứt bỏ thì người ta đã đau khổ, mà đạo Phật không chấp nhận làm cho người khác đau khổ.
Đó là hôm nay Thầy nhắc lại vì cái sự hiểu lầm lạc mà người ta đã theo đạo Phật mà vẫn làm khổ.
Cái lầm lạc thứ hai nữa. Đó là người ta thất tình, thất vọng. Người ta đau khổ ở trên cái chuyện lận đận danh lợi. Người ta làm không kiếm ăn được. Hoặc là người ta bị vợ, bị tình nhân xua đuổi hoặc là bạc đãi, bạc tình. Người ta quá đau khổ rồi đi vào chùa tu tập để tìm lấy con đường giải thoát. Thử hỏi những người đó làm sao giải thoát được. Chẳng qua chỉ là mượn câu kinh tiếng kệ, mượn nơi thanh vắng để vơi bớt nỗi phiền muộn của mình, vơi bớt nỗi tham vọng mà mình đạt không được mà thôi. Đó là cái sai, bởi vì cái đúng của đạo Phật là nhìn thấy cuộc đời thật khổ. Sanh ra muôn người ai cũng nằm trong bốn cái khổ. Cái khổ đó là gì? Là ai có thân cũng phải bệnh, mà bệnh là khổ. Ai có thân cũng phải chết, thì chết là khổ. Ai có thân cũng phải già, mà già là khổ. Cho nên trong bốn cái khổ đó chúng ta mới khắc khoải làm sao thoát ra bốn cái khổ đó.
Thì nguyên nhân thoát ra bốn chỗ khổ đó nó không phải ở chỗ thiền định mà ức chế tâm của chúng ta. Mà chính nguyên nhân đó đức Phật đã chỉ cho chúng ta là lòng ham muốn của chúng ta nó mới tập khởi tất cả những điều khổ, nó mới sanh giŕ bệnh chết. Cho nên mục đích của chúng ta là làm sao diệt tâm ham muốn, làm sao mà diệt ác pháp, từ đó chúng ta mới thấy được cái chỗ mà giải thoát. Cho nên đức Phật mới nhắc nhở chúng ta như thế này:
Có người hỏi: Khi đức Phật tịch thì đức Phật còn hay mất?
Đức Phật nói đó là cái pháp ta nói không dứt khoát. Tại sao vậy?
Hay nói một người mà khi chết đi rồi cái linh hồn đi về đâu đó. Thì đó là pháp đức Phật nói không dứt khoát. Còn cái pháp đức Phật nói dứt khoát như thế nào để chúng ta biết?
Đức Phật hỏi như thế này: Nếu có một cảnh giới Thiên đàng, một cảnh giới Niết bàn thì chắc chắn phải có người đến đó. Vậy thì người ta nói cảnh giới đó an lạc như vậy thì đã có ai đến đó hay chưa? Chưa.
Chưa có người nào mà trả lời dứt khoát đó là cảnh giới Cực lạc, là cảnh giới Thiên đàng. Chưa có một ông giáo chủ nào mà trả lời được rằng tôi đã đi đến đó, bây giờ tôi về hoặc là tôi chứng nghiệm ở đó. Chưa có ông nào hết.
Nhưng đức Phật dạy chúng ta thấy cảnh giới Niết bàn đức Phật chứng thật và dứt khoát là tâm chúng ta hết dục, hết ác pháp thì ngay đó là Niết bàn.
Cho nên vì vậy mà đức Phật nói chúng ta có Ngũ triền cái, năm cái triền cái tức là: tham, sân, si, mạn, nghi. Năm cái này mà quét sạch ra thì ngay đó là Niết bàn. Cái chỗ này là cái chỗ dứt khoát mà chúng ta tới đây là chúng ta đạt được liền.
Mà đức Phật còn ví dụ một điều ác mà chúng ta giảm xuống thì điều thiện được tăng lên. Từ điều thiện tăng lên nó làm cho chúng ta có một sự an ổn ở trong đó.
Cũng như bây giờ có người chửi mình mà mình không chửi lại họ thì ngay đó có sự an ổn cho tâm hồn của mình. Nếu mà mình chửi họ, họ chửi mình, mình đánh họ, họ đánh mình thì thử hỏi cái cảnh giới đó có phải đem đến sự đau khổ triền miên không?
Đức Phật nói một điều mà mình nhẫn nhục họ thì tức là đem lại cho mình một sự thanh bình trong tâm hồn của mình. Thì cái này thực chất rõ ràng là cảnh Niết bàn của chúng ta từng chút một, chứ không phải cảnh Niết bàn là một cảnh giới ở đâu sẵn sàng để chúng ta về đó.
Cho nên cái mục đích ở đây chúng ta tu thiền định là tâm thanh tịnh chớ không phải tâm ức chế. Vì tâm ức chế nó sẽ đưa chúng ta đi vào những sự…
Cho nên ở đây Thầy xin nhắc lại quý thầy là Thầy đã dạy quý thầy hai cái định. Đầu tiên để cho quý thầy thấy được cái sự tu tập thiền định của Phật đó là cái định CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC định và cái định VÔ LẬU ĐỊNH, là 2 cái định để quét sạch tâm tham sân si mạn nghi, để chúng ta quét sạch Ngũ triền cái của chúng ta. Thì 2 cái định này nó làm cho tâm quý vị thanh tịnh. Từ cái chỗ thanh tịnh đó quý vị bước thêm một cái loại thiền định nữa để quý vị làm chủ cái sự sống chết của quý vị. Đó là cái định hiện tại an lạc trú. Nó chỉ cần dùng cái tâm thanh tịnh đó mà dùng pháp hướng, Phật dạy là Như lý tác ý, mình muốn trong khi tâm mình tịnh rồi, mình muốn cái gì thì mình tác ý nó ra thì cái đó nó sẽ đạt được, thì trong kinh điển của Phật dạy, muốn đạt được những điều đó, thì chúng ta theo cái lý mà tác ra. Bây giờ Phật dạy như muốn nhập 4 thiền, thì mỗi thiền đều phải nương vào hơi thở, chứ không phải cái hơi thở là thiền định mà cái hơi thở là lộ trình để chúng ta nhập được 4 thiền này và mục đích của Đạo Phật là ngưng các hành ở trong thân của chúng ta mà trong thân chúng ta nó có 3 cái hành: Khẩu hành, thân hành và ý hành, cho nên phải ngưng 3 cái hành này thì chúng ta mới nhập được định. Do tâm thanh tịnh mới điều khiển, dùng Pháp hướng mà điểu khiển Như lý tác ý.
Bây giờ cái hơi thở đang thở bình thường như thế này, chúng ta muốn chậm nhẹ để cho đến khi nó ngưng nghỉ, Phật nói thân hành là hơi thở mà hơi thở ngưng nghỉ thì mới nhập định được Tứ thiền. Do đó chúng ta hiểu biết được cái lời nói này, vì vậy chúng ta dùng cái tâm thanh tịnh, không tham – sân – si này mà chúng ta điều khiển, chứ không phải chúng ta ngồi ức chế, chứ không phải chúng ta ngồi lặng trong trạng thái hỷ lạc, mà chúng ta nhẹ nhàng điều khiển nó ở trong hơi thở của chúng ta, vì đó là lộ trình để mà chúng ta nhập 4 thiền, chứ không phải hơi thở là thiền định.
Còn các Thầy ngồi thiền định mà các thầy cứ nương hơi thở mà thiền định thì chẳng có đi tới chỗ nào hết. Do vì vậy mà nó càng ngày nó càng mất thời gian tu tập và kết quả đạt đến là cái hậu quả, tai họa rất lớn, mà sắp tới đây Thầy sẽ giảng về cái loại tẩu nhập ma, người ta không hiểu, người ta tưởng đó là ở bên ngoài nhập vào, nhưng vì chúng ta quá ức chế, làm cho thân tâm chúng ta rối loạn, rồi bắt đầu những cảm giác xảy ra, làm chúng ta không còn sức tự chủ, bị cơ thể rối loạn nhất là về hệ thần kinh, lúc bây giờ chúng ta trở thành như người điên khùng, chứ không phải vì gì khác hơn hết. Cho nên con đường Đạo Phật mà người nào biết mà tu đúng thì không bao giờ có sự kiện đó xảy ra. Tại vì từ tâm thanh tịnh, không tham – sân – si, ăn uống nữa. Do đó người ta mới vận dụng Pháp hướng Như lý tác ý ra, bắt buộc các hành tuần tự chậm và nhẹ cho đến khi ngưng nghỉ hoàn toàn ở trong ý thức chứ không phải ở trong tưởng thức. Vì vậy mà người ta làm chủ bằng cái ý thức chúng ta đang có. Rồi đây quý thầy sẽ thấy được, cái chỗ nào là cái chỗ mà trong thân của chúng ta để thể hiện cái hoại ma này, để rồi Thầy sẽ giảng tới, quý thầy sẽ thấy.
Bây giờ Thầy xin nhắc lại vì trường hợp ở trong Tu viện của chúng ta, có những sự việc nó xảy ra là Thầy Thiện Thuận trong khi tu hành Thầy cũng hết sức năng nổ tu hành, Thầy không phải là người mà tu chơi, Thầy cũng quyết đem hết cái sức của mình để làm chủ sanh tử, để chấm dứt cái đời sống thế gian đau khổ này. Cho nên khi về đây được Thầy chỉ dạy Pháp hướng, thầy rất mừng là thầy đã thấy có hiệu quả, thầy điều khiển hướng tâm tới đâu thì có kết quả tới đó, thầy bảo nó ngưng là nó ngưng, thầy bảo như thế nào nó nghe như thế nấy. Cho nên qua những lần trình bày với Thầy thì Thầy thấy thầy là một người nhiệt tâm tu hành, tuy rằng không được ở gần Thầy nhưng dù xa Thầy, chỉ có 1 lần học hạ ở đây biết Thầy rồi từ đó về mà nỗ lực tu tập, tự tu tập lấy. Cho nên cái nhiệt tâm tu hành như vậy mà được gặp cái Pháp hướng thì chắc chắn phải có sự hiệu quả của nó rồi.
Nhưng vì thời gian rất là bề bộn, công việc rất là nhiều cho nên Thầy không kiểm tra thầy được chặt chẽ. Cho nên một đêm đó thì thầy có một sự kiện xảy ra, bây giờ xin thầy Thiện Thuận trình bày cái sự việc đó để cho quý thầy rút kinh nghiệm trên bước đường tu tập của mình, để tránh khỏi những hậu quả không hay cho bước đường tu. Vì thân tâm chúng ta là bộ máy rất quý, nếu lỡ cái bộ máy đó hư hoại thì khó mà sửa một máy móc nào, trong cái hiện tại này cũng có thể sửa chữa được. Nhưng về phần máy con người, nếu mà về hệ thần kinh thì chắc chắn rất là khó, nếu mà nặng thì kể như chúng ta bị suốt đời tàn tật, trở thành người điên khùng, không thể nào cứu chữa được. Mà hầu hết trong đất nước của chúng ta hiện giờ có nhiều người tu sai, bị nhưng âm thầm chịu đựng trong đau khổ của mọi gia đình, của người thân của họ. Biết con mình tu sai nhưng bây giờ nó điên thì họ cũng chẳng biết đổ thừa ai được hết, nhưng trách nhiệm đó là của ai? Thầy xin báo rằng trách nhiệm đó là của những người tu hành chưa tới, chỉ lấy Phật pháp hoặc lấy những cái điều sai lệch mà tự nghĩ ra để dạy người, để đưa người ta đi đến chỗ chết đau khổ như vậy. Cái lỗi đó là lỗi của các bậc tà sư ngoại đạo, không am hiểu được Phật pháp, không am hiểu được pháp của mình, chỉ tưởng tượng ra qua kiến giải mà tạo nên những con người dở chết, dở sống. Những người đó đã tạo ra con đường đi để cho bao nhiêu người mất cả thời gian, bỏ vợ, bỏ con rồi đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, điên chẳng ra điên, khùng chẳng ra khùng, ở ương ương gàn gàn, đụng đâu cũng bài bác, đụng đâu cũng kích bác người ta thì đó là cái tai họa rất lớn cho đạo Phật hiện giờ. Chúng ta chẳng biết làm sao chỉ còn biết âm thầm...
***


Nhường lời lại cho Thầy Thiện Thuận:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Thầy Bổn Sư, Viện Chủ Tu Viện Chơn Như!
Kính thưa quý Thầy và toàn thể đại chúng!
Con là Tỳ kheo Thích Thiện Thuận, trụ trì chùa Hiệp Thành, ở xã Tân Hiệp, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
Trong mùa an cư năm nay, con đã đủ duyên lành về đây để tu học thiền định với Thầy. Vì mùa hạ năm nay là mùa hạ cuối cùng để Thầy đi ẩn bóng. Cho nên chúng con hết sức cố gắng tu tập năng nổ để đền đáp lại công ơn trời biển của Thầy. Hôm nay nhân ngày thuyết giảng đạo, được sự chấp thuận của Thầy Viện chủ đồng ý cho phép con được trình bày lên đại chúng về kết quả tu tập trong một tháng qua và cũng kể lại phương pháp trị liệu về vấn đề tẩu hỏa nhập ma mà vừa qua con đã bị. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, cũng có nói về Ngũ ấm ma.
Đồng thời cũng nói lên những nguyên nhân bị xảy ra hiện tượng này để chúng ta rút kinh nghiệm tu tập và giúp người tu sau này tránh được tình trạng nguy hiểm ấy.
Bây giờ chúng tôi xin nói về kết quả trước trong thời gian 33 ngày qua. Hiện giờ đây, trong người của chúng tôi, coi như đã làm chủ được hơi thở, nghĩa là tịnh chỉ được hơi thở, muốn hơi thở chậm thì chậm, muốn nhẹ thì nhẹ, mà muốn ngưng là ngưng. Cái thứ 2 là tịnh chỉ được các hành, nghĩa là muốn cho hành hoạt động là cho, mà muốn ngưng vận động là ngưng. Cái thứ 3 là làm chủ được giấc ngủ. Nghĩa là hiện giờ muốn ngủ thì chỉ cần ám thị biểu ngủ là nó ngủ thôi và đồng thời không có chiêm bao. Tại sao lý do nào mà không có chiêm bao? Nguyên nhân là cho cái thằng ý thức canh giữ hơi thở rồi cứ ám thị cho thân ngủ thôi, từ chỗ đó ý thức của chúng ta nó thức hoài, muốn thức giờ nào thì thức thôi.
Xin lỗi vì tịnh khẩu cả tháng nay cho nên nói chuyện nó không được trong. Và hiện giờ đây, thì cũng nói luôn cái trạng thái hiện giờ để cho chúng ta có kinh nghiệm trước. Hiện giờ đây sau khi trải qua cái cơn mà dừng các hành thì có những cảm giác là lạnh toàn thân, sau cơn lạnh đó nó ấm trở lại, nhiều cái đợt mà ngồi thiền riêng túc thì nó có một trận gọi là đau nhức thân trở lại, nghĩa là phá cái thọ lần thứ 2. Bởi vì trước kia, sau khi mình bước vào cái đoạn mà Nhị thiền lên Tam thiền là mình phá cái thọ trước, mình chấp nhận cái đau, trận đau dữ tợn trước, cái đó là cái đau. Còn qua một trận thứ 2 nữa đó là hiện giờ sau khi mình đã qua được những cơn lạnh, nóng xong thì đến một cơn đau nhức thứ 2 nữa. Nghĩa là tê nhức, nó cũng dữ dội như lúc ban đầu. Sau nhiều lần ngồi thiền nữa, thì một trận cuối cùng để hết đau nhức thì hơi thở nó mới tống lên để cái huyệt đau ở sau lưng là nó sẽ thông suốt, nó thông cái rất là nhẹ. Rồi hơi thở coi như không còn thấy thở nữa, rồi tiếp tục nó đưa lên huyệt ở trên đầu, thông luôn ở trên đầu, rồi sau đó thì chúng tôi mới xả ra, xả ra để đi kinh hành, đi kinh hành nửa chừng thì tự nhiên có một cái hơi ở dưới bụng, nó nặng nặng, quặn quặn ở dưới bụng thì nó quận lên trên cái miệng thì cứ ngậm răng lại, thì chúng tôi mới đứng lại. Đứng lại để ngồi thiền định tâm lại thì tự nhiên ở dưới bụng nó quận lên một hồi, nó đưa lên rồi coi như là nó đi thông lên huyệt ở trên vai, ở sau lưng, chỗ mà mình với không tới đó, huyệt linh đài hay gì đó (cũng không biết), rồi nó đưa thẳng luôn lên tới đỉnh đầu, mà không biết chuyện gì, tui cũng chưa nắm, do đó cho nên cả 3 huyệt đạo từ ở dưới rốn, dưới bụng rồi nó thông lên, thở ra thở vô nó rất là thông, hiện tại giờ nó như thế, mà tình trạng này chưa báo lại với Thầy viện chủ. Đó kết quả trong 33 ngày qua là như thế.
Tiếp theo, được sự tận tình chỉ bảo của Thầy Viện chủ, chúng tôi đã nhập định được, đi vào cửa Tam thiền và thấy rất là nhiều sự vi diệu trong thân chúng ta như thế. Nghĩa là ta làm chủ cái thân ta hoàn toàn, coi như là đối với sự sống chết đã làm chủ rồi, cả thân và tâm. Đó chỉ là mới cửa thứ ba thôi. Nghĩa là hiện nay nó đã làm chủ được thân tâm. Tuy nhiên trong cái quá trình tu tập được kết quả đó chúng ta cũng gặp nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn.
Thì trước tiên chúng tôi cũng xin nói điều thuận lợi trước. Thì bắt đầu từ lúc vào hạ. Vào rằm tháng tư bắt đầu hạ thủ công phu thì nhập thất cho đến bảy ngày thì chúng tôi đã nhập được Sơ thiền. Rồi đến ngày thứ mười tám thì nhập được Nhị thiền. Rồi đến ngày hai mươi chín là nhập được Tam thiền. Sở dĩ mà đạt kết quả mau như thế thì theo chúng tôi nghĩ thì nó rất đúng với lời Thầy Viện chủ đã giảng hôm trước. Sau khi rút kinh nghiệm thì chúng tôi thấy rất đúng. Bởi vì Thầy đã dạy muốn nhập Tứ thiền thì phải chuẩn bị trước một số hành trang như sau:
Trước tiên hành giả chúng ta trước tiên là phải tu Mười điều lành. nghĩa là hành Thập thiện đó. Phải tập nhuần nhuyễn và giữ gìn giới luật. Nghĩa là phải trường chay và tiệt dục. Đối với hành giả đó là điều thứ nhất.
Điều kiện thứ hai là phải tu Tỉnh giác chánh định. Nghĩa là chúng ta lúc nào cũng luôn tỉnh thức trong mọi hành động: tôi đi biết đi, làm việc biết làm việc, tôi ăn biết tôi ăn. nghĩa là tỉnh thức hoàn toàn.
Thứ ba là phải tu Định vô lậu.
Thứ tư, phải xả bỏ hết tài sản của thế gian - tài sản nhỏ tài sản lớn cũng như chùa chiền, hay là tất cả các vật chất, phải bỏ xả hết.
Thứ năm là chúng ta sau khi nhập thất vào là phải tu cái Hiện tại an lạc trú chánh định, nghĩa là tu bám chặt trên hơi thở.
Điều thứ sáu là phải Sống độc cư, coi như mình tịnh khẩu hoàn toàn.
Nếu mà hội đủ sáu điều kiện này thì chúng ta sẽ hoàn toàn nhập vào Sơ thiền rất mau. Bằng chứng cụ thể là chúng tôi vừa qua. Chúng tôi vừa qua trong sáu điều kiện này thì ở chùa trong mấy năm qua đã thực hành có. Bởi vì trước kia là một Tỳ kheo thì đã giữ giới rồi, tu mười điều lành và trường chay tiệt dục rồi. Thứ hai là tỉnh giác. Ở chùa thì chúng tôi lúc nào cũng tỉnh giác, tu trong các hành động. Cái thứ ba ở chùa Định vô lậu thì lúc nào cũng- thường thường tu cái thiền biết vọng. Khi vọng nổi lên là nhìn thấy nó. khi nhìn tận cùng của nó, mình phát hiện ra nguyên nhân ở chỗ nào rồi mình gạt ra. Đồng thời mình đọc kinh sách, truy tìm thêm giáo lý, đó là tịnh. Để mình dẹp mọi cái tham- sân- si- mạn- nghi, đó là Định vô lậu.
Cái thứ ba là xả tài sản. người tu tập hiện nay, trước khi vào Tu viện này chúng tôi đã tìm người để giao lại chùa với một quyết tâm nỗ lực là không bao giờ trở về để làm trụ trì nữa. Nghĩa là xả bỏ hết ngôi chùa, đồng thời giảm bớt lần đi mọi quan hệ, mọi tình cảm. Cho nên khi mà làm những cái động tác đó xong thì bắt đầu Thầy Viện chủ mới dạy cái phương pháp quán niệm hơi thở để bám chặt hơi thở. Rồi sống độc cư như vậy trong bảy ngày là vô Sơ thiền liền. Thì đó là cái kết quả mà một hành giả muốn đạt được thì chúng ta phải trang bị trước. Còn nếu chưa trang bị được sáu điều kiện này thì coi như chúng ta tu cũng mất thời gian thôi. Đó là về cái mặt thuận lợi.
Còn về khó khăn thì theo kinh nghiệm của bản thân chúng tôi thì vừa qua đã bị tẩu hỏa nhập ma. Tức là đã bị ma tưởng ấm nhập vào. Chúng tôi nghĩ là do có ba nguyên nhân.
Một, nguyên nhân thứ nhất là ngồi thiền ráng chịu đau quá. Chúng ta cố sức ngồi thiền. Khi ngồi thiền bị đau quá rồi, ráng hết sức ngồi cho lâu để tập cho cái giò cho nó quen. Thì như vậy chúng ta đã lầm, ngồi như thế đã lầm rồi. Chúng ta phải biết rằng, khi nào ðúng lúc chịu ðau. Khi nào chúng ta ở cái khoảng từ Nhị thiền tiến lên Tam thiền ðể phá cái thọ thì đúng lúc đó chúng ta mới chịu đau, chấp nhận chịu. Còn trong cái lúc này chưa nhập Sơ thiền hay chưa gì đó mà chấp nhận chịu đau thì mình tu sai. Hoặc giả mình tiến lên Nhị thiền rồi, mình chấp nhận ngồi chịu đau thì mình sẽ bị ma tưởng ấm nhập vào thôi. Bởi vì chính bản thân tôi trong cái lúc mà đi vào Nhị thiền, thì trong cái đêm ngày thứ mười tám. Thì sau khi thấy cái hơi thở mình quá nhẹ đi, rồi thấy cái thân người mình bay bổng lên khỏi giường. Thấy rất là thích thú, có hỷ lạc cho nên chịu ngồi như thế. Sau thời gian khoảng chừng hai mươi phút thì tới cơn đau của cái giò. Nó đau lên dữ tợn buộc kiềm. Kiềm khoảng chừng 20 phút thì tự nhiên nó bung ra. Nó bung ra thì trong lúc đó ma tưởng ấm nhập vào liền. Đó là đêm thứ mười tám. Lý do sao nhập- là lý do là chúng ta vừa bung giò ra thì tất nhiên là có một cái tư tưởng là phải nghĩ tưởng như thế nào cho nó bớt đau. Từ cái chỗ đó là cái ý thức của chúng ta nó rời ra, nó đâu có định trong hơi thở. Nó không định tâm chỗ đó cho nên tưởng thức nó nhảy vô liền. Mà mình tưởng, tưởng để cho hết đau thì tưởng thức nó vô. Nó vô thì bắt đầu nó mới bắt gân, bắt gân rồi nó vần, vò đủ thứ. Rồi có những cái nó bắt mình xá, lạy, rồi bắt ấn Chuẩn Đề, rồi làm đủ mọi động tác đặng cho nó hết đau. Là như thế nó kéo dài từ ba giờ khuya cho tới tám giờ sáng là mới xả ra, là lúc đó trời sáng rồi. Do đó sau cái lần này, sau khi xả ra thì chúng tôi chạy tới thưa Thầy viện chủ để thông báo liền. Thầy viện chủ cho biết là cái tưởng ấm ma nó nhập vào.
Từ đó chúng tôi cũng chưa có được kinh nghiệm nữa. Kinh nghiệm là lúc mình xả ra rồi nó thừa cơ, tưởng ấm nó nhập vào là lúc đó. Mà cũng chưa được kinh nghiệm. Do đó cho nên giờ chỉ có cái là bình tĩnh trở lại thôi, đặng rồi tiếp tục. Thì đó là điều thứ nhất mà chúng ta phải nhớ đừng có ngồi thiền mà kiềm đau quá. Khi mình ngồi mà thấy nó đau thì xả bỏ đi. Còn trong cái lúc mà chúng ta xả thiền thì phải luôn luôn với một cái chánh niệm, một cái tỉnh thức. Nghĩa là tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng có một cái mống lượng gì khác nữa hết. À, lúc đó mà chúng ta quên đi cái tỉnh giác chánh định này đó thì tất nhiên tưởng ấm nó sẽ nhập vào ngay. Thì trong lúc đó chúng ta nói là, trong lúc thân thể mệt mỏi ể oải rồi, chân nó đau nhức nữa đó, ý thức nó đã rời ra rồi, hay nó lơi lỏng rồi, thì có một móng niệm lên là tưởng ấm nó nhập vô liền, rất là nhanh trong vòng một niệm thôi.
Vấn đề thứ hai là chỉ cần có một ý niệm thần thông. đấy, vấn đề này cũng là rất quan trọng đây. Nghĩa là chúng ta chỉ có một ý niệm về thần thông thôi, một thần thông bay hay một thần thông như thế nào đó. Một suy nghĩ, một niệm thôi nó nhập vào liền. Cũng như sau khi xả thiền xong thì cái đêm, hình như là cái đêm hai mươi sáu hai mươi bảy gì đó. Là sau khi tiến lên cái đoạn cửa Tam thiền. Nghĩa là làm chủ được các hành. Sau khi tịnh chỉ được hơi thở rồi đó, mới tiến vào để tịnh chỉ các hành. Thì chúng tôi ngưng hoàn toàn, các hành ngưng hoạt động để cho nó lạnh từ dưới giò lên. Sau khi nó lạnh tới xương sống. Lạnh tới xương sống thì Thầy Viện chủ cứ cho tiếp tục lạnh lên hết toàn thân.
Sau đêm đó, lúc đó là ba giờ sáng chúng tôi ngồi thiền để cho lạnh lên toàn thân hết rồi mới xả ra. Sau khi xả ra toàn bộ hết rồi thì tính đi kinh hành rồi, nhưng mà tự nhiên có một cái luồng, một cái luồng ma lực nào đó cũng không biết tự nhiên nó thâm nhập vào hai cái chân mày. Nó xoáy xoáy xoáy coi như là phải nhắm mắt lại luôn đó. Nó xoáy lại mà cũng không biết đó là chuyện gì. Do đó mà chúng tôi mới lầm tưởng suy nghĩ là chắc có lẽ mình ngồi thiền hai con mắt mình nó làm cho thông qua lại, nó làm cho thông lỗ mũi và thông luôn miệng, nghĩ vậy thôi. Tự nhiên bắt đầu nó xoáy xuống mũi, xoáy xuống miệng rồi nó làm cho la lên đặng cho thông. Đó, rồi cứ như thế nó la hoài, la càng lớn càng tốt làm như mê nên mình phải la. Do đó cho nên là không còn tự chủ được nữa. Mà cũng may lúc đó có thầy Mật Hạnh và Thầy Viện chủ phát giác kịp. Thầy Viện chủ vô rồi bỏ tay lên vai chúng tôi rồi thì chúng tôi mới hoàn toàn tỉnh lại. Tỉnh lại là bảo ngưng không cho la nữa thì lúc đó mới hết. Thì sau khi hết xong thì chúng tôi mới ngủ trở lại, xả thiền xong ngủ trở lại. Thì đó xin tạm dừng lại để nói cái ý thứ ba.
Nguyên nhân thứ ba mà để bị nữa - nguyên nhân thứ ba là không biết trước được những trạng thái của cơ thể sẽ đổi khác khi chúng ta tịnh chỉ được các hành. Nghĩa là sau khi chúng ta tịnh chỉ được các hành, nghĩa là cho lạnh toàn thân rồi đó thì một người thiền sinh chúng ta phải biết trước những cái cảm giác thay đổi. Bởi vì lúc bấy giờ khi mà lạnh toàn thân hết thì máu cơ thể ta, hồng huyết cầu chúng ta đã thay đổi hết rồi. Coi như là nó đổi trượt hết rồi, thành một con người mới. Do đó cho nên các thiền sư hồi xưa chúng tôi nhớ lại là họ có nói: “ Rắn thành rồng không đổi vảy”. Hay là cái câu “ Bước qua đầu cầu trăm trượng mà có dám bước hay không” đó. Do đó cho nên là chúng ta phải biết trước những cái trạng thái này, trong cái trạng thái mà sau khi chúng ta tịnh chỉ các hành thì phải biết. Nghĩa là đã làm chủ được các hành rồi, làm chủ được hơi thở rồi thì nó sẽ có những trạng thái khác. Bởi vì chúng ta làm chủ nó thì ra lệnh nó. Mà nó giống như một cái người tướng mà cầm quân vậy đó. Nếu mà chúng ta làm tướng mà không điều khiển được quân lính thì nó náo loạn hết. Tất nhiên tan rã hàng ngũ.
Thì con người chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta làm chủ được thân, làm chủ được hơi thở, làm chủ được các hành. Thì lúc bấy giờ nếu chúng ta không hiểu biết trước được rồi chúng ta khủng hoảng lên. Chúng tôi sẽ nhắc lại cái đêm đó, sau khi bị tưởng ấm ma xong rồi tiếp tục nằm ngủ thì khuya lại đến khoảng mười một giờ thì chúng tôi giật mình thức dậy, thì chúng tôi thấy sao mà toàn thân nó đều cứng. Nó cứng không phải theo cái kiểu mà lạnh tê cứng mà nó cứng theo cái kiểu mà mình thấy có thể nhúc nhích được. Nhưng mà do không có hiểu trạng thái này cho nên khủng hoảng lên. Tưởng đâu là các hành ngưng hoạt động cho nên mới ra lệnh cho các hành hoạt động trở lại, thì bắt đầu nó vận động trở lại. Thấy máu nó vận chuyển. Thấy như rằng nó nổ lụp bụp từ lỗ chân lông rất là nhiều.
Lúc này khủng hoảng sợ quá. Sợ quá thì bắt đầu bảo các hành ngưng hoạt động thì bắt đầu nó ngưng. Rồi thì bắt đầu nó giảm xuống nữa. Thành thử ra cứ làm như thế liên tục từ lạnh cho tới vận hành cơ thể liên tục, rồi cho tới lạnh. Đến hơi thở, hơi thở nó mất bình thường. Nghĩa là biểu ngưng, biểu thở nhẹ, thở chậm; đặng rồi ra lệnh đủ thứ hết. Cho nên tất cả trong thân đều náo loạn. À, lý do là không biết những trạng thái này cho nên mình điều chỉnh được tất cả những cái mà... Điều chỉnh được hơi thở, điều chỉnh được các hành nhưng mà mình điều chỉnh không đúng. Thành thử nó náo loạn tất cả các nội tạng hết. Lúc bấy giờ chúng tôi mới sợ quá đi, không còn tự chủ nữa nên mới chạy ra ngoài kêu Thầy viện chủ, mới báo lại. Lúc bấy giờ Thầy viện chủ mới bảo là cứ cho các hành hoạt động bình thường, và hơi thở thở bình thường. Thì chúng tôi cảm thấy yên ổn trở lại và ngồi gần với Thầy thì như nó có một cái từ lực gì đó. Có một cái từ lực gì đó mà làm cảm thấy yên ổn. Và ngồi nói chuyện với Thầy để bàn qua sự việc một hồi thì Thầy mới khuyên nên tu một biện pháp là tu Định vô lậu.
Lúc bấy giờ nên tu Định vô lậu nghĩa là giữ lại cái hơi thở bình thường, nhưng mà lúc bấy giờ chúng tôi đâu có còn bình tĩnh nữa đâu để mà tìm lại cái hơi thở bình thường. Lúc đó là bị khủng hoảng quá đi, cho nên nó quên mất hơi thở đó. Hơi thở mà bình thường là lúc ban đầu chúng ta học thiền đó. Thì Thầy viện chủ mới cho chúng tôi, bảo chúng tôi nên đi kinh hành. Thì đi kinh hành chúng tôi mới tập trung lại, tập trung tư tưởng lại đi kinh hành, vừa đi vừa quán tưởng rồi vô thường, vô ngã, rồi quán tưởng về thân bất tịnh, quán tưởng về tài sản thế gian giả tạm, quán tưởng đủ thứ để chúng ta quên đi cái chuyện khủng hoảng mà nó trở lại cái sự bình tỉnh thì tất nhiên là hơi thở nó điều hòa trở lại.
Thì từ chỗ đó con người mới cảm thấy nó nhẹ dần, nhẹ dần xuống. Rồi như vậy một hồi đi về, đi về nghỉ rồi ngồi một chỗ, không đi kinh hành mà ngồi một chỗ một mình thì bắt đầu nó làm trở lại. Bởi vì lúc đó các hành nó vận chuyển trở lại thì cái hơi thở của mình nó cũng hồi hộp trong đó, cho nên nó bất bình thường, thành thử toàn thể châu thân nó cảm thấy lúc nóng lúc lạnh đủ thứ mà khủng hoảng lên nữa, cho nên chúng tôi ra đây gặp Thầy viện chủ một lần nữa, rồi báo lại vì Thầy viện chủ cũng dạy cách y như thế đó, chúng tôi mới phải đi kinh hành suốt một đêm đi suốt luôn tới sáng thì nó cảm thấy yên ổn.
Nhưng mà đến sáng lại thì Thầy viện chủ mới bảo đưa cho một quyển kinh để mà đọc, thì khi lấy quyển kinh về ngồi đọc thì tâm chú ý vào đọc kinh, đọc, đọc một cách cho nó kỹ lưỡng thì nhờ cái tâm chú ý vào đó cho nên là mình không có nhớ cái chuyện mà hơi thở và các hành nữa, do đó cho nên là nó bình tĩnh trở lại, rồi từ đó hơi thở nó điều hòa, nó trở lại hơi thở ban đầu lại, cứ thở ban đầu, thở nhẹ như thế một hồi rồi tự nhiên ở dưới bụng, lúc này nó nặng bụng dữ lắm, nó nặng bụng, lý do sao bây giờ chúng tôi mới biết được lý do sao nặng bụng và nặng trên đầu. Đó là những cảm giác, những trạng thái mà đến khi cái cửa Tam thiền này, không biết ai có không chứ bản thân chúng tôi thì có, bởi vì nó nặng bụng quá là lý do nó chứa, chứa tất cả những lòng tham sân si mạn nghi ác kiến, nó chứa tất cả lòng tham sống sợ chết, nó chứa những cái tham ái, tham dục, ham của tài sản thế gian, nó chứa trong bụng.
Do đó cho nên khi mà thở lại hơi thở ban đầu rồi tự nhiên nó trào lên, nó tràn lên nhưng mà nó theo cái hơi thở rất là nhẹ, chứ không phải mạnh nữa, nó ra từ từ từ từ, trong lúc nó trào ra thì mình cứ quán, quán về tài sản thế gian, quán tất cả những cái tham sân si lòng ái dục quán nó tràn ra, nó tràn ra chừng năm sáu lần, cũng như cuối cùng mình ợ lên được nó nhẹ luôn, nó nhẹ cái bụng, nhẹ bụng còn nó nặng cái đầu thì cũng chưa biết, không biết nó nặng sao, thành thử ra mới đi kinh hành trở lại rồi về xem kinh, từ đó nó nhẹ bụng thôi. Nhưng mà sau này, qua bữa sau mới biết cái đầu nó nặng là cũng nên chữa đó, bởi vì chúng ta cái lòng tham thì chứa trong bụng, lòng tham ái tham dục thì chứa trong bụng còn trong tàng thức của chúng ta thì cũng chứa cái tham ái, tham dục trong cái thức A-lại-da là thức thứ 8 đó, nó chứa trong tàng thức đó, thì cho nên chúng tôi mới thở ra cái hơi thở bình thường nhưng khi mà thở ra chúng ta nhớ tập trung cái tư tưởng ở trên đầu, xả ra, xả ra tất cả những cái lòng tham dục, tham ái đó, những cái tham sân si đó ở trong đầu nó tràn ra hết, cho nó ra hết, ra, ra, coi như mình xả ra hết thì xả ra nguyên một ngày coi như cái đầu nhẹ luôn.
Thấy cái đó cũng rất là hay. Do đó cho nên là một cái bụng thì chứa những lòng tham, mà trên đầu thì chứa những chủng tử, do đó chúng ta ráng nguyện xả ra, xả ra thân, bụng cũng phải rỗng ra, đầu phải rỗng xuống, tàng thức không chứa chủng tử gì hết, bụng cũng rỗng ra và đồng thời lập một đài nguyện sống y như cuộc đời tu hành chân tu của Thầy Viện chủ. Nghĩa là phải sống phạm hạnh, lập một đại nguyện lớn là phải sống 3 y, một bát. Chỉ có con đường đó thôi, chúng ta mới đi vào cái thiền định của Phật được. Chứ còn nếu mà về ở nhà, tiếp tục trụ trì rồi là cứ lo xây dựng chùa chiền này nọ, thì tất nhiên là coi như đường tu tập vấn đề mà giải quyết vấn đề luân hồi sanh tử, làm chủ được chắc rất khó. Do đó cho nên chúng tôi mới lập cái nguyện lớn là phải sống theo hạnh của Thầy Viện Chủ Bổn Sư là chỉ 3 y, một bát, vậy thôi.
Do đó cho nên là chừng 3 ngày sau thì tất nhiên là thân hình nó nhẹ nhàng trở lại, rồi chúng tôi, lúc bấy giờ thì bình tĩnh trở lại mới bắt đầu ngồi thiền thì Thầy Viện Chủ có nhắc là đừng để cho nó tác ý chúng tôi ngồi thiền, mà lúc này khi ngồi thiền vô thì nó rất là nhẹ nhàng chứ không phải như hồi nãy, lúc mới ban đầu phải tập trung hơi thở. Bây giờ chúng ta chỉ ngồi hít nhẹ một hơi là nó vô, vô luôn tới tam thiền liền. Mà nó đi rất nhẹ mà xả ra cũng rất là nhẹ nữa.
Thì đến đây chúng tôi cũng xin nhắc thêm một cái chỗ nữa, trên cái đoạn đi từ Nhị thiền đến Tam thiền hơi thở của chúng ta, hơi thở chúng ta đi sâu vô nó nhẹ đến mức độ mà đến Tam thiền nó quá nhẹ đi, do đó cho nên cái huyệt sau lưng, chỗ mà vói không tới, tự nhiên nó bị lói hơi nhỏ rồi nó đau, rồi mình hơi thở không thông, trong những lúc tu thiền thấy nó thở vô nhỏ, hơi thở nó nhỏ tới đó là nó không thông, là nó đau, thì chúng tôi xả thiền ra tưởng là bị gió nhập, nhưng mà khi chúng tôi nhờ chú y sĩ, chú lại chú sửa, chú bóp, chú xoa dầu, nhưng không hết đâu, đó là do cái huyệt chúng ta chưa thông thôi, thành thử ra ngồi thiền liên tục 2 lần sau nữa thì tự nhiên hơi thở nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi có một sức mạnh gì đó nó tống thông ra rất là nhẹ nhàng. Sau khi cái huyệt đó thông rồi đó, chúng ta nhập thiền vô Tam thiền rất là nhẹ mà rất là nhanh trong vòng chỉ 5 phút thôi là vô liền, chứ khỏi cần phải ngồi mà kiểm tra hơi thở rồi mình phải đủ thứ chuyện lúc mình mới ban đầu. Đó những cảm giác mà chúng tôi thấy được đó thì do 3 nguyên nhân đó, thì đến đây qua những kinh nghiệm của chúng tôi thực tập và bị vấp phải như vậy, nay xin trình lên Thầy Viện chủ và đại chúng biết rõ để chúng ta rút kinh nghiệm và giúp người đi sau khỏi phải sợ hãi và lúng túng khi gặp trường hợp bị tưởng ấm ma nhập vào.
Kính thưa đại chúng! Tưởng ấm ma nhập vào chúng ta đó, là nó nhập khi mà chúng ta xả thiền ra, nó thừa cơ chúng ta lơ đãng, chúng ta không tu tỉnh giác chánh định mà kỹ đó, lơ xơ 1 niệm là nó vô liền ngay trong lúc xả. Do đó cho nên khi xả thiền phải nhớ, ngồi phải tỉnh giác, tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng mống niệm gì hết, đừng mống niệm thần thông nữa. Do đó cho nên phải lưu ý chỗ đó.
Rồi cái cách mà trị liệu đó, để mình khỏi sợ bị tưởng ấm ma nó nhập vào đó, là chỉ có 3 cách, thì theo tôi nghĩ có 3 cách.
Một là khi xả thiền ra phải tỉnh giác, xả thiền chỉ biết xả thiền, ngồi chỉ biết xả thiền thôi đừng nghĩ gì khác hết, là tất nhiên tưởng ấm ma không bao giờ nó nhập vào được, cái đó coi như mình làm chủ cảm giác rồi.
Cái thứ 2 là khi đến cửa Tam thiền thì cơ thể nó thay đổi khác hết trơn rồi, nghĩa là rắn đã hóa thành rồng rồi, mình nhẹ nhàng mình thay trược hết rồi, nó rất là nhẹ nhàng, mà máu nó cũng đổi lại, hơi thở mình cũng đã khác rồi, mình làm chủ hoàn toàn thì chúng ta phải biết được những trạng thái đó. Tất nhiên là người đã tu tập xong hoặc là quý thầy hướng dẫn kỹ lại những trạng thái đó phía trước tất nhiên là hoàn toàn bình tĩnh, mà bình tĩnh thì mới chủ động được, chứ nếu không khéo thì trong lúc đó mà không chủ động thì coi như là sẽ đi đến cái chỗ là tưởng ấm ma nặng là coi như sẽ điên khùng thôi, điên khùng hoặc giả là hư hoại luôn coi như không còn tu hành được nữa đâu, bởi vì lúc đó mình đảo lộn hết trơn rồi, các hành mà bảo nó ngưng rồi, giống như một người mà đi cày đó cho 2 con trâu, người nào không biết cày mà biểu 2 con trâu, người bảo ví người bảo thá con trâu biết đi đường nào. Mắc mớ biểu ví cái biểu thá. Từ chỗ đó nó không biết đường đi. Cũng như các hành và hơi thở của chúng ta cũng vậy. Mình làm chủ được nó là phải điều khiển một cách thuần thục, phải tinh xảo. Do đó mình biết cách như vậy, mình làm như thế thì tất nhiên rất là yên ổn.
Thứ ba, chúng ta đi kinh hành, quán vô thường vô ngã, bất tịnh… để xem kinh để lấy lại hơi thở bình thường ban đầu. Nghĩa là khi gặp những trường hợp đó cứ đi kinh hành. Đi kinh hành để quán vô thường, vô ngã, hay bất tịnh. Rồi ngồi lại lấy cuốn kinh để tập trung xem, lấy lại hơi thở lúc ban đầu. Thì tất nhiên là chúng ta sẽ quét sạch được những cái lậu hoặc mà nó nằm trong bụng, trong đầu của chúng ta. Từ chỗ đó mà lòng tham dục, tham- sân- si- mạn- nghi- ác kiến và tất cả những cái ham muốn và tài sản thế gian phải quán bỏ hết. Chúng ta phải quán xả bỏ hết đi thì từ đầu cho đến bụng mình nó rỗng ra, giống như cây trúc vậy đó. Rỗng ra không có chứa một cái gì hết thì chúng ta đi vào định rất là hay. Do đó cho nên là quan trọng nhất nữa là phải lập một cái nguyện lớn là sống cái đời sống chân tu ba y một bát. Đó là cái quan trọng.
Chúng tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa nếu mà chúng ta muốn có một cái thuận lợi để đi vào cái định thì phải tụ hợp, hợp đủ sáu điều kiện. Một là trước phải tu Mười điều lành là thập thiện, giữ giới luật trường chay, tiệt dục. Thứ hai là tu Tỉnh giác định chánh niệm. Thứ ba là phải tu Niệm vô lậu chánh định. Thứ tư xả bỏ tất cả tài sản của thế gian. Thứ năm là tu Hiện tại an lạc trú chánh định. Thứ sáu là sống độc cư, tịnh khẩu. Nếu ai thành tựu được cái này thì tất nhiên nhập thất chừng một tuần lễ là vào Sơ thiền rất nhanh. Đến đây thì qua kinh nghiệm thực tu thực thấy của chúng tôi thì cũng xin trình bày cho đại chúng biết. Cũng như có huynh Minh Tâm cũng trải qua quá trình Tam thiền với những trạng thái này thì sẵn hôm nay mình trao đổi với nhau luôn. Vì phải tịnh khẩu mà không dám hỏi. Do đó cho nên sẵn đây mình trao đổi luôn. Rồi đồng thời cũng xin qua ý của Thầy bổn sư Viện chủ nghe qua và bổ sung thêm một số ý kiến để chúng con tu tập thêm tốt.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thầy xin nhắc cái này chút xíu. Trong cái sự kiện xảy ra, đây là cái hoàn cảnh rất tốt cho chúng ta hôm nay để chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận. Và đồng thời phải thấy rằng nó có những điều kiện thực tế trong sự tu tập. Còn Minh Tâm thì được thầy dạy tu tập theo Thầy gần ba năm nay. Cho nên mỗi bước đi của nó Thầy theo dõi, tập luyện rất kỹ lưỡng. Cho nên không đến nỗi mà lạc lầm như vậy. Vì thầy Thiện Thuận xa thầy, chỉ có cái hạ này mới về đây gặp Thầy mà thôi. Do cái sự mà nhiệt tâm tu hành, nhiệt tâm xả tâm. Rồi trong công việc mặc dù là có duyên sự chùa nhưng mà thầy cũng không quên cái pháp tu. Do vì vậy mà đến đây nó quá nhanh chóng mà thầy không chuẩn bị được cái tư thế để làm chủ mọi mặt.
Còn Minh Tâm thì Thầy đã chuẩn bị cho nó mọi mặt. Từ bước đầu vào đây nó ngồi một giờ rưỡi hai giờ, Thầy dẹp xuống còn có mười lăm phút mà thôi. Nghĩa là Thầy chia làm bốn đoạn mười lăm phút như vậy cho nó tu tập. Từ cái ngồi kiết già cho đến cái ngồi ghế thường, cho đến cái đi kinh hành, rồi cho đến khi đứng. Tu trong bốn oai nghi. Do từng cái hướng dẫn cặn kẽ, kỹ lưỡng cho nên nó không xảy ra. Từ đó cho đến giờ thì theo Thầy thấy nó tịnh chỉ được các hành rất tốt và rất yên ổn mà không bị lạc lầm. Vì luôn luôn Thầy đã dạy cái Pháp hướng rất kỹ cho nó. Do như vậy mà Thầy biết rằng Minh Tâm sẽ đi vào con đường thiền này từng cái bước của nó rất là rõ ràng.
Sơ thiền như thế nào chắc chắn nó cũng nhận biết rõ, mà Nhị thiền như thế nào nó cũng biết rất rõ. Cơ thể nó thay đổi không phải như thầy Thiện Thuận. Bùng một cái dùng Pháp hướng cái cơ thể rối loạn liền tức khắc. Còn cơ thể nó từng ngày từng giờ nhẹ nhàng thay đổi. với sự thay đổi nó thường trình bày cho Thầy nghe: dường như thân con thay đổi bằng cách này, bằng cách khác, bằng cách nọ, nó trình bày cho Thầy nghe. Nhưng mà nó nhẹ nhàng, êm ái, không bị rối loạn. Còn thay đổi một cách đột ngột như thầy Thiện Thuận đó là cái rối loạn lớn và ma sẽ nhập đó. Cho nên chúng ta tu hành phải có bậc minh sư thì không bao giờ có bị ngũ ấm ma. Tại sao vậy? Tại vì bậc minh sư họ biết được cái chỗ nào, tu như thế nào, làm như thế nào. Vì vậy mà cái người đệ tử của họ rất vững vàng, không có lạc. Cũng như bây giờ nói là một điều, nhưng quý thầy thử nghĩ khi quý thầy mà xa Thầy thì quý thầy sẽ gặp những cái khó khăn. Cũng như thầy Thiện Thuận nếu mà không có Thầy trong một đêm đó. Cũng như không có sự hướng dẫn của Thầy chắc chắn thì làm sao mà thầy tu tập cho được như ngày hôm nay, phải không?
Vì vậy nó còn những cái khó khăn mà không phải mọi người đều giống nhau hết. Bởi vì đức Phật nói chúng ta có ba cái tướng: Hành tướng, Nhân tướng và Đặc tướng. Mà trong cái Hành tướng của mỗi người, mỗi hơi thở người thì thở dài, người thì thở ngắn ở mực bình thường của nó. Mà chưa phải là những hơi thở khác. Do đó trong Nhân tướng thì có mặt ai giống ai đâu. Người lùn, kẻ cao, người thấp. Đó là cái đặc tướng của nó. Cho nên tùy theo mỗi đặc tướng mà tu tập. Do cái người thiện hữu tri thức người ta mới nắm được cái đặc tướng của mỗi người, mà người ta giúp đỡ cho cái người tu vững vàng. Nó không có bị lệch lạc làm cho con đường tu càng ngày càng tiến, mỗi ngày mỗi thấy sự tiến bộ.
Cho nên hôm nay chúng ta là những người đủ duyên nhất, đã học được thực tế trên con đường tu tập thiền định. Không có còn cái chỗ nào mà hơn cái chỗ này hết. Nghĩa là làm chủ được cái sống chết, làm chủ được cái cơ quan vi tế nhất của loài người- là cái thân của chúng ta chứ còn gì nữa. Không có máy móc nào trên thế gian này mà bằng cái cơ quan, cơ thể của chúng ta. Mà hôm nay chúng ta làm chủ được nó, làm chủ cả trí óc của chúng ta nữa. Để rồi tới đây quý thầy sẽ nhập Tứ thiền và quý thầy sẽ biết cái sự vi diệu của nó vô cùng. Thầy không phải là quảng cáo cái thần thông đó đâu mà tại vì cái bộ máy cơ thể của con người rất là vi diệu. Khi mà chúng ta nắm làm chủ được nó, chúng ta điều khiển được. Cho nên càng đi tới chúng ta càng thấy con đường của đạo Phật thật tuyệt vời, nó thật là tối thượng. Tại sao? Tại vì trong tâm chúng ta không tham muốn một cái gì hết. Xả ly tất cả chỉ còn ba y một bát. Mà chúng ta sử dụng toàn bộ vì vậy mà chúng ta không hề dính mắc. Trái lại nếu mà tâm chúng ta còn chứa tham, ham muốn ở trong đó mà nó điều khiển được cái con người của chúng ta vậy thì thế gian này, trên hành tinh này chắc là con người bị hoại diệt. Nghĩa là cái tâm tham vọng của con người chúng ta điều khiển được con người, cái tâm tham vọng của chúng ta còn mà chúng ta điều khiển được con người như vậy thì Thầy nói thế gian này sẽ bị hoại diệt. Người ta sẽ dùng nó mà người ta làm việc gì vĩ đại. Như các nhà khoa học đã tưởng tượng những con người vĩ đại, thôn tín toàn cầu. Cái tâm tham vọng của chúng ta lớn lắm. Nhưng vì đạo Phật thấy được cái điều này nên dạy chúng ta xả ly cái tâm này để rồi thực hiện cái vi diệu này. Cho nên nó chỉ vi diệu ở cái chỗ làm chủ được cái sự đau khổ của con người, chớ không phải thôn tính toàn cầu để làm bá chủ. Chúng ta có thể, nếu mà người mà điều khiển được thân của chúng ta, có thể chúng ta thôn tính cả vũ trụ chứ chưa nói là toàn cầu.
Thầy nói tới đây thì tới chừng đó các thầy sẽ chứng nghiệm, sẽ thấy điều đó. Cho nên đức Phật Thích Ca nói: “Những gì Ta chứng như rừng lá cây, nhưng Ta dạy mọi người chỉ như nắm lá cây trong bàn tay”. Thật đúng như vậy. Khi thực hiện tới đây Thầy thấy lời nói đó không dối người.
Bây giờ thì qua cái sự trình bày Thầy biết rằng Thầy dạy Minh Tông rất cẩn thận và kỹ lưỡng, cho nên hàng ngày có những chuyện gì thì ngay đó nó đến thất Thầy, thầy trò bàn bạc nhau rút tỉa từng kinh nghiệm cho nên trên bước đường nó không sai. Nhưng có lúc nó cũng nông nổi là: Thầy dạy đừng có ngồi nhiều nhưng nó lại muốn ngồi nhiều để xem coi, do đó có lúc nó ngồi 5, 6 tiếng đồng hồ làm cho chân nó bị đau, bị khổ sở. Nhưng Thầy thấy đây cũng là sự thử thách mà thôi để rồi trên bước đường đi chúng ta mới có những kinh nghiệm. Chớ hầu như là mọi người đều đang nghĩ rằng mình phải ngồi từ 3 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng, 1 ngày, 2 ngày. Nhưng Thầy đã từng dạy các thầy chỉ cần trong một phút mà nhập định được thì nó được chứ ngồi nhiều nó chẳng ra gì.
Nhưng điều kiện tiên quyết đầu tiên mà Thầy muốn dạy quý thầy về Định niệm hơi thở hoặc Bốn thiền này thì Thầy đã nhắc nhở quý thầy rất nhiều là phải ổn định hơi thở bình thường, để chừng đó mà chúng ta tịnh chỉ các hành, hơi thở ngưng thì phải trở về mực bình thường của nó. Đó thì qua kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận mà nhắc trở lại thì quý thầy thấy cái chỗ Thầy dạy căn bản, rất căn bản. Nhưng hầu hết Thầy nói các thầy không nghe mà cứ nghĩ rằng phải chậm nhẹ hoặc là hơi thở thế này thế khác để cho nó vào định cho nó hết vọng tưởng. Thầy đâu cần quý thầy loại hết vọng tưởng, mà Thầy chỉ cần tu tập đúng, ổn định đúng hơi thở để rồi có chỗ quý thầy trở về. Chứ nếu quý thầy mà tập không đúng cái hơi thở bình thường thì quý thầy trở về không được.
Cho nên lúc bấy giờ thầy Thiện Thuận nói, Thầy biết là thầy Thiện Thuận quên mất hơi thở của mình, bị rối loạn rồi làm sao nắm được nó nữa. Cho nên còn có cách giải quyết là để tự nó nó phải trở về bình thường thì phải dùng ĐỊNH VÔ LẬU mà thôi. Bởi vì lúc bấy giờ hễ chúng ta cần đặt tâm chỗ nào là ngay đó nó đã thu nhiếp lại rồi, thì nó khác bình thường rồi, không thể nào mà… Bởi vì thu nhiếp thì hơi thở nó phải chậm, nó phải nhẹ ra rồi, không thể nào mà bình thường được. Mà bây giờ chỉ còn giữ cái ý của mình để mà làm việc, để cho cơ thể nó tự quân bình lại bình thường, nó mới lấy lại cái hơi thở bình thường.
Còn nếu chúng ta tập nhuần nhã trong đó thì chúng ta biết hơi thở bình thường của chúng ta ở mức nào rồi. Do vì vậy mà khi đó, gặp trường hợp đó chúng ta cần sử dụng hơi thở bình thường và Pháp hướng chúng ta nhắc vài ba lần thì chúng ta trở lại bình thường, và trở về bình thường thì nó thư giãn toàn bộ thân của chúng ta không còn rối loạn nữa. Bởi vì chính bây giờ chúng ta sống hơi thở bình thường thì cơ thể chúng ta đâu có rối loạn. Cho nên khi mà chúng ta nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta đã nắm được, còn không nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta như chỉ mành treo chuông trong bước đi tu tập thiền định. Cho nên Thầy dạy các thầy tu tập kỹ điều này nhưng mà các thầy thì quá vội vàng mà quên cái mạng sống chúng ta là ở nơi hơi thở bình thường chứ không phải ở trong định đâu.
Đó thì hôm nay Thầy nhắc vậy còn bây giờ thì Minh Tông có ý gì để góp với quý thầy, để quý thầy thấy sự tu tập của mình thêm những cái kinh nghiệm tốt.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Thầy.
Kính bạch toàn thể đại chúng.
Tại vì con cũng không được chuẩn bị để có ý kiến cho nên được sự cho phép của Thầy và có sự yêu cầu của thầy Thiện Thuận, con cũng xin góp một vài ý kiến.
Cái điều thứ nhất, bây giờ con nhớ cái gì con nói cái đó, cái điều thứ nhất là nói về vấn đề xả bỏ. Trước khi để mà nhập thất tu hành thì chúng tôi cũng đã suốt gần sáu bảy năm theo Thầy để mà tu tập tại nhà, trong thời gian tu tập tại nhà chúng tôi cũng đã tu tập cái Định chánh niệm tỉnh giác rất là lâu và nhất là hồi trước chúng tôi cũng biết cái pháp tu Chánh niệm tỉnh giác của thầy Nhất Hạnh, cho nên chúng tôi cũng đã tu cái Định chánh niệm tỉnh giác rất là lâu.
Cái thứ 2, trước khi mà quyết định lìa bỏ gia đình mà đi vào tu tập, chúng tôi không phải là người mặc kệ cho gia đình sống chết thế nào thì mặc kệ đâu, chúng tôi phải tới ba bốn năm chuẩn bị. Chuẩn bị bằng cách nào? Bằng cách là chúng tôi tại nhà có cái sự sản xuất về cái ngành mình thích, chúng tôi bây giờ là ngồi yên không có hoạt động, giao cái sự hoạt động đó lại cho người bạn đời của tôi và đứa con trai. Chúng tôi chỉ theo dõi cứ như vậy trong vòng gần 3 năm để xem coi thử là cái sự hoạt động đó nó ra làm sao, khi mà chúng tôi thấy là những người mà có thể thay thế thì lúc đó chúng tôi mới quyết định từ bỏ. Đó là cái sự chuẩn bị và đồng thời cũng chuẩn bị cái tư tưởng cho những người nhà, cho con tôi, con tôi thì tới 5 đứa đang đi học và cái người bạn đời của chúng tôi nữa, chúng tôi cũng chuẩn bị cái tư tưởng, coi thử họ có đồng ý không thì chúng tôi cũng đem ra bàn bạc trong gia đình, thì mọi người đều đồng ý cho tôi được nhập thất.
Họ cũng cứ nghĩ rằng chúng tôi nhập thất trong 3 năm thôi, sau 3 năm là chúng tôi trở về lại, nhưng khi bây giờ chúng tôi đã vào theo Thầy mà tu tập thì chúng tôi thấy rằng là chuyện phá bỏ thì không thể nào mà trở lại đời sống mà của người cư sĩ nữa, vì khi mà đã tu tập và trải qua được cái đời sống độc cư, rồi đời sống của một kẻ xuất gia. Ví dụ như bây giờ tôi trở lại trong gia đình thì chúng tôi không thể nào mà ăn trở lại ngày 3 bữa được, bây giờ ăn một bữa thôi mà nếu ăn nhiều đã cảm thấy trong thân nó mệt mỏi rồi. Bây giờ ngủ chẳng hạn, bây giờ nếu tôi nằm ngủ quá 2 tiếng nếu không thức dậy thì nó rơi vào mộng, muốn cho nó không rơi vào mộng thì chúng ta ngủ đủ cái mức độ tới thức của nó thôi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì nó đâu có mộng được. Nhân cái chỗ này để nói đến cái chỗ mà làm chủ cái ngủ, nếu mà chúng ta làm chủ được cái ngủ thì đương nhiên là chúng ta đã vượt qua được cái tưởng, vì chúng ta tỉnh rồi thì ngủ đủ thức của nó mà chúng ta tỉnh dậy thì mộng nó không thể xâm nhập vô được. Cũng như khi chúng ta ngồi thiền mà nếu như ý thức chúng ta luôn luôn tỉnh thì không thể nào mà có cái tưởng nó xen vô được. Đó là chúng tôi xin nói đến cái chuyện xả bỏ.
Bây giờ nói đến cái chỗ mà nhập các định. chúng tôi thì không tu tập nhanh như thầy Thiện Thuận mà chúng tôi đi từ từ, bây giờ nếu mà nói qua cái kinh nghiệm tu tập thì nó mất thì giờ nhiều của quý Thầy lắm, cho nên chúng tôi chỉ nói đơn sơ thôi. Ví dụ như bây giờ vô Sơ thiền, chúng tôi thường nghe theo lời Thầy giảng dạy cũng như theo trong kinh điển Phật thì Sơ thiền thì chúng tôi sử dụng cái hơi thở mà không có Tầm nhưng mà còn Tứ. Thở bình thường không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý.
Rồi tới Nhị thiền, tức là chúng tôi chỉ thở nhẹ lại một chút, điều khiển cái hơi thở cho nó nhẹ lại một chút mà không có tác ý nữa, tức là không Tầm mà không Tứ thì nó là vô Nhị thiền. Đơn sơ vậy thôi. Sơ thiền là mình cứ thở bình thường, mà không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý. Lâu lâu mình nhắc nó cái, tức là mình tác ý, mình tác ý cho nó đi tiếp tục, chứ nếu mình không tác ý thì là nếu mà cái người mới tu thì vọng tưởng nó xen vô. Cho nên mình tác ý thì là nó vọng tưởng nó hết xen vô thì tức là mình ở trong Sơ thiền, thanh thản mà đi, thì đó là Sơ thiền. Còn bước vô Nhị thiền thì chúng ta ngưng cái tác ý, thở nhẹ, không Tầm, tức là không có vọng tưởng, mà không Tứ tức là không tác ý mà nhẹ lại thì là nó vô Nhị thiền.
Vô Tam thiền thì chúng tôi khác với thầy Thiện Thuận là tu tập rất là lâu. Tại bước vô Tam thiền, trước khi mà chúng tôi bước vô Tam thiền thì tôi là người không nghe lời Thầy cho nên là ngồi nhiều quá. Tôi ngồi cho đến khi tôi tăng lên đến 4 giờ, thì bắt đầu cái chân nó bị nứt ra thành vết thương. Mà bây giờ các Thầy cứ tưởng tưởng cái vết thương của chúng tôi chỉ là một ghẻ nhỏ ở bàn chân thôi, ở cái chỗ mà chéo cái chân lên đó, thì cái chỗ đó là cái chỗ mà điểm căng thẳng nhất chéo chân lên thì nó trở thành cái vết thương, chúng tôi ngồi trên cái vết thương đó có cái máu nó chảy ra thì suốt như vậy cho đến bây giờ vẫn chưa có lành, sắp lành rồi, như vậy là gần 1 năm.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét