Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 37

BĂNG SỐ 37: GIỚI BỔN PATIMOKKHA ( TIẾP)

Phật ngăn không cho và buộc phải biệt chúng thực, Đề Bà Đạt Đa nghĩ rằng: Ta có thể phá hòa hợp tăng, thân ta sau khi chết sẽ được tiếng khen rằng: Cù Đàm có đại thần thông trí tuệ mà Đề Bà Đạt Đa phá được, liền cùng bốn tỳ kheo làm bạn, lấy 5 pháp dạy các tỳ kheo:

1. Suốt đời đi khất thực
2. Mặc y phấn tảo
3. Ngồi dưới đất trống
4. Chẳng dùng sanh tô và muối
5. Không ăn thịt cá

Chính cái chỗ này á, mà người ta mới lấy cái chỗ này mà người ta nói Phật đây. Ông Đề Bà Đạt Đa đặt ra 5 cái pháp, 5 cái giới: Nghĩa là suốt đời đi xin ăn, mặc y rách rưới, ngồi dưới đất chớ không có ngồi trên ghế. Chẳng dùng sanh tô tức là sữa này kia nọ mà không dùng muối. Ở đây, cái chỗ này thật sự ra nếu mà ông Đề Bà Đạt Đa mà ăn uống mà không dùng muối thì Thầy nghĩ rằng một tháng cái mình của ông chắc là nó thành một cái bệnh không có thể tưởng tượng được. Mà ở đây ông đặt kiểu này là 5 cái ông này mà đi theo ông chắc là cũng bệnh luôn hết á.

Rồi ông đặt cái hơn nữa là ở chỗ này mà hầu hết là bên Nam Tông người ta lấy cái chỗ này mà người ta nói đây. Là cái thứ 5, là ông đặt không có ăn thịt cá. Nghĩa là hoàn toàn không ăn thịt cá. Tức là Phật có ăn thịt cá. Đó là cái chỗ mà người ta có thể xét thấy được cái chỗ sai chỗ đúng, mà cái chỗ này có đúng là ông Đề Bà Đạt Đa đặt ra hay người là sau đặt đây?

Đó là một cái câu hỏi để chúng ta thấy được. Vì Đức Phật dạy ở trong cái bài kinh mà Kinh Trung Bộ á, bài kinh Jivaka đó, thì Đức Phật nói: khi một vị Tỳ kheo mà thọ thực thì tâm từ bi của họ biến mãn khắp cùng tất cả mười phương, tất cả chúng sanh, cho nên những cái thực phẩm mà ăn vào mà thấy có thịt thì không ăn. Mà nghe ở trong đó, mặc dù là trên cái món ăn không thấy thịt, nhưng mà nghe người ta nói thịt nó bằm ra thì không ăn. Mà nghe mà nghi ở trong đó có thịt nghĩa là người ta không thấy, mình không thấy, không nghe mà rồi có cái khởi nghi: Cái bánh này nó cuốn lá như vậy chứ ở trong nó làm cái nhân bằng thịt á, thì nghi nó như vậy. Nghĩa là bây giờ Đức Phật cầm cái bánh đó lên mà nghe cái mùi mỡ, nghe mùi bò, nghe mùi heo, nghe mùi cá, nghe mùi tôm thì tức là Đức Phật đã nghi ở trong đó có thịt chúng sanh. Cho nên ăn mà không nghe, không thấy, không nghi  thì mới ăn; mà ăn mà thấy, mà nghe, mà nghi thì không ăn. Do đó khi cầm lên mà nghe cái mùi mỡ, nghe cái mùi tanh cá thì Đức Phật biết đó là có thịt chúng sanh cho nên Đức Phật không có ăn là vì cái tâm từ bi. Thì như vậy là Đức Phật bao giờ mà ăn thịt chúng sanh? Không bao giờ mà ăn thịt chúng sanh hết.

Ăn thịt chúng sanh mà cái tâm từ bi làm sao cho phép Đức Phật ăn được. Thế mà ở đây cái câu thứ 5 này, cái giới thứ 5 của Đề Bà Đạt Đa đặt ra để muốn hơn Phật, vì vậy mà người ta nghĩ rằng trong thời Đức Phật có ăn thịt chúng sanh.

Cho nên ông Đề Bà Đạt Đa muốn hơn Phật mới đặt cái câu này ra. Do lấy cái lý do này mà người ta nói Phật còn ăn thịt chúng sanh. Thì người ta không hiểu được cái kinh giới mà ở trong cái kinh Nguyên Thủy mà người ta đã dịch ra bài kinh Thầy thấy rất là sâu sắc, ăn chay mà trên ăn chay. Còn Đề Bà Đạt Đa chỉ cấm thôi, không ăn thịt cá chúng sanh nhưng mà ăn lén sao?. Còn cái này người ta ăn ở trên cái tâm từ thì người ta đâu có ăn lén. Còn ông này ông cấm, ờ bây giờ mình là năm người này, mình hợp nhau này, mình không ăn thịt chúng sanh này. Nhưng mà mình thèm thì mình phải ăn thôi.

Còn Đức Phật dạy chúng ta ăn tất cả những thực phẩm, tâm từ bi chúng ta phải thể hiện trên cái đó thì làm gì chúng ta ăn. Phải hông? cái nào cao hơn, cái nào thấp hơn?

Ông Đề Bà Đạt Đa chỉ đặt ra một cái giới là không ăn thịt cá chúng sanh thì như vậy là quá thấp đâu có cao siêu gì! đâu có bằng Phật được. Thế mà người ta nói Phật ăn thịt cá chúng sinh, cho nên ông Đề Bà Đạt Đa muốn đặt 5 cái giới này cho hơn lên nữa để mà không ăn thịt chúng sanh, Rồi đặt cái giới mà Thầy thấy cái giới hết sức vô lý là chẳng dùng sanh tô và muối. Nếu mà ông ăn lạt không riết chắc là ông thành bò, ông không có muối chút nào hết thì chắc ông cũng chết luôn chứ đừng nói, con người ta mà không muối làm sao mà chịu nổi. Cho nên dù là đồng bào ở trong rừng núi đi nữa họ coi cái hạt muối rất là quý, chúng ta cũng nên biết rằng ăn lạt đâu có phải…, ăn nhiều quá, mặn quá thì cũng không tốt, mà ăn ít, không có muối thì cũng không tốt. Cho nên do vì vậy mà chúng ta biết rằng con người là cái thân của chúng ta là cái nơi mà chúng ta phải có những chất để cho nó đủ để mà nó nuôi dưỡng thì muối cũng là một cái phần rất cần thiết cho thân. Thế mà đặt cái giới này ra thì chắc chắn là tiêu mấy ông tỳ kheo này hết, không có còn mà sống mà kéo dài cái thời gian để mà thực hiện những cái giới này. Cho nên đó là những cái giới đặt ra nó vô lý, nó không có cái lý, làm sao mà con người sống được.

“Làm cho các tỳ kheo tân học vô trí tin ưa. Các tỳ kheo nghe thế đến bạch Phật. Phật nói rằng phá hòa hợp tăng phạm tội rất nặng, ở trong địa ngục chịu khổ một kiếp, không thể cứu được. Phật liền hợp chúng lại quở trách ông Đề Bà Đạt Đa. Rồi bảo tăng làm phép tha giáng quở căn Bạch Tứ Yết Ma rồi kiết giới này.”

Như thầy nói Bạch Tứ Yết Ma đó, như thầy hiểu đó là nêu lên rồi hỏi ý kiến của các ngài. Tức là chúng ta đề ra một cái ý kiến, rồi hỏi cái ý kiến đó tất cả mọi người đều chấp nhận cái ý kiến đó thì coi như pháp Yết Ma đó thành tựu. Trong đó 10 vị thầy mà có một vị thầy không chấp nhận, tức là không có ý kiến thì coi như là nêu lên cái điều kiện đó thì cái điều kiện không thành Yết Ma. Còn nếu mà nêu lên mà 10 người đều chấp nhận hết, tán thành hết thì đó là thành Yết Ma. Thì ở đây chúng ta thấy đạo Phật rất là giữ cái tự do, cái bình đẳng ở trong cái tư tưởng, cái tinh thần tự do rất là tự do. Cho nên muốn làm một cái điều gì đều phải hỏi qua ý kiến cho nên gọi là Bạch Tứ Yết Ma.

Phá tăng nếu một cho đến bảy tỳ kheo chẳng hòa hợp cũng không phải là phá. Nếu chẳng hỏi trên Thượng tọa mà làm tăng sự ấy là chẳng hòa hợp cũng chẳng phải phá tăng nếu chẳng cùng đồng đều ăn ở chỗ khác khi ăn ngồi chỗ khác tranh cãi nhau chẳng gọi là phá. Cốt ở trong giới tám Tỳ kheo trở lên chia làm hai bộ riêng làm tăng sự mới gọi là phá tăng. Người làm chủ phá tăng bị một kiếp đọa địa ngục. Ở đây, đức Phật ở trong giới bổn này nói đức Phật có chia làm từ một đến bảy vị Tỳ kheo mà không hòa hợp thì chưa gọi là phá tăng. Mà chỉ tám vị trở lên thì mới gọi là phá tăng. Thì chúng ta thấy cái số mà phải đông đủ tám người thì mới gọi là phá tăng. Chín người, mười người trở lên mà không có hòa hợp nhau thi gọi là phá tăng đoàn. Còn từ một đến bảy người mà không hòa hợp thì chưa gọi là phá tăng đoàn. Mà cái tội mà phá tăng đoàn thì cái tội đó coi như là đọa địa ngục một kiếp chứ còn không có xử không có gì được hết. Khuyên can mà không nghe mà cứ mải phá tăng đoàn á thì làm cho cái tăng đoàn nó không có hòa hợp được thì như vậy thì coi như đương nhiên bị đọa địa ngục chớ không còn có một cái giới nào mà có thể ghép cái người đó vào cái giới luật được hết mà chỉ còn đợi một kiếp đọa địa ngục mà thôi.

11. Giới lập bè đảng giúp phá tăng.

Vì sao Phật kiết giới này? vì Đề Bà Đạt Đa chủ mưu phá tăng, một số Tỳ kheo thuận tùng bênh vực các Tỳ kheo này là trong nhóm sáu người nhân đó Phật họp các Tỳ kheo. Bạch Tứ Yết Ma kiết giới này và khuyên các Tỳ kheo can gián họ. Giới này dạy trong lúc Tăng như pháp tác ý Tứ Yết Ma tha giáng đối với Tỳ kheo phá tăng, Tỳ kheo nào lên tiếng bênh vực bất kể là đồng hay là bất đồng quan điểm với kẻ phá tăng. Sự lên tiếng này tức là hành vi cản trở Yết Ma của chư Tăng. Đấy là xác định yếu tố trợ bạn của Tỳ kheo ấy phạm tăng già Bà Thi Sa. Đối với Tỳ kheo trợ bạn, chư Tăng có nhiệm vụ can gián hoặc cử một người có uy tín có khả năng. Cử hai hoặc ba người nếu cũng bất thành, Tăng sẽ hợp tác pháp Yêt Ma tha giáng thứ lớp như lần đầu khuyến cáo nếu Tỳ kheo trợ bạn không hối cải bấy giờ tiếp tác bạch ba lần nữa. Nghĩa là liên tục hợp chúng liên tục làm cho cái sự mà hòa hợp tăng cho được mà không được thì coi như là những cái người mà phá hòa hợp đó đều là phạm tội đọa địa ngục.

12. Giới làm hạnh xấu nhơ, nhà người bị đuổi.

Ở đây Thầy xin đọc lại một cái phần mà làm các pháp Yết Ma đây. Ở đây là phải ba lần tác bạch tức là nêu lên một cái ý để cho chư Tăng thông suốt, để quý thầy thông cái chỗ mà phá tãng ðoàn vì phá tăng đoàn rất là quan trọng với cái sự tu tập của Phật giáo. Đại đức Tăng xin lắng nghe Tỳ kheo này (tên gì đó) là trợ bạn của Tỳ kheo (nào đó) thuận tùy mà nói như vậy: Chúng tôi chấp nhận Tăng, nay vị Tỳ kheo (tên gì đó) trợ bạn của Tỳ Kheo mà tác pháp tha giáng cho bỏ sự ấy. Các trưởng lão nào bằng lòng Tăng nay vị Tỳ kheo mà trợ bạn ấy tác pháp tha giáng cho bỏ sự ấy thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Đây là pháp Yết Ma thứ nhất và thứ hai, thứ ba, thứ tư…. Nếu tất cả mọi người đều im lặng hết thì đó là người ta chấp nhận, còn người ta có người nào mà nói lên tức là người ta không có đồng ý thì người ta sẽ nói lên, còn nếu mà làm thinh hết là người ta chấp nhận. Lần chót Tăng đã bằng lòng vị Tỳ kheo đó là trợ bạn tác pháp tha giáng cho sự bỏ sự ấy thì im lặng tôi xin ghi nhận như vậy. Nghĩa là tất cả im lặng là bắt đầu từ đó thì cái vị Tỳ kheo mà trợ giúp cho cái người mà bạn phá tăng đoàn đó họ sẽ chừa bỏ, họ sẽ không làm nữa. Tức là hợp chúng như vậy để mà can ngăn khuyên những người khác đừng có trợ giúp những người phá tăng đoàn cũng như đừng có trợ giúp Đề Bà Đạt Đa vậy. Do đó một cái số người được cái những cái pháp Yết Ma họ trở về những cái người tu tốt không có trợ giúp cho Đề Bà Đạt Đa phá tăng nữa. Đó là cái phần trong cái giới thứ mười một.

Cái giới thứ mười hai: Giới làm hạnh xấu nhơ nhà người bị đuổi. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa Phật ở nước Xá Vệ khi bấy giờ ở trong ấp Kỳ Liên có hai Tỳ kheo Mã Sư và Mãng Túc làm hạnh phi pháp: tự trồng hoa, tự hái hoa, tự dung tứ, tự hái hoa rồi sau thành tàn mang đem cho người cùng với phụ nữ đồng ngồi chung một giường cho đến ca múa, hát xướng làm trò giễu cợt. Khi đó có các Tỳ kheo đến ấp Kỳ Liên khất thực, y phục chỉnh tề chậm rãi đi tới, không trông hai bên. Các cư sĩ trông thấy trái lại cho là phi pháp không cúng dường, các thực phẩm ăn uống. Các thầy Tỳ kheo hỏi ra mới biết có hai Tỳ kheo làm hạnh nhơ xấu nhà tín thí liền đem bạch Phật.

Nghĩa là lúc bấy giờ có hai Tỳ kheo là Mã Sư và Mãng Túc tự trồng hoa, bông kiểng rồi cắt hoa xâu lại thành tràng rồi đem biếu cho mấy người phụ nữ, rồi ngồi chung với mấy người phụ nữ ca hát xướng ở đó tạo những cái hạnh đó cho nên những người cư sĩ ở đó nói rằng những người này họ là những người tốt là biết trồng hoa, biết sản xuất cái này cái kia đem lại những cái sự lợi ích cho mọi người, biết làm tốt cho người này người kia, biết làm cho nhà họ vui vẻ ca hát trò giễu làm cho họ thấy cũng thích mấy ông thầy này ca hát cũng hay, ngâm thơ cũng tuyệt. Do đó thì những cái số người cư sĩ ở trong cái xã đó, cái làng đó họ thích hai ông thầy này dữ lắm. Họ nói hai ông thầy thiệt là con người lịch thiệp; tu hành mà không có lìa cái thế gian, luôn luôn lúc nào cũng nhập thế gian để mà độ đó. Cho nên họ rất là thích. Trái lại có một cái số các Tỳ kheo khác đến đó đi thì không dám ngó qua ngó lại, đi thì nhìn xuống đất. Mấy vị cư sĩ ở cái xã này, cái ấp này thấy mấy ông thầy này làm cái gì quá là con cù lần; đi gì mà kỳ cục không dám ngó ai hết. Còn ở đây mình có mấy vị Tỳ kheo biết vui vẻ này kia rồi ca hát làm vui làng vui xóm còn mấy ông thầy này làm gì mà lặng thinh, đi mà không nói chuyện gì hết. Do đó họ chẳng có đem đồ cúng dường hết mấy ông này không có đúng cái hạnh. Hai ông Tỳ kheo ở đây người ta làm đúng hạnh còn mấy ông này làm như là mình gì đó  thành ra do đó họ không cúng dường gì hết. Vậy mà sau đó mấy vị Tỳ kheo này đi về mới trình lại với đức Phật cái trường hợp nó xảy ra như vậy. Vì vậy đức Phật mới sai ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên đến làm Yết Ma phu tuẩn xua đuổi hai vị tôn giả này. Lời Phật dạy Tăng rồi vì hai vị Tỳ kheo kia làm phép cử tội định tập Bạch Tứ Yết Ma. Hai vị Tỳ kheo kia nói rằng: chúng tôi có yêu, có giận, có sợ, có si lại có Tỳ kheo khác đồng tội có người bị đuổi có người không bị đuổi mà sao riêng đuổi chúng tôi? Hai tôn giả trở về đem việc ấy bạch Phật, Phật khiến cho Tăng cùng hai vị Tỳ kheo kia làm phép tha giáng Bạch Tứ Yết Ma mà kết giới này làm nhơ nhà người là sao? Nhà cư sĩ trước có lòng tin trọng kính, nhân vì hai Tỳ kheo lấy hoa, vật tặng và bạch y thời làm phá tăng tốt bình đẳng người trước với người được vật thời họ vui mừng yêu kính, người không được vật dù cho gặp Thánh hiền họ cũng không yêu kính. Như thế là mất cái phúc lợi sâu dày của người trước mà trái ngược lại trong Phật pháp. Phàm là người tại gia nên cúng dường cho những người xuất gia mà trái lại người xuất gia lại cúng dường cho người bạch y. Nghĩa là hai vị Tỳ kheo này luôn luôn lao động làm những công việc để rồi đem cho những người Cư sĩ làm cho những người Cư sĩ tưởng đây là đúng, đây là rất đúng Phật pháp nhưng mà không ngờ đó là cái sai. Cũng như bây giờ chúng ta là những người Tu sĩ chưa có làm được đồng xu nào hết mà cứ rủ nhau đi bố thí thì cái điều đó là cái điều rất sai. Bởi vì chúng ta còn xin ăn mà làm sao chúng ta có tiền đâu. Thế mà hiện bây giờ là hầu hết quý thầy đang làm cái việc từ thiện bố thí đầu này đầu kia. Chỉ có nước là kêu gọi người ta chứ mình có làm đồng tiền nào đâu. Thế mà cái danh thì được ai? Được ai nhận là cái danh đó? Ông thầy này làm việc từ thiện, ông thầy kia làm việc từ thiện. Chứ có bao giờ ai nói người cư sĩ?

Cho nên vì vậy đó mà nhiều khi chúng ta muốn được lòng người Cư sĩ cho nên người Cư sĩ muốn cái gì thì chúng ta làm theo cái nấy để cho được lòng người Cư sĩ. Hầu hết là các Chùa chúng ta hay vì cái người Cư sĩ đó lắm. Cho nên mình...thí dụ Thầy bây giờ Thầy là cái người Tu sĩ này, Thầy đến Thầy đến Thầy xin vô cái tu viện đó rất là khó nhưng mà Thầy biết được, ờ bây giờ có cái ông Cư sĩ đó ông thường hay đến cái Chùa đó ông quen với cái ông thầy trụ trì đó, chỉ cần nhờ cái ông Cư sĩ đó ông đến nói thì Thầy được ở liền à. Cho nên họ làm vừa lòng với cái người Cư sĩ đó. Thậm chí như bây giờ cái người Cư sĩ đó họ tu hành chẳng ra gì hết à mà họ muốn làm Tỳ kheo đi nữa thì họ chỉ nói với ông Thầy đó ông liền ông cho vô thọ giới Tỳ kheo liền tức khắc khỏi cần đợi một tháng, hai tháng, ba tháng, một năm gì hết. Chỉ cần cái vị Cư sĩ đó đã từng cúng dường nhiều tiền nhiều bạc thì cái ông thầy ở đó ông cũng làm vừa lòng vị Cư sĩ đó. Do vì vậy mà làm lệch lạc Phật Pháp.

Ở đây cái hình thức này, đây là Phật nói hai vị Tu sĩ này họ chỉ trồng hoa họ biếu tặng cho những cái nhà người Cư sĩ thôi mà đã làm cho những người Cư sĩ đó thích thú, hết sức thích thú. Cũng như là bây giờ chúng ta thấy những cái chuyện mê tín mà chúng ta vẫn thấy nhan nhản ở trong các Chùa là chúng ta hiện giờ người Cư sĩ họ mất cha mất mẹ họ đến họ rước mình đến tụng kinh rồi mình bày ra họ làm trai tăng cúng dường thế này, thế nọ, thế kia đủ thứ, rồi bắt đầu bây giờ có cái sự làm như vậy thì có lợi ích cho Cư sĩ gì? Bây giờ thấy ông thầy không làm, không tụng kinh, không niệm Phật gì hết. Do đó chỉ chuyên tu như chúng ta không ai muốn cúng dường hết à. Có không? Bởi vậy cho nên đó là những cái bực mà người ta tu hành người ta xả bỏ người ta xin ăn chỉ có một bữa thôi còn mấy ông này cúng bái đủ thứ, ăn uống phi thời đủ thứ hết. Nhưng mà người ta thấy có lợi ích cho Cư sĩ mà. Có giúp cho người ta ma chay rồi cầu siêu cầu an, không biết có siêu sanh tịnh độ không, không biết, nhưng miễn thấy là an ủi tinh thần họ được. Họ thấy như cha mẹ họ được sanh về cõi Phật là họ thấy thích rồi. Do vì vậy đó mà họ thấy mấy ông thầy này là hơn thấy mấy ông thầy mà tu hành. Cuối cùng thì cái chánh pháp nó đã bị mất đi mà cái tà pháp thì nó nhan nhản nó sống hiện bây giờ.

Chúng ta đã thấy từ cái sai này cho đến sai cái kia. Cho nên cái giới luật mà thấy hai ông Tỳ kheo này làm thì chúng ta đã thấy được hiện bây giờ tất cả Tỳ kheo mà chúng ta đã làm vì những cái lợi nho nhỏ của Cư sĩ mà không thấy cái lợi lớn của Phật pháp làm cho Phật pháp mất đi con đường tu hành chân chánh, mất đi cái phạm hạnh của người khác, may là chỉ có biếu hoa tặng hoa thôi mà tất cả những cái vị Tỳ kheo khác đi đến xin đó mà họ đã không muốn cho thực phẩm cho các vị khác rồi. Trong khi người ta đi tu hành người ta đi người ta phòng hộ sáu căn, người ta đi người ta ngó xuống đường, người ta không dám ngó qua lại. Còn hai vị Tu sĩ này thì ca hát xướng hát với những người nữ Cư sĩ ở trong cái xóm làng đó mà họ vẫn cho đó là đúng, còn những người tu mà chân chánh họ vẫn cho là sai. Thì đủ thấy là Phật pháp nó sẽ đi về đâu do những cái hành động sai của người tu mà đã làm cho người ta hiểu lệch Phật pháp mất rồi.

Phàm người tại gia nên cúng dường cho người xuất gia mà trái lại người xuất gia lại cúng dường cho bạch y cho Cư sĩ. Nếu lấy một chút ít vật tặng biếu cho bạch y thì dù có xây tháp bảy báu các thứ trang nghiêm cũng không bằng tịnh tọa trì giới thanh tịnh. Tức là cúng dường chân thật pháp thân Như Lai. Nếu có người cường lực phá tháp, phá Chùa, cầu của tặng cho để họ bảo vệ tháp Chùa thì nên bán quan quả ở đất tháp lấy tiền mà biếu cho họ thì được. Thì chúng ta thấy ở đây, qua những cái câu chuyện ở trong cái giới thứ mười hai này thì chúng ta thấy rõ là vì cái đúng cái sai của người tu đã làm lệch đi cái giới này là cái giới mà cái người Tu sĩ chúng ta dễ phạm lắm, không có khó phạm nhưng mà vẫn thấy đó là cái sự lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho thế gian mà người ta cứ làm chứ người ta chưa biết là cái hạnh tu giải thoát là lợi ích rất lớn, Phật pháp còn hay mất là ở cái chỗ này.

13. Giới không bỏ tánh xấu:

Vì sao Phật kiết giới này? xưa Phật ở vườn trưởng giả Mỹ Âm, nước Câu Diệm Di, khi bấy giờ tôn giả Chiên Đà tánh xấu không chịu nghe lời các tỳ kheo dạy bảo, các tỳ kheo bạch Phật, Phật cho họp chư tăng lại làm phép Yết ma ha giáng mà kết giới này. Như Lai sau khi biết được nghiệp tánh chúng sanh cần phải đủ 20 vị tăng thanh tịnh tội mới được dứt trừ, chẳng như thế thì không thoát khỏi. Như người kia bị người khác giết hại mà còn dính cuống họng nếu không thuốc hay, thầy thuốc giỏi ít ra công hiệu thì không thể sống được. Ở đây cũng như thế, nếu không y pháp và không có thanh tịnh tăng, thiếu duyên mà được thanh tịnh tăng thì không có lý ấyđược.

Nghĩa là khi mà phạm phải giới này thì cũng như cái người mà đã đứt cái họng mà cái cuống họng nó còn, do đó phải có thầy thuốc giỏi, phải có thuốc trị. Mà đây muốn nói thầy thuốc giỏi tức là những bậc tăng thanh tịnh giới luật thì người ta mới có thể cứu mình được, còn nếu mà không có các bậc tăng giới luật thanh tịnh thì cái người bị phạm giới đó khó mà cứu được cũng như là không có thầy thuốc giỏi, không có thuốc hay. Phải có chúng được thanh tịnh, phải có duyên được thanh tịnh.

Ở hoàn cảnh tu tập như bây giờ chúng ta ở đây, chúng ta có số chúng thanh tịnh giới luật nghiêm chỉnh như thế này thì những người mà phạm giới đó họ đều theo cái hướng của chúng ta thì họ sẽ sửa cái lỗi của họ được. Cho nên nếu mà họ ở trong một cái chúng mà phạm giới, ăn phi thời, ngủ phi thời, lung tung chạy theo dục lạc thế gian thì họ phạm giới đó thì kể như họ đứt họng luôn, cuống họng họ đứt luôn họ không thể nào trị được. Còn nếu những cái chúng mà phạm giới đó mà được sống ở với mình đây thì họ sẽ được cái sức thanh tịnh của chúng ta giữ gìn giới thì cứu họ, họ không có chết, họ sẽ được thanh tịnh. Bởi vì những cái lỗi lầm này mà ở gần những người mà phạm giới thì họ đâu có thấy cái lỗi đó đâu cho nên họ càng phạm nữa, do đó họ đứt họng luôn không có thể nào mà sống được. Còn nếu mà được từ 20 vị tăng thanh tịnh, như bây giờ chúng ta ở đây chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mà những người phạm giới đó họ được vào đây thì tức là họ sẽ thanh tịnh với chúng ta, họ sẽ không còn có đứt họng, không còn bị chết nữa, coi như đương nhiên là họ được thầy thuốc hay và thuốc giỏi để trị họ lành bệnh.

Bởi vì cái giới luật là như vậy, là vì chúng ta gần với những bậc mà thanh tịnh giới là chúng ta phải chịu ảnh hưởng và chúng ta sẽ tốt mà chúng ta không còn tái phạm nữa. Còn trái lại ở với những người phá giới và phạm giới thì chúng ta dù muốn dù không thì chúng ta cũng sẽ bị phạm giới mãi mà không hết được.

Ba kiết giới nhị bất định: Có hai cái giới bất định.

Một giới bất định trước. Vì sao Phật kiết giới này? Duyên do xưa Phật ở nước Xá  Vệ, khi ông Ca Lưu Đà Di chưa xuất gia, có vợ của người bạn thân tên là Trai Ưu bà di để ý tưởng nhau, khi đi khất thực đến nhà Trai Ưu bà di ở chỗ khuất, cùng giường mà ngồi nói lời phi pháp. Bà Tỳ Sá Già ( bà mẹ đó) nghe tiếng đến trông thấy thế liền bạch Phật, Phật gọi ông Ca Lưu Đà Di đến quở trách rồi họp chúng tỳ kheo lại kiết giới này. Phật cùng các tỳ kheo kiết giới này, một là ngăn sự chê bai, hai là trừ sự đấu tranh, ba là tăng trưởng pháp của Phật, tỳ kheo xuất gia là dứt hẳn việc nhơ uế trần tục để cho người đời tôn hướng kính tin. Sự thật ra cái giới bổn nó hay viết cái này Thầy thấy nó không có đúng cái pháp tu của giới. Bốn là dứt trừ việc xấu. Ở đây Thầy thấy người ta sợ chê bai, ngăn sự chê bai, sợ sự đấu tranh, sợ làm mất cái lòng tôn kính của cái người đời đối với người tu sĩ. Ở đây cái mục đích mà chúng ta đến tu không phải là vì cái sự tôn kính của phật tử đâu, mà cũng không sợ gì cái sự chê bai của ai đâu mà chính chúng ta tu hành là mục đích chúng ta là làm sao tu tập cho mình được giải thoát, chấm dứt được sự sanh tử. Mục đích của mình là như vậy, cho nên mình đâu phải đi tu vào đây để mình sợ người ta chê cười mà sợ người ta không có tôn kính mình, sợ người ta thế này sợ người ta thế khác. Mà chế giới ra như vậy là không có đúng ý nghĩa của đức Phật. Đức Phật chế giới ra là chế ra cái pháp để làm chúng ta lấy cái pháp đó mà ly dục ly bất thiện pháp, làm chúng ta được giải thoát. Cái mục đích chính giới luật là như vậy chứ không phải vì sợ người ta chê bai, sợ người ta không có tôn kính về cái tăng đoàn của mình, những tỳ kheo xuất gia, mà chỉ chúng ta phải lấy cái giới luật mà làm cái pháp để chúng ta thực hiện ly dục ly ác pháp, để chúng ta được giải thoát, từ cái giải thoát đó ai khen thì khen, ai chê là chê, mặc. Có nhiều người người ta chê mà lại là người ta chê đúng thì mình phải chấp nhận chớ sao. Mà có nhiều nguời người ta khen mà khen sai thì cái đó mình đâu có chấp nhận được. Cho nên khen với chê nó không có quan trọng đối  với người tu sĩ đạo Phật. Cho nên trên bước cái đường du hành mà đức Phật đi thì đức Phật đi trước, có 2 vị ngoại đạo, một người thầy và một người học trò. Người học trò thì khen Phật đủ điều hết, còn ông thầy thì tìm mọi cách chê Phật đủ điều hết. Thì như vậy cái khen chê đối với Phật có nhằm nhò gì đâu. Khen đúng thì nó đúng mà khen trật thì nó là phỉ báng. Cũng như có nhiều người họ khen Thầy nào là có người đi buôn bán tới đây nhờ Thầy vẽ cái bùa rồi đi buôn bán đắt, cái đó khen chứ đâu phải chê nhưng mà khen đó là khen sai. Có người thì nói Thầy thì ngồi đây này mà nói chuyện ở trên núi Linh Sơn, ở trên Hy Mã Lạp Sơn á, nói chuyện với mấy người tu sĩở trên đó, thì họ nói cái chuyện khen chứ đâu phải cái chuyện chê, nhưng mà nói cái đó cái chuyện bậy, cái chuyện không đúng, tức là khen không đúng. Khen làm cho con người ta mê tín, khen làm cho con người ta sai lệch con đường của đạo Phật. Khen Thầy kiểu đó tức là chê Thầy chứ không phải khen. Còn khen Thầy như thế này là đúng này: Thầy tu hành giữ gìn giới luật, không có giết hại chúng sinh này, không có nói láo này, không có trộm cắp này, không có tà dâm này, không có dâm dục này, đó là khen Thầy đúng, khen Thầy không hút thuốc, không uống rượu là khen Thầy đúng, khen Thầy không trang điểm, không nằm giường cao rộng lớn là đúng, khen Thầy không cất giữ tiền bạc, ăn ngày một bữa, không ăn phi thời đó là khen Thầy đúng. Mà khen trật thì không đúng, khen Thầy thần thông phép tắc, biết chuyện quá khứ vị lai, coi bói coi khoa, coi ngày tốt xấu, cúng vong trừ linh, trừ thần, khen Thầy thông suốt tất cả những bài kệ tụng niệm, cái gì cũng thông hết, thì cái đó khen Thầy trật, không đúng. Khen Thầy làm bột ngọt, khen Thầy làm bánh mì, khen Thầy làm thợ mộc, thợ hồ cái đó khen Thầy trật. Người tu sĩ đâu có làm cái chuyện như vậy, tức là khen đó là khen sai. Khen Thầy khéo tay đúc tượng làm Phật thì đó là khen bậy, khen không đúng. Đó là tất cả những cái khen chê đối với đạo Phật không có phải lúc nào mà cũng chấp nhận. Mà chê chúng ta cũng không có tranh cãi bào chữa mà khen chúng ta cũng không có vui mừng. Đức Phật đã căn dặn các đệ tử của Ngài như vậy chớ không phải mới bây giờ mà Thầy nói. Người ta chê mặc người ta, người ta khen mặc người ta, đúng sai người ta làm sao người ta biết được mình. Mình phải giữ cái tâm giải thoát của mình chứ ở đây mà chế giới luật còn ngăn sự khen chê, c̣n này kia th́ không đúng. Phật chế giới luật là nhằm đưa ra cái pháp để chúng ta tu tập ly dục ly ác pháp, để tuần tự mà chúng ta nhập các thiền, các định, làm chủ được sanh tử, chấm dứt luân hồi. Chế giới ra mà sợ người ta chê bọn mình là vầy vầy này, chế ra ngăn chặn thì quá là lấy dây mà trói, quý thầy đừng có làm cái điều đó người ta họ cười mình. Cũng như bây giờ quý thầy ăn phi thời, ở đây quý thầy ăn 1 bữa, quý thầy ra ngoài qúy thầy ăn 2,3 bữa chúng cười chê. Thầy nói quý thầy đừng có làm như vậy, làm như vậy người ta cười chê mình, phải ăn 1 bữa để cho người ta kính trọng chớ. Như vậy là sai, dạy như vậy là sai. Bây giờ Thầy nói quý thầy ăn ngày 1 bữa là quý thầy thấy được sự giải thoát của 2 bữa kia, cho nên vì vậy mà chiều quý thầy không có lo, sáng quý thầy không có lo chứ không phải là sợ người ta cười chê. Còn quý thầy bây giờ ăn ở đây 1 bữa mà quý thầy ra quán ra lều ngồi ăn 2, 3 bữa mặc quý thầy, người ta chê cười, người ta làm gì làm ăn thua gì thầy. Người ta nói nghe quý thầy ở đây tu hành nghe nói ăn ngày một bữa, qúy thầy ra ngoài ăn ngày 3,4 bữa, người ta nó gì người ta nói, kệ. Ở đây Thầy dạy mục đích quý thầy ăn để mà giải thoát cái sự ly dục, ly bất thiện pháp chớ đâu phải dạy quý thầy ra ngoài đó để mà khen chê. Nhưng quý thầy biết ly dục rồi thì ra ngoài quán lều quý thầy đâu có ăn. Bởi vì ăn là đâu có ly, còn ham ăn mà, còn thích, thấy ly sữa còn muốn uống, thấy ly kem còn muốn ăn mà thì như vậy là quý thầy chưa có ly. Mà ở đây mục đích của Thầy dạy ly cho nên khi mà quý thầy ra ngoài người ta mời ly sữa, mời ly nước ngọt quý thầy không ăn tức là quý thầy đã ly, chứng tỏ quý thầy đã giải thoát chứ không phải vì cái không ăn đó mà để cho người ta khen mình. Người ta khen mình biết đâu chừng mình về mình thèm quá mình uống vụng thì sao, mình ăn vụng thì sao. Cái điều đó là cái điều sai, còn mình ly rồi thì bắt đầu mình đâu có ăn vụng. Đó, nó phải đúng pháp, cho nên ở đây Phật pháp nhắm vào cái thực chứ không phải nhắm vào cái hư giả, cái danh hư giả đó. Mà giới bổn dạy cái kiểu này là dạy cái hư giả chứ không phải dạy cái thật, dạy cái thật là phải dạy cho chúng ta giải thoát chớ. Cho nên Thầy vạch ra những cái để chúng ta thấy được cái sai, cái không đúng của giới bổn.

Trước ở chỗ vắng, sau dần dần đắm nhiễm, yêu mến nhau rồi việc chi cũng làm được cho nên vì ngăn ngừa đó mà Phật chế ra giới này. Thật sự ra chế ra giới để chúng ta biết mà chúng ta tránh, để mà chúng ta phòng hộ 6 căn của chúng ta mà không có được sát gần với giới nữ, không có được ở chỗ che khuất mà nó sanh ra những cái tâm dục. Ở chỗ che khuất như trong bụi, sương mù, chỗ ở nhỏ mà không ai nghe, chỗ cách vách, cách rào, cách màn, cách vật ngăn che thân mình để dấu sự xấu hổ

Hỏi tội: Nếu tỳ kheo cứ thật mà xưng tội đã phạm thì như lời khai mà trị, nếu lời khai của tỳ kheo nói không giống với Ưu bà di thì không như lời của Ưu bà di nói mà trị. Nếu tỳ kheo chống cự không chịu thì cho bạch tứ Yết Ma làm phép bất kiến cử tội. Nếu vị Ưu bà di vì ủng hộ tỳ kheo không chịu nói rõ thì nên như lời tỳ kheo kia nói mà trị. Nếu tỳ kheo không chịu xưng tội thì suốt đời không giải Yết Ma được, như lời răn nhắc: Nếu muốn khỏi người ta nghi ngờ thì phải có người thứ ba nhưng mời ra chỗ trống mà tiếp chuyện. Nếu gặp trường hợp không có người thứ ba, thì cũng nên mời ra giữa nhà nhưng nói to tiếng lên, mà nói cho nghiêm nghị, đừng cười đùa, nói ở chỗ khuất mà nói lại nho nhỏ làm mầm sanh ra tội lỗi cũng tùy theo cử chỉ tiếp chuyện mà thấy người ta nghi ngờ hay không nghi ngờ. Vì người ta trông thấy mà nhận biết được. Bởi vì mình kê vô lỗ tai mình nói nho nhỏ người ta, không biết cái bà này hay cái ông này nhiều chuyện gì đây? Nói xấu người nào đây? Mình nói cái gì mình phải công minh, mình nói lớn để cho người khác nghe người ta không nghi ngờ mình thì cái điều đó tốt. Thường thường thì quý thầy ngồi thì thầm thì thầm, đó là sai đó. Cho nên chúng ta muốn nói gì thì nói cho to lên, cho người khác người ta nghe. Vì vậy đó là những cái mình không có tội, còn nếu mà mình nói thì thầm thì thầm, lén lén mình nói đó, đó là những cái làm cho người ta nghi, làm cho người ta thấy mình không có đúng cái giới hạnh. Vậy đó là cái giới thứ nhất giới bất định.

Giới bất định thứ 2: Vì sao Phật chế giới này? Duyên sự đồng như giới trước nhưng có khác trước là ở chỗ che khuất có thể làm việc dâm được, còn giới thứ 2 này ông Ca Lưu Đà Di ở chỗ trống nói chuyện với phụ nữ, chỗ không thể làm việc dâm được nên tội vô dư, không do đâu mà sinh. Nên Phật chế giới này vì ở chỗ trống hoặc nói lời thô xấu, phi pháp, hoặc nói lời cầu xin cúng dường hoặc thân phần xúc chạm nhau nên chỉ phạm tội hữu dư. Tội hữu dư tức là tội Tăng Tàng đó. Hoặc tùy theo việc làm mà phạm tội nặng hay nhẹ, không nhất định, tùy theo cái việc làm bây giờ, ở ngoài trống chứ không có ở trong chỗ kín nữa. Cái tội, cái giới bất định này là lúc bây giờ đang ở chỗ trống nhưng mà nói thí dụ như là xúc chạm nhau hoặc là nói nho nhỏ nhau, không có nói lớn, nhưng mà ở chỗ trống chứ không phải ở chỗ kín nữa. Cái giới bất định kia là ở chỗ kín, đó là những cái điều có thể phạm tội vào giới Bất Định. Hai pháp trên đây gọi là Bất Định. Nghĩa là thể của tội này không có tướng nhất định, là không biết tội tướng nặng hay nhẹ, cũng không biết tên của tội, dù có thầy tỳ kheo cùng người nữ ngồi một chỗ nhưng không biết sẽ làm việc gì, hoặc hành dâm hoặc rờ mó hoặc nói lời thô xấu, giới này không nhất định là tội nào hoặc hữu dư hoặc vô dư hoặc đọa nên tùy theo chỗ phạm mà định tội. Nghĩa là cái giới Bất Định này nó nặng ở phía nào thì thì chúng ta đưa qua phía đó mà chúng ta trị tội. Thí dụ như cái giới Bất Định này nó nó xiên qua cái Ba la di thì lấy cái Ba la di mà kết tội họ, mà nó nhẹ thì nó xiên qua Tăng Tàng thì chúng ta theo cái giới Tăng Tàng mà chúng ta định tội. Cho nên gọi là 2 giới Bất Định.

Những cái giới này nó phần nhiều là nó thuộc về giới dâm, giới mà không tốt, giới mà nó có những cái tâm thầm kín, lén lút, cho nên nó thuộc về cái giới Ba la di. Cho nên nếu mà nó nặng nó hướng về phía kia thì nó là 4 cái giới Tứ khí đó thì coi như là theo đó mà xử tội họ, còn nếu mà nó nhẹ thì nó thuộc về Tăng Tàng, cho nên nó chỉ là cho sám hối hay là tác bạch phát lồ để mà nhờ cái số quý thầy, cái số chúng mà thanh tịnh đó để cứu họ thoát ra khỏi, còn hễ mà thuộc về Ba la di thì không còn cứu họ được.

4. Kiết giới Tam thập xả đọa

(Ba mươi cái giới xả đọa)
Xả đọa có nghĩa là có của vật đã phạm đều nên xả cho Tăng, đã xả rồi. Còn tội đọa nên đối với một vị Thượng tọa cầu xin sám hối. Nhưng vì có của vật, tâm tham khinh rất mạnh mà sanh tội cho nên Phật dạy phải xả cho chư Tăng để dứt trừ cái sự tham lam. Xả đọa nghĩa là mình xả bỏ cái tài sản của mình đi. Chẳng hạn như bây giờ mình có 1 cái y là đủ rồi. Mình có thêm một cái y nữa thì tức là mình thừa đó thì mình phải xả cái y đó đi, cũng như bây giờ mình có 2 cái bàn chải đánh răng thì nó 2 cái tức là mình thừa rồi thì mình phải xả bỏ cái đó ra đi. Thì xả tức là mình giao lại cho chư Tăng, ai không có thì người ta cho cái người đó. Cũng như bây giờ mình có 2 cục xà bông để mà gội đầu thì tức là có 2 cục là dư rồi, do đó mình phải xả cái cục xà bông dư đó ra đi, mình để mình còn một cục mà sài thôi. Cái gì mà nó thừa 2,3,4 đó thì mình phải xả cái vật đó ra, mình giao lại cho chư Tăng và đồng thời mà mình còn cất giữ như vậy đó thì đó là mình còn cái tội đọa. Cho nên khi mà đọa như vậy đó, mình xả ra rồi nó phải chưa phải hết đâu do đó mình phải đến mình tác bạch, mình phát lồ với một vị Thượng tọa cầu xin sám hối từ đây về sau tôi không cất giữ hai vật ở trong một lượt mà để tích trữ lại những cái vật đó thì như vậy gọi là 30 cái tội xả đọa này.

1. là giới chứa y dư nhiều

Vì sao Phật kiết giới này, duyên do xưa Phật ở nước Xá Vệ, cho các thầy tỳ kheo thọ trì 3 y, không được chứa y dư nhiều. Lục quần tỳ kheo ở trong 3 thời, sớm trưa và chiều đều chia y thừa, Phật cố ngăn đó không có cho. Khi bấy giờ ngài Anan được 1 y phấn tảo, muốn cúng cho ngài Ca Diếp, do ngài Ca Diếp tu hạnh đầu đà thường mặc y này, mà ngài Ca Diếp không có ở nhà, nên ngài Anan sợ phạm y thừa liền đến bạch Phật. Phật hỏi ông Ca Diếp lúc nào trở về. Bạch lui lại sau 10 ngày ông Ca Diếp trở về. Thì Phật nhân thế mà kiết giới. Ông Ca Diếp là ngýời mà thýờng dùng y phấn tảo này, cho nên muốn cất giữ chờ ông Ca Diếp về mà trao cái y này nhýng sợ giới luật cấm mình không có cất giữ y thừa được cho nên mới đến trình Phật. Phật hỏi bao giờ ông Ca Diếp về. Thì ông Anan nói khoảng độ 10 ngày nữa thì ông Ca Diếp về, cho nên Phật kiết giới này cất giữ được 10 ngày. Ngoài 10 ngày thì phải đem ra trình, thì nó không có bị tội.

Công đức y, thầy tỳ kheo ở trong 3 tháng hạ tu tập tinh tấn đủ 3, đủ 5 đức hạnh tốt: 1. Không yêu ai, 2. Không giận ai ( không yêu ai tức là không thương ghét người nào đó) 3. Không sợ ai, 4. Không si mê, 5. Biết người nào thọ giới, người nào chưa thọ giới. Được thọ Công đức y 5 tháng từ 16 tháng 7 đến 15 tháng Chạp. Tăng làm pháp Yết Ma xả ở trong khoảng 5 tháng được chứa y thừa, thấy mà không phạm.
Nghĩa là trong cái An cư kiết hạ, khi mà người ta cúng dường thì mình chưa có rời khỏi cái mùa hạ đó thì những y này kia người ta cúng dường thì mình cất không phạm.

Bạch Yết Ma hỏi: Ai có thể thọ công đức y.
Người có 5 đức đáp: Tôi có thể thọ y. Nếu người được cúng dường nhiều y vật nên lấy một cái tốt làm công đức y còn ra làm pháp Yết Ma mà chia cho chư tăng. Nghĩa là một cái người mà ở trong hạ đó thì chỉ được nhận 1 cái y thôi, còn bao nhiêu thì mình phải trao lại cho chư tăng chớ không có được cất giữ nhiều. Trong khoảng 10 ngày Phật cho chứa y, là tín chủ cúng y cái nào nên thọ trì thì thọ trì, cái nào nên tịnh thí thì tịnh thí. Không như thế đến ngày thứ 11 lúc minh tướng( tức là lúc mặt trời mọc) hiện ra thì bị phạm tội Xả Đọa. Xả đọa tức là giao lại cái đó và đồng thời phải sám hối. Nghĩa là qua ngày 11, lúc mặt trời mọc là mình bị tội Xả Đọa.

Như vậy là ở đây chúng ta phải hiểu Đức Phật  cho cái giới mà chúng ta cất y chỉ có 10 ngày mà thôi. Ngoài 10 ngày thì chúng ta phải trao lại cho người khác chứ không được cất. Vì vậy cho nên chúng ta không được có những đồ thừa, đồ dư được, vừa đủ để chúng ta sài cho cái đời sống tu sỹ mà thôi.

Giới lựa y mà ngủ. Vì sao Phật kiết giới này? Do duyên xưa Phật ở nước Xá Vệ, lục quần tỳ kheo dạo đi trong nhân gian, đem y gởi cho tỳ kheo bạn thân, bạn thân thường thường đem phơi, các tỳ kheo bạch Phật. Phật cho kiết giới này. Lúc bấy giờ có tỳ kheo mắc bệnh khô gầy còm còi, có y cũ phấn tảo rất là nặng, có duyên sự muốn đi trong nhân gian không có thể mang y được. Các tỳ kheo vì vị ấy bạch Phật. Phật cho Tăng cùng các tỳ kheo bệnh bạch nhị Yết Ma kiết giới bất thất y. Trước là kiết 3 lớp tiêu tướng, sau là kiết giới bất thất y bằng khuôn của đại giới. Khi ngủ ngoài đại giới để y ở nội giới được, nếu không kiết giới bất thất y thì 3 y lúc ngủ phải để gần bên mình, không đi đâu ở đêm mà phải mang 3 y theo mình. Nếu không mang 3 y vào làng thế tục thì phạm tội trừ khi bệnh. Trong luật Tăng trì nói nên kỉnh 3 y như là tướng pháp, gìn giữ ba y như là hộ da mỏng trên thân, thường mang theo mình như lông cánh chim bay chạy theo nhau, đời nay ít có người không cách đêm huống chi thường mang theo mình. Thiệt ra thì 3 y này thì ở trong cái Bắc Tông thì nghĩ rằng 3 cái y này là 3 cái y chứ không phải là nghĩ 3 cái y này là một bộ đồ của 1 tu sĩ.

Chúng ta phải hiểu rằng Đức Phật ngày xưa chỉ có một bộ đồ mà thôi. Bộ đồ đó là cái y hạ, là cái chăn mà vấn ở dưới, đó là cái y hạ, còn áo ngắn mà mặc ở trong đó là cái y trung, còn cái y thượng, y mà Thầy choàng ở ngoài gọi là y thượng thì Đức Phật chỉ có 1 bộ đồ như vậy mà thôi. Khi tắm giặt, mà tắm giặt thì cái y hạ và y trung, thì cái y thượng choàng cho kín thân như Thầy thường nhắc. Nếu mà khi giặt y thượng thì mặc y hạ và y trung để giữ cho kín thân, chỉ có bấy nhiêu đó thôi chứ không có nhiều, không có 3 y mà ôm kè kè đó như vậy. Cho nên làm sao mà còn cái gì đâu mà dư đâu mà ôm kè kè, mà làm sao mà mất. Như bây giờ Thầy có đi đầu thì cũng phải có y thượng, y trung, y hạ chứ Thầy cởi thầy bỏ nó chỗ nào được, cho nên đâu có ôm kè kè. Cho nên 3 y một bát là 3 cái y đó chứ không phải là 3 cái y cũ, y ngũ điều, y 25 điều như Bắc tông mà ôm kè kè một đống đó. Rồi còn mặc bộ đồ, rồi còn áo tràng, rồi hậu, rồi đủ thứ hết, thì cái đó là nhà giàu chứ không...

Chạy theo ăn uống, rồi mua nước ngọt cái này kia, hoàn toàn là Thầy không chấp nhận hết, mới xách ra hai chai nước biển. Thầy hỏi hai chai nước biển này là nước lạnh hay cái gì? Nó có bổ không? Mấy con nói ờ trong này chất bổ. Mấy con là những người bị người khác lừa gạt, đi xin lại cái không tên kia kìa, lấy cái ca này này, lại đằng kia. Bỏ ra sáu, bảy ngàn một cái chai như vậy mà hai chai là mười mấy ngàn bạc, mồ hôi nước mắt của các con làm ra, nhiều khi các con đi ở tù nữa là khác. Bao nhiêu người bất hạnh người ta không có tiền bạc, người ta đói cơm khát nước, còn mấy con đi mua cái nước lạnh như thế này mà để cho Thầy uống mà gọi là thương Thầy à. Mấy con làm bậy, không đúng. Thầy xạc liền, ở trên xe liền tức khắc. Làm thinh không ai dám nói gì hết. Thầy đâu có cần phải uống cái thứ này đâu. Thầy chỉ cần uống cái nước lạnh, nước không tên kia kìa là đủ Thầy sống rồi. Ngày xưa Đức Phật đâu có nước không tên uống, phải đi lại cái vũng nước dơ kia kìa, uống kìa, như vậy nó mới là người tu chớ. Còn bây giờ hở ra là quăng tiền, hở ra quăng tiền. Mấy con có tiền mấy con ỷ lắm. Các con đừng có nghĩ như vậy, đó là sai. Đối với một bậc tu hành các con phải giữ cái hạnh chứ mấy con mà phí như  vậy không được. Đụng đâu cũng rề, đụng đâu cũng ăn uống, đụng đâu cũng rề ăn uống. Các con tưởng có tiền các con sài trong khi bao nhiêu người khác người ta đói. Thầy sạc cho một lúc làm thinh hết, mặt mày xanh lét hết không dám nói gì hết, mai mốt chừa không có mua cái thứ nầy nữa. Đừng có ngu si mà bị người ta gạt rồi bổ, rồi béo ở trong đó. Bổ béo gì? Uống ba cái nước đó Thầy thấy bao nhiêu cái nước mắt của người ta ở trong đó.

Tượng Phật lúc nào cũng ngồi thiền, đôi mắt nhìn xuống hiền từ còn tượng tổ Bồ đề Đạt Ma thì vẽ đôi mắt sống động, vẽ mặt bặm trợn hùng hồn. Sao tượng Phật vẽ mặt hiền từ, tượng trưng cho cái gì? Tại sao tượng tổ lại vẽ mặt bặm trợn hùng hồn như vậy? Còn tại sao tượng các vị bồ tát như ngài Văn Thù, ngài Đại Thế Chí, Quan Âm mặc đồ trang sức rất đẹp, mang tràng hoa, chuỗi  anh lạc, mặc y áo thêu thùa, trang sức rất đẹp cưỡi sư tử coi oai hùng như tướng quân ra trận?

Đó thì các con thấy những cái điều kiện mà người ta vẽ vời ở bên Đại Thừa rất rõ ràng. Hình ảnh của Đức Phật là hình ảnh rất là từ bi, rõ ràng. Còn ông tổ gì mà con mắt trợn trắng, trợn tròn mà nhìn thiên hạ, con nít nó thấy nó khóc ngất nó không có dám nhìn nữa thì thử hỏi các con thấy cái hình tổ như vậy là cái hình tổ có từ không? Ông ta nói trừng tâm. Tâm gì mà trừng? Bộ tâm nó dữ lắm mà sao ngó nó dữ vậy?
Do đó những cái đó là những cái người ta lý luận để người ta thực hiện không có thiếu cái lòng từ của Đức Phật. Đạo Phật dạy chúng ta từ bi hỷ xả, tứ vô lượng tâm của chúng ta luôn luôn phải thực hiện những oai nghi từ bi của chúng ta. Thế mà tổ trừng tâm như vậy, là nhìn cái tâm hung dữ như vậy thì thử hỏi làm sao mà thoát ra khỏi cái sự ác pháp ở trong đó. Rồi chúng ta thấy những cái tượng trưng cho những cái điều kiện đó là người ta tưởng rằng đó là những cái giải thoát chính của họ, nhưng sự thật đâu phải là cái chuyện đó. Một hình ảnh hiền từ thì nó mới có nói lên được cái sự lòng thương yêu của chúng ta, còn các vị bồ tát như ngài Văn Thù, ngài Đại Thế Chí, ngài Quan Âm thì ăn mặc trang sức đẹp đẽ như cô gái nhà giàu, như công chúa vậy. Thử hỏi đem những cái hình ảnh này chúng ta thấy như thế nào? Có phạm pháp luật không? họ có phạm giới luật của Phật không?  Không có cho trang điểm, không có cho này kia mà hình ảnh các ngài đều là ăn mặc như vậy thì có phải là cái người tu theo đạo Phật không? Đó thì chúng ta so sánh. Câu hỏi như vậy Thầy mới trả lời chứ nếu mà không hỏi thì mặc ai làm gì thì làm Thầy đâu có cần mà phải móc ra làm gì. Nhưng mà những cái hình ảnh này là những người gọi là đạo Phật, là những người mà gọi là đệ tử của Phật mà ăn mặc như thế này có phải là đúng theo như ông Thầy giới luật không?

Ông Phật thì mặc y phấn tảo, lượm cái vải thây ma. Còn các Ngài này thì hàng lụa phải đẹp, rồi còn trang trí vòng hoa rất đẹp. Ông Phật thì từ bi còn các ngài thì leo lên lưng cỡi sư tử, bắt con vật làm cho chở ḿnh đi, có ác  không? Các con thấy có cái ác không? Lấy con vật mà chở mình đi có ác không? Ông Phật thì đâu có dám làm cái điều đó đâu? Mỗi con vật mà gọi là Phật tánh bình đẳng mấy ông có nói đó nói thì hay lắm, nói thì mọi vật chúng sanh đều là bình đẳng với mình hết, ai cũng có Phật tánh hết vậy thì con sư tử này nó không phải là Phật tánh sao? Thế mà ông trèo lên lưng nó ông ngồi đó. Thì ông là cha nó chứ còn con nỗi gì? Phải hông? Như vậy là các con thấy rõ ràng là Đại Thừa nó nói một  điều nhưng mà nó sống có đúng bình đẳng không? Còn ông Phật có nói phật tánh, chúng sanh Phật tánh không? Nhưng mà hành động sống của ông Phật là luôn luôn bình đẳng với chúng sanh, thậm chí như con kiến còn không có giết nữa. Còn mấy ông nói tất cả chúng sanh đều bình đẳng, có Phật tánh cho nên đối xử với nhau bình đẳng với nhau hết, nhưng mà trèo lên lưng nó ngồi. Chết cha nó không, vậy mà bình đẳng cái gì? Thì các con  thấy hình ảnh của ông Văn Thù này, rồi Quan Thế Âm là ngồi ở trên lưng con Bạch Tượng nè, rồi Văn Thù thì ngồi ở trên con Sư Tử Lông Xanh nè, còn Địa Tạng thì ngồi ở trên lưng con Đề Thính nè, có không? Bắt mấy con vật mà trèo trên lưng ngồi để làm cha nó hết mà gọi là bình đẳng với nó, là Phật tánh chung nhau - nghĩa là Phật tánh của con vật đó có phải là làm con vật cho mình cỡi đi. Ông Phật của con vật đó thì nó là cái đồ cỡi của ông kia thì như vậy là cái gì? Đó là nói một điều mà thực hiện nó một ngả. Nó không đúng cái tâm bình đẳng với nhau.

Còn Tiểu Thừa hình ảnh của Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên hiền từ đi nhìn xuống không có hiên ngang tự tại như các vị bồ tát làm sao con rõ, kính mong Thầy chỉ dạy cho con rõ hơn?

Đó thì các con thấy những đại đệ tử của Phật như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông La Hầu La, ông A Na Luật, các vị đệ tử của đức Phật họ toàn là đi bộ, họ không có cỡi ở trên lưng con vật này. Mà  bên Đại Thừa, thì họ gọi là Đại Thừa, họ nói là bình đẳng, là Phật tánh như nhau mà họ sống một cách không có giống nhau chút nào hết.

Giới luật của Phật thì các ông này thì mặc y phấn tảo, như ông Ca Diếp thì suốt cuộc đời sống lập 13 cái hạnh đầu đà, không có trang điểm, không có trang sức gì hết, hoàn toàn. Thế mà ở bên Đại Thừa thì nhìn các đại đệ tử như Văn Thù, Thế Chí, Quan Âm, Địa Tạng ông nào cũng trang điểm chuỗi ngọc đeo đầy cổ hết, mặc y áo đồ sao mà sáng rực rỡ, trang trí rất là đẹp đẽ. Thậm chí như Thầy thấy như ngài Thế Chí rắc bông rắc hoa trên đầu cũng như công chúa vậy đó, có không? Các hình tượng rõ ràng mà, họ vẽ chúng ta thấy chứ chúng ta đâu có biết được họ tưởng tượng ra như vậy là các vị bồ tát quá đẹp. Còn các ông mà Thanh Văn, các ông mà Alahan này Thầy nói quá cùi đài, ăn mặc gì mà rách rưới lang thang như cái người nghèo đói.

Đúng vậy những người nghèo đói này mới là giải thoát à. Những người kia mới là chạy theo dục lạc thế gian đó. Đó thì so sánh những hình ảnh này chúng ta mới thấy cái đúng, cái sai của đạo Phật. Cái nào Đại Thừa mà cái nào Tiểu Thừa chúng ta mới biết rõ được những cái người mà chạy theo dục lạc, ham thích dục lạc, luôn luôn đè nén Phật pháp, đạo lý của đạo Phật xuống tận đáy bùn, cho nó là Tiểu Thừa, cho nó là tiêu nha bại chủng.

Hôm nay nhân dịp mà Minh Cảnh hỏi Thầy, Thầy sẽ trả lời chung để cho các con hiểu chớ Thầy thì cũng chẳng muốn làm động ai hết, vì động người ta thì người ta cũng có những cái lý luận, kiến chấp của họ, họ cũng che đậy những lỗi lầm này, cái lỗi lầm khác, làm cho người ta khổ thì mình cũng không nên. Nhưng vì lợi ích chung cho các con hôm nay buộc lòng Thầy nói cho đúng cái pháp nào là pháp của Phật, pháp nào là pháp không phải của Phật. Vì nhìn trong giới luật của Phật thì chúng ta biết. Nhìn qua hình ảnh của các ngài thì chúng ta biết các ngài không sống đúng cái giới hạnh của Phật, thì không thể nào gọi các ngài là đệ tử của Phật được.

Mà vì vậy mà Thầy phải nói rằng khi mà đức Phật đã nhập diệt, sau này các đại đệ tử của Ngài chết rồi thì Phật giáo trong thời vị lai mà gọi là đức Phật Di Lặc ra đời thì cái hình ảnh một tôn giáo Phật giáo phải nói rằng Phật giáo mới chớ không còn Phật giáo cũ nữa. Vì Phật giáo cũ mà do đức Phật Thích Ca mà sáng lập ra thì đã bị che mất đi, nó thuộc về Tiểu Thừa rồi. Còn Phật giáo về tương lai mà các tổ đã dựng lên… Cái Phật giáo mà Đại Thừa và cái Phật giáo mà Tiểu Thừa thì hôm nay chúng ta biết đường nào mà  dẫn dắt chúng ta đến tu tập giải thoát thì đường đó là đường của đạo Phật và  giới luật nào để giúp chúng ta ly được dục, ly được bất thiện pháp để chúng ta thoát ra khỏi tâm ham muốn, tâm ác pháp của chúng ta, để chúng ta thoát khỏi sự đau khổ thì con đường đó là con đường chúng ta chọn để đi, để cứu chúng ta ra khỏi cuộc đời đau khổ của kiếp người đau khổ. Thì dù nó là Tiểu Thừa, hoặc dù nó là tiêu nha bại chủng nhưng nó vẫn đưa chúng ta đến con đường giải thoát được thì chúng ta chấp nhận, còn ai nói tiêu nha bại chủng, ai nói như thế nào thì mặc họ, riêng chúng ta chẳng nên nói ai hết. Do vì vậy chúng ta hiểu biết Đại Thừa nó phạm giới phá giới nhưng mặc nó bởi vì nó có giới luật riêng của nó, cho nên nó phá giới là phá giới của Phật chớ không phải phá giới của nó, do đó nên vì vậy mà chúng ta đừng lấy giới luật của Phật mà ghép những người này là sai. Tại vì những người Đại Thừa họ có những giới luật của họ, họ sống trong dục lạc của họ thì họ cứ tu tập theo họ còn riêng chúng ta hãy chọn lấy con đường đúng theo con đường mà dẫn chúng ta đến chỗ giải thoát, làm chúng ta không còn sanh tử luân hồi, làm chúng ta hết sự đau khổ của đời người thì chúng ta chọn lấy nó mặc dù người ta có kêu đó là Phật giáo Tiểu thừa, Phật giáo như thế nào đó thì chúng ta vui lòng mà nhận những cái danh từ mà họ cho rằng nhỏ bé, thấp bé không bằng họ, chúng ta vẫn vui lòng nhận cái đó. Vì nhận cái đó mà chúng ta thấy được hàng ngày sự tu tập của chúng ta có những sự kết quả rất rõ ràng thì chúng ta chấp nhập. Còn nếu mà hàng ngày chúng ta tu tập mà không thấy kết quả, không đem lại một sự hạnh phúc an vui, không đem lại cái sự giải thoát cho chúng ta thì đó là con đường sai thì chúng ta hãy cố gắng mà đi tìm cho đúng con đường mà tu tập cho nó được giải thoát, chứ đừng vì một cái kiến chấp nào mà chúng ta bị dính mắc rồi chúng ta cho đó tại chúng ta tu chưa tới, vì Đức Phật đã xác định: Một ngày chúng ta tu là phải có kết quả của sự giải thoát đó thật sự nếu mà không kết quả tức là chúng ta đã tu sai. Vì vậy mà chúng ta nên tìm đến một vị Thầy hỏi tại sao Phật dạy trong khi thực hiện pháp của Phật thì ngay hiện tại đó là có kết quả nhưng con tu một ngày con thấy không kết quả, vậy thì con tu sai chỗ nào, xin Thầy dạy cho con để cho con thực hiện được cái giải thoát trong một ngày con tu tập. Mà ngày này được giải thoát thì ngày kế chúng ta cũng được giải thoát. Cho nên cái thời gian chúng ta thu ngắn được và cuối cùng thì chúng ta giải thoát hoàn toàn. Còn nếu tu mà ngày này, ngày kia mãi mãi mà không thấy giải thoát thì đó là chúng ta tu sai, tu không đúng hoặc là pháp môn không đúng hoặc là những pháp môn của tà giáo ngoại đạo mà chúng ta lầm là nó của Phật giáo.

“Nếu không có sự thị hiện ra đời thì rừng kinh điển ấy con không ra khỏi luân hồi sinh tử, thưa hỏi cho hiểu rồi sau khi Thầy ẩn bóng, con nỗ lực tu để tự mình sau đó cứu người hầu mong đền đáp lại công ơn của Thầy và cô Út để nói lên con đường của Phật là rất thực tế và cụ thể. Kính trình Thầy” đây là cái lời của cô Minh Cảnh thưa hỏi để thông hiểu. Nhưng ở đây Thầy xin xác định cho các con biết là Thầy không có Tam Minh, không có lục thông. Hoàn toàn Thầy không có. Trên bước đường tu hành Thầy có đi ngang qua, Thầy biết, trong khi nhập định Thầy có đi ngang qua đó, Thầy biết nó. Nhưng mà nói Thầy có cái đó thì Thầy không có. Bởi vì các con có thấy Thầy thực hiện lục thông chưa? Cho nên nói có thì phải có thực hiện chớ? Đằng này Thầy không có, cho nên Thầy không có thực hiện. Nên trên bước đường tu tập để nhập các định thì Thầy có đi ngang qua những cái lục thông, cũng như là Tam Minh Thầy có đi ngang qua  nhưng vì Thầy không có những cái pháp này, không có chứng những cái pháp này, cho nên Thầy không có thực hiện cho mấy con xem. Do vì vậy Thầy biết được điều kiện tu tập này có thể thực hiện được lục thông, có thể thực hiện được Tam Minh, Thầy dạy cho các con. Chừng nào mà các con thực hiện được thì các con thấy: À cái này Thầy dạy mình tu đúng, mình làm được. Ở đây mình dùng cái thiên nhãn thông, cái thiên nhĩ thông của mình, mình thấy đó là một cái điều kiện rất là vi diệu thì đó là các con thực hiện đi ngang qua con đường tu tập, các con thực hiện xem coi nó có được như vậy không? Mà nếu được như vậy. ..

14:26 Đó là 3 pháp cần phải biến tri.

Bốn: Thế nào là 3 pháp cần phải đoạn trừ?

Ba ái, nghĩa là 3 cái pháp cần phải đoạn trừ. Nghĩa là phải dứt trừ nó. Vậy thì ở đây Đức Phật nói ở đây là 3 cái ái.

Một là dục ái.
Hai là hữu ái.
Ba là phi hữu ái.

Nghĩa là 3 cái ái này, chúng ta khi mà nó khởi ra một cái lòng ham muốn nào đó bất kỳ thì đều là nằm trong 3 cái ái này hết. Nghĩa là cái lòng ham muốn của chúng ta bất kỳ khởi ra một cái lòng ham muốn nào thì nó đều nằm ở trong 3 cái ái này cả hết. Cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ, cần phải dứt trừ liền không có để. Chẳng hạn thấy cái ca này nó khởi lên cái tâm thích rồi thì ngay đó thì chúng ta biết rằng nó là hữu ái. Cho nên chúng ta dứt liền. Còn bây giờ ngồi đây mà tưởng đến một cái cô gái nào đó mà lại thích thú, nhớ cái miệng cô ta cười hôm qua, bữa nay còn thấy hàm răng trắng tươi đó thì do đó chúng ta phải dứt liền, không để cái tâm của chúng ta thương nhớ một cách vu vơ như vậy bằng cách như vậy, thì đó là chúng ta phải dứt nó liền. Vì vậy luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải phòng hộ 6 căn của chúng ta mắt tai mũi miệng khi nó tiếp xúc với vật gì thì không cho nó chấp trước, không cho nó dính mắc, đoạn dứt liền thì đó là chúng ta đoạn dứt các cái ái của chúng ta chứ không gì hết. Có như vậy thì chúng ta mới không bị dính mắc pháp của thế gian, các pháp dục lạc của thế gian lôi cuốn chúng ta. Cho nên 3 cái pháp này quý thầy nhớ kỹ: dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Ba cái pháp này chúng ta luôn luôn phải đoạn dứt, nếu mà không đoạn dứt cứ để nuôi lớn ở trong lòng thì nó sẽ dính mắc cái này, nó dính mắc cái khác. Đó thì phải nhớ kỹ: Những cái gì cần phải đoạn dứt thì phải đoạn dứt, không thể mà nuôi nấng nó ở trong lòng được. Cái gì mà cần phải hiểu rõ thì phải hiểu cho rõ để mà không lầm lạc trong bước đường tu tập. Cái gì cần tu tập thì phải tu tập, chứ đừng có thiếu tu tập thì không được. Ở đây cần phải đoạn trừ thì phải đoạn trừ. Tâm nó khởi muốn cái gì thì nhất định là phải đoạn, không có được. Bữa nay nó ngồi đây mà nó muốn ăn chè thì đoạn nó đi. Đó là ái dục đó. Nó không phải là thứ thường đâu. Phải giết nó đi. Do đó nó không phải ngon gì hết, cho nên đặt cái niệm cái chén chè trước mặt đó quán nó bất tịnh, nuốt vô khỏi cổ rồi, ói ra con chó cũng không muốn ăn nữa chứ đừng nói người ta. Nó bất tịnh như vậy thì do đó chúng ta phải quán xét nó để mà chúng ta xa lìa cái tâm ái đó, cái dục ái đó, cái hữu ái đó, cái phi hữu ái đó. Đó là 3 pháp cần phải đoạn trừ.

Thế nào là 3 pháp chịu phần tai hại?

Ba cái pháp mà nó đem đến cái tai hại cho chúng ta, ba bất thiện căn tức là cái gốc bất thiện, cái gốc ác, nó làm cho 3 cái chỗ ác đó nó làm cho chúng ta phải chịu nhiều cái sự đau khổ. Gọi là chịu phần tai hại. Là chịu cái sự đau khổ, phiền não.
Vậy thì cái pháp thứ nhất đó là gì? Tham bất thiện căn. Cái tham nóđem đến cho chúng ta có nhiều sự đau khổ phiền não. Cho nên gọi là tham bất thiện căn. Cái gốc của nó là tham. Cho nên nó làm cho các ác pháp nó sinh ra, làm cho tâm của chúng ta bất an, thấy cái này muốn thấy cái kia muốn, thấy cái nọ thích thì điều đó là tham bất thiện căn.

Hai là sân bất thiện căn, lòng sân hận của chúng ta nổi lên làm cho chúng ta khổ sở, giận hờn thì đó là cái gốc. Căn là cái gốc làm cho ác pháp sinh ra, cho nên làm cho chúng ta khổ sở.

Si là bất thiện căn, cho nên chúng ta biết khi mà mê mờ không hiểu rõ, làm cho chúng ta lầm chấp cái này, lầm chấp cái kia mà không xả được cho nên chúng ta có những sự đau khổ do sự si mê này. Ví dụ như người ta chửi mình là chó, ngay đó mình tưởng mình là chó thật. Cho nên vì cái lòng si mê đó, mình không thấy, mình căm tức, do đó mình chửi mắng lại người ta, thì như vậy làm cho tâm của mình, cái ác pháp nó khởi lên, làm cho tâm mình khổ sở. Thay vì người ta chửi mình chó thì mình biết rằng người ta đã si, người ta làm sao con người mình như thế này mà chó được. Tại vì họ tưởng ra mình là chó như vậy chứ làm sao mà chó, cho nên họ tức quá, họ xỉ mạ mình là chó thì như vậy mình biết đó là người ta đã khổ quá khổ rồi. Người ta không còn sáng suốt nữa. Người ta thấy con người mà người ta tưởng là con chó rồi, cho nên mình hãy thương lấy người đó. Trái lại mình không thương người đó, mình lại ngu si hơn nữa, mình lại thấy mình là con chó thật, cho nên mình mới chửi lại họ. Do đó 2 đàng cũng là si hết. Vì vậy muốn mà không còn si thì chúng ta phải gần thiện hữu tri thức, gần những bậc Thánh hiền, chúng ta học hỏi những cái điều, những cái pháp thiện, những cái điều thiện, từ đó chúng ta không còn si nữa. Tức là chúng ta có những tri kiến của cái sự hiểu biết Phật pháp của Thánh hiền chúng ta mới hết si. Còn nếu mà chúng ta không chịu học, không chịu hiểu biết thì chúng ta sẽ mãi mãi muôn đời si chứ không bao giờ chúng ta sáng suốt được. Đó là 3 pháp chịu phần tai hại. Chúng ta biết rằng trong cuộc đời chúng ta tham sân si làm chúng ta rất rất khổ sở, làm chúng ta bất an trong cuộc đời, làm chúng ta đưa đến những nhân quả ác càng chồng chất lên những nhân quả ác khác nữa là do 3 cái độc này, 3 cái căn bất thiện này là tham sân si này đã đưa đến chúng ta khổ sở vô cùng. Như vậy là chúng ta đã biết nó, biết nó là pháp đem đến cái tai hại cho chúng ta, vì vậy mà từ đây chúng ta phải nỗ lực dứt trừ, đoạn trừ cái tâm tham, cái tâm sân và cái tâm si của mình. Làm cho cái căn gốc tham sân si nó không còn nữa. Do đó chúng ta mới được giải thoát.

Đó là 3 pháp mà chúng ta thấy mỗi con người đều chịu cái phần tai hại của 3 pháp này.

Thứ 6: Thế nào là 3 pháp đưa đến thù thắng, 3 thiện căn:

Một là vô tham thiện căn.
Hai là vô sân thiện căn.
Ba là vô si thiện căn

Ở đây chúng ta thấy tham sân si. Còn bây giờ là không tham không sân không si thì nó đi ngược lại. Như vậy đó là 3 pháp đưa đến cho chúng ta thù thắng, đưa đến chúng ta được an ổn, đưa đến chúng ta được hạnh phúc, đưa đến chúng ta được yên vui, cho nên gọi là thù thắng. Ba cái pháp này chúng ta thấy đó là 3 cái pháp đem đến cuộc sống chúng ta tốt lành, an lạc. Như vậy từ đây về sau chúng ta vô tham, vô sân, vô si, cố gắng và cố gắng hơn. Nếu được vô tham, vô sân, vô si thì hàng ngày chúng ta phải đặt cái niệm tham, cái niệm sân, cái niệm si, dùng pháp hướng quét sạch ra. Tham là tai hại, làm sự khổ đau cho bản thân mình, cho mọi người, vậy từ đây cái tham không được xâm chiếm tâm của chúng ta nữa, phải dứt trừ. Ai chửi mắng ta, ai làm gì, ta thấy gì cũng không được khởi tham muốn vì tham đem đến sự đau khổ cho mình, cho người, từ đây phải dứt bỏ. Chúng ta đặt ra, trạch pháp ra một câu để dùng pháp hướng, hàng ngày phải nhắc cái tâm tham của chúng ta càng lúc càng sâu càng thấm nhuần, để nó vô tham, vô sân, vô si và như vậy là đời sống chúng ta được hạnh phúc. Và cũng chính từ vô tham, vô sân, vô si này là chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp nhập sơ thiền sau này. Đó là những cái pháp mà thù thắng. chúng ta hàng ngày phải tu cái như lý tác ý ra bằng cái trạch pháp, để hướng tâm chúng ta đi đến chỗ vô tham vô sân vô si thì lâu ngày thấm nhuần cái chơn lý giải thoát đó thì chúng ta mới thành tựu được cái tâm hồn thanh thoảng. Đó là  3 pháp đưa đến thù thắng. Như vậy là 3 pháp này muốn được thù thắng thì hàng ngày chúng ta phải đặt niệm tham, niệm sân, niệm si quán xét rồi chúng ta dùng pháp hướng mà đập nó xuống không để cho nó ở trong tâm chúng ta, để biến tâm hồn của chúng ta trở thành như cục đất.

Thứ 7 thế nào là 3 pháp đưa đến rất khó thể nhập. Phật dạy ba xuất yếu giới. Có 3 cái giới rất là yếu điểm. Vậy thì:

Một xuất ly khỏi các dục. Nghĩa là thứ nhất là chúng ta phải xuất ra khỏi cái lòng dục, lòng ham muốn của chúng ta. Đó gọi là ly dục.

Hai là xuất ly khỏi các sắc pháp, tức là vô sắc. Nghĩa là mình ra khỏi các sắc pháp, những cái pháp nào có hình tướng làm cho tâm chúng ta khởi lên những cái ham muốn như cái bàn, cái ghế, cái máy cái móc, cái nhà cái cửa, chùa to tháp lớn, tất cả những đồ dùng mà sang, mà đẹp mà tiện nghi, hoặc là những thực phẩm ăn ngon làm chúng ta thích thú, đều là chúng ta phải xuất ly khỏi các sắc pháp đó, tức là chúng ta trở thành vô sắc.

Ba, phàm các pháp hiện hữu, hữu vi đều do duyên khởi sự xuất ly khỏi các duyên ấy, tức là diệt các pháp. Đó là bây giờ chúng ta biết các pháp là hữu vi, nó đều do duyên hợp, duyên khởi ra mà có, cho nên chúng ta biết nó không phải có độc lập riêng của nó là có cái pháp riêng của nó, mà nó do duyên này duyên khác mà hợp lại, nó thành ra các pháp. Do các pháp đó nó lôi cuốn chúng ta làm cho tâm chúng ta bị dính mắc nó cho nên hiện bây giờ chúng ta phải tu theo cái con đường của Đạo Phật là chúng ta phải xuất ly khỏi các pháp, không để cho các pháp dính vào tâm chúng ta, tức là chúng ta diệt các pháp. Diệt các pháp nghĩa là làm cho các pháp không dính ở tâm chúng ta, tâm chúng ta không bị dính mắc các pháp. Do đó sau này ở chỗ 3 pháp này thì nó sẽ có những cái pháp để mà chúng ta tu tập, để mà chúng ta tập luyện, để mà chúng ta làm cho tâm chúng ta không dính mắc ở các pháp. Nhưng ở đây để học biết rằng đó là có 3 cái pháp. Cái pháp thứ nhất là xuất ly khỏi các dục, tức là ly dục. Thứ 2 là xuất ly khỏi các sắc pháp tức là vô sắc. Thứ 3 là xuất ly các pháp duyên khởi, làm cho tâm chúng ta diệt các pháp duyên khởi đó. Đó là 3 pháp rất khó thể nhập. Bởi vì 3 pháp này muốn ly dục, nó rất khó chứ không phải dễ. Mà muốn cho ly khỏi các sắc pháp cũng không phải là chuyện dễ vì xung quanh chúng ta là tất cả các sắc pháp, rồi các sắc pháp đó nó hợp lại, nó duyên khởi từ pháp này nó chuyển sang qua pháp khác. Nó làm cho tâm chúng ta luôn luôn bị động theo các pháp, lôi cuốn theo các pháp. Cho nên chúng ta phải rất khó mà thể nhập nếu nó đứng yên thì chúng ta dễ phá, còn đằng này thì nó rất là linh động, lúc thì vậy lúc thì khác, chúng ta không ngờ trước cái pháp duyên khởi đó. Cũng như bây giờ chúng ta thấy trong cái hoàn cảnh chúng ta rất là yên ổn, một lát nữa có người này người kia đến quậy phá ở trong tu viện của chúng ta làm chúng ta đều là động hết, đó là chúng ta thấy các pháp duyên khởi đó, như vậy là chúng ta đâu có chuẩn bị trước một cái tinh thần nào để đón nó đâu, nhưng mà cái người mà biết tu theo đạo phật thì chúng ta sẵn sàng đón nhận mà sẵn sàng diệt nó, chứ không để cho nó làm động chúng ta nữa. Chẳng hạn bây giờ đó, các thầy thấy như chúng ta đương yên ổn như thế này, không có ai bệnh đau hết, bông dưng 1 lát nữa có người rên la đau khổ thập tử nhất sanh thì lúc bây giờ tất cả chúng chúng ta đều là động hết thì như vậy là các pháp nó duyên hợp, nó khởi lên, nó làm chúng ta bị động hết. Do cái sự tu hành của chúng ta, chúng ta phải diệt các pháp đó, không làm để chúng ta động. Đó là 3 cái pháp rất là khó thể nhập.

Tám: Thế nào là 3 pháp cần phải sanh khởi? Ở đây Phật dạy là 3 trí.

Một, trí đối với quá khứ
Hai, trí đối với tương lai
Ba là trí đối với hiện tại

Nghĩa là chúng ta phải có một cái trí tuệ, khi mà có sự việc ở quá khứ mà khởi lên trong đầu của chúng ta thì chúng ta phải có sự hiểu biết, đối phó với những cái sự kiện mà xảy ra ở quá khứ của chúng ta đã qua rồi.

Rồi trí đối với tương lai, ngồi đây mà chúng ta nghĩ cái này cái nọ kia, phải làm cái này, phải độ chúng sanh bằng cách này, cách kia, phải là xây dựng đạo tràng, phải là tu xong rồi phải làm thế này thế khác. Thì cái trí đó chúng ta phải có sự đối phó với cái sự nghĩ ngợi, xa vời như vậy nó không đúng cách của chúng ta trong cái giai đoạn tu tập.

Rồi cái trí của chúng ta đối với hiện tại, là chúng ta phải sống như thế nào trong hiện tại, cho nó đúng với cái hiện tại của nó, chứ không phải hiện tại ngồi đây mà nhớ quá khứ, ngồi đây mà lo chuyện vị lai thì cái điều đó là cái điều sai. Cho nên 3 cái trí này luôn luôn chúng ta phải sanh khởi, luôn luôn cần phải sanh khởi để chúng ta tu tập để chúng ta đón nhận những cái điều kiện mà chúng ta giải quyết cho tâm của chúng ta được thanh thản nhẹ nhàng mà không bị 3 cái thời gian quá khứ, vị lai này nó làm cho chúng ta rối ren và bận rộn, không được giải thoát. Đó là 3 cái pháp cần phải sanh khởi, tức là chúng ta luôn luôn giữ cái trí của chúng ta liên tục ở trong quá khứ, vị lai và hiện tại để luôn luôn lúc nào chúng ta cũng được thanh thản trong hiện tại.

Chín: Thế nào là 3 pháp cần phải thắng tri. Ba giới.

Một là dục giới.
Hai là sắc giới
Ba là vô sắc giới
Đó là 3 pháp cần phải thắng tri.
Dục giới là sự ham muốn.

Sắc giới là các sắc pháp đối với lòng ham muốn của chúng ta và vô sắc pháp. Ở đây Thầy xin giải thích lại cho thấy rõ. Dục giới là cái lòng ham muốn của chúng ta. Sắc giới đây thuộc là về cái sắc thân của chúng ta, ý thức của chúng ta, còn vô sắc giới thuộc đây thuộc về tưởng thức của chúng ta. Thì như vậy là dục giới là nói về cái lòng ham muốn của chúng ta, mà dục giới tức là nói về cái ý thức của chúng ta. Còn nói về vô sắc giới là nói về tưởng thức của chúng ta. Cho nên ở đây chúng ta phải thực tế hơn là chúng ta cần phải thắng tri, tức là cần phải hiểu cho rất rõ. Một khi mà cái tâm ham muốn của chúng ta khởi lên thì phải có một cái sắc tướng của nó thì lúc bấy giờ muốn nói về dục giới thì tức là phải nói là sắc thức, sắc thức của chúng ta mà bây giờ nó không có một đối tượng, không có một hình ảnh nào hết mà ngồi đây mà chúng ta thấy được những cái điều kiện ham muốn của chúng ta. Như bây giờ Thầy ví dụ cho thấy được cái vô sắc giới đây. Như ngồi đây mà chúng ta nghe người khác nói có 1 cái bánh Trung thu năm nay, cái tiệm bánh ở Đồng Khánh nó làm cái bánh trung thu rất là ngon, mọi người đều thưởng thức cái bánh đó, ngon, rất là  ngon. chúng ta mới tưởng ra, nhớ hồi nào tới giờ mình cũng ăn nhiều cái loại bánh trung thu bữa nay thì mình cũng nghĩ đến cái bánh này, chắc có lẽ là ông ta thêm nào là hột sen, nào là vỏ bưởi, vỏ cam nào là trần bì hoặc là cái gì đủ thứ ở trong này, ông làm cái nhân chắc tuyệt vời lắm, mình tưởng tượng ra như vậy. Do đó mình mới nghĩ rằng, cái bánh này làm như vậy chắc là ngon lắm, chắc cái ông Đồng Khánh này ông hay làm như vậy đó, cho nên người ta ăn người ta khen quá khen. Nhưng sự thật ra mình chưa có ăn, mình nghĩ tưởng ra như vậy thì đó gọi là vô sắc giới cho nên không biết nó ngon như thế nào, tưởng ra cái ăn chỗ đó, do đó vô sắc giới nó thuộc về tâm của chúng ta, nó thuộc về tưởng. Còn sắc giới nó thuộc về thân. Còn dục giới nó chỉ chung cho sắc giới và vô sắc giới. Bởi vì nếu mà nói 3 cõi thì chúng ta phân khác, đây là nói 3 pháp, 3 pháp chỉ trong thân của chúng ta là thân ngũ uẩn: sắc thọ tưởng hành thức. Mà sắc giới và vô sắc giới là chỉ cho sắc thân của chúng ta, mà vô sắc giới chỉ cho tưởng của chúng ta và dục là chỉ chung cho thân ngũ uẩn này nó mang cái dục của nó, tức là cái lòng ham muốn của nó. Cho nên ở đây nó sử dụng ở sắc giới và ở vô sắc giới do cái lòng dục của nó. Cho nên ban ngày mình ham muốn cái gì thì ban đêm nó thực hiện ở trong giấc mộng ham muốn cái đó, đó là qua cái tưởng mộng của chúng ta hay là tưởng uẩn của chúng ta. Đó thì như vậy chúng ta biết đây là những cái pháp để chỉ cho một con người mà cần phải thắng tri, tức là cần phải hiểu 3 giới đó. Ba cái giới đó ở trong một con người của chúng ta, nó không thực hiện cái dục ở sắc thì nó phải thực hiện ở vô sắc. Đó là 3 pháp cần phải được hiểu rõ, cần được thấu suốt mà hiểu rõ như vậy thì khi nằm mộng chúng ta biết đó là nó ở trong 3 pháp nào và khi mà ở trong sắc giới mà nó khởi ra cái dục ham muốn gì, thì chúng ta biết đó là nó ở trong cái pháp nào, chúng ta hiểu rõ như vậy thì chúng ta sẽ không bị lầm lạc, không bị lừa gạt của 3 cái pháp này.

Mười: Thế nào là 3 pháp cần phải tắc chứng? Bây giờ tới 3 pháp cần phải chứng, cần phải tu chứng thì Đức Phật nói 3 minh.

Một là túc mạng trí minh.
Hai là hữu tình sinh diệt trí minh.
Ba là lậu tận trí minh.

Đó là 3 pháp cần được tác chứng, như vậy thì 3 cái pháp này là chúng ta phải nhập tứ thiền rồi chúng ta mới thực hiện được 3 pháp này. Còn nếu chưa nhập được tứ thiền. Tâm chưa định trên thân, thân chưa định trên tâm thì không thể nào mà thực hiện 3 cái pháp này, tức là không có chứng được 3 cái pháp này đâu. Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta 3 cái pháp cần phải tắc chứng, tức là cần phải chứng cái pháp đó, cần phải tu để chứng được cái pháp đó. Chứng được cái pháp đó là 3 cái pháp: túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh. Thì ở đây Phật dạy: Túc mạng trí minh, hữu tình sanh diệt trí minh và lậu tận trí minh. Đây là những danh từ để chỉ chứ sự thật đó là túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh mà thôi, không có gì hết. Đó là 3 pháp cần phải tu chứng, cần phải tắc chứng. Như vậy 30 pháp này là thực là chơn là như thị, không phải không như thị, không thể sai khác được, như lai giác ngộ chánh đẳng chánh giác đã nói ra. Đó là 30 pháp này. Hồi đầu chúng ta học 10 pháp, vừa rồi chúng ta học 20 pháp, bây giờ chúng ta học 30 pháp, và mỗi pháp chúng ta thấy càng ngày càng làm sáng tỏ thêm. Như hồi nãy Thầy nói về 3 định mà chỉ có từ sơ thiền cho đến nhị thiền là một cái lộ trình để chúng ta tu tập, đến khi dạy 4 thiền, Thầy nhắc lại và Thầy dạy rõ ở chỗ này hơn để quý Thầy biết cái chỗ tu tập và những cái pháp khác ở đây đều là 3 pháp, 3 pháp như vậy quý thầy nhớ kỹ, tới đâu Thầy sẽ nhắc lại và Thầy chỉ cho quý thầy hành trì cho đúng cách để đạt được những cái kết quả giải thoát nơi tâm hồn của quý vị. Đến đây Thầy xin dừng lại vì đây là học 30 pháp rồi.

Và tiếp tục chúng ta lại học giới chê diềm 10 tội không căn cứ. Vì sao Phật chiết giới này? Duyên do xưa kia Phật ở núi Linh Thứu, bây giờ tôn giả Đạt-bà-ma-la được chứng quả A-la-hán rồi tự nghĩ rằng: Ta nên ra sức để cúng dường chúng tăng liền đến bạch Phật, Phật khiến các Tỳ kheo bạch nhị yết ma sai Tỳ kheo Đạt-bà chia tọa cụ cho chư Tăng và sai Tăng lần lượt thọ thỉnh có người mời pháp trai, khi bấy giờ có Tỳ kheo từ địa là bậc hạ tọa theo sự lần lượt chia được tọa cụ và cái phòng rất xấu liền sanh lòng tức giận hôm sau sai Tăng thọ thỉnh Từ Địa đến lượt bị sai đến nhà Đàn Diệt, Đàn Diệt nghe Từ Địa liền trải tọa cụ xấu, đặt thức ăn xoàng, Từ Địa lại càng thêm tức giận bèn khiến người em gái là Từ Địa Tỳ kheo ni khi ở trong Phật Tăng hội họp vì diềm chê tôn giả Đạt-bà đến phạm tội, Phật biết nhưng cố hỏi tôn giả, Tôn giả đáp: Con từ lúc sanh ra đến nay trong chiêm bao còn không có việc ấy huống là chi lúc giác ngộ, lại có ư? Phật bảo các Tỳ kheo rằng có 2 hạng người: Một bề vào địa ngục. Một người không có phạm hạnh mà tự xưng rằng có phạm hạnh. Hai người có phạm hạnh thật mà đem việc phi phạm hạnh không căn cứ mà diềm chê người.

Phật quở trách rồi họp các Tỳ kheo lại kiết giới này phạm tội nếu Tỳ kheo đem pháp tứ ba la di mà chê bai Tỳ kheo khác, nói rõ ràng thì phạm tội Tăng tàng, nói không rõ ràng thì phạm tội lang giá, không phạm nếu Tỳ kheo có nghe, có thấy nghe nghi, nió chơn thật, nói giễu cợt hay nói lầm lẫn thì không phạm. Qua cái giới này, cái giới thứ 6 này thì Thầy thấy nó có những điều kiện mà người ta đem những câu chuyện như vậy người ta nói sự thật ra thì cái vị Tỳ kheo mà Từ Địa này, vị còn những cái lòng, khi mà được cái phòng xấu ở, được người ta chia cho cái phòng xấu ở, rồi được thực phẩm không có được ngon, không có được tốt, không có được ngon thì vị sinh lòng tị hiềm cái vị Tỳ kheo kia. Cho nên do đó mà sai người em gái của mình để dèm pha cái vị Tỳ kheo kia phạm cái tội là tội dâm đó. Có nghĩa là cái vị Tỳ kheo Từ Địa này mới bàn mưu với em gái của mình là để mà nói xấu cái vị Tỳ kheo đã chia những cái phần, những cái đồ mà cúng dường, tức là vị Tỳ kheo Đạt-bà-ma-la này đã chia những cái phần cho người khác là nói xấu cái vị Tỳ kheo đó là đã có cái tâm dâm, đã có gợi ý tình tứ với cô em gái của Từ Địa này. Do đó cô ni này đã nghe lời người anh mình thì nói giữa Tăng chúng như vậy, thì lúc bấy giờ thì Đức Phật không có tin là cái người mà đã tu chứng quả A-la-hán rồi mà còn những cái tâm đó. Cho nên Đức Phật mới hỏi cái vị Tỳ kheo Đạt-bà-ma-la này có phải như vậy không? Thì ông ta nói trong chiêm bao ông ta còn không có mộng mà xuất tinh nữa thì làm gì mà có chuyện đó được. Thì Đức Phật mới thấy rằng đó là cái sự mà người ta tìm cách mà người ta dèm pha cái người mà phạm hạnh tốt, cho nên mới đặt ra cái giới này để mà ghép những cái tội cho những người mà nói xấu người khác khi mà người ta đã có những phạm hạnh tốt. Thí dụ như bây giờ thấy quý Thầy ở đây ăn ngày 1 bữa tốt thì người ta tìm cách người ta nói xấu quý Thầy đi: Ờ tưởng học trò của ông đó ra sao, ai dè tu vậy, đi ra thôi mấy ông không những mà ăn một bữa đâu, ở trong chùa thì làm bộ chứ đi ra đụng đâu ăn đó hết, gặp cái gì mấy ông cũng ních hết, cà phê cũng uống, rượu ca la ve cũng ních. Thật sự ra ở trong đó thì làm bộ chứ ra ngoài cái gì cũng ních hết, mà nói thì nói ở trên trời dưới đất không à. Nói về giới luật đồ cũng hay lắm nhưng mà cuối cùng thấy cái đám học trò của ông đó chẳng ra gì hết, thì như vậy là người ta dèm pha mình. Mình không có mà người ta dèm pha mình, do đó cái người này phải kết cái tội như là dèm pha đó thì cái tội đó nó thuộc về cái tội, nếu mà phạm về cái tội ba la di mà đúng, thì vị Tỳ kheo mà phạm tội ba la di tức là phạm tội bất tịnh hạnh thì phải chịu, còn cái này người ta không có cũng dèm pha, cũng như mình ăn ngày một bữa thành ra mình cũng sống đúng cái hạnh không có ăn phi thời mà người ta nói mình, thì những người dèm pha như vậy thì họ đều mang cái tội thâu lang giá hoặc là phạm cái tội ở trong Tăng tà, đó thì nhẹ hơn thì họ là thâu lang giá.

Đó là những điều kiện chế cái giới này ra để ghép cái tội chúng ta là tội phạm là tội Tăng tà và cái tội thâu lang giá. Còn nếu mà chúng ta có thật như vậy thì họ không có dèm pha mà họ nói thật như vậy thì chúng ta phải lãnh đủ cái tội này. Thí dụ như bây giờ chúng ta ăn phi thời thì kết vào cái tội phi thời chúng ta, chúng ta phải chịu tội phi thời, ăn uống phi thời, ra ngồi quán ngồi lều thì cái đó là cái tội của mình, mình phải chịu lấy, không thể nào mình chạy đâu cho khỏi hết và cái tội đó mình sẽ sám hối hoặc là nếu mình không sám hối sau này mình phải chịu đọa địa ngục, mình phải chịu lấy, còn mình sám hối thì tức là mình phải chừa bỏ, từ đây về sau mình không có phạm nữa. Bởi vậy khi mà một người mà xuất gia tu hành rồi mà thọ giới của Phật rất là khó, phạm một chút nếu mà chúng ta không chịu từ bỏ, không sám hối thì càng ngày càng lâu dần thì cái tội đó càng chồng lên, do đó mình đã phá phật pháp làm suy đồi Phật pháp đó, cư sĩ người ta chê cười, người ta không quý trọng người tu sĩ nữa, chừng đó người ta coi Tăng đàn không có ra gì thì mình tội rất nặng.

Chín: Giới không căn cứ mà chê bai Tỳ kheo, vì sao Phật kiết giới này? Khi bấy giờ Phật ở núi Linh Thứu có Từ Địa Tỳ kheo từ trên núi xuống thấy con dê đực cùng con dê cái hành dục liền chỉ con dê đực sánh là tôn giả Đạt-bà còn con dê cái sánh là Từ Địa Tỳ kheo ni. Cái ông này ông ghép cái vị Tỳ kheo này với lại em gái của ông, ông này ông chơi mới độc, đến nói với các Tỳ kheo rằng: Trước tôi lấy việc không căn cứ mà chê diềm nay chính con mắt tôi thấy. Các Tỳ kheo theo gạn hỏi, Từ Địa tự nói rằng: Tôi lấy việc tương tự so sánh mà nói. Các thầy Tỳ kheo đem việc ấy bạch Phật, Phật kêu Từ Địa quở trách rồi họp chúng lại kiết giới này. Lấy chút ít trong phần việc khác mà vu cho người là phạm tội hữu dư hoặc thấy người phạm tội Tăng tàng cho đến tội Đột Kiết La, áp thuyết mà vu cho người phạm tội trọng thì bị phạm tội hữu dư, lấy việc người này vu cho người kia hoặc thấy nghe người kia khi ở tại gia phạm tội nay đem việc ấy ra chê diềm mà còn tất cả việc khác, lấy chút ít mà chê diềm người, nói rõ ràng thì phạm tội Tăng tàng. Nghĩa là nói như cái vị tỳ kheo như hồi nãy đó, vị Tỳ kheo Từ địa đó, lấy ghép 2 con vật mà cho rằng cái vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni như vậy đó thì đó là diềm chê người ta như vậy, làm cho người ta xấu hổ vậy thì cái vị Tỳ kheo Từ Địa đó phải phạm tội Tăng tàng, tức là cái tội hữu dư đó.

Thứ 10: Giới không bỏ sự phá hoại hòa hợp Tăng. Vì sao Phật kiết giới này?

Xưa Phật ở núi Linh Thứu, khi bấy giờ ông Điều Đạt vì lợi dưỡng mà học được pháp thần thông giáo hóa Thái Tử A-xà-lê, Điều Đạt, ông Đạt đây tức là ông Đề-bà-đạt-đa, phải nói ở đây nó dịch là Điều Đạt nhưng chúng ta phải hiểu là ông Đề-bà-đạt-đa học được phép thần thông giáo hóa Thái tử A-xà-lê khiến sinh lòng ưa mến cúng dường rất nhiều, chỉ vì không bằng Phật mà sanh tâm khinh ghét liền mất thần thông. Ông Đề-bà-đạt-đa muốn thâu đồ chúng mới đến cầu Phật, phó chúc cho ông, Phật nhân đó mà quở trách Đề-bà-đạt-đa không bằng lòng liền xui A-xà-thế hại cha, khiến người hại Phật mà chưa thỏa nguyện liền lên núi lấy đá liệng Phật. Bởi thế tiếng (Hết 37B)  




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét