SƠ LƯỢC GIÁO ÁN
Bây
giờ bắt đầu chúng ta sẽ học, nhưng mà trước khi học cái giáo án này thì chúng
ta niệm hồng danh đức Phật, bởi vì đây là con đường đức Phật vạch cho chúng ta
đi. Vậy xin quý thầy chắp tay lên đồng niệm NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT (3 lần)
Bây
giờ Thầy đọc sơ lược cái Giáo án tu tập của đạo Phật.
Một
người có đủ duyên được đọc kinh sách của đạo Phật thấy được chân lý của đạo rất
thực tế và cụ thể, hướng dẫn con người tu tập thoát khỏi kiếp sống trầm luân khổ
đau bằng sức tự lực của chính mình, nhứt là làm chủ được sự SỐNG - CHẾT theo ý
muốn và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Vì thế khi bắt đầu đến
với đạo Phật, để trở thành người đệ tử của Phật chân chính quý vị phải từ bỏ 6
nghề nghiệp sanh sống.
Bây
giờ Thầy sẽ giảng cái đoạn này cho quý thầy thấy rằng, khi một người mà chưa biết
Phật pháp gì hết thì có đủ một cái duyên nào đó thì vị này được đọc một cuốn
kinh Phật như Thầy thường nghe các Phật tử có nói: Con từ hồi nào tới giờ
chẳng biết Phật pháp gì hết, một hôm con được người bạn trao cho cuốn kinh Thủ
Lăng Nghiêm. Rồi con đọc cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm, con thấy Đạo Phật sao mà
hay quá tuyệt, cho nên từ đó con hướng tâm đến đạo Phật. Rồi con được đi nghe
thuyết giảng hoặc là mua thêm những loại kinh sách cần thiết, con tham cứu và
nghiên cứu, từ đó con rất thích thú đạo Phật. Đó là những người có cái
duyên may được đọc một cuốn kinh như kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh
Pháp Hoa, như toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc là kinh Nikaya.
Thì
tất cả những người mà có duyên được đọc kinh sách của Phật thì người ta có cái
tâm hướng đến đạo Phật. Nếu mà những người mà chưa có duyên được đọc kinh sách
đạo Phật thì họ chưa hiểu đạo Phật như thế nào, vì vậy mà giáo đầu vào cái sơ
lược của giáo án này thì Thầy đã ghi nhận khi mà có đủ cái duyên thì chúng
ta mới đến được đạo Phật, mà không có đủ duyên thì chúng ta không có đọc kinh
sách Phật. Cho nên chúng ta không có biết đạo Phật như thế nào.
Vì
thế mà khi có đọc kinh sách Phật, thì thứ nhất là cái người mà muốn đi vào con
đường chân chánh của đạo Phật thì người ta phải nghĩ đến đời người nó khổ và
làm sao mà thoát khỏi cái cảnh khổ đó. Cho nên, mà bằng cái sức tự lực của
mình, nghĩa là thoát khỏi cảnh khổ của con người mà bằng cái sức tự lực
của mình chứ không bằng tha lực của người khác. Cho nên nhiều khi chúng
ta đọc những kinh sách, nhưng mà những loại kinh sách nó đọc đến chúng ta thấy
phải nhờ cậy đến một cái tha lực để mà hộ trợ cho chúng ta con đường mà để đến
được cái sự giải thoát. Thì trái lại khi mà nghiên cứu đọc nhiều kinh sách của
Phật thì chúng ta thấy hầu hết đạo Phật là đạo tự lực cứu chính mình chứ không
phải là tha lực. Một phần nhỏ có một số bản kinh nhỏ thì nó nói về tha lực
thôi. Nhưng chúng ta không nói đến. Bởi vì cái tha lực nó trợ giúp cho người mới
tu, còn cái người tu lâu thì nó phải tự lực. Cho nên dù sao thì kinh sách tha lực
nó rất ít trong kinh sách tự lực.
Vì
vậy mà hôm nay khi chúng ta đến với đạo Phật, thì đức Phật dạy cái đầu tiên của
chúng ta là phải bỏ 6 cái nghề nghiệp mà chúng ta đang sinh sống, nghĩa
là chúng ta bỏ, đổi cái nghề khác, không có nên làm 6 cái nghề này. Vậy 6 cái
nghề này là nghề gì? Mà đức Phật phải nói khi đến với đạo Phật thì không nên
hành 6 nghề này. Có bản kinh thì đức Phật nói có 5 cái nghề không nên làm.
Nhưng mà Thầy thấy 6 cái nghề này nó tạm đủ. Có chỗ thì đức Phật có nói có cái
nghề bán thuốc độc, thì không nên bán thuốc độc, nhưng Thầy thấy cái chỗ mà những
người mà tu theo đạo Phật thì chắc chắn không ai là bán thuốc độc. Cho nên Thầy
chọn lấy 6 cái nghề nó phù hợp với cái tâm Từ Bi của đạo Phật. Sáu nghề đó Thầy
sẽ đọc cho quý vị nghe:
1.
Không làm nghề săn bắn
Nghĩa
là cái người muốn đến với đạo Phật thì không được làm nghề săn bắn như đi vào rừng
săn bắn nai, hươu, khỉ hoặc chồn, cheo, chim chóc. Thì không được làm nghề đó -
nghĩa là không làm cái nghề săn bắn thú vật và chim muông.
2.
Không được làm nghề chài lưới
Tức
là không được làm nghề mà bắt cá. Dù là đi câu, dù là đặt rọ hoặc là chài lưới ở
ngoài sông ngoài biển. Thì cái nghề đó coi như là phải đổi nghề khác, không được
làm nghề đó.
3.
Không được làm nghề buôn thịt sống
Ở
trong một chỗ Phật nói có 5 cái nghề, đức Phật nói không được làm, không
được buôn bán thịt chứ không nói thịt sống. Nhưng mà có chỗ thì nói thịt sống,
chỗ thì nói thịt chín. Thì tất cả những chỗ này theo Thầy nghĩ rằng có khi đức
Phật nói có 5 cái nghề thì trong ấy có không bán thịt sống và thịt chín. Còn ở
đây muốn ghi cho rõ ràng, vì bán thịt sống nó khác mà bán thịt chín nó khác, bởi
vì thịt chín họ nấu thành thực phẩm mà thịt sống thì nó còn để nguyên. Cho nên
khi một người mà đến với đạo Phật thì phải đổi cái nghề mà buôn bán thịt sống
này.
Rồi
cái số 4 thì không được làm nghề buôn bán thịt chín.
Tức
là nấu thành phở, cháo lòng, hủ tíu rồi đó. Đó là thịt chín.
5.
Không được làm nghề buôn bán rượu
Không
được làm nghề buôn bán rượu vì bán rượu làm cho người ta nghiện ngập, say sưa,
rồi người ta không còn cái trí thông minh cho nên họ có thể chửi mắng hàng xóm,
làng xóm hoặc là chửi vợ, mắng con hoặc là làm cái cảnh bịnh tật, say sưa nằm
ngoài đường, ngủ sương, ngủ tuyết. Do vì vậy đó mà đức Phật cấm không có làm
cái nghề bán rượu, vì mình bán rượu là đem đến cái chỗ say sưa cho người khác.
6.
Không được làm nghề buôn bán người
Tức
là mãi nô đó, bán nô lệ đó. Thì trong thời đức Phật chắc chắn là cái nghề này
chắc có chứ không phải không, cho nên đức Phật cũng có cấm không bán. Nhưng
chúng ta thấy cái nghề buôn bán người nó có nhiều mặt, thí dụ như người ta thấy
như những người mà đi bán thân để mà nuôi sống hàng ngày thì cũng là bán người
đó. Thì tất cả những nghề nghiệp đó như vậy, mà theo Thầy nghĩ khi đến với đạo
Phật thì chúng ta phải thanh tịnh thân tâm của mình, chứ không nên làm những
cái nghề đó mà buôn bán thân người như vậy, rồi bán nô lệ và chuyện mãi dâm thì
không nên làm những cái nghề đó. Cho nên tất cả những nghề đó chúng ta đổi qua
những nghề khác mà làm, vì vậy nó thanh tịnh, trong sạch hơn.
Thì
cái phần mà 6 cái nghề này thì trong giáo án Thầy có ghi chú thêm là cái phần
này để cho chúng ta thấy rõ là cái chỗ bán thịt chín, để chúng ta thấy chỗ đức
Phật trong bài kinh Jivaka,
đức Phật có nói đến cái đoạn này mà Thầy thấy rất là sâu sắc. Trong kinh đức Phật
dạy, khi thọ dụng thực phẩm động vật phải không thấy, không nghe, không nghi.
Nghĩa là đức Phật nói khi một tu sĩ, một người mà ăn thịt động vật thì cái thịt
động vật đó thì phải không thấy, không nghe, và không nghi mà tâm còn phải dùng
lòng từ bi biến mãn khắp mười phương đối với tất cả chúng sanh. Nghĩa là lúc bấy
giờ ăn một thực phẩm nào đó thì tâm của chúng ta phải có sự thương yêu đối với
chúng sanh khắp cùng trong mười phương.
Thì
quý thầy nghĩ khi chúng ta ăn một miếng ăn mà nếu có sự đau khổ trong đó thì có
từ bi ở đâu mà biến mãn khắp mười phương được? Cho nên ý này rất là tuyệt vời ở
trong ăn chay mà trên cái sự ăn chay nữa. Ăn chay, ăn trong miếng ăn của
chúng ta nó phải có tâm từ bi. Vậy thì trong thực phẩm của chúng ta
ăn, nó không có thịt động vật ở trong đó, nó toàn là hoa quả, trái cây hoặc là
những món ăn mà không có sự đau khổ trong đó. Nhưng chúng ta vẫn phải biến mãn
cái tâm từ bi của chúng ta đối với những người làm ra thực phẩm đó, chứ không
riêng gì cái thực phẩm động vật. Đó thì hôm nay giải thích chỗ này chúng ta mới
thấy ý nghĩ của đạo Phật rất là tuyệt vời khi chúng ta ăn miếng ăn là
chúng ta đã nghĩ đến công lao của người đàn na thí chủ trước tiên, mặc dù món ăn
đó là món ăn chay, không có sự giết hại chúng sanh. Còn cái món ăn đó mà có sự
giết hại chúng sanh thì nó nằm ở trong 3 cái điều kiện mà Phật đã đặt: không
thấy, không nghe và không nghi.
Cho
nên bắt đầu mà đi vào trong con đường của đạo Phật thì chúng ta thấy không được
làm cái 6 nghề, thì chúng ta thấy quả là chúng ta muốn đến với đạo Phật là
chúng ta phải từ giã những nghề mà gọi là không phải là CHÁNH NGHIỆP, nó thuộc
về tà nghiệp cho nên nó có sự đau khổ ở trong đó, nó có sự chết chóc, nó có sự
giết hại. Mà giới luật của Phật thì quý thầy thấy, giới thứ nhất tức là không
sát sanh, không giết hại chúng sanh, không vui theo với người giết hại. Cho nên
ở đây chúng ta phải thực hiện cái tâm từ bi mà đức Phật đã ghi nhận ở trong chỗ
này. Vì vậy mà khi muốn đến với đạo Phật thì chúng ta phải đến với thực hiện với
lòng từ bi của mình, là từ giã không làm 6 cái nghề mà thầy đã kể ở trên.
Đây
là giai đoạn thứ nhất ở trong bước đường tu tập, nghĩa là người
muốn tu tập theo đạo Phật, muốn hướng đến đạo Phật thì chúng ta phải từ giã 6
nghề, phải đổi 6 nghề đó, không còn hành 6 cái nghề đó nữa. Thì như vậy là
chúng ta phải có một sự suy tư rất kỹ, nhiều khi chúng ta làm cái nghề đó mà
chúng ta không thấy rằng trong cái nghề đó tạo nên cái sự đau khổ, rồi nuôi cái
thân của chúng ta như ở trong Bát Chánh Đạo, thì như quý thầy đã thấy, nuôi
Chánh mạng của chúng ta bằng những cái đau khổ, mặc dù là chúng ta ăn chay,
chúng ta không ăn thịt chúng sanh, ăn thịt động vật, nhưng chúng ta làm cái nghề
nó không tốt, chúng ta vẫn nuôi cái thân mạng của mình nó chưa phải là chân
chánh đâu, không phải là chánh mạng đâu. Cũng như bi giờ chúng ta làm cái nghề
ăn trộm đi, chúng ta lấy của của người ta, rồi chúng ta mới bán cái của đó đi,
chúng ta lấy tiền đi, rồi chúng ta mới lấy tiền đó mua gạo, mua thóc, mua thực
phẩm rồi chúng ta mới sống. Thì như vậy chúng ta lấy từ cái chỗ mà tham lam trộm
cắp đó mà đem lại bằng thực phẩm để nuôi thân mình thì như vậy mình có
nuôi chánh mạng mình không? Đó là tà mạng chứ không phải chánh mạng. Vì
thế, mà khi đến với đạo Phật thì chúng ta phải nuôi thân mình bằng những nghề
chơn chính, bằng những hành động chơn chính chứ không phải bằng hành động mà
không chơn chính được.
Đó
là giai đoạn thứ nhất của
bước đường tu tập theo đạo Phật. Nó chưa phải là cái người xuất gia, mà đây là
cái người cư sĩ muốn đến với đạo Phật, muốn hiểu đạo Phật bằng một tự lực cứu
mình như ở trên mà Thầy đã nói. Thì bây giờ chúng ta phải chuyển những nghề
nghiệp cho lương thiện, cái nghề cho chơn chánh, Chánh nghiệp chứ không phải ở
trong những cái tà nghiệp, ở trong nghề nghiệp mà có sự đau khổ, sự chết chóc ở
trong đó thì đạo Phật không chấp nhận cho những người đó trở thành những người
đệ tử của mình.
Mặc
dù đức Phật không nói ra điều này nhưng những người còn hành những nghề đó mà
còn không có thực hiện được thì dù có đi theo con đường đức Phật, đi tu cho đến
mức thiền định nào đi nữa thì vẫn xem những người này vẫn là tu theo cái đường
lối thiền của ngoại đạo, của tà đạo, của tôn giáo ngoại đạo chứ không phải là
chân chính của đạo Phật. Vì cái cơ bản lúc đầu là phải thực hiện từ cái tâm từ
bi, mà 6 cái nghề này chúng ta thấy từ chiếc áo cư sĩ phải hành nghề mà sống,
thế mà chúng ta hành nghề không lương thiện, không lương thiện ở đây có nghĩa
là hành nghề giết hại làm đau khổ chúng sanh, đem đến những tai họa cho chúng
sanh. Ví dụ như cái nghề bán rượu, cái nghề có thể đem lại tai họa, cái sự đau
khổ cho người khác, khi một người say rượu họ không có từ một cái gì mà họ
không làm. Cho nên cái nghề này thì tức là không được làm. Cả 6 nghề này thì
chúng ta thấy là người theo đạo Phật thì không nên làm. Đó là giai đoạn thứ nhất
mà chúng ta muốn bước chân vào đạo Phật thì chúng ta phải từ giã những cái nghề
này.
Bởi
vì giáo án của Phật phải đi từ chỗ mà chúng ta làm được. Cũng như bây giờ chúng
ta đang làm cái nghề chài lưới mà chúng ta thấy rằng mình muốn hướng đến con đường
của đạo Phật thì mình phải thay đổi cái nghề đi bắt cá này đi, thì bằng cách
chúng ta đổi cái nghề đó ra nghề thợ mộc, được không? Được. Còn bây giờ
cái người đó họ đang buôn bán thịt nè, thì bây giờ họ đổi cái nghề đó họ đi
buôn bán hoa quả được không? Được. Họ buôn bán hàng vải được, có sao đâu. Đức
Phật đâu có cấm họ làm cái nghề để họ sống, nhưng mà cái nghề nó không
phải là cái nghề đau khổ, cái nghề tạo nên những cái sự đau khổ cho chúng sanh. Mà
cái sự đau khổ cho chúng sanh tức là mình tạo nên cái nghiệp ác, do đó thì
mình cũng phải thọ lấy những sự đau khổ đó. Cho nên vừa tránh đau khổ cho
chúng sanh mà cũng vừa tránh sự đau khổ cho chính bản thân của mình. Vì vậy
ngay từ bước đầu, cái phương pháp tu tập đầu tiên tức là phương pháp đổi nghề.
Các
thầy có thấy cái chuyện đó dễ làm không? Đâu có khó làm, mình thấy cái chuyện
nghề nghiệp đó không làm được thì mình chuyển sang cái nghề khác, thì chuyện ấy
nó quá dễ, đâu có gì mà phải khó. Cho nên đạo Phật mới thực tế và cụ thể chứ
không phải chúng ta chỉ vô chùa rồi tụng kinh, niệm Phật, rồi hằng ngày ngồi
thiền, niệm chú, cái đó có phải là tu đâu. Chính chúng ta đổi nghề là
chúng ta đã tu rồi đó. Cái hành động đó là hành động tu.
Cũng
như mấy ngày hôm nay quý thầy đến đây quý thầy thấy nè, từ đến cái giờ ăn của
chúng ta đó, mà chúng ta đứng tuần tự để rồi chúng ta chào nhau, rồi tuần tự
chúng ta đi lần lượt mà mỗi người đều đến cái xô cơm để mà khất thực từng bát
cơm để đến giờ chúng ta ăn cơm. Trong cái thời gian đó có thể 30 phút hoặc 1 giờ,
nhưng chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta tu hành được những gì? Chúng ta sẽ tu được hạnh
nhẫn nhục. Nếu một người ở ngoài đời họ bước lên mâm cơm là họ lo họ ăn rồi
chứ họ đâu có nghĩ đứng như vậy được. Còn chúng ta thì vẫn thản nhiên trong khi
chúng ta ăn ngày có một bữa, mà giờ đó chúng ta vẫn thản nhiên đứng một cách tự
tại. Chúng ta lần lượt chứ không tranh giành nhau, thì ở ngoài đời khi số lượng
đông đảo như vậy thì trước cái ăn, trước cái mặc của họ, họ giành giật, họ chen
lấn nhau. Như bây giờ chúng ta đi lên xe chúng ta cũng vẫn chen lấn với nhau bằng
cách này, bằng cách khác. Cho nên chúng ta tu tập ngay từ những cái điều kiện
chúng ta tập như vậy đó. Đó là chúng ta đã tu theo đạo Phật rồi đó.
Qua
những hành động ở đây mà chúng ta tu tập, chúng ta thấy rất rõ vừa tập được nhẫn
nhục, vừa tập được cái sự tuần tự của hành động chúng ta trước giờ ăn mà chúng
ta không có gì vội vàng. Còn không tâm của chúng ta lúc nào cũng có cái sự vội vàng
đó. Ra bến xe mà thấy cái xe đến thì chúng ta ào ào giành nhau mà chạy lên.
Không lẽ cái xe đó bỏ chúng ta sao mà chúng ta lật đật vậy? Tuần tự mà chúng ta
đến chứ, nó rước chúng ta thì nó có ăn tiền chứ phải đâu nó cho chúng ta, thế
mà tại sao chúng ta lại lật đật lên trước, chen với nhau. Như vậy là chúng ta
chưa có cái kiên nhẫn của một người tu tập. Cho nên ở đây chúng ta từng tập
luyện như vậy, gọi là trên bước đường tu tập của chúng ta để làm cho chúng ta
có những sức kiên nhẫn của nó.
Thì
cái việc làm đầu tiên của giáo án này, bài học mà đầu tiên để tu tập thì
chúng ta phải nhớ rõ ràng là chúng ta thay đổi nghề nghiệp, làm cho nghề nghiệp
của chúng ta được trong sạch, thanh tịnh, không có đau khổ, không có chết chóc ở
trong đó. Đó là cái bước đường tu tập đầu tiên.
Khi
đã thay đổi nghề nghiệp ác bằng những nghề nghiệp lương thiện, quý vị phải đặt
trọn niềm tin ở đức Phật, ở Pháp của đức Phật, ở chư Thánh Tăng đệ tử của đức
Phật và ở Giới luật của đức Phật. Nghĩa là đến giai đoạn thứ 2 này,
nếu mà chúng ta không tin đạo Phật, không tin Phật thì làm sao mà chúng ta thay
đổi nghề nghiệp - do đó chúng ta đã có tin. Nhưng niềm tin đó nó chưa sâu. Vì vậy
chúng ta phải tin ở Phật như thế nào, ở Pháp của Phật như thế nào, ở chư Thánh
Tăng như thế nào và ở Giới luật của Phật như thế nào?
Muốn
niềm tin đó được bền bỉ và lâu dài thì kết quả giải thoát ở thân tâm phải được
thành tựu cụ thể trong mỗi bước tu tập, mỗi pháp môn tu tập. Nghĩa là cái bước đầu
tiên mà chúng ta đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy được tâm hồn giải thoát chỗ
nào? Nếu thấy được giải thoát thì chúng ta mới có tin ở Phật được, mới có tin ở
Pháp của Phật, mới có tin ở các vị đệ tử Phật, mới có tin ở Giới luật của Phật
được. Bởi vì khi đổi nghề nghiệp thì bàn tay chúng ta không còn vấy máu nữa,
khi đổi nghề nghiệp chúng ta không còn thấy sự lăn lộn đau khổ của chúng sanh nữa
và khi đổi nghề nghiệp chúng ta không thấy những người say rượu ở ngoài đường
mà chửi vợ, mắng con hoặc chửi làng chửi xóm. Khi thay đổi nghề nghiệp thì
chúng ta thấy tâm của chúng ta thanh thản và từ đó chúng ta biết thương yêu mọi
người hơn, biết thương yêu chúng sanh hơn.
Do
cái chỗ mà chúng ta thấy cái giai đoạn đầu tiên mà chúng ta tu tập đổi nghề
nghiệp, chúng ta đã thấy được cái tâm hồn của chúng ta sau một thời gian thay
nghề đổi nghiệp thì chúng ta vẫn thấy cuộc sống mình vẫn bình thýờng, không đến
đỗi mà sa sút và đồng thời còn có thể thấy càng ngày càng phát triển hơn nữa. Không
phải như còn hồi đi còn chài lưới, đi bắt cá, nhiều khi, khi còn làm nghề chài
lưới ở ngoài sông, ngoài biển thì trong gia đình khi thấy trận bão, hay mưa gió
là lo lắng cho người thân của mình đang làm những cái nghề không biết chết nay
chết mai. Do cái sự đau khổ, do cái sự lo lắng của người thân của mình đó,
cho nên chúng ta xét thấy từ cái ngày đổi nghề gia đình không còn khổ đau nữa.
Mỗi lần đi biển mà thấy trời chuyển mưa giông bão thì người trong gia đình kể
như người thân của mình mất mạng ở dưới biển. Đó là cái nỗi khổ tâm
nhất của những người làm nghề giết hại chúng sanh.
Vì
cái sự tu tập của giai đoạn đầu tiên mà cái người chịu nghiệm xét thấy thì khi
mà đổi nghề chúng ta thấy nó có những cái điều may mắn đến cho chúng ta nhiều
hơn vì đó là thiện pháp. Còn khi mà sống ở trong những cái nghề như vậy, ác
pháp như vậy thì cái người đó có nhiều sự kiện xảy ra cho gia đình của họ mà họ
không để ý, nhưng khi bước đến đạo Phật mà thay đổi nghề thì họ thấy có gì
thanh thản hơn, có những cái gì giải thoát hơn trong cái đời sống của họ, cả
gia đình họ chứ không phải riêng bản thân của họ. Cho nên ngay từ cái bắt đầu
mà thay đổi nghề nghiệp, người ta vẫn tìm thấy được một sự giải thoát ở trong
đó.
Như
vậy thì quý vị thấy bước vào đạo Phật thì chúng ta thấy có một sự giải thoát thật
sự chứ không phải chờ 5 năm, 10 năm, 2 chục năm tôi mới thấy được cái sự giải
thoát đó. Cho nên vì có kết quả đó làm cho người ta tin tưởng ở đạo Phật. Nếu
không có kết quả thì chắc chắn là không bao giờ mà ai tin tưởng. Chẳng hạn là
như quý thầy bây giờ, ngồi thiền mà suốt cả 5 năm 10 năm mà cứ ngồi đó hết vọng
tưởng rồi, mà ngồi đó từ 1 giờ cho đến 2 giờ cho đến 4, 5 giờ mà không thấy tiến
tới nữa thì quý thầy có thối tâm không? Quý thầy chỉ an ủi mình, chắc có lẽ là
mình tu chưa có đúng thôi, mình ráng nữa ráng nữa, ráng quá 10 năm nhìn lại cũng
chưa thấy đến đâu hết. Rồi mình lại ráng nữa, 2 chục năm nhìn lại, sao mỗi lần
có ai động đến tâm là dễ tham, sân, si phiền não vậy? Tu hoài mà sao không hết?
Ngồi thiền thì 7, 8 tiếng đồng hồ thì ngồi được, nhưng mà hơn nữa thì không được,
không thể nào mà một ngày hai ngày được. Tại sao vậy? Tâm thì có lúc hết vọng
tưởng, có lúc thì không hết vọng tưởng? Tại sao nó lu bù vậy?
Cho
nên vì cái không kết quả đó làm cho tâm chúng ta thối chuyển hoặc là chúng ta dậm
chân tại chỗ. Nhưng chúng ta đã lỡ tu mà bây giờ bỏ thì cũng tiếc mà lấy thì cũng
không được, tới thì cũng khó mà lui thì cũng khó, làm cho một người tu sĩ lưỡng
nan ở trên bước đường tu tập. Còn đạo Phật đến thì ngay đó có sự giải
thoát liền, chiêm nghiệm liền được sự giải thoát đó. Thì cho nên cái bước đầu tiên
mà chúng ta đã thấy tu tập đó, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta có sự giải
thoát. Nếu một người đổi nghề nghiệp, và khi một năm mà thay đổi nghề nghiệp
người đó thấy cả gia đình có hạnh phúc, có an vui hơn trong khi còn làm những
nghề nghiệp ác.Thầy tin rằng trong cái luật nhân quả sẽ chứng nghiệm được điều
này rất rõ ràng. Dù người đó vô tình nhưng cái luật nhân quả vẫn đem đến cái
phước báu cho những người vô tình đó.
Muốn
thành tựu được lòng tin, tịnh tín sâu sắc ấy quý vị phải suy nghĩ và so đo giữa
cuộc đời và đạo. Đây,
đến đây là cái chỗ mà chúng ta phải so sánh giữa cuộc sống của đời và cái cuộc
sống của đạo. Bởi vì trong đạo có cuộc sống của đạo chứ không phải nói chúng ta
có pháp môn tu không đâu, mà cái sống của đạo nó khác với cái sống của đời. Cho
nên chúng ta đem những cái hành động sống của quý Thầy, của những bậc tu hành
so sánh với cuộc sống của đời thử coi, để lên trên cái bàn cân thử coi bên nào
khổ mà bên nào thoát khổ?
Chúng
ta so sánh như vậy chúng ta mới có một cái tâm mà quyết tâm đi vào con đường của
đạo mới được, còn nếu không so sánh mà chúng ta bồng bột nông nổi mà vào đạo
coi chừng chúng ta sẽ vấp ngã giữa đường, mà đạo thì chẳng ra đạo, mà đời thì
chẳng ra đời đó. Chúng ta đem so sánh, chúng ta thấy như thế nào? Chúng ta bây
giờ so sánh cái đời sống của mình đang ở trong gia đình thì thấy như thế nào
đây? Đời sống trong gia đình đầy rẫy những triền phược, đường đời thì đầy
những bụi bặm ô trược và biết bao dây mơ rễ má trói buộc, biết bao nhiêu vật chất
và duyên sự lôi cuốn, cám dỗ, biết bao những chông gai hố thẳm của ác pháp đang
chờ đón. Đó là chúng ta so sánh rồi chúng ta suy nghiệm có phải vậy không?
Một
khi chúng ta mới lớn lên, chưa lập gia đình này, chúng ta thấy còn vui chơi ăn
học thôi chứ còn không có lo nghĩ gì hết. Cha mẹ làm thì hằng ngày cho con ăn học
chứ mình không có phải nghĩ làm cho có cơm ăn áo mặc gì hết. Áo rách thì ba cho
con may áo, còn đói thì mẹ cho con ăn cơm. Cứ vậy thôi chứ chưa biết nghĩ lo gì
hết, ăn với chơi với đi học thôi chứ không biết gì hết. Nhưng mà đến khi mà lớn
lên một chút thì ham muốn cái này, cái kia thì bắt đầu tìm cái nghề nghiệp làm
hoặc là xin tiền cha mẹ sắm cái này cái kia, nhưng mà cũng chưa biết khổ đâu.
Trong đó có những cái khổ là đi đánh lộn, đánh lạo rồi uống rượu say sưa với bè
bạn nhau hoặc là chạy xe rồi bị xe đụng gãy chân, gãy tay thì lúc bấy giờ thì mới
thấy được cái khổ. Nhưng mà cái khổ của tuổi trẻ chưa phải thấy khổ đâu. Cho đến
khi mà lập gia đình, chừng đó mới thấy được cái khổ của nó, rồi sanh ra một vài
đứa con mới thấy cái khổ của nó, rồi tất cả những cái lo toan khi mà cha mẹ chết
rồi không còn giúp đỡ cho tiền bạc hoặc là cái cuộc sống, thì tự mình phải lo lấy
cái cuộc sống của mình thì bao cái cuộc sống ở trên vai của mình mình gánh nặng
đó, thì mình thấy cuộc đời quá khổ. Rồi vợ con đâu phải là nó luôn luôn
lúc nào nó cũng ngọt ngào với mình đâu, nó cũng phải có những cái tư tưởng của
nó, nó cũng phải có cái lối sống của nó. Cho nên cái lối sống của mình với lối
sống nó đâu phải hợp nhau được, cho nên cả hai người là nó có những cái khác biệt
nhau. Từ cái khác biệt đó, ở trong nhà nó hay có những sự lục đục, rầy rà hay
hoặc là trái ý nhau, nó làm cho mình chướng ngại đủ mọi điều chớ đâu có phải mà
sung sướng được.
Cho
nên so sánh mới thấy được những sự triền phược, trói buộc đó, những dây mơ rễ
má đó. Chẳng hạn bây giờ có hai vợ chồng, rồi bây giờ lỡ có một người chết thì
thử hỏi rằng có khổ đau không? Khổ đau. Rồi hai người ngồi lại trong một mâm
cơm ăn, nói chuyện đâu ở ngoài không à, mà rồi rốt cuộc lại gây lộn nhau thì thử
hỏi trong lúc đó có vui sướng gì không? Đâu có vui sướng gì. Rồi bây giờ làm
không tiền không bạc mà ham muốn cái này cái kia thì vợ chồng rầy rà nhau, cãi
cọ nhau, người thì này, kẻ thì khác. Thì quý thầy nghĩ coi cuộc đời có khổ
không? Rất khổ, đủ mọi điều khổ. Thế mà người ta đâu có thấy được cái nỗi
khổ đó, mà người ta chỉ thấy cái lạc của nó mà thôi. Người ta thấy
đôi vợ chồng ngồi ở trên xe hơi hoặc là xe honda, người ta thấy như vậy là hạnh
phúc. Nhưng trong cái hình dáng đó, cái khổ đau của họ ai biết trong tâm lòng.
Một
người nghèo nói tôi không có cơm ăn áo mặc tôi khổ, nhưng cái người giàu nói
tôi có tiền bạc mà tôi còn khổ hơn nữa, tối tôi ngủ không yên sợ trộm sợ cướp.
Thì đó là cuộc đời rẫy đầy những sự đau khổ, mọi thứ. Ở gần nhau con gà con vịt
qua lại, con chó con heo qua lại là đã gây gổ, đã là làm khổ cho nhau rồi. Rồi
con cái chơi giỡn nhau thì cũng là đủ mọi cách sinh chuyện nhau, làm cho cái đời
sống bất an luôn luôn là bất an. Đời sống ở ngoài đời quý thầy thấy rất là bất
an, không có lúc nào mà gọi là an ổn. Do cái sự so sánh đó chúng ta mới nhìn lại
đời sống của người xuất gia như thế nào?
Ở trong giáo án ghi lại: ngược lại, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có một vật gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được họ. Bởi vậy, thật khó cho một người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm Hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Ở trong giáo án ghi lại: ngược lại, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có một vật gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được họ. Bởi vậy, thật khó cho một người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm Hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Đó
là cái sự so sánh để chúng ta thấy một cái đời sống của người xuất gia và một
cái đời sống của một người ở ngoài thế gian. Hai cái đời sống này, một cái đời
sống giải thoát hoàn toàn, chúng ta không còn một vật dụng gì hết cho nên chúng
ta ngủ rất yên, không sợ trộm cắp và cũng không sợ hư hao bởi có gì đâu mà hư
hao, nhà không có mà gia đình cũng không có cho nên đâu sợ vợ đói, con đói. Cho
nęn chúng ta thanh thản, an vui hoŕn toŕn hạnh phúc, tâm hồn chúng ta trắng bạch
như vỏ ốc không có còn bị hoen ố một chút gì trong những ác pháp. Đó là phần so
sánh để chúng ta bước vào một giai đoạn tu tập thứ 2.
Vậy
ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản, sự
nghiệp, sống không gia đình. Suy nghĩ như vậy sau một thời gian quý vị quyết
tâm đoạn dứt. Từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà
con quyến thuộc lớn. Thật sự cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ nhà
cửa, của cải tài sản sự nghiệp, sống không gia đình, đây là giai đoạn thứ 2
trên đường tu tập.
Nghĩa
là khi chúng ta so sánh rồi chúng ta mới thật sự cạo đầu, thật sự đắp áo cà sa
chỉ nhận ba y một bát. Đây là giai đoạn thứ hai, giai đoạn này nghe thì nó
có dễ nhưng nó khó vô cùng. Nếu một người có gia đình như các cư sĩ
trong cái hoàn cảnh trước mặt thầy đây, bây giờ từ bỏ gia đình mà đi làm cái
chuyện này có dễ không? Chúng ta muốn đó, nhưng vợ con ta có muốn không? Đó là
cái khó, rồi chúng ta có bỏ được sự, cái bổn phận của chúng ta đã sinh con còn
nhỏ dại chúng ta bỏ được không? Điều đó quá khó không phải chuyện dễ đâu. Một
người mà làm được điều này như một bầy cá mà trong một cái lưới, mà chỉ có con
cá nào giỏi nhất là vọt ra khỏi cái lưới. Sự thật ra khó mà có thể vọt ra khỏi
lưới. Thầy thấy hầu như một trăm một vạn cái lưới cá của người chài lưới họ kéo
lên ít có con cá nào nhảy ra cái lưới của họ. Cho nên khi chúng ta bị những cái
lưới của gia đình, của đời sống, của vật chất mà bao vây rồi Thầy thấy khó mà
có thể rãy ra được. Mà rãy ra được thì muôn ngàn con cá chỉ có được một con cá
mà thôi.
Đây,
ở đây Thầy xét lại Thầy thấy Minh Tông là một người có vợ, có con, con cái còn
nhỏ còn đi học chứ chưa phải lớn lao, có mẹ già đang bệnh đau, nhưng rất mạnh dạn
trong một cái giai đoạn quyết tâm tu hành từ đó vượt ra khỏi cái mạng lưới này
để mà thực hiện con đường giải thoát cứu mình và có thể cứu người. Một người cư
sĩ như Minh Tông không phải ai cũng làm được hết, cho nên ở đây hầu hết là quý
vị có theo Thầy, những người cư sĩ có theo Thầy đi nữa chẳng qua chỉ để nghe mà
vui chơi chứ thật sự đi tìm sự giải thoát thật sự là phải cạo bỏ râu tóc, xuất
gia, cái đời sống thay đổi hoàn toàn cắt đứt những dây mơ, rễ má tình cảm của
chúng ta đối với gia đình. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới thực hiện được con đường
thiền định của đạo Phật, mới làm chủ được sự sống chết, mới tịnh chỉ được các
hành trong thân chúng ta chứ không phải đơn giản.
Các
thầy cứ nghĩ rằng các hành đang hoạt động trong thân chúng ta, tim đập, gan
phèo phổi nè, thần kinh đang hoạt động như thế này, hơi thở đang ra vô tự động
nè. Mà chúng ta thật sự muốn điều khiển làm sao cho ngưng được, không phải là một
cái chuyện dễ. Nếu tâm của quý vị chưa thanh tịnh, còn thương, còn ghét, còn giận,
còn hờn, còn ham vật chất, không cắt bỏ được cái đời sống của thế gian thì chắc
chắn quý thầy không làm được cái chuyện vĩ đại này được. Chắc chắn như vậy,
không thể nào hơn được. Cho nên giáo lý của đức Phật, giáo án mà đức Phật
đã vạch cho chúng ta thấy một con đường đi rất rõ ràng.
Cho
nên chúng ta bắt đầu thay đổi nghề nghiệp, chúng ta đã thấy có sự giải thoát. Nếu
từ đó chúng ta đi vào con đường thiện, lấy nhân quả làm cái nòng cốt cho con đường
tu tập của người cư sĩ mà thực hiện trong các nghề nghiệp thanh tịnh, tốt đẹp
này, thiện nghiệp này, và tuần tự đó chúng ta lập những hạnh bố
thí, cúng dường hoặc là tập những hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mỗi
đối tượng, mỗi hoàn cảnh thì chắc chắn là quý vị sống trong gia đình của quý vị
vẫn hạnh phúc, vẫn an vui, vẫn đem lại một hạnh phúc hẳn hòi rõ ràng. Còn
tiến tới để mà so sánh giữa đạo và đời để bắt đầu chuyển mình qua một cuộc sống
mới thì chắc chắn quý vị khó mà đi đến cái giai đoạn thứ 2 này.
Đây
là cái giai đoạn mà so sánh để chúng ta trở thành một người tu sĩ chứ không phải
còn là một người cư sĩ. Nếu quý vị không thực hiện được đời sống của một tu sĩ
thì chắc chắn con đường thiền định mà của đạo Phật đã vạch ra cho quý vị đi,
thì quý vị khó mà thực hiện được. Đó là sự xác định thật sự của Thầy.
Cho
nên khi tuần tự mà khi mà so sánh như vậy rồi, thì quý vị nghe trong cái
giáo án này đức Phật đã dạy: suy nghĩ như vậy sau một thời gian quý vị mới
quyết tâm đoạn dứt. Bắt đầu mới từ bỏ tài sản nhỏ, nghĩa là mình lần lượt mình
phải sắp xếp đó, mà đức Phật gọi là từ bỏ cái tài sản nhỏ đó. Rồi lần lượt mới
từ bỏ tài sản lớn, nghĩa là lần lượt mình sắp xếp đâu đó này kia nọ cho vén
khéo rồi mới cạo bỏ râu tóc được. Rồi lần lượt mới từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ,
nghĩa là cắt đứt những tình cảm của chúng ta đối với những người bạn bè này kia
xa xa đó, gọi là nhỏ đó. Rồi bắt đầu tuần tự mới cắt đứt những bà con quyến thuộc
lớn, tức là những người như cha mẹ, rồi vợ con… lần lượt cũng phải cắt đứt những
cái đó luôn, đó là đức Phật gọi là bà con quyến thuộc lớn đó. Còn bà con quyến
thuộc nhỏ là anh em, chú bác này kia xa xa gần gần, dòng họ đó, là bà con quyến
thuộc nhỏ. Còn bà con quyến thuộc lớn là cha mẹ sinh mình ra đó, vợ con của
mình đó, đó là bà con quyến thuộc lớn đó. Lần lượt phải bỏ tuần tự. Còn tài sản
nhỏ, tài sản lớn thì quý vị phải hiểu rằng, tài sản mà nhỏ là những của cải tiền
bạc rất nhiều, đó là những cái tài sản nhỏ. Còn tài sản lớn, đó là những cái cuối
cùng mà quý vị quét sạch ra đó, mà quý vị còn ba y một bát đó. Đó là những cái
mà nó dính mắc nhất cho đời sống của quý vị đó là cái ăn chứ không phải cái gì
khác. Bởi vì vốn chúng ta có cái tài sản lớn, tài sản nhỏ đều là để phục vụ cho
cuộc sống của chúng ta mà thôi. Cho nên từ đó đến cái tài sản lớn nhất là tài sản
hàng ngày mà chúng ta có một bữa ăn ngon lành, có một bữa ăn tốt đẹp đó. Đó là
cái mà chúng ta khó có thể bỏ lắm. Cho nên đến khi mà thành một người tu sĩ,
đối với cái ăn người ta không còn có ham thích nữa cho nên người ta bỏ sạch những
tài sản lớn tài sản nhỏ đó.
Khi
mà sắp xếp được, khi mà giải quyết được mọi cái thì lúc bấy giờ chúng ta mới đi
qua được một cái giai đoạn thứ 2 của giáo án, của phương án tu tập này. Quý vị
thấy trong hiện giờ, nghe Thầy thuyết giảng tới đây quý vị thấy mình có thực hiện
được không, à quý vị có thực hiện được không, nghĩa là quý vị có bỏ được, có cắt
đứt được cái điều này không?
Cho
nên cái giai đoạn này mà trong thập nhị nhân duyên, 12 duyên đó, thì đức Phật
có giảng nhị duyên cho chúng ta trong 12 duyên này: sanh đã tận thì phạm
hạnh mới xong. Sanh tức là có cái duyên sanh thì mới có cái duyên ưu
bi sầu khổ bệnh chết, nếu không có sanh thì nó sẽ không có ưu bi sầu khổ. Cho
nên khi mà chúng ta đoạn duyên sanh thì ưu bi sầu khổ bệnh chết nó không có.
Cho nên trong thập nhị nhân duyên thì 2 cái duyên cuối cùng này, mà đức Phật
ngay từ bắt đầu người tu ấy, tức là phải đoạn dứt duyên sanh. Ở đây chúng ta phải
xét cho đúng cái duyên sanh, sanh ở đây là sanh y. Y là nương tựa, sanh là sanh
sống chứ không phải là sanh đẻ, không phải là đản sanh như người ta giải thích.
Người mà giải thích như vậy là không hiểu. Chữ sanh ở đây là sanh y, là nhà cửa,
của cải, tài sản, anh em ruột thịt, dòng họ... Cho nên khi mà cái người xuất
gia mà tu thì sanh đã tận, nghĩa là đoạn tận, đoạn dứt nó đi thì phạm hạnh, cái
con đường tu của đạo Phật nó mới đạt được. Mà nếu mà chúng ta không đoạn tận,
còn thương, còn ghét, ngồi đây tu mà nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ cha, nhớ mẹ, ... thì
chắc chắn là cái người đó không bao giờ đi đến con đường của đạo Phật.
Quý
vị có hai bàn tay, một bàn tay đời và một bàn tay đạo. Tay nào quý vị cũng muốn
nắm hết thì quý vị không có thể nào mà nắm gọn hết được cái con đường tu của
quý vị đâu. Quý vị phải bỏ cái tay đời của quý vị đi, rồi dùng cái tay đời đó rồi
quý vị ôm chặt được cái tay đạo thì quý vị mới thực hiện được. Cho nên cái đạo
Phật chỉ dạy chúng ta rất rõ ràng, xác định cho chúng ta rất rõ ràng: một
người mà còn nắm hai tay là không thể nào thực hiện con đường của đạo giải
thoát, chỉ tu tập trong thiện pháp mà thôi chứ không thể nào đi đến sâu sắc được.
Cho nên nhìn chung, chúng ta thấy hầu hết một số tu sĩ của chúng ta hiện giờ mà
đi đến sâu của đạo Phật, để thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật là
cái Định Vô lậu thì không ai mà vô lậu được. Và cái định mà để làm chủ được
thân tâm, sự sống chết như định Hiện tại an lạc trú thì chưa
ai mà nhập được 1 tháng, 2 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm không ăn không uống được.
Và cái định làm chủ được sự sống chết, muốn chết hồi nào, muốn sống hồi nào thì
chưa có một người nào mà làm được. Do cái chỗ mà chúng ta tu hành mà còn bắt
hai tay, đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm.
Vì
vậy, mà cái giai đoạn thứ 2 của giáo án này chúng ta mới thấy đức Phật vạch rất
rõ, suy nghĩ rất rõ chớ không phải nói đơn thuần, nói sơ sơ mà thực hiện được. Cho
nên nhiều người cư sĩ vẫn ham tu theo Phật, vẫn ngồi thiền, vẫn nỗ lực tu mà
không dám bỏ vợ con, không dám cắt lìa cái tài sản, không dám bỏ một đồng bạc của
mình ra nữa, luôn lúc nào cũng phải lo làm ra tiền ra bạc hết. Thì thử hỏi họ
tu tập như vậy họ tới chỗ nào, hay là ngồi cho có hình thức? Ngày nào, đêm
nào cũng thức chong lên mà ngồi thiền, mà thiền đó nó đi về đâu? Tâm thì
không rời đồng bạc, tâm thì không rời vợ, rời con thì thử hỏi họ làm sao họ đạt
được những gì? Đó là thấy giáo án của đức Phật chưa?
Đầu
tiên là phải rời nghề nghiệp để đi vào con đường thiện pháp, sống cho đúng cái
sống của người cư sĩ, chứ chưa phải là người tu sĩ thật sự, đây là mới
người cư sĩ mà thôi. Đến cái giai đoạn thứ hai, so sánh để chúng ta bước
qua cái giai đoạn thứ 2 này, nó rất là ngặt nghèo, phải đoạn dứt cho được, mà
đoạn dứt được thì ưu - bi - sầu - khổ - sanh - tử nó mới chấm dứt. Bởi vì duyên
sanh đoạn thì ưu - bi - sầu - khổ và bệnh - tử nó mới đoạn. Đó là nhị duyên
chúng ta thấy rất rõ ràng.
Bởi
vậy khi mà giải thích, giảng về cái giáo án này thì quý thầy suy nghĩ cho kỹ
mình còn bắt hai tay hay là không? Nếu mà còn bắt hai tay thì hãy
chặt cái tay kia đi, đừng có nắm nó nữa, hãy xả cái đời xuống đi. Chọn lấy đạo
là đạo mà đời là đời, chết là chết trong đạo, chết là chết trên bồ đoàn chứ
không thể chết dưới cái tình cảm của gia đình, của vợ của con mà hãy chết ở
trên đạo. Cho nên, chúng ta thà chết ở trên đạo chứ không thể nào chết ở trong
gia đình của chúng ta, chết trong tình cảm của con người.
Cho
nên chúng ta bỏ hết, bỏ hết, dẹp hết mới có thể đi vào con đường của đạo Phật
được. Xả hết, từ bỏ, viễn ly, xa lìa tất cả những gì gọi là cuộc sống của thế
gian. Chúng ta chấp nhận đời sống của chúng ta chỉ có một cái nghề chơn
chính đó là nghề đi xin. Chúng ta không còn làm ra đồng bạc, không có đi
ra cày ruộng, không có đi trồng rau, trồng cải để mà ăn. Đói thì chúng ta xin,
ai có cho cái gì chúng ta ăn cái nấy, mà không cho thì chúng ta chịu đói chứ
không bao giờ chúng ta hành cái nghề gì.
Vì
hành động sống của đức Phật ngày xưa quý thầy có thấy đức Phật đi ra trồng rau
không? Giờ này đức Phật đi xin về rồi ăn thôi chứ không có bao giờ làm một cái
gì hết. Ở trong khu rừng mà không trồng một cái cây có trái mà ăn nữa. Thầy
chưa từng nghe đức Phật trồng cây xoài để có trái xoài, Thầy cũng chưa từng
nghe trồng một cây thơm có trái thơm mà ăn. Mà tất cả đệ tử của đức Phật trong
thời đức Phật, Thầy cũng chưa từng. Nhưng Thầy có nghe rằng khi đến chỗ nào đó
thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất là sạch sẽ để chư tăng đến và khi rời khỏi khu
vực mà đang ở thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất sạch sẽ để rồi để lại một cái khu
rất là vệ sinh sạch sẽ, chứ không có bừa bãi. Thầy chỉ nghe trong kinh nói như
vậy, chứ Thầy không nghe nói rằng để lại một cái vườn xoài, để lại một cái vườn
rau, để lại một cái sở ruộng ở đó, không bao giờ có cái điều đó. Cho nên chúng
ta tu hành theo đạo Phật, chúng ta phải lấy cái nghề đi xin ăn. Tất cả áo quần
mà chúng ta đang mặc, y áo mà chúng ta đang mặc cái nào mà còn vá được chúng ta
hãy tiết kiệm vá tận cùng mà mặc, không được phí bỏ. Mặc dù thời đại của chúng
ta…
Nãy
giờ Thầy đã giảng về cái phần thứ 2, là cái giai đoạn để cắt, đoạn dứt cái
đời sống thế gian, để chuyển qua đời sống xuất gia tu tập. Quý vị hãy suy nghĩ
cho kỹ, nếu đến với đạo Phật không phải đến với hình thức, đến với cái hình thức
của bộ áo, đến với hình thức ngày ngồi thiền hay niệm Phật hay tụng kinh. Đạo
Phật đến với thực tế của tìm con đường giải thoát, chớ không phải đến cầu an, cũng
không phải đi tìm đến cuộc sống cho nó đầy đủ vật chất hơn nữa. Đến với đạo
Phật thì quý vị, quý thầy phải suy nghĩ rất kỹ là chúng ta phải thực hiện làm
chủ được sự sống chết và chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Mục đích đó là mục đích
của đạo Phật, để đem con người thoát khỏi sự đau khổ của chính bản thân họ. Đến
với đạo Phật thì quý vị phải suy tư cái giai đoạn thứ 2 này rất là kỹ lưỡng. Đời
là mình phải làm sao cho xứng đáng đời, lợi ích cho mọi người, lợi ích cho
mình. Mà đạo thì phải hoàn toàn đoạn lìa đời, không được ngồi đây mà còn lo đời. Cho
nên đối với Phật tử chỉ là những cái duyên để mà chúng ta độ họ tu hành mà
thôi. Chớ đừng có đem họ trở thành những sự trói buộc của chúng ta. Nhiều
khi chúng ta làm một vị trụ trì ở một ngôi chùa nào đó, hầu hết chúng ta không
bị gia đình trói buộc mà bị Phật tử trói buộc. Họ cúng dường chúng ta cái này,
cái nọ, cái kia, họ muốn sai chúng ta làm cái gì chúng ta cũng phải vâng lời
làm hết. Đó là chúng ta đã lìa khỏi cuộc sống của đời mà chúng ta bị đời sai
trong cái việc đạo của chúng ta. Cho nên chúng ta phải lìa khỏi những cái sai lệch
này để mà chúng ta thực hiện được sự giải thoát chính bản thân của chúng ta.
Chúng ta cứu chúng ta cho được.
Vả lại,
cái giai đoạn này chúng ta còn phải suy nghĩ cái tâm đời chúng ta còn mang theo
ở trong cái tâm đạo chứ chưa phải sạch, do đó cái bản ngã chúng ta vẫn còn, khi
chúng ta mới hiểu được một chút nào đó, chúng ta vội đem ra giảng dạy cho người
khác, điều đó là cái tâm đời của chúng ta đó. Cái tâm danh của chúng ta. Cho
nên quý vị cũng nhớ rằng khi đoạn dứt cái đời là đoạn dứt cái tâm danh của
mình, cái tâm lợi. Cho nên, do vì vậy khi nào chúng ta tu hành thành đạt giải
thoát làm chủ thật sự, biết rõ rằng mình đã giải thoát hoàn toàn, tâm không còn
lậu hoặc, thiền định làm chủ được sống chết lúc nào là chúng ta tự tại trong
lúc đó. Bấy giờ chúng ta mới có đủ khả năng đi ra dạy đạo, dạy cho người tu
hành, mà nhiều khi chúng ta còn ẩn bóng, chúng ta còn không muốn dạy ai nữa, vì
đâu phải dạy người ta tu hành là dễ.
Còn
quý thầy, quý vị vừa học được 5, 3 chữ, hiểu được một vài khía cạnh nho nhỏ vội
đem ra trong khi mình chưa thực hành được gì hết, mình giảng cho người này
hiểu, người kia hiểu, tỏ ra đó là cái hành động danh của mình, tỏ ra đó là cái
bản ngã của mình chứ chưa phải là sự thực tu, thực chứng giải thoát cho chính
mình. Cho nên chúng ta phải hiểu khi bước qua cái giai đoạn đạo thì coi
chừng đời nó xen vào đó mà nó mượn đạo để cầu danh, cầu lợi ở trong đó.
Hầu hết một số quý thầy đã bị vấp ngã trên cái giai đoạn này. Chúng ta cứ
ngỡ rằng đó là đạo nhưng thật ra đó là đời chứ không phải đạo, qua cái danh hiệu
đạo.
Đó
là giai đoạn thứ 2 mà quý vị cần phải suy nghĩ và xét cho kỹ rồi từ đó chúng ta
buông hết không còn để ở trong tâm một cái gì chúng ta dính mắc nữa. Xưa đức Thế
Tôn, Ngài từ giã ngai vàng, của báu, vợ đẹp, con xinh đi vào trong rừng núi mà
tu tập, 6 năm khổ hạnh. Quý thầy có thấy Ngài cắt đứt toàn bộ không còn một cái
tài sản nhỏ, tài sản lớn nào hết. Còn chúng ta có nhiều người nghĩ như thế này:
bây giờ mình làm cho có một ít tiền rồi mình để dành, rồi chừng đó mỗi tháng
mình cứ bỏ ra một chỉ, mình ngồi mình tu khỏe re. Như ông Phật mà nghĩ như vậy
thì chắc chắn không bao giờ ông khổ hạnh hết. Ngày ăn có bảy hạt mè, sống thì rờ
da bụng thì đụng xương sống, rờ xương sống thì đụng da bụng, tiết thực đến mức
độ, khổ hạnh đến mức độ mà đi không nổi, đứng không nổi, chỉ còn nằm không. Tu
tập như vậy người ta mới thấy được, người ta mới lìa được những dục lạc của thế
gian, bởi vì những dục lạc của thế gian quá đầy đủ, quá nhiều và thời đại của chúng
ta nó còn nhiều vật để mà cám dỗ chúng ta.
Cho
nên chúng ta là một người tu hành, chúng ta phải sáng suốt, phải nhận định ở
giai đoạn thứ hai này là cái giai đoạn đoạn trừ cái tâm đời của chúng ta, cái
tâm danh của chúng ta, cái tâm lợi của chúng ta. Phải đoạn dứt. Không phải đoạn
dứt cái danh lợi của đời không, mà chúng ta phải đoạn dứt những danh lợi mà
chúng ta mang cái tên là đạo đó, nó còn mang tính đời của nó đó.
Vì
vậy mà khi mà quyết tâm tu hành rồi thì hãy sáng suốt suy nghĩ cho rõ. Phỏng chừng
như quý vị bây giờ chết đi thì vợ con quý vị ai lo đây? Tại sao quý vị không bỏ
được để mà quý vị đi vào thẳng con đường đạo? Khi quý vị đi thẳng vào con đường
đạo thì vợ con phải tự sống như quý vị đã chết. Có cắt đứt được như vậy thì đó
là cái giai đoạn thứ 2 của quý vị mới thực hiện được con đường của đạo. Nếu
giai đoạn thứ 2 mà quý vị chưa thực hiện được thì quý vị nên về tập lại cái cuộc
sống giai đoạn thứ nhất thực hiện nhân quả, làm đầy đủ bộn phận của một người,
một con người cư sĩ, đối với vợ con cha mẹ phải hiếu hạnh, vợ con phải có sự
trung thành với nhau, chớ đừng có làm những điều tồi tệ để gây sự đau khổ cho
gia đình. Làm hết bổn phận, phải nuôi con cái lớn khôn có đầy đủ nghề
nghiệp. Như vậy là cũng xứng đáng là đệ tử cư sĩ của đạo Phật rồi. Cho nên
Thầy chưa nói đến giai đoạn thứ 3, là vì giai đoạn thứ 3 nó còn nhiều cái khó
khăn, không phải dễ.
Bây
giờ thầy sẽ tiếp tục ở giai đoạn thứ ba. Khi đã quyết tâm cắt ái, xuất gia như
vậy, cắt ái là đoạn lìa những thương, ghét của chúng ta đối với gia đình, đối với
tài sản đó. Quý vị phải siêng năng học tập Giới luật. Nghĩa là bấy
giờ cạo tóc rồi đó, thì tất cả những Giới luật của Phật là phải học trước, chứ
không được học Kinh. Quý vị nhớ kỹ, học Kinh quý vị không thấy được cái phạm hạnh
của quý vị, không thấy được những oai nghi tế hạnh của quý vị đâu. Cho nên quý
vị phải học Luật. Cho nên khi mà xuất gia trong Kinh luật cũng dạy phải 5 năm
mà học luật, rồi sau 5 năm đó mới học Thiền. Quý vị hiểu điều đó! Không có giới
luật nào mà quý vị không thuộc, quý vị phải thường hằng cố gắng, sống đúng Giới
luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ, sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của
người tu sĩ đạo Phật. Nghĩa là bắt đầu vào cái giai đoạn thứ 3 thì quý vị phải
đoạn dứt cái tâm đời của quý vị, cái cuộc sống đời của quý vị, mà quý vị phải
siêng năng học tập Giới luật, thuộc tất cả những cái hành động, cái oai nghi tế
hạnh trong Giới luật, quý vị phải cố gắng giữ gìn, không cho phạm những lỗi nhỏ
ở trong Giới luật.
Muốn
sống đúng nếp sống của người tu sĩ đạo Phật, quý vị phải tu tập 4 pháp
hạnh đầu tiên. Đây, nếu mà muốn sống đúng cái nếp sống của người tu sĩ của
đạo Phật thì quý vị phải tu 4 cái pháp hạnh đầu tiên đó là Tứ Bất Hoại Tịnh.
Khi thực hiện tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh quý vị phải tu tập từ bỏ sát sanh, tránh
xa sát sanh, từ bỏ trượng gậy, kiếm đao, bỏ những loại vũ khí giết hại chúng
sanh. Đó là giai đoạn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh. Nhưng mà muốn tu tập Tứ Bất Hoại
Tịnh thì quý vị phải tu tập những giới đầu tiên của quý vị tức là từ bỏ sát
sanh, tránh xa sát sanh. Đó là cái giới đầu tiên của quý vị. Nhưng ở đoạn trên
là chúng ta đã học những giới đó rồi thì bây giờ ở đoạn dưới mà tu Tứ Bất Hoại
Tịnh thì bắt đầu chúng ta phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh. Thì cái
này sẽ được Thầy giảng dạy từ bỏ sát sanh như thế nào mà tránh xa sát sanh như
thế nào. Nhưng trước khi giảng dạy cái này thì Thầy sẽ giảng dạy Tứ Bất Hoại Tịnh.
Hôm nay thì đã hết giờ, ngày thứ 5 tới chúng ta sẽ tiếp tục giáo án này…
Nhưng
trước khi học, tu Tứ Bất Hoại Tịnh Thầy sẽ giảng cho quý vị oai nghi
tế hạnh của người xuất gia theo lộ trình thứ 2 của đạo Phật.
Sau
khi quý vị đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, sống không gia đình,
không nhà cửa. Đây là một lối sống đối với người thế gian thì được xem là rất mới
mẻ và còn lạ lùng, sống không giống lối sống của mọi người trên thế gian này.
Mà muốn sống được như vậy thì người xuất gia phải sống chế ngự thân mình, chế
ngự lời nói của mình, chế ngự ý nghĩ của mình. Luôn luôn phải bằng lòng với nhu
cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, thuốc thang, sàng tọa. Vui theo nếp sống trong
sự an tịnh. Thường sống cô đơn, trầm lặng, sống một mình, không bạn bè thân thuộc,
không Phật tử thân thương. Sống với mục đích chủ động thân tâm. Bất động trước
mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc và mọi nhân duyên đều chủ động.
Đây
là cái người mà muốn đi vào lộ trình thứ 2, xuất gia của đạo Phật thì đương
nhiên là phải có một lối sống, không phải sống như lối sống khi còn ở thế gian
được, mà phải dứt bỏ hết của cải tài sản, lòng thương yêu, và dứt hết không còn
có gì gọi là mang theo trong thân tâm của mình. Nghĩa là bỏ sạch, bỏ thật sạch
và còn phải sống một đời sống cô đơn, trầm lặng; sống không còn thân hữu bạn
bè, không còn thích vui chơi, nói chuyện; không còn thích ăn uống, không còn
thích cái này cái nọ kia nữa và cũng không còn sợ hãi phải có Phật tử thân thuộc
để lo cho mình miếng ăn, áo mặc. Mà chỉ cần phải sống, sống với một mình trước
hoàn cảnh nào, trước sự việc nào, trước đói khát, trước bệnh tật đều luôn luôn
chế ngự, giữ gìn thân mình, ý mình, lời nói mình, không để cho dao động trước mọi
hoàn cảnh, mọi sự việc xảy ra.
Bước
qua cái lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ. Vậy dứt
bỏ những gì? Muốn dứt bỏ người tu sĩ phải sống chế ngự với sự chế ngự của giới
bổn Patimokkha. Nghĩa là người tu sĩ, người mà bước qua cái lộ trình của người
tu sĩ theo đạo Phật thì phải lấy giới luật của Phật làm cuộc sống của mình. Cho
nên hằng ngày phải chế ngự tâm mình, phải chế ngự thân mình, phải chế ngự lời
nói của mình, phải đúng ở trong giới bổn Ba la mộc xoa đề hay là Patimokkha.
Luôn luôn phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, phải thấy nguy hiểm trong những lỗi
nhỏ nhặt, phải nhận ra được sự nguy hiểm khi mà chúng ta phạm phải những cái lỗi
nhỏ nhặt ở trong giới bổn, ở trong những oai nghi thiếu sót làm chúng ta không
xứng đáng là một vị tu sĩ, thì chúng ta nên cẩn thận và cảnh giác cho nó rõ
ràng. Vì có cẩn thận, ý tứ từng hành động thân - khẩu - ý của mình do vì vậy
mà mình mới giữ gìn giới hạnh, mới chế ngự cái thân khẩu ý của mình mới trọn vẹn
trong giới bổn Ba la mộc xoa đề. Còn nếu mà mình không có chế ngự, không có giữ
gìn thân khẩu ý của mình thì những cái lỗi nhỏ, oai nghi tế hạnh nhỏ thì mình sẽ
bị phạm, mà bị phạm thì nó sẽ làm cho mình xấu hổ, làm cho mình luôn luôn có sự
sợ hãi trong chúng tăng, trong những vị tu hành.
Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ. Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải biết sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba la mộc xoa đề hay còn gọi là Patimokkha. Luôn luôn phải sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ. Phải thấy rõ sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt của giới bổn. Phải luôn luôn thọ trì học tập, trau dồi, tu tập trong giới học. Thân nghiệp, ngữ nghiệp luôn luôn phải nhờ giới hạnh trau dồi, rèn luyện, tu tập. Hằng ngày sinh hoạt trong mọi cuộc sống luôn luôn được trong sạch là nhờ giữ gìn, trau dồi, tu tập giới hạnh trọn vẹn đầy đủ. Lúc nào người tu sĩ cũng luôn luôn phòng hộ 6 căn, giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Vì lúc bấy giờ mình biết mắt tai mũi miệng thân ý của mình mới bước vào lộ trình xuất gia tu hành thì còn rất yếu, dễ bị dính mắc 6 trần, dễ bị say đắm lôi cuốn 6 trần, nhất là cái đời sống giới hạnh và giới đức của đức Phật làm cho cuộc sống mới mẻ và khắc khổ đối với con người mới vào tu. Vì vậy mà 6 căn tiếp xúc 6 trần dễ sanh sự bất mãn, sự thối chí của người mới tu, cho nên phải cố gắng mà phòng hộ 6 căn mắt tai mũi miệng thân ý của mình đừng cho duyên 6 trần sẽ sanh ra 6 thức và sanh nhiều cái lý luận để đưa đến chỗ bỏ đạo, xa thầy và trở về cuộc sống thế tục.
Muốn
được như vậy thì người tu sĩ phòng hộ 6 căn giống như một người lính gác cổng
thành, luôn luôn phải tỉnh táo biết kẻ ra người vào, kẻ nào tốt, người nào xấu,
kẻ nào gian, kẻ nào thật, phải luôn luôn đề cao cảnh giác ý tứ từng chút một.
Đó là bổn phận, trách nhiệm của một người lính gác cổng thành. Thì đối với người
tu sĩ mới vào đạo Phật xuất gia, mới đi vào lộ trình của người người tu theo đạo
Phật cũng giống như người lính gác cổng thành vậy. Phải luôn luôn ý tứ và cảnh
giác từng chút vì đó là bổn phận của người tu sĩ khi muốn tìm cầu sự giải thoát
thì phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu một sự cảnh
giác thì bị các trần, các pháp trần xâm chiếm tâm, tức là tâm chiếm thành, những
kẻ gian ác lừa bịp sẽ dối trá, sẽ gạt gẫm. Đó là bổn phận và trách nhiệm của
người tu sĩ, cần phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu
cảnh giác là tâm bị xâm chiếm, nhờ có sự cảnh giác tâm mới được yên ổn; nhờ có
sự cảnh giác tâm mới được bảo vệ và giữ gìn, được an ổn không bị dính mắc các
trần cũng như người lính đã giữ trật tự an ninh trong thành.
Đã
cảnh giác canh phòng như vậy mà còn phải biết thiểu dục tri túc, tức là phải biết
ít muốn mà biết đủ, chớ không phải nói rằng cảnh giác canh phòng như vậy là đủ
mà còn phải giữ gìn sự ít muốn, ít ham muốn biết đủ của mình. Cái gì có thì
mình sống cái đấy, không được đòi hỏi thêm nhiều hơn, đó là bổn phận và trách
nhiệm của người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật, là phải sống hiểu biết như vậy,
không có đòi hỏi hơn vì lúc bấy giờ khi chưa bước chân vào đạo Phật là sống đầy
đủ những vật chất, những sự ham muốn theo dục lạc thế gian. Nhưng khi đã bước
chân vào đây rồi thì phải hiểu rằng đời sống hôm nay không phải đời sống của
ngày mai, đời sống của hôm nay là đời sống đạo, không phải là đời sống của thế
tục. Vì vậy tất cả những gì phải bỏ xuống là bỏ xuống sạch. Vì mục đích cao cả,
vì mục đích lớn lao của cuộc sống đầy đau khổ và sinh tử luân hồi, muốn ra khỏi
nó thì phải sống như thế này thì mới ra khỏi được. Còn muốn trôi lăn trong 6 nẻo
luân hồi, sống đời sống đau khổ và sinh tử luân hồi thì cứ tiếp tục sống theo dục
lạc thế gian như mọi người trên hành tinh này vậy, thì không bao giờ có ngày giải
thoát được, thì không bao giờ có ngày chấm dứt được luân hồi. Vì chính tâm
ham muốn dục lạc thế gian là tâm sanh tử luân hồi không thể nào làm sao tránh
khỏi. Biết được vậy, hiểu được vậy thì người tu sĩ phải thấy trách nhiệm đầu
tiên của mình xuất gia theo đạo Phật là mục đích phải chấm dứt sinh tử luân hồi,
làm chủ sự sống chết. Người tu sĩ xuất gia cần phải biết dứt trừ như đã dạy ở
trên, tức là phải dứt trừ sự sát sanh, tránh xa sự sát sanh, phải từ bỏ những vật
dụng giết hại chúng sanh như gươm, đao, dao, mác, kiếm, cung, tên, trượng, gậy,
kích, mâu, côn, chùy, thương, súng, đạn, bom, mìn, lựu đạn, chất nổ...Phải biết
xấu hổ và sợ hãi khi lỡ tay làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh, phải biết luôn
luôn tu tập trau dồi lòng từ, thương xót tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh
được an vui; nghĩ đến hạnh phúc của chúng sanh, của tất cả loài hữu tình, phải
làm sao cho chúng được an lạc thảnh thơi, như vậy đó là giới hạnh của vị tu sĩ
đầu tiên bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.
Kế
đến, người tu sĩ dứt bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những của được
cho, chỉ mong những của được cho. Tự sống thiểu dục tri túc, biết đủ, ít muốn,
trong sạch, thanh tịnh, không có trộm cướp, không có lấy của không cho, dù cây
kim sợi chỉ, những vật nhỏ nhất cũng không được lấy. Như vậy người tu sĩ phải hiểu
đó là giới hạnh của người mới bắt đầu xuất gia trong giới luật của đạo Phật.
Kế
tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật,
y chỉ trên sự thật mà nói, nói chắc chắn, nói đúng tin cậy, không nói lường gạt
ai, không nói phản lại lời nói của mình, phản lại lời nói của đời sống, của mọi
người. Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật mới bước
vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.
Kế
tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì
chỗ này không được đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều
gì ở chỗ kia không đi đến chỗ này nói để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy
vị tu sĩ sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan
hỷ vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, vui mừng trong sự hòa
hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu
sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Kế tiếp, người tu sĩ dứt bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, vị ấy nói những lời nói không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm với mọi người, lời nói tao nhã, nhẹ nhàng, êm ái, làm đẹp lòng nhiều người. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ mới xuất gia trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Kế
tiếp, người tu sĩ cần phải dứt bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm,
nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời
về chánh pháp, nói những lời về giới luật nghi, nói những lời hợp thời, hợp lý
có mạch lạc, có hệ thống, có lợi ích cho mọi người. Như vậy là giới hạnh đầu
tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Kế
đến, người tu sĩ phải dứt bỏ ăn uống phi thời, ngày dùng một bữa, không ăn ban
đêm, dứt bỏ ăn uống phi thời, dứt bỏ ăn uống lặt vặt; dứt bỏ đi xem múa, hát,
nhạc, diễn kịch; dứt bỏ trang sức làm đẹp, làm sang; dứt bỏ nằm giường cao rộng
lớn; dứt bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc của người cư sĩ cúng dường; dứt bỏ cất giữ
tiền, bạc, của báu; dứt bỏ nhận thịt sống, dứt bỏ nhận thịt chín. Như vậy là giới
hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Đây là giới hạnh của những người tu sĩ mới bước
đầu vào lộ trình xuất gia đầu tiên theo đạo Phật.
Những
giới hạnh này người tu sĩ cần phải nhớ kỹ và ghi nhớ không được để vi phạm những
lỗi lầm này. Người mới tu cần phải ghi nhớ mãi mãi những điều này, không được
vi phạm. Có vi phạm nhỏ phải xấu hổ, phải hằng răn sám hối, phải hằng sửa sai
không được kéo dài, không được tiếp tục phạm nữa. Có như vậy mới xứng đáng là
người bước đầu vào đạo Phật.
Và
người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật cần phải hiểu thêm, cần phải tu tập thêm
theo những bài kệ dưới đây để dứt trừ những điều ác, mà tăng trưởng các điều
lành.
Quý
thầy hãy nghe những lời dạy này để mà cố gắng cho cái giai đoạn mới bước đầu
vào đạo Phật:
Hãy mau mau làm điều lành,
Thường ngăn tâm làm điều ác.
Hai
cái câu kệ đầu thì khi mà chúng ta mới bắt đầu chúng ta vào đạo Phật, đi vào
cái lộ trình thứ hai trở thành một vị Tỳ kheo tu hành thì tất cả những
cái điều lành thì chúng ta đều là thực hiện làm tất cả những điều lành. Còn
những cái điều ác thì luôn luôn ngăn chặn cái tâm của mình làm cái điều ác, điều
ác lớn điều ác nhỏ gì thì chúng ta phải ngăn chặn nó lại. Đây là 4 cái câu kệ kế:
Nếu người làm điều ác
Chớ tiếp tục làm ác
Đừng ước muốn điều ác
Chứa ác chịu khổ đau
Ở
đây, thì Phật dạy bảo khi mới bắt đầu vào tu, người mới bắt đầu vào tu thì tâm
chúng ta còn quen đi ở trong đời sống thế tục cho nên nó có những pháp ác còn
đang lẫn lộn ở trong tâm hồn của chúng ta. Cho nên đức Phật dạy: Nếu người còn
đang ở trong các pháp ác, chớ nên tiếp tục các pháp ác, dứt nó ra đi và đừng có
muốn, ước ao muốn, như bây giờ mình ham muốn cái này kia, ham muốn ăn cái này
kia, ham ăn rồi đó, hoặc là còn tham sân si, thì đó là các pháp ác đó. Cho nên
đừng có ước muốn các điều ác, vì chứa ác thì cuộc đời chúng ta sẽ gặp nhiều cái
sự đau khổ. Mặc dù là hiện giờ chúng ta là những người tu nhưng còn có gặp những
cái khó khăn chứ không phải là không có những cái khó khăn. Muốn cho được an ổn,
yên ổn tu hành thì chúng ta phải nỗ lực dứt các điều ác. Đừng có ước muốn
nữa, đừng có ham muốn nữa vì tất cả những ham muốn đó nó sẽ đem đến những sự khổ
đau, mà là những khổ đau đó toàn là những sự ác đem đến cho chúng ta.
Nếu người làm điều thiện
Tiếp tục làm thiện thêm
Lòng ước muốn điều thiện
Chứa thiện được an lạc
Nếu
mà chúng ta bước qua giai đoạn, vào lộ trình tu tập của đạo Phật, bắt đầu mới
vào tu thì chúng ta luôn luôn ước muốn làm cái điều lành, tiếp tục làm điều
lành ước muốn làm điều lành và chất chứa những điều lành đó. Thì con đường tu của
chúng ta được an lạc, không còn khó khăn nữa.
Còn
trái lại chúng ta có những cái tâm niệm chứa những cái ác, coi như là nghi ngờ
Thầy tổ của mình, nghi ngờ bằng cách này bằng cách kia. Trước khi mà
chúng ta muốn đến với vị Thầy đó thì ít ra chúng ta cũng phải chọn lấy có đủ niềm
tin hay không, không đủ niềm tin khi đến đó mà khi mình nhận người ta làm thầy
mình rồi mình đâm ra nghi cái này nghi cái kia, đứng núi này trông núi nọ, rồi
dùng những lời lẽ phỉ báng thầy mình, chê bai thầy mình bằng cách này bằng cách
khác thì đó là mình đã chứa những điều ác trong tâm của mình. Và chứa những điều
ác trong tâm của mình như vậy á, là tự mình đã đem lại cái sự bất an, đem
lại cái sự muôn đời chẳng bao giờ tìm được con đường giải thoát.
Một
khi biết Thầy mình, mình đến xin vị đó làm thầy mình, mà mình biết thầy mình
chưa có đạt đến mức giới luật cũng như thiền định cao siêu thì mình vẫn là quý
trọng thầy mình, đừng có dùng cái lời lẽ phỉ báng thầy mình bằng cách này bằng
cách khác đối với một vị thầy đã đưa dắt mình lúc đầu. Ơn không có mà trả oán,
những cái hạng người đệ tử như vậy thì suốt đời của họ tu hành cũng chẳng ra
gì.Vì đó là những điều mà họ đã chứa trong tâm họ toàn là những điều ác.
Người ác thấy là lành
Khi ác nghiệp chưa đủ
Đến khi đã chín muồi
Người ác mới thấy khổ.
Nghĩa là bây giờ chúng ta nói cái này, nói cái kia thì cái nghiệp ác nó chưa có đến với chúng ta đâu. Nhưng mà khi nó đến đủ rồi thì chúng ta mới thấy rõ cái khổ đó là do cái hành động ác của mình, cái hành động mà do cái tâm không tốt của mình.
Người hiền đang sống khổ
Khi thiện nghiệp chưa đến
Nay thiện nghiệp chín muồi
Người lành được an vui.
Nghĩa
là hiện bây giờ chúng ta đang làm lành, nhưng mà cuộc sống chúng ta đang gặp những
cái khó khăn, là do nhân quả của đời trước mà mình hôm nay mình chịu lấy. Khi
mà cái thiện nghiệp hiện giờ mình đã làm, nó chưa có đến đâu, một ngày nào đó
nó sẽ đem đến cho mình. Mà nó đem đến cho mình chín muồi rồi thì cái người làm
điều lành đó sẽ được an vui và an vui mãi mãi trong cuộc sống của họ. Họ sẽ
không có thiếu thốn một cái gì cả.
Bài
kệ kế:
Chớ khinh chê điều ác
Cho rằng chưa đến mình
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng đầy tràn
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần
Nghĩa
là hiện giờ chúng ta coi chuyện ác nhỏ chẳng ra cái gì hết, mình chê mình nói
người này thế này thế khác, hoặc mình làm đau khổ người khác, mình coi nó không
có gì. Nhưng mà nó sẽ là những giọt nước mà nhỏ lần lần nó sẽ đầy cái
bình của chúng ta. Cho rằng nó chẳng có hại gì mình được hết, nhưng mà
cuối cùng nó đầy đủ rồi thì cái bình kia nó vẫn phải tràn đầy. Và khi tràn đầy
thì chúng ta sẽ thọ lấy những quả khổ, mà không ngờ trước những cái quả khổ do
từng giọt nước ác nhỏ, tuy nhỏ nhưng mà lâu ngày nó sẽ đầy cái bình. Tuy giọt
nước nó mềm nhưng nó có thể xoi mòn được đá cứng và cái giọt nước ác cũng vậy,
nó có thể giết hại đời sống của chúng ta toàn là gặp những đau khổ.
Chớ khinh chê điều thiện nhỏ
Cho rằng chưa đến mình
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng tràn đầy
Người trí chứa đầy thiện
Do chất chứa dần dần
Cái
người mà trí thì luôn luôn mỗi việc thiện nhỏ chúng ta đều cố gắng làm, giống
như từng giọt nước nhỏ đến ngày nào đó, một bình nước đầy, chúng ta mặc sức mà
dùng, đời sống chúng ta được an vui và hạnh phúc.
Đây
là những điều mà phải nói rằng trên bước đường tu hành theo đạo Phật thì phải
nói rằng cái giai đoạn mà đầu tiên mà bước qua lộ trình thứ 2 này, trở thành một
vị tu sĩ của đạo Phật. Thì chúng ta phải nhớ những bài kệ này, là những cái
hành động mà đầu tiên chúng ta phải dứt trừ những cái điều ác.
Những
cái điều ác mà nó đưa đến cho đời sống của chúng ta, nó có nhiều cái quả khổ, mặc
dù chúng ta tu hành nhưng phải gặp nhiều cái quả khổ. Chúng ta cố gắng mà dứt
trừ nó thì may ra chúng ta sẽ được an vui trong cuộc đời tu hành của chính
mình.
Bởi
vì hằng ngày trên cái đường tu tập của chúng ta, chúng ta hãy tích lũy từng
chút cái việc làm lành. Thấy một con vật mà bị trôi trên một vũng nước, đang sắp
chết đuối trên vũng nước nhỏ chúng ta mau mau cứu chúng, thì đó là một việc làm
lành nhỏ của chúng ta. Thấy một miểng chai, hoặc là một cây đinh, hoặc là một
cây gai nằm, hoặc cái miểng chai nằm ở trên đường mà người qua kẻ lại thì do đó
chúng ta nên nhặt cái vật đó đi, không khéo thì người vô ý họ sẽ đạp phải, sẽ
gây đau khổ cho thân người đó. Do đó chúng ta muốn tránh sự đau khổ cho mọi người
thì chúng ta nên lượm cái vật đó đi, đó là một cái việc làm lành nhỏ.
Cũng
như chúng ta đi, chúng ta nhìn xuống chân, mà chúng ta tránh đi, đừng có để đạp
con kiến hoặc là côn trùng dưới chân, tránh cái sự chết hoặc là sự gãy chân đau
khổ của chúng chính cũng là một điều lành nhỏ mà chúng ta hằng ngày chúng ta gặp
phải. Thấy một con vật đang đói khát, trong khi đang quằn quại trên cái sự đau
khổ của cơn đói hoặc là cơn bệnh của chúng, thì chúng ta ngồi mà chúng ta nhìn
rồi chúng ta khởi một cái tâm thương yêu, mong rằng sự đau khổ của chúng sanh
này sẽ giảm đi, sẽ bớt đi. Sự ước mong, sự ước muốn của chúng ta nó cũng được cảm
thông với cái sự đau khổ của chúng sanh.
Đó
là những việc làm lành nhỏ mà góp nhặt từng chút để tạo nên cái lành lớn. Nếu
chúng ta không làm được những điều nhỏ này thì khó có thể dứt trừ được những điều
ác. Hằng ngày chúng ta ngồi lại thấy 2 con vật đang cắn lộn nhau, đang giành
nhau cái vật thực gì đó mà cắn nhau, chúng ta vội vàng can ngăn chúng ra, đừng
để chúng đánh nhau, thì đó cũng là một việc lành nhỏ.
Hằng
ngày chúng ta có những điều vô tình làm đau khổ chúng sanh, khi chúng ta đang
ngồi ăn thấy một con kiến hay một con vật gì, rớt ở trên mình chúng ta, bị nó cắn
làm cho chúng ta ngứa hoặc đau, chúng ta sau khi bị đau ngứa không có ý tứ,
không nghĩ đến thương chúng cho nên chúng ta lấy tay vò đi, chà đi làm cho con
vật bị chết đi, đó là chúng ta làm một điều ác nhỏ.
Cũng
như chúng ta ngồi chơi có một con muỗi đáp trên mặt chúng ta hút máu, chúng ta
bắt đầu nghe ngứa ở tại chỗ đó thì chúng ta phải ý tứ, trên mặt chúng ta có chỗ
ngứa chắc lẽ có một con vật, con muỗi hay con gì cắn chúng ta, hãy từ từ nhẹ
tay để cho con vật đó không chết, đó là một việc làm thiện nhỏ.
Hằng
ngày còn biết bao nhiêu việc nhỏ, như chúng ta đổ một cái xô nước nóng, chúng
ta nhìn trước sau coi dưới đất chúng ta đổ có chúng sanh không, nếu không có
chúng ta sẽ đổ, và đổ nước nóng xuống đất mà không có chúng sanh thì không có
chết hại chúng sanh, đó là một việc làm thiện của chúng ta.
Chúng
ta nắm một cái cây mà chúng ta ném, cái cây rớt rủi ro trúng một con vật nhỏ
như một con cuốn chiếu, hoặc là một con trùng, hoặc một con kiến, nó cũng làm
cho con vật đau khổ. Tốt hơn, chúng ta đừng vô tình ném một cái cây, một khúc
cây mà rớt để làm cho đau khổ chúng sanh. Chúng ta hãy để nhẹ nhàng khúc cây
vào cái nơi vị trí của chúng, thì thứ nhất là oai nghi tế hạnh của chúng ta rất
là nhẹ nhàng, rất là có oai nghi, và thứ hai là không làm đau khổ chúng sinh.
Đó
là những việc làm thiện nhỏ mà chúng ta phải nhặt nhạnh từng chút, từng ngày để
tạo cho chúng ta có những cái điều lành lớn sau này.
Và
đối với cái hành động ác hằng ngày mà hành động nhỏ chúng ta cũng cần lưu ý, và
đối với cái hành động thiện nhỏ hằng ngày chúng ta cũng cần lưu ý để mà trau dồi
thân tâm của mình trong những oai nghi, tế hạnh của người tu sĩ mới bắt đầu tu
tập giới hạnh của Phật, thực hiện cái đời sống hằng ngày oai nghi tế hạnh đầy đủ,
nhẹ nhàng, để giúp đỡ tất cả chúng sanh không vì mình mà đau khổ.
Đây
là những điều căn bản đầu tiên giới hạnh của người tu sĩ mới bước qua lộ trình
xuất gia cần phải thông hiểu rõ ràng để không có lỗi lầm, để không phạm phải.
Nhưng bấy nhiêu đây chưa đủ để đi suốt cái quãng đường xuất gia tu hành, đi đến
chấm dứt sanh tử luân hồi được mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa, và phải tu tập
nhiều hơn nữa.
Người
tu sĩ Phật giáo mới bước đầu vào đạo cần phải sống độc cư, sống trầm lặng, sống
một mình, còn phải tu tập Chánh niệm tỉnh giác định, Định vô lậu, Định sáng suốt... Cho
nên chúng ta không bước vào lộ trình của người tu sĩ thì thôi, mà đã bước vào
cái lộ trình của người tu sĩ thì thứ nhất là chúng ta phải thấy hạnh độc cư rất
là quan trọng đối với người tu sĩ, bởi vì cuộc sống ngoài đời chúng ta rất
thích là ham vui, nói chuyện này, chuyện kia, cười cợt, nói diễu, nói đùa, nói
móc, nói máy, nói mỉa mai người này, người nọ, người kia...để cho mình thỏa
thích cái tâm vui, cái tâm cô đơn của mình. Nhưng khi mà bước vào cái nẻo xuất
gia tu hành rồi thì chúng ta phải thấy những cái mà sống như vậy nó không đúng
là cái hạnh của người tu sĩ. Mà phải sống đúng cái hạnh người tu sĩ là phải sống
độc cư, sống một mình, sống không nói chuyện với ai, luôn luôn phải ưa thích trầm
lặng, phải sống cuộc sống trầm lặng, phải luôn sống cho mình, phải luôn sống để
tâm mình hợp nhất đừng bị phân tán các ngoại cảnh, các đối tượng, các hoàn cảnh.
Vì
vậy mà chúng ta thường xuyên phải tu tập cái Chánh niệm tỉnh giác định và cái Định
vô lậu và phải sống hằng ngày trong cái Định sáng suốt.
Và
hằng ngày, muốn sống trong cái Định sáng suốt thì cái người tu sĩ mới bắt đầu
qua lộ trình thứ 2, cái lộ trình của người xuất gia đó, thì phải tu tập ở trong
cái Chánh niệm tỉnh thức. Mà cái Chánh niệm tỉnh thức thì lấy sự đi kinh hŕnh,
lấy việc làm hằng ngày của ḿnh trong lao tác, trong cái lao động đó mà tập
trung tâm của mình ở nơi cái hành động để biết cái hành động của mình đang ý tứ
làm những công việc cho tỉnh táo, cho sáng suốt và thường phải dùng pháp hướng
nhắc cái tâm của mình. Thí dụ như mình đang lặt rau hoặc đang nấu cơm, thì đang
lặt rau nói “tôi biết tôi đang lặt rau", và khi lặt rau xong
rồi đến giai đoạn nấu cơm thì "tôi biết tôi đang nấu cơm",
thỉnh thoảng mình lại nhắc "tôi biết tôi đang nấu cơm".
Tập cho cái sức tỉnh thức của mình ở trong cái hành động đó để cho nó luôn luôn
nó tỉnh thức, nó không có một niệm vọng tưởng xen vào và cũng không có
niệm vô ký quên đi cái hành động của chúng ta.
Đó
là cái phần tu Chánh niệm tỉnh thức, thì cái phần đó nó giúp cho chúng ta được
ý tứ trong hành động để mà giữ gìn giới hạnh cho nó đừng có vi phạm, đừng có mà
phạm phải. Và kế tiếp thì chúng ta phải tu cái Định vô lậu, và
cái Định vô lậu thì chúng ta phải thường xuyên đặt cái niệm ở trước mắt của
chúng ta, bây giờ chúng ta vẫn là người mới rời khỏi gia đình, tình cảm chúng
ta nó còn dính dấp đối với những người thân cho nên mình đặt cái niệm nhân quả
đối với người thân như cha mẹ, vợ con, anh em... Thì chúng ta nhìn nó và quán
xét cái nhân quả. Nếu không có nhân quả thì làm gì ngày nay chúng ta trở thành
con cái hoặc là trở thành cha mẹ của mình. Nếu không có nhân quả thì làm sao những
người này họ trở thành vợ con mình được. Có nhân quả một là mình nợ họ, hai là
họ nợ mình. Do chỗ đó chúng ta quán xét suy tư, từ đó mới dứt được tình thương
yêu một cách rất là vô minh không có sáng suốt. Làm cho cái tâm của chúng ta
càng ngày càng lìa xa cái tình thương yêu nhỏ mọn, nó không rộng lớn như cái
tâm từ bi của Phật dạy.
Muốn
được vậy thì hằng ngày chúng ta đặt cái niệm lòng thương yêu của chúng ta đối với
gia đình, đối với những người thân, chúng ta phải quán xét nó bằng đường lối của
Nhân quả. Bằng những cái nợ, hoặc là mình nợ họ, hoặc là họ nợ mình. Cho
nên đây là một sự vay trả, một sự đòi hỏi để trả nợ với nhau trong hiện kiếp
này, mà cái đời kiếp kia là con nợ với nhau mình nợ họ, họ nợ mình. Do như vậy
chúng ta mới dứt được những cái điều thương…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét