GIỚI HẠNH – GIỚI ĐỨC – GIỚI TUỆ - GIỚI BỔN PATIMOKKA
Thì lâu ngày ăn uống không được thì sẽ bệnh; một
người giận dữ, tức giận, thì cũng ăn uống không ngon do đó tạo cho cơ thể rối
loạn và từ đó dễ sinh bệnh. Cho nên những cái sân hận, phiền não, đau khổ, lo
lắng, suy tư, là cái tâm bệnh. Cái tâm bệnh thì lấy gì mà trị? Đức Phật nói cái
tâm bệnh lấy trí mà trị, lấy sự hiểu biết mà trị nó. Cho nên ở đây hầu hết để
trị cho chúng ta cái tâm bệnh vô lậu này thì phần nhiều là lấy trí tuệ, mà lấy
trí tuệ thì như quý thầy đã học rồi, trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó. Bởi vì trí tuệ nó làm cho giới luật thanh tịnh, mà giới luật
nó làm cho trí tuệ thanh tịnh. Cho nên người có trí là người có giới
luật mà người không có trí là người không có giới luật, dù là người đó là người
có thông minh gì đi nữa mà đời sống họ không đúng giới hạnh, không đúng giới
luật của Phật dạy thì đương nhiên người đó là người không có trí. Cũng như quý
thầy thấy, mọi vị ăn phi thời tức là người đó không có giới luật, mà không có
giới luật tức là không có trí tuệ, mà không có trí tuệ thì người ăn phi thời sẽ
có nhiều bệnh tật đem đến đau khổ cho họ.
Và khi mà chạy theo sự ăn uống đó là họ bị
dục lạc của ăn uống cám dỗ làm cho tâm hồn của họ khi mà ăn cực khổ hoặc là khi
không có ăn thì họ phải sanh ra đau khổ, phải sinh ra phiền não, phải sinh ra
những cái ác pháp. Đó thì như vậy là người không có trí mà chỉ sống theo dục
lạc cho nên luôn luôn tạo mình khổ, tức là tạo cho mình có bệnh, tâm bệnh hoặc
là thân bệnh. Cho nên ở đây cái Định niệm hơi thở vốn mục đích nó hợp với cái
sự ăn uống điều độ của chúng ta thì giúp cho thân chúng ta không bệnh, cho nên
nó là định thứ nhất của Đạo Phật để trị thân bệnh của chúng ta. Còn các cái
định khác, còn 9 cái thứ định này vốn để trị tâm bệnh của chúng ta. Đó thì Định
niệm hơi thở nó hợp với đời sống ăn uống của chúng ta hàng ngày thì nó trị được
cái thân bệnh. Còn 9 cái loại định sau này nó hợp lại để mà nó trị cái tâm bệnh
của chúng ta. Biết như vậy thầy sẽ kể tiếp cho quý thầy nghe.
Thứ hai là Thánh định
phòng hộ sáu căn. Bởi vì phòng hộ sau căn là một cái
loại định làm cho mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta thanh tịnh, và oai nghi
luật nghi, cái luật nghi mà Giới hạnh làm cho chúng ta rất rõ nét mà người nào
nhìn vào cũng biết là cái người đó Giới luật hẳn hoi. Một người tu sĩ mà đi ra đường
ngó qua ngó lại thì biết rằng người đó không phòng hộ sáu căn. Mà không phòng
hộ sáu căn thì tức là người đó đã phạm Giới. Không thể nào trong ý của họ không
phạm Giới. Họ đi mà họ ngó qua ngó lại thì cái ý họ bị dính kẹt ở trong những
cái đối tượng của các pháp thế gian thì làm gì họ cũng bị phạm Giới hết. Mặc dù
là Thân – Khẩu họ không phạm, đời sống họ không phạm nhưng Ý họ vẫn bị phạm
Giới. Đó là Thánh Định phòng hộ sáu căn.
Thứ ba là Thánh Định
Chánh niệm Tỉnh thức, nghĩa là người tu
sĩ luôn luôn phải tỉnh giác, phải tỉnh thức, không có được mê mờ, cho nên khi
đi họ luôn luôn tập trung dưới bàn chân họ, họ tránh tất cả những loài chúng
sanh và đồng thời họ giữ được Chánh niệm là không hại chúng sanh, không làm đau
khổ chúng sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tức là giữ giới không sát hại
chúng sanh. Cho nên Giới luật ngay từ chỗ bước đi của họ chứ không phải họ cầm
dao họ giết con vật hoặc cầm dao giết người mới gọi là sát sanh, mà chính vô
tình đạp chết chúng sanh vẫn là thọ lấy cái Giới phạm Giới sát sanh chứ không
phải không.
Thứ tư, Chánh Định Thiểu
dục tri túc. Nghĩa là phải dùng cái sức định tâm
hết sức mới giữ được cái Thiểu dục tri túc, chứ không thể nào mà thiếu Thiểu
dục tri túc, thiếu cái định tâm mà giữ gìn được Thiểu dục tri túc đâu! Cho nên
ở đây thứ tư là Thánh định Thiểu dục tri túc, Phật gọi nó là Thánh định. Cái
Thiểu dục tri túc là của bậc Thánh chứ không phải phàm phu mà thiểu dục tri túc
được. Quý thầy cứ nghĩ ba y một bát như thế này, sống ngày có người cho ăn mà
có ngày không có người cho ăn vẫn thấy mình biết đủ, chưa phải là thấy mình
thiếu sót đói khổ. Quý thầy có nghĩ được cái điều đó không? Cuộc sống của một
người tu sĩ mà đến cái mức độ đó thì quý thầy thấy nếu mà ngoài đời sống thì
không ai mà chịu nổi hết. Người ta nói quá khổ, không thể nào cái khổ nào hơn
cái khổ của những bậc Thánh này. Vì vậy cho nên Thiểu dục tri túc nghe hai danh
từ thì dễ lắm, nhưng mà sống không phải dễ. Khi vào trong rừng không có cơm ăn,
phải ăn lá cây rừng vẫn thấy Thiểu dục tri túc. Khi đau bệnh mà không có thuốc
thang vẫn thấy Thiểu dục tri túc, trước cơn ngặt nghèo mà chúng ta vẫn thấy
Thiểu dục tri túc. Không đòi hỏi thì lúc bấy giờ mới thấy Thiểu dục tri túc
phải là Thánh định, chứ còn không Thánh định thì không thể nào chịu nổi trước
cái cảnh thân và tâm quá khắc khổ trong cuộc sống. Đó gọi là Thánh định Thiểu
dục tri túc, mà ở đây đã có kê ra từng cái giới đức của nó ở trong đó. Mỗi cái
giới đức thiểu dục tri túc là chứng tỏ qua một cái sự tu tập rèn luyện mình mới
đạt được cái Giới Đức đó chứ không phải dễ. Cho nên Định nó thuộc về Giới đức.
Thứ năm, Thánh Định Vô lậu.
Làm cho lậu hoặc chúng ta sạch cho nên gọi là Thánh Định Vô lậu.
Sáu, Thánh Định Sơ
thiền. Còn gọi là Định chói sáng, hay gọi là Định
sáng suốt. Đó, cái Sơ Thiền nó còn có cái tên gọi là Định chói sáng hay là Định
sáng suốt mà Thầy thường nhắc quý thầy ngồi lại mà giữ tâm thanh thản, giữ tâm
vô sự đó. Đó là cái Định Sơ Thiền đó. Chứ không phải là gì, vì có ly dục ly bất
thiệp pháp thì mới nhập được Sơ Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi nó mới
thanh thản, còn không thì làm sao mà thanh thản được. Cho nên cái Định Sáng
suốt, cái Định chói sáng đó là cái định của Sơ Thiền. Vì vậy ở đây Phật gọi là
Thánh Định Sơ Thiền. Chứ không phải phàm phu mà nhập được cái Định này đâu!
Kế
đó thứ bảy thì Phật gọi là Thánh Định Nhị Thiền.
Nghĩa là diệt Tầm Tứ, không tác ý, không phải chuyện dễ làm của phàm phu cho
nên chỉ có bậc Thánh mới có thể làm được điều đó.
Thứ tám, Thánh Định Tam
Thiền. Thánh Định Tam Thiền chỉ có bậc Thánh mới
ly tất cả những trạng thái của ma tức là mười tám cái trạng thái của Tưởng. Mỗi
cái trạng thái của Tưởng nó khởi lên là nó làm cho chúng ta có niềm vui mừng,
mà cái niềm vui mừng đó nó làm cho chúng ta mà Phật gọi là “Ly hỷ, trú xả”. Mỗi
cái trạng thái của Tưởng khởi lên làm cho thân chúng ta đang bị đau khổ dày vò
do đó chúng ta phải ly cho được thì như vậy chúng ta mới nhập cho được Tam
Thiền. Mà ly mười tám trạng thái của Tưởng này thì mới nhập được Tam Thiền cho
nên mới gọi là Thánh định. Thậm chí như
giấc mộng, chiêm bao chúng ta cũng phải ly sạch ra, nếu còn mộng thì
chưa nhập Tam Thiền. Cho nên cái sức tỉnh của người đó dù trong lúc ngủ họ phải
tỉnh, mà không tỉnh thì phải có chiêm bao, mà chiêm bao tức là họ chưa ly được
cái trạng thái của Tưởng. Chưa ly được trạng thái của Tưởng thì không bao giờ
nhập được Tam Thiền. Cho nên khi ngủ, cái người mà tu đến cái chỗ mà vượt qua
mười tám cái Tưởng này thì người đó không còn mộng mị. Mà không còn mộng mị thì
ngủ phải tỉnh thức chứ không thể ngủ mê như cái người tầm thường phàm phu được.
Tới cái chỗ Thánh Định Tam Thiền này chúng ta mới biết rằng cái chỗ ngủ và chỗ
thức của chúng ta nó không có cái chỗ sai khác chút nào hết.
Thứ chín, Thánh Định Tứ
Thiền. Đây, quý vị thấy cái Thánh Định Tứ Thiền là
cái chỗ mà ngưng hoàn toàn hơi thở chúng ta, mà chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh
nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh đó. Đó là chỗ Thánh Định Tứ Thiền,
không phải kẻ phàm phu mà nhập được Tứ Thiền nổi đâu! Không phải chuyện dễ, hơi
thở đang thở như thế này mà ngưng lại các hành hoạt động trong hơi thở, đang co
bóp, phổi chúng ta đang thở ra thở vô, thế mà nó hoàn toàn ngưng mà chúng ta
không chết thì không phải là những cái thiền của bậc Thánh mới làm được sao? Đó
là cái chỗ làm chủ được sống chết của thân của chúng ta, cho nên chúng ta nếu
mà muốn bỏ thân này thì đều phải nhập vào Tứ Thiền thì mới bỏ thân này được.
Thứ mười, Thánh Định Diệt
Thọ Tưởng. Nghĩa là cái Định cuối cùng là định
thứ mười là Diệt Thọ Tưởng. Cái Định này nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm
không bị hoại diệt, nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt.
Nghĩa là Thánh Định Tứ Thiền nó chỉ có 49 ngày, nếu quá 49 ngày thì cái thân
của quý vị sẽ bị hoại diệt, vì nó còn ở trong cái Thức thức, nó chưa ly khỏi
cái thân Ngũ uẩn của nó, Tứ Thiền nó chưa lìa khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, nó
còn ở trong cái Thức thức của nó để nó sử dụng cái biết để mà trở về cái trí
tuệ Tam Minh của nó, tức là cái Giới Tuệ của nó cuối cùng. Cho nên nó không giữ
được cái thân của nó lâu dài, chỉ có 49 ngày thì nó bị hoại diệt. Nhưng chúng
ta nhập tới 49 ngày tự cái thân của chúng ta nó phải phục hồi sự sống lại, nó
sẽ bung ra chứ nó không ở trong Tứ Thiền. Cho nên chúng ta chẳng ngại vấn đề
đó. Nếu chúng ta nhập Tứ Thiền đến đó nó tự bung ra, nó không nằm ở trong đó
cho chúng ta chết đâu. Còn Diệt Thọ Tưởng Định thì cái Thánh Định thứ mười này
nó giúp cho chúng ta nhập vào cái Định này cả trăm năm, cả ngàn năm thân này
bất hoại, không hư, không hôi, không thúi, luôn luôn lúc nào nó cũng giữ gìn
cái thân nó vững chắc như đá, không mòn, không hao, không có một vật gì phá
hoại cái cơ thể này được. Đó là cái Định giữ gìn cái cơ thể tối đa và tất cả
những cái bộ phận ở trong thân đó đều hoàn toàn ngưng hoạt động, thậm chí như
cái Ý căn của chúng ta cũng hoàn toàn ngưng hoạt động. Đó là cái bộ óc. Còn Tứ
Thiền thì cái bộ óc của chúng ta, cái Ý căn của chúng ta vẫn còn hoạt động,
nhưng các phần khác của bộ óc đều đình chỉ như cái phần mà hoạt động của bộ óc
chúng ta về Ý thức của chúng ta thì ngưng hoạt động. Về cái phần Tưởng thức
ngưng hoạt động, chỉ còn cái phần của Thức thức là nó đang hoạt động mà thôi.
Phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rằng cái Định của Tứ Thiền thì cái Ý
căn của chúng ta còn hoạt động trong cái phần của Thức thức, chứ không hoạt
động của phần Tưởng thức và Ý thức của chúng ta. Còn Thánh Định Diệt Thọ Tưởng
thì cái Ý căn của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên Phật gọi nhập
Diệt Thọ Tưởng Định là cái Ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ, phải tịnh chỉ ý
hành thì mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà tịnh chỉ Ý hành tức là Ý căn ngưng
hoạt động. Quý thầy hiểu cái chỗ đó. Thì như vậy quý thầy mới biết mười cái loại
Định. Trong khi người ta dạy Thiền Định chỉ có một thứ Thiền Định mà ở đây Phật
dạy chúng ta tới mười cái loại Thiền Định. Con đường của đạo Phật nó không đơn
giản đâu! Nó không phải có một loại định nào mà chúng ta có thể hoàn tất được
cái sự giải thoát cho chúng ta, mà cả mười loại mà chúng ta phải tu chứ không
có bỏ một cái loại nào được hết.
Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở
cũng là tốt, mà tu làm mọi công việc biết hành động làm mọi công việc cũng là
tốt chứ đâu có gì sai, mà quý vị phòng hộ sáu căn, giữ gìn sáu căn của mình
cũng là tốt, đâu có gì sai. Mỗi Giới luật của quý thầy học được quý vị giữ được
một cái Giới luật nào đó cũng đều nhằm ở trong mười loại Định này chứ không
ngoài mười loại Định đâu mà sợ rằng chúng ta tu lạc. Chỉ có chúng ta bị lạc vào
những cái trạng thái của Tưởng mà nó khiến cho thân của chúng ta rối loạn, trở
thành điên khùng, trở thành bệnh Thiền chứ không có gì khác hết. Chỉ có chỗ từ Nhị Thiền đến Tam Thiền cái đoạn đường đó là
quý vị sẽ lạc vào những cái Thiền ma mà trở thành thân bệnh, tâm bệnh mà thôi.
Nếu mà vượt qua được cái chỗ từ Nhị Thiền đến Tam Thiền mà vượt qua mười sáu
cái loại của Tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn trên bước đường tu tập,
không có sợ điên sợ khùng gì nữa hết. Nó chỉ có một đoạn đường đó mà người ta
chết điêu chết đứng ở đó mà không đi tới đâu được hết.
Gồm chung mười loại Định này gọi là
Giới Đức. Nghĩa là mười cái loại Định này thì nó được cái tên gọi là Giới Đức,
còn gọi là Giới Tâm hay gọi là Thiền Định, còn gọi là Trung Thiện. Những cái
tên của nó để gọi cho chúng ta biết mười cái loại Định đó nó có những cái tên
của nó như vậy để cho nó phù hợp với đạo Phật, đúng với cái nghĩa của đạo Phật.
Bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp với vị trí nó.
Như vậy là chúng ta phải hiểu khi mà
bốn cái loại định này nó đứng ở trong cái vị trí của Định thì nó gọi là Thiền
Định, mà nó đứng ở trong Giới luật thì gọi nó là Giới Đức, mà nó đứng ở trong
các pháp thiện – nhân quả thì nó gọi là Trung thiện. Bởi vậy nó đứng ở vị trí
nào thì nó có một cái tên xứng hợp ở vị trí nấy, như nó ở vị trí nhân quả thiện
ác thì nó gọi là Trung thiện. Đó, Thầy đem cái ví dụ để quý thầy thấy rất rõ,
nếu nó ở trong cái nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện, mà nó ở cái vị
trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nếu mà nó ở trong cái vị trí của Giới
luật thì phải gọi nó là Giới Đức, nó ở vị trí tâm định, trong sạch thì nó gọi
là Thiền định. Nói chung nó là Giới Đức thanh tịnh tâm. Nó có một cái tên chung
của nó gọi là Giới Đức thanh tịnh tâm.
Đó quý thầy thấy có những cái tên của
nó, nó đặc biệt có những cái tên riêng của nó nhưng nó có những cái vị trí đứng
của nó, nó có những cái tên riêng của những cái vị trí đứng của nó. Như vậy là
quý thầy nghe nói Giới Đức thì quý thầy hiểu nó là cái gì rồi. Mà nghe nói Giới
Đức thì quý thầy đứng ở trong nhân quả biết nó là cái Trung thiện rồi, biết nó
là cái tên gì rồi mà nếu gọi chung nó thì Đức Giới thanh tịnh tâm. Đó thì quý
vị có cái biết rằng cái Đức Giới này nó làm cho cái tâm của quý vị thanh tịnh
mà định tỉnh, rất là sáng suốt.
Còn về 25 Giới hạnh như Thầy đã dạy ở
trên còn gọi là Giới bổn Patimokka. 25 cái hạnh mà mình không làm nghề nghiệp
này không làm nghề nghiệp kia đó, không sát hại chúng sanh đó. Tất cả những cái
ở trên thì nó thuộc về Giới bổn, sau này chúng ta ta sẽ học nó đây để chúng ta
bổ túc thêm cho 25 cái Giới hạnh cho nó rõ ràng là oai nghi tế hạnh của người
tu sĩ. Học Giới bổn rồi chúng ta mới thấy được 25 Giới hạnh này nó còn thêm
những hành động mà chúng ta chưa có học, có thu, nhập, có hiểu biết, chưa toàn
diện. Khi mà học hết Giới bổn Patimokka này rồi thì chúng ta có đầy đủ hơn về
những cái Giới hạnh. Hạnh Giới Ly trần tâm. Nghĩa là 25 Giới hạnh này còn có
một cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, nghĩa là cái Giới hạnh này nó ly cái
tâm thế tục của chúng ta, nó ly cái đời sống thế tục của chúng ta, chúng ta
không còn có ở trong thế tục nữa, không còn sống như cách sống thế tục nữa. Cho
nên nó có cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, nó có cái tên của nó, 25 Giới
hạnh này, gọi là Hạnh Giới ly trần tâm. Chúng ta không còn cái hành động sống
như các người thế gian nữa, cho nên nó ly ra tất cả hết cái tâm trần của chúng
ta, nó lìa ra hết. Cho nên nội cái Giới hạnh không là chúng ta đã lìa cái thế
gian rồi.
Còn về 8 Giới Tuệ như trong Kinh Sa
môn quả đã dạy thì chưa đủ. Nó có 13 Giới Tuệ. Bây giờ cái Giới Tuệ chúng ta
phải xác định, hồi nãy Thầy xác định cái Định cho nó đủ để 10 cái Định. Còn bây
giờ nói hồi nãy chúng ta có học 8 Giới như trong Kinh sa môn quả đã dạy thì nó
chưa có đủ đâu, mà chính nó phải đủ là 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là có 8
Giới Tuệ đâu. Nhưng mà theo Kinh Sa môn quả thì chúng ta nêu ra 8 cái Giới Tuệ,
cho nên nó có sự tóm tắt lại để cho chúng ta ngắn gọn, để không nó dài dòng cho
nên ở đây nếu phải rõ thì nó là 13 Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ.
Chúng ta phải kể ra cho rõ, nghĩa là Thầy phải nói ra cho rõ để cho quý thầy
biết như thế nào là 13 cái Giới tuệ này mà ở trong Kinh Giới - Kinh Sa môn quả
thì dạy có 8 cái Giới Tuệ mà thôi. Vậy thì nó làm sao mà có được 13 Giới Tuệ
đây? Chúng ta phải thấy:
1. Bốn
Như Ý Túc.
2. Lục
Thông.
3. Tam
Minh.
Quý thầy thấy nó rõ ràng là Bốn Như Ý
Túc, mình muốn như thế nào nó làm theo như thế nấy hết mà bốn cái lận chứ không
phải một cái Như Ý Túc đâu. Cho nên nó là bốn, mà Lục thông là sáu cái thông:
Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông,… cho đến Tha Tâm Thông là sáu cái, mà sáu
cái cộng với bốn không phải là 10 sao? Rồi ba cái Tam Minh nữa. Ba cái nữa là
phải 13 không? Cho nên phải nói đủ là 13 cái Giới Tuệ. Thì như vậy là chúng ta
thấy cộng lại là nó đủ 13 chứ không phải như trong Kinh Sa môn quả nói đâu.
Trong Kinh Sa môn quả chỉ nói cái Thiên Nhĩ Thông. Thầy nhắc lại cái Thiên Nhĩ
Thông ở trong này là khi cái người đạt được cái Thiên Nhĩ Thông mà siêu nhân
rồi thì cũng nghe cái tiếng ở cách xa ngàn dặm đó cũng như mình đi ra ngoài
đường mình nghe người ta đánh trống, thổi kèn, đánh xập xả y như vậy, rõ ràng
như vậy, mà cái tiếng người ta nói chuyện ở đâu mình vẫn nghe được như vậy.
Đó là đức Phật nói về Lục thông thì
đức Phật có nêu lên có một cái mà thôi để nói nó là cái Trí, cái Tuệ, cái Giới
Tuệ của nó ở trong cái cho nó gọn thành lại 8, nhưng mà lôi ra cho đủ là nó
phải 6 cái Lục thông này mới đủ chứ không phải một cái được. Cho nên ở đây nó
là 13 Giới Tuệ này còn gọi là Trí Tuệ viên mãn. 13 Giới Tuệ này cũng còn gọi nó
với cái tên là Trí Tuệ viên mãn vì nó viên mãn cái trí tuệ này nó phải đủ là 13
cái Giới Tuệ này, chứ một cái mà nói bây giờ chúng tôi có Tam Minh thôi thì cái
người đó chỉ hiểu quá là cạn, đơn sơ quá đơn sơ. Cho nên ngoại đạo nó cũng có
Lục thông thì ở trong cái chỗ tu hành của chúng ta cũng thực hiện Lục thông chứ
đâu phải không có Lục thông. Mà chúng ta còn có Tứ Như Ý Túc, muốn cái gì được
như nấy, còn chúng nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên nó luyện có Lục thông
mà nó không có Tứ Như Ý Túc thì nó đâu có bằng cái phương pháp của Phật, mà nó
chưa có Tam Minh nữa thì nó đâu có sánh được bằng Phật. Nó chỉ có Lục thông mà
thôi. Cho nên cái Lục thông của nó là do luyện tập để tạo cho có cái Lục thông
bằng Tưởng pháp chứ không phải bằng cái chánh pháp đâu, bằng cái Tưởng. Vì vậy
mà khi mà đến Tưởng thì chúng ta dùng Lục thông này được, cũng như đồng cốt mà,
nó chỉ dùng cái Tưởng mà nó biết nhà mình cái gì gì nó rõ hết, nó không có nói
sai. Thì quý thầy thấy cái vấn đề Lục thông của ngoại đạo là Lục thông nó ở
trong trạng thái của Tưởng uẩn mà nó thực hiện ra. Còn Lục thông của chúng ta
là ở chỗ tâm thanh tịnh, sáu căn mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta do ly ác
pháp và ly dục cho nên nó thanh tịnh mà nó như cái hồ nước trong. Vì vậy mà cái
Lục thông này tự thanh tịnh mà thông suốt ra chứ không phải là do chúng ta
luyện tập ở chỗ Tưởng. Biết như vậy thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tuyệt
vời của đạo Phật đối với cái chỗ 13 cái Giới Tuệ này. Cho nên còn gọi nó là Trí
tuệ viên mãn, viên mãn tức là đầy đủ, trọn vẹn không còn thiếu nữa. Còn gọi là
Trí tuệ siêu việt, nó còn có những cái tên Trí tuệ viên mãn là trí tuệ đầy đủ
không còn thiếu, tới 13 cái Giới Tuệ này là Trí tuệ đầy đủ không còn có cái nào
nữa thêm nữa được hết. Đó gọi là Trí tuệ viên mãn. Nó còn gọi là Trí tuệ siêu
việt, cái trí tuệ này nó điều khiển tất cả những cái mà người ta không có thể
nghĩ lường được cho nên nó gọi là siêu việt.
Nói Trí tuệ người ta tưởng lầm là Tri
kiến. Bây giờ mình nói Trí tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái Tri kiến của
mình. Có người hiểu bởi vì Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy thì người ta
nghĩ như vậy, người ta cho Tri kiến là Trí tuệ, vì tri kiến là Trí tuệ nên
người ta phân chia làm 3 Trí Tuệ. Cho nên bây giờ Thầy nhắc là người ta lấy cái
tri kiến đó mà người ta cho rằng nó là Trí tuệ cho nên người ta phân chia cái
Trí Tuệ đó làm 3 cái Trí Tuệ của chúng ta. Đó là một
cái hiểu sai của những người chưa có biết tu. Cho nên vì vậy trong Kinh
rõ ràng là ghi như thế này:
1. Văn
tuệ.
2. Tư
tuệ.
3. Tu
tuệ.
Ai mà nghe những người giảng về Trí
tuệ đó thì họ phân chia rồi làm Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ. Phải không? Văn Tư Tu
đó. Cho nên cái này nó chỉ là Tri kiến chứ không phải là cái Tuệ đâu, nó không
phải là Trí tuệ đâu. Nó là cái Tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái Tri
kiến giải thoát nữa. Cái chỗ mà Văn Tư Tu này nó chưa đạt được cái tri kiến
giải thoát của chúng ta nữa. Nó chỉ mới ở cái chỗ Tri kiến mà thôi, tức là cái
nơi mà chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của Kinh sách,
của những người xưa người nay để thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là
Văn tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là Văn tuệ. Từ cái
chỗ Văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này bằng cách khác để làm cho tâm
chúng ta giảm bớt sự buồn khổ, như thế này thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra
để mà chúng ta tìm hiểu thêm ra, thì cái đó đó gọi là Tư tuệ. Tư là suy tư, tư
duy, cái suy nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được cái lý gì đó thì gọi
Tư tuệ. Nhưng đó cũng là cái Tri kiến của chúng ta chứ không phải là cái Trí
Tuệ.
Còn đến phần Tu tuệ thì ở trong Kinh
sách dạy chúng ta lấy một cái sự hiểu biết như bây giờ Phật dạy làm cho chúng
ta hiểu biết đó, đó là cái thân chúng ta này, Ngũ uẩn của thân ngũ uẩn chúng ta
này là Vô thường, Khổ, Vô ngã này, thì chúng ta lấy cải chỗ hiểu biết đó mà để
chúng ta tu tập làm cho thân, cái tâm của chúng ta không có phiền não, không có
đau khổ nữa. Vì thấy cái thân vô thường này mình không chấp ngã này, mình không
có giận hờn ai nữa này, mình thấy cái thân vô thường này mình không có sợ đau
sợ khổ nữa này. Cái mà làm cho mình không có đau khổ đó gọi là lấy cái trí tuệ
đó mà tu thì gọi là Tu tuệ. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu 3 cái trí tuệ này
chỉ là một cái Tri kiến của chúng ta thôi chứ không phải gì khác hơn hết. Nó
không phải là Trí tuệ siêu việt. Nó cũng không phải là Trí tuệ viên mãn. Nó chỉ
là một cái Tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này ai cũng có
chớ không phải cần tu tập mới có. Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta
ăn nói nó có lưu loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn
chương bằng cách này bằng cách khác là do vay mượn của kẻ khác nói thì nó hơn
là cái người mà không có vay mượn văn chương, cho nên họ nói lời nói bình dân
mộc mạc, họ nói không có mượn câu này kia. Nói một hơi chúng ta để một câu kinh
Phật ra nói, nói một hơi chúng ta đem câu Nho ra nói thì cái đó là vay mượn của
kẻ khác mà làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái
vay mượn.
Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn
khoa học để chứng minh cho Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa
học như vầy như vầy. Đó là cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học
bằng máy móc của người ta tìm ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái
vũ trụ này, do đó chúng ta vay mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng
thực như vậy. Đó là cái vay mượn mà cái vay mượn đó là cái tri kiến góp nhặt mà
nói ra để làm cho chúng ta như một người thông về khoa học, thông về cái này
thông về cái kia. Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà
cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và
vô ngã được.
Văn Tư Tu Tuệ này chỉ là một Tri kiến
góp nhặt chứ không thể được liệt vào Tam Vô Lậu học Giới – Định – Tuệ của đạo
Phật. Bởi vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại Giới luật, mặc
dù nói là Giới – Định - Tuệ có cái tên riêng nhưng mà sự thật toàn bộ Giới –
Định – Tuệ là một cái Giới luật như Thầy hồi nãy đã nói. Giới bổn tức là Giới
Hạnh, mà Định tức là Giới Đức, Tuệ là Giới Tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật là
Giới luật chứ không phải gì khác hơn hết. Vì người dạy Giới luật mà không hiểu
được điều này mới thấy Giới là nói riêng, Định nói riêng và Tuệ nói riêng, cho
nên dạy giới luật rất là khô khan. Làm cho con người ta học đến Giới luật người
ta chán, người ta thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ
trói buộc con người, cho nên người ta sống không có nổi với nó. Còn trái lại ở
đây Thầy dạy giới luật nó ở trong Tam Vô Lậu học cho nên Giới – Định – Tuệ nó
là một cái Giới luật để đem lại sự giải thoát cho con người. Từ bước đầu vô cái
Giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, cho đến Giới Đức chúng ta thấy cả một sự
định tâm vô cùng tuyệt diệu, cho đến cái Giới Tuệ chúng ta không nghĩ lường
được cái quyền lực của Giới Tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật
như vậy.
Cho nên ở đây dạy về Giới luật mà hiểu
biết được Giới Kinh, hiểu biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới – Định –
Tuệ này thì Thầy nói là người dạy Giới luật rất là linh động, rất là khéo léo,
làm cho người nghe càng ngày càng thích và càng ham tu Giới luật hơn. Còn nếu
mà cái người mà không hiểu được như vậy dạy Giới luật người ta không bao giờ mà
phát triển được Giới luật. Đứng ở trên góc độ mà dạy Giới luật như Thầy thì tin
rằng Giới luật sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường Giới luật, mọi
người người ta khép chặt mình trong Giới luật để người ta thực hiện được cái
đời sống giải thoát, người ta không hề sợ khổ mà người ta thấy đó là một cuộc
giải thoát thực sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người, làm cho
chúng ta làm chủ được cái sinh tử. Từ lâu chúng ta bị sinh tử làm chủ, bây giờ
chúng ta đòi lại quyền sinh tử bằng một cái cuộc cách mạng, bằng cuộc cách mạng
tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ.
Đó thì quý thầy thấy rất rõ nếu mà
chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại
quyền là chủ sinh tử đâu. Đó là cái mục đích của Tam Vô lậu học là như vậy. Mà
Tam Vô Lậu học là một cái Định lực của Giới luật nó làm cho chúng ta thay đổi
toàn bộ của cuộc cách mạng đời sống của chúng ta. Cho nên quét sạch ra được thì
chúng ta mới đạt được cái này, mà không quét sạch không làm cái cuộc cách mạng
cho cuộc sống chúng ta thì hoàn toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát
này đâu.
Vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật là
ba pháp môn liên hoàn, nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên
hoàn nhau trong một cái Giới luật chứ không phải là hai. Giới sinh Định, Định
sinh Tuệ. Không thể tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được. Người không
hiểu pháp môn này họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn, Định nó
khác rồi Giới nó khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái
nền tảng của Giới luật thì hoàn toàn nó là ba pháp môn là Giới luật không gì
khác.
Người chưa có kinh nghiệm tu hành
trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được. Thường
họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Tri kiến mà họ
hiểu là Trí tuệ thì rất là sai lạc, lầm lạc. Người phàm phu ai cũng có tri
kiến, nhưng một người tu hành đã giải thoát có còn tri kiến hay không? Nếu mà
cái người phàm phu thì luôn luôn họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi
một người tu hành đã giải thoát rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở
đây Thầy xin trả lời: Thưa không! Nghĩa là cái
tri kiến đó họ hoàn toàn không có. Tại sao vậy? Vì Tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược. Nghĩa là cái tri kiến đó
đây góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay thì họ dính vô
đó rồi, họ cho đó là cái hay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến, cái đó là đúng
cái đó là sai nữa. Họ thấy hay, họ nghe cái câu Kinh đó hay thì họ chấp nhận
cái câu đó hay. Họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ chấp nhận
ngay chư họ chưa biết cái đó là tà kiến hay chánh kiến, họ chưa biết đâu.
Cho nên cái người tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có tri
kiến đó nữa. Thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cuộc sống của họ hàng ngày
họ còn đang sống. Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy.
Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc, cái
tri kiến, cái sự hiểu biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy và uế trược, nó
rất uế trược. Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với Trí
tuệ hay không? Thưa không! Nghĩa là họ cũng không sống với Trí tuệ. Cái Trí tuệ
mà siêu việt họ cũng không có sống đâu. Họ không có sống với cái Trí tuệ đó.
Khi họ sử dụng thì họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn không sống với Trí
tuệ đó. Đứng nghĩ rằng khi một người tu chứng họ luôn luôn sống với Trí tuệ.
Không. Họ sống với cái gì đây? Vậy thì như thế nào? Nghĩa là họ phải sống như
thế nào đây? Hàng ngày họ đang sống với Tri kiến Giải thoát.
Bởi vì quý thầy thấy cái tri kiến nó dính mắc, mà Tri kiến Giải thoát nó đâu có
dính mắc. Bởi vì tri kiến họ cũng y như cái đầu của chúng ta suy nghĩ sao thì
họ cũng suy nghĩ vậy, họ không khác chúng ta nhưng mà mọi vật đến với họ họ
không bị dính mắc, họ không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem
đút miệng họ được. Ví dụ như bây giờ Thầy sống với Tri kiến Giải thoát nè, mà
một người làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để mà Thầy
thuyết giảng, mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng
không phải, đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ cho nên hoàn toàn
khô cổ là khô cổ, nhất định là không uống. Đó là không thể cám dỗ cái Tri kiến
Giải thoát của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có
đường mà, thì đâu cám dỗ Thầy được. Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong
tri kiến thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì
thấy thích rồi, ngay cái chỗ ngọt đã đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến
Giải thoát là không cám dỗ được cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà Tri
kiến Giải thoát chứ không phải Tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy!
Cho nên trong Kinh thường chúng ta
thường thấy Giới hương, Định hương, Giữ Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát Tri
kiến hương, có năm loại hương, thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta
sống ở trong Tri kiến Giải thoát chứ
người ta không phải sống ở trong cái Trí tuệ siêu việt đó đâu. Khi sử dụng thì
người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người ta đâu cần sử dụng nó, người
ta chỉ cần sống với Tri kiến Giải thoát.
Quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái
chỗ, cái bài mà hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật đó, bắt đầu cầm ba cây
hương lên mà niệm hương thì ngay đó đã nói lên cái chỗ nào sống của quý vị. Cho
nên cái Tri kiến Giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên. Chúng tôi
hãy sống hàng ngày cái chỗ này nè! Để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị
uế nhiễm của những đối tượng phàm phu vật chất. Đó là cái chỗ tu hành của một
cái vị mà đã viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được. Cho nên nó có một cái
giải thoát kèm bên cái Tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái Tri kiến mà
tích tụ, kết tập nó không có Giải thoát đâu mà nó dính mắc, cho nên ở đây Thầy
dạy như vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng không còn mờ mịt gì nữa hết.
Bởi vậy khi một người tu hành xong
luôn luôn họ sống đúng Giới Hạnh, còn gọi là Giới hương, họ sống đúng Giới Đức
còn gọi là Định hương, nghĩa là họ sống… Cái hương tức là thơm chứ gì? Các con
hiểu không? Cho nên mình niệm hương, mình thắp cây hương lên mình nói chứ không
phải đâu! Nghĩa là mình sống đúng Giới hạnh gọi là Giới hương. Mình sống đúng
Giới Đức thì gọi là Định hương. Bởi vì Giới Đức nó thuộc về Định cho nên gọi là
Định hương. Mình sống đúng Giới Tuệ thì gọi là Tuệ hương. Phải không? Họ sống
đúng với Tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết không lầm lẫn, còn gọi là
Tri kiến hương, nghĩa là sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, với sự hiểu
biết đúng chánh kiến chánh pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là Tri kiến
hương. Còn mình sống không đúng với chánh pháp của Phật dạy, không sống đúng
với Giới luật của Phật dạy cái Tri kiến đó, nghĩa là mình chưa thành tựu cái gì
hết nhưng mình sống không có đúng, mình sống hoài những cái tri kiến của Phật
dạy, những lời của Phật dạy trong Kinh mà mình sống không đúng thì cái đó không
được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống đúng tri kiến mà đúng lời Phật dạy,
không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm những cái phạm giới thì
cái người đó được gọi là Tri kiến hương. Họ sống đúng với Tri kiến Giải thoát
nên còn gọi là Tri kiến Giải thoát hương.
Đó thì Thầy phân ra cho chúng ta thấy
cái mùi thơm của các loại Trí Tuệ của chúng ta, các loại sống của chúng ta ở
trong Giới luật, đó là những mùi thơm của Giới luật đó. Cho nên cái Giới luật
đầu tiên đó là Giới Hạnh thì gọi là Giới hương. Cái Giới luật thứ hai là Giới
Đức thì gọi là Định hương. Cái Giới luật thứ ba tức là Giới Tuệ thứ ba gọi là
Tuệ hương. Cái Tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong những lời Phật dạy gọi là
Tri kiến hương. Còn cái tri kiến hằng ngày mà các bậc viên mãn mà sống đó thì gọi
là Tri kiến Giải thoát hương. Thấy như vậy chúng ta mới rõ được cái hương là
cái mùi thơm mà, cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai cũng quý mến, cũng trọng
hết. Còn nếu mà cái mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng, cho
nên hương không có nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà
đốt lên có khói đó đâu. Hương đây là cái mùi thơm của Giới Đức, của Giới Tuệ,
của Giới Hạnh, của Tri kiến, của Tri kiến đúng đó, chứ còn Tri kiến sai thì
cũng không được, Tri kiến Giải thoát. Đó là những hương thơm của những loại
Giới luật này.
Đối với Tam Vô Lậu học thì cái tri
kiến của chúng ta không được gọi là tên Tuệ Vô Lậu đâu! Trong 13 Giới Tuệ này,
Giới Tuệ thứ nhất dẫn tâm đến chánh trí, chánh kiến. Đây, quý vị mới nghe cái
chỗ này, nếu mà cái người tu tập Giới Tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có
Chánh Tri kiến. Chánh Tri kiến này tức là cái Tri kiến hương đó. Thì chúng ta
phải đạt tới cái Trí Tuệ, cái Giới Đức, cái Giới Tuệ đầu tiên, cái Giới Tuệ thứ
nhất lúc bây giờ chúng ta mới dẫn tâm nó để chúng ta đạt được Tri kiến đó chứ
không phải cái Tri kiến tầm thường như Tri kiến của thế gian, cái Tri kiến kết
tập, cái Tri kiến tích tụ, tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác thì
tri kiến đó là Tri kiến phàm phu. Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà
chúng ta phải có sự tu tập trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô lậu nó
đạt được cái Giới Tuệ đầu tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là Tri kiến
hương. Giải thích cho rõ như vậy thì chúng ta mới biết được cái tri kiến của chúng
ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông hiểu cái lý của
Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì Thầy dạy thêm để
chúng ta thấy rằng khi chúng ta muốn đạt được cái Tri kiến hương này thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì
cái người đó phải nằm ở trong cái Tuệ Vô lậu thứ nhất của Giới Tuệ của nó.
Trong 13 Giới Tuệ này Giới Tuệ thứ
nhất “dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến”, tức
là Tri kiến mà hàng ngày người tu hành viên mãn. Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng
lầm chút. Khi mà cái người đó mới tu học thì phải huân. Thầy xin lỗi phần này
đính chính lại chỗ này để cho quý thầy hiểu rõ hơn. Khi cái người mới tu học mà
theo đạo Phật thì chúng ta phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào
đúng, cái nào sai, từ đó chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp những cái
hiểu biết đó là đúng, là chân lý, là sự thật, nó thân là khổ, là vô thường thì
nó là sự thật, nó không còn sai nữa. Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì
đó là một chân lý không thể thay đổi được, nói là cái nguyên nhân mà sinh ra
đau khổ thì cũng không thể thay đổi được, mà nói một cái cảnh giới Niết bàn thì
đó là một trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ. Mà nói đến tám nẻo đưa đi đến
cái chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó hoàn toàn là một chân lý không thể nào
có ai thay đổi tám nẻo giải thoát này được. Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích
trữ cái hiểu biết đúng đắn như vậy đó gọi là Tri kiến. Còn đến khi mà chúng ta tu tập đến cái Tuệ Vô lậu thì cái
Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là Tri
kiến Giải thoát, chứ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết rõ
của cái chánh kiến của đạo Phật mà thôi. Cái kia còn gọi là Tri kiến, mà Tri kiến đó thì nó mới
chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật pháp chứ chưa chứng
được cái lý của Phật pháp. Còn
người tu đến cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô lậu thì cái hiểu biết cái
tri kiến đó được gọi là tri kiến Giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới
được gọi là tri kiến Giải thoát. Cho nên người tu họ không sống ở trong tất cả
các Tuệ Vô lậu mà họ chỉ sống ở Giới Tuệ thứ nhất là Tri kiến Giải thoát. Cho nên cái Tri kiến Giải thoát ở đây nó
được gọi là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong Tuệ Vô lậu. Thì quý thầy hiểu cho
rõ như vậy. Hồi nãy Thầy giảng hơi lầm lạc, Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho
nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu cho nó rõ hơn.
Cho nên hằng ngày người tu hành viên
mãn thường sử dụng cái Tri kiến Giải thoát chứ không sử dụng tri kiến như kẻ
phàm phu. Cho nên Tri kiến Giải thoát được nằm trong Giới tuệ, được gọi là tuệ
Vô lậu, nó cũng được gọi là tuệ Vô lậu nhưng nó là cái Giới Tuệ thứ nhất ở
trong 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là cái Tuệ cuối cùng. Thường thường cái
người tu hành viên mãn thì họ sống ở trong cái Giới Tuệ thứ nhất, họ sử dụng
cái Giới Tuệ thứ nhất cho nên cái Giới Tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống
không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiền toái nữa, ai làm gì thì họ
trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên mà không động tâm chút nào, không dao động
tâm mình. Tức là cái Tri kiến Giải thoát đó hay là Giới Tuệ thứ nhất của trong
13 Giới Tuệ.
Con đường tu hành theo đạo Phật đến
đây đầy đủ Giới – Định – Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.
Còn Niết bàn là gì? Ở đây chúng tôi
không trả lời câu hỏi này.
Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta
đã viên mãn Giới luật của Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành
được Thiện pháp của đạo Phật, và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ
biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống
nào khác nữa. Nghĩa là chúng ta đến đây thì người ta hỏi chúng ta còn cái Niết
bàn là gì? Nghĩa là chúng ta đến đây chúng ta đã viên mãn được Giới – Định –
Tuệ như vậy tức là từ Giới Hạnh, rồi Giới Đức, rồi Giới Tuệ. Chúng ta hoàn
thành được những cái Giới luật này rồi thì có người hỏi khi mà hoàn thành được
các Giới luật này rồi, Giới – Định – Tuệ này viên mãn rồi thì cái Niết bàn nó
là gì? Có người hỏi chúng ta cái Niết bàn là gì? Thì ở đây chúng ta không có
trả lời cái câu hỏi mà hỏi như vậy, là cái Niết bàn là gì thì chúng tôi không
có trả lời. Nhưng khi mà giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết bàn thì chúng tôi
sẽ giảng cái Niết bàn. Còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái
chỗ hỏi Niết bàn của chúng tôi. Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới – Định –
Tuệ mà nếu chúng tôi còn nói cái Niết bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn
chấp kiến, còn chấp cái Niết bàn. Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết bàn mà
chúng tôi chỉ nó như thế nào cho đúng? Chúng tôi sẽ trả lời: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không
còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là bây giờ chúng tôi đang
sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chứ khi mà chúng tôi bỏ cái thân
này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh ra trong cuộc đời này
nữa, chứ chúng tôi không biết Niết bàn nữa.
Mà những người nào tới đây mà còn nói
cái Niết bàn như thế này thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái
lý Tứ Diệu Đế chứ chưa phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế. Quý thầy
phải hiểu cái chỗ đạo Phật như vậy đó, cho nên khi một người mà tới rồi mà còn
nói rằng bốn đức Thường – Lạc – Ngã – Tịnh trong đó thì người đó chưa tới. Cũng
như cái người mà tới rồi họ nói tui chứng quả A-la-hán thì người đó chưa chứng
quả A-la-hán đâu. Bởi vì mình còn thấy chứng quả A-la-hán thì tức là mình mới
ngộ thôi chứ chưa chứng đâu. Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng
nữa. Thì tức là mình chỉ biết nó như thế nào? Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây
không còn có một đời sống nào khác nữa hết. Nghĩa là tôi không có còn
sanh thêm sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ nào mà tui
sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ nó Niết
bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui hết
rồi. Đó thì quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái hiểu biết
gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là không
chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế này thế
khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này cho nên Thầy
mới… khi mà viên mãn cái về ba cái Giới này, vạch ra một con đường đi cho đến
cuối cùng tới hôm nay thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói gì
khác hơn là còn một câu nói: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống không còn có đời
sống nào khác nữa!
Quý thầy hiểu cái chỗ đó sao đó hiểu.
Nếu mà tui nói còn có cái gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui
rồi cho nên nó có cảnh giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã của tui
thì tui không có cái gì mà tui sống nữa hết. Cho nên nó còn hay mất thì quý vị
muốn hiểu sao có hiểu được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa
là tới đó là tui giải thoát là tui giải thoát.
Bây
giờ chúng ta tiếp tục học về Giới Bổn Patimokka.
Để thông suốt oai nghi tế hạnh của
người tu sĩ, vì trong Giới hạnh chưa nói đủ ta phải tiếp tục học thêm cho được
đầy đủ hơn. Nghĩa là trong cái Giới hạnh mà chúng ta vừa học 25 Giới hạnh đó,
nó chỉ nói đơn giản thôi chứ nó chưa có nói đến những cái hành động hàng ngày
của chúng ta. Vì vậy mà cái Giới bổn Patimokka này nó nói tất cả những cái hành
động của chúng ta để mà chúng ta không có lầm lạc, để mà thực hiện những cái
Giới hạnh đó để cho oai nghi tế hạnh của người tu sĩ phải được đầy đủ, phải
được trọn vẹn cái hành động của nó phải như thế nào để mà chinh phục mọi người,
người ta thấy được cái đức hạnh của một người tu sĩ nó không phải tầm thường.
Vì Giới hạnh nó phải học rất nhiều mới có thể mà thâm nhập được cái oai nghi tế
hạnh của nó.
Bởi vậy cho nên chúng ta phải tiếp tục
lại 25 Giới hạnh là chúng ta phải học cái Giới luật Patimokka. Cái Giới luật
này nó mới có thể đầy đủ và cái Giới luật này nó cũng rất nhiều chớ không phải
ít. Do vì vậy trước khi mà giáo cái Giới luật Patimokka này nó phải có một cái
lời nói rất là dài và đồng thời Thầy có bổ túc thêm những cái bài để mà chúng
ta chuyển qua cái Giới luật Patimokka này.
Để bổ túc thêm phần giáo án về Giới
luật Patimokka cho rõ nét, ở đây Thầy nhấn mạnh: Giáo pháp của đức Phật dạy người
không có tranh luận với một ai ở đời. Vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh.
Do thế người ấy sống không bị Dục, triền phược, không có nghi ngờ, do dự với
mọi hối quá, đoạn diệt, không có tham ái đối với Hữu và Phi hữu. Ở đây quý thầy
phải hiểu khi mà bước sang qua cái Giới bổn Patimokka này thì chúng ta sẽ thấy
tràn trề sự sai lạc của cái người khác rất nhiều. Nghĩa là học xong cái Giới
bổn này rồi thì chúng ta nhìn cái giới tu sĩ cũng như nhìn cái giới mà cư sĩ
hiện giờ là đệ tử của Phật hầu như là cái danh từ là đệ tử của Phật chứ hầu như
là những cái người đó đều là hành ngoại đạo hết. Cho nên vì vậy mà Thầy phải
phòng ngừa trước khi mà bước đầu qua học cái Giới luật Patimokka thì chúng ta
phải chuẩn bị cho tinh thần chúng ta vững vàng để không khéo thì chúng ta toàn
là thấy là ma quái không đó, chứ không phải là Phật đâu. Với một người mà
người ta thông suốt được cái Giới luật rồi thì người ta nhìn cái giới tu sĩ và
nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ người ta thấy toàn là thứ phá đạo, toàn là thứ phá
Phật pháp. Cho nên chúng ta không nói ra, không có
chống báng ai là vì vậy, cho nên ở đây Phật nói chúng ta khi mà học xong
rồi thì không có một cái tâm tham ái. Tham ái tức là thấy những cái sai cái
không đúng của họ đó đối với Hữu, đối với cái Có và cái Không chúng ta xem
thường hết. Chúng ta đừng thấy cái tâm của chúng ta nó quá như thế này hay như
thế khác rồi chúng ta sanh ra nhưng cái bỉ thử ở trong đó rồi vì vậy mà chúng
ta có tranh luận, rồi có những cái sự không hay cho cái đời tu hành của chúng
ta.
Vì vậy mà rồi từ ở trong cái ác tưởng
của chúng ta, cái tưởng của chúng ta nó khởi lên những cái ác kiến đối với
những người đó, làm cho chúng ta có những sự ám ảnh không tốt đối với Phật
pháp, cũng như không tốt đối với bản thân của những người đó. Họ sống như thế
nào để nhân quả thì họ phải lãnh đủ những cái nhân quả đó. Còn riêng chúng ta
thì hãy câm miệng lại, không nói ra một lời nào hết. Biết Pháp luật rất rõ
ràng, biết Giới luật rất rõ ràng nhưng không động chạm đến một người nào, không
nói người nào sai, không nói người nào đúng mà chỉ giữ mình để thực hiện cho
đúng những cái lời Phật dạy mà thôi. Mình cứu mình chứ không thể nào cứu ai được trong cái lúc này
hết. Chừng
nào mình cứu mình được thì chừng đó mình mới cứu người ta được. Mình đã ra khỏi
được cái con đường của thế tục thì mình mới có mong mình cứu người còn đang ở
trong thế tục. Còn mình đang ở trong thế tục mà mình cứu người thế tục thì
không cứu được đâu, và đồng thời đôi khi mình lại chết chung với họ ở trong thế
tục. Cho nên những cái hạnh Bồ Tát mà gọi là sống trong thế tục để
độ người thế tục thì coi chừng Bồ Tát cũng chết luôn với những người thế tục mà
không độ ai được hết.
“Giáo
pháp của ta ví như một cái bánh mật”. Đức Phật
nói giáo pháp của đức Phật như một cái bánh ngọt, cái bánh mật, chớ không phải
là một cái bánh cay đắng đâu! Cho nên đến Giới luật thì người ta thấy cay đắng
lắm. Sống mà như thế này các thầy cứ nghĩ “ba y một bát” có cay đắng không? Đi
xin ăn người ta không cho, ngày nay không cho ngày mai không cho thì quý vị
thấy như thế nào? Phải ăn lá cây rừng mà sống rồi. Mà ăn lá cây rừng quý vị
chưa từng tập thì quý vị có thấy xót ruột không? Chưa chắc là đã không mệt mỏi,
khổ sở. Thế mà đức Phật nói “giáo pháp của ta là bánh mật”. Bánh mật là thứ
bánh ngon chứ đâu phải thứ bánh dở. Thế mà bước đầu và mà gặp tới cái Giới
luật, cái Giới bổn Patimokka này thì nó không phải là bánh mật thật đâu. Mà
chính nó là bánh mật nếu mà chúng ta thực hiện đúng. Nếu mà chúng ta thực hiện
không đúng thì nó là những bãi chông gai, nó là những cái chỗ nguy hiểm nhất,
nó là những cái chỗ mà chúng ta không thể sống nổi. Khi mà đến đây Thầy cảnh
giác những cái điều này mà trước khi dạy nó thì Thầy phải cảnh giác rất lớn đối
với quý thầy, để khi quý thầy được học đến nó thì quý thầy mới thấy được cái
cái chỗ nào gọi là bánh mật mà cái chỗ nào không gọi là bánh mật. Vì thế mà cái
người dạy Giới ở trong cuộc đời bây giờ thì họ (…). Cho nên đức Phật mới dạy
chúng ta và cảnh giác chúng ta ở chỗ này để chúng ta chuẩn bị cho cái Giới bổn
này, sau khi chúng ta học thì chúng ta mới biết nó là cái bánh mật như thế nào.
Chớ nó không phải là đơn giản.
“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với đối với cái
người đang đói lả và mỏi mệt. Cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được vị ngọt thuần
nhất. Cứ mỗi một miếng vị ấy thưởng thức càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy
người khỏe hơn, khinh an hơn”.
Đó, nếu mà
chúng ta tu đúng, chúng ta biết được cái Giới bổn này đúng thì mỗi một cái Giới
mà chúng ta thực hiện thì giống như một người đang đói, đói lả người, mệt mỏi
mà cứ mỗi một miếng ăn vô thì coi như một cái Giới luật mà chúng ta đã thực
hiện vô thì mỗi cái miếng đó thì chúng ta thấy được vị ngọt thuần nhất của nó ở
trong đời sống của chúng ta. Đời sống đang lúc chúng ta mệt mỏi đói khát đó,
mỗi một miếng nữa thì chúng ta thưởng thức mà càng thích thú hơn và càng thấy
khỏe hơn, và khinh an hơn. Đức Phật ví dụ cái Giới bổn nó như vậy đó.
Đó là không phải là nói về Thiền định
mà khinh an đâu, mà đây là muốn nói rằng cái Giới luật, mỗi cái Giới luật mà
chúng ta chấp hành nghiêm chỉnh nó đem đến chúng ta cũng như cái bánh ngọt mà
chúng ta cầm mỗi miếng chúng ta ăn trong lúc chúng ta là người đang đói, đang
mệt mà chúng ta ăn thì chúng ta thấy nó ngọt mà nó khỏe lắm, nó ngon lắm, nó
thích lắm, nó làm cho cơ thể chúng ta càng ngày càng thấy cái sự sống nguồn
sống nó dồi dào lên, nó thích thú lắm. Còn nếu mà sai thì các thầy thấy ngán
quá, ớn quá, sợ quá. Đây đi xin ăn chắc không có ai cho chắc chết, bây giờ
không có làm sao, coi chừng công an nó bắt bỏ tù nữa, nó nói mình gian lận, làm
biếng, làm thế này thế khác. Từ cái tư tưởng đó, suy nghĩ đó thì ngay đó là
mình đã thấy hoảng hồn rồi chứ chưa nói chi mà tới ôm bình bát đi xin nữa.
Không biết đi xin mới đây đi ôm bình bát xấu hổ quá! Trời ơi thời giờ mình
không có đi xin. Kiểu này không ai ngó tới đi mắc cỡ chết. Cái tư tưởng đó vẫn
có mà.
Lúc Thầy mới bắt đầu Thầy đi khất thực
Thầy cũng vậy. Đi ra đường ôm bình bát đi mà con mắt nhắm chứ không dám mở, mở
sợ thấy người ta cười mình. Trời ơi mình vậy mà đi xin. Từ nào tới giờ mình đi
dạy học hoặc đi làm ai cũng biết mặt hết. Trời, đi ra đường vậy, nhất là Thầy ở
thành phố mà Thầy đi xin ở mấy cái chỗ chợ thành phố mà bên chùa Giác Ngộ nữa
thì các thầy nghĩ sao? Bao nhiêu Phật tử quen mình quá rồi. Hồi nào tới giờ họ
kêu mình thầy mà giờ ôm cái bình bát đi xin. Mà chính cái chỗ đó họ lại còn
kính trọng Thầy hơn nữa chứ! Mà khi mình đi thì mình ngại ngùng vô cùng lận! Từ
hồi tới giờ ai có làm này. Kỳ vậy! Đó là những cái bắt đầu của Thầy, mà Thầy đi
có một mình chứ phải đi có người nào hướng dẫn thì cũng đỡ đi. Đằng này tự mình
à! Rồi mình nghĩ cách thức rồi bắt chước theo mấy ông khất sĩ, thôi mình cũng
làm đùa. Trong kinh thì đâu có dạy kỹ cái vấn đề này, bởi vì kinh Đại Thừa nó
đâu có nói về chuyện khất thực đâu mà đi dạy. Đâu có phải như bên Nguyên Thủy
kia nó dạy rất kỹ còn bên đây nó đâu có dạy chuyện này. Cho nên học Đại Thừa
rồi đi ra khất thực ngơ ngáo chẳng biết gì hết. Thầy mới hỏi thăm thầy Thiện
Huệ là hồi ông còn nhỏ ông đi với thầy của ông, cũng đi khất thực cũng ở thành
phố, ở chùa Giác ngộ, cũng đi khất thực. Thầy mới hỏi ông về khất thực sao, ông
nói thì mình cứ ôm bình bát vậy mình cứ nhắm mắt mình ngó xuống đất mình đi đi.
Rồi họ cho mình chứ cái gì! Thầy nghe vậy thôi, Thầy cũng ôm bình bát Thầy cũng
đi vậy thôi, mà hồi đó Thầy đâu có bình bát. Các con biết không? Thầy phải đi
mua cái ô mà người ta để trầu cau đó, nó tròn tròn bằng nhôm đó, Thầy mới may
cái túi Thầy mới bỏ trong đó Thầy ôm vậy Thầy đi. Trời đất ơi! Người ta biết,
hồi đó nó dễ chứ bây giờ mà kiểu này mà bưng cái kiểu đó mà nó thấy không có
giống cái bình bát là nó ra nó chốt liền đó. Chứ phải dễ đâu! Còn hồi đó nó dễ
lắm! Hồi cái chế độ trước nó dễ lắm! Bởi vậy Thầy ôm bình bát đi Thầy xin như
thường mà Thầy cũng chả biết xin nhiều ít như thế nào nữa, chỉ biết đi xin
thôi! Nhưng mà không ngờ khi mà Thầy vào đến đầu chợ cái họ biết Thầy ở chùa
Giác Ngộ lâu rồi. Họ để cho Thầy đi mà họ không có cho. Trời mắc cỡ gần chết,
không có cái gì hết, nhưng mà Thầy đi suốt hết cái đường chợ vậy mà tới cuối
hết cái chợ thì họ gom họ để một đống họ kêu xe xích lô chở về chùa Thầy. Thầy
đâu có hay. Bởi vì họ thấy cái bình bát Thầy thì nhỏ, mà Thầy đi như vậy thì bỏ
được có bao nhiêu. Cho nên họ nghĩ rằng Thầy đi xin cho cả chùa ăn mà, chớ đâu
phải xin cho mình Thầy. Cho nên họ biết Thầy ở chùa đó thì phải xin cho các
thầy ăn chung chứ đâu phải mình Thầy. Cho nên Thầy đi hết cái đường chợ vậy
không có cái gì trong bát Thầy hết, mà tới cuối chợ Thầy thấy họ chất một đống
nào cải, nào bánh mỳ, đồ ăn đủ thứ hết, đủ loại đường sữa gì đủ chất một đống.
Cái có người Phật tử đứng đó họ nói: Chúng
con đã góp nhau hết chúng con để đây xin cúng dường Thầy. Ôi trời ơi! Thầy
xin có mình Thầy ăn mà sao cúng dường vậy? Thầy ở chùa Giác Ngộ thì chúng con
kêu xe kéo về cho Thầy, chứ giờ mọi người cúng dường chứ đâu phải mình con.
Thôi kêu xe kéo về chùa.
Các con thấy không? Đi xin là như vậy
đó! Bởi vì Thầy nói khi mới ra đi Thầy nói ngại ngùng lắm, nó mắc cỡ, nó sượng
sùng làm sao ấy. Cái tâm tư từ trước giờ chưa có đi xin, giờ đi xin nó kỳ lắm,
các con hổng biết đâu, làm thử coi, để biết cái tâm của mình chút, chứ nó không
có đơn giản. Thầy nói rồi ai cũng có tâm trạng này hết, từ trước tới giờ không
đi xin mà giờ đi xin thấy nó kỳ lắm, nhưng mà đi xin một vài lần rồi, nó quen
rồi bắt đầu thấy nó có trớn nó làm tới, nhất là thấy người ta cho nhiều lại còn
hăng nữa.
Ở đây Thầy nói, thuật lại cho nghe cái
mẩu chuyện vui vui cho nó khuây khỏa chút chứ thật ra là như vậy đó, cái tâm
trạng của cái người đi tu là như vậy. Rồi bây giờ mà nghe Thầy nói bây giờ
chúng ta bước qua cái giai đoạn mà ba y một bát, sống không nhà không cửa nay ở
chỗ này chỗ kia đó thì các thầy nghe lo lắng trong lòng chắc mình tu không nổi
đâu. Cái điều kiện đó là điều kiện duy nhất rồi, nghĩa là không thấu nổi, nhưng
mà không phải đâu, các thầy nghĩ khi mà chúng ta đã thực hiện giới luật của
Phật thì giới luật là một bậc Thánh hộ trì chúng ta trên bước đường tu tập
không bao giờ để chúng ta đói đâu. Thầy tin tưởng việc đó, Thầy đã từng khất
thực chỗ này, chỗ kia Thầy biết điều đó. Thầy đi xuống Cửu Long, Vĩnh Long đó,
Thầy cũng đi khất thực; Rạch Giá, An Giang Thầy cũng đi khất thực. Thầy đến chỗ
nào đó thì Thầy xin xe Thầy đi, muốn lại chỗ nào đó thì Thầy xin xe đi, xe này
không cho thì xe khác nó rước à, chứ nó cũng không có bỏ mình. Còn đi đường đó
mà cái đoạn đường nào đó mà vắng vẻ đó thì mình đứng đó mình chờ, còn xa thì
mình đi bộ hoặc đứng chờ hoặc có cái xe Honda người nào đi ngang qua thì mình
đón tay, thấy mình tu sĩ thì họ rước chứ còn nếu mà thanh niên mà dân dân rồi
thì chắc chắn họ không dám rước đâu, họ sợ bẻ họng lấy xe, còn Thầy họ thấy tu
sĩ họ rước hết, không bỏ người nào. Cho nên đón xe quá giang rất dễ không khó
gì. Còn xe hơi nó đến thì xin đi, ví dụ như từ Sa Đéc, Rạch Giá hoặc là Châu
Đốc mà xin về thành phố, lại mấy chiếc xe đò, xe này không cho xe khác nó mời
lên xe, nó cũng cho mình quá giang. Mà nó cũng lựa chỗ ngồi tốt chứ nó không
phải nhét mình sau đít đâu. Nó cũng quý trọng các thầy lắm, nó cũng biết. Mà
trong cái thời đó các con thấy rằng bên Khất Sĩ họ đang hưng thạnh lắm, bởi vì
họ đang đi xin, thì cái giới và chữ tín của họ nó còn đang hộ trì giữ lắm cho
nên đi ra dễ xin lắm, dễ xin cơm, dễ này kia, còn bây giờ khó lắm. Bây giờ Khất
Sĩ nó không có đi xin nữa đâu, cho nên bây giờ mình a tùng, mình vô mình đi xin
thì khó lắm, còn hồi đó chỉ đi xin không hà, cho nên có cái đà đó nó dễ lắm,
còn bây giờ khó. Nhất là từ khi giải phóng xong rồi thì hầu hết cái dạng đi xin
chỉ có hình thức của bên Khất Sĩ đi cho có chừng thôi chứ không có. Còn cái
giới mà mượn cái chiếc áo đi xin là đi xin tiền, xin đô la đó thì cái giới đó
nó nhiều, cũng mượn cái y như vầy, cũng mượn cái áo tràng, nó cũng làm cái túi
kè kè vậy nó đi xin, mới đầu thì cái số thiện tín người ta không hiểu, người ta
cho sau này là người ta bị gạt rồi, Giáo hội cũng lên tiếng và bây giờ họ không
cho nữa đâu. Cho nên các con biết bây giờ mà mình làm cái hạnh khất thực mà đi
xin là chết đói đó, bởi vì báo công an nó rêu rao dữ lắm đó, chớ không phải
chuyện dễ, nó cho đó là cái giới mà lường gạt người ta chứ không phải là tu sĩ
đâu.
Đó, thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho các
con biết rằng trong cái cuộc đời tu hành của chúng ta đừng sợ hãi trước một cái
gì hết, đừng có dao động mà phải lấy giới luật mà làm thầy của mình, nương tựa
vào nó thì đi đâu cũng có phước báu đầy đủ hết. Không có làm gì ai mà bắt bỏ tù
mình được hết. Vì mình bỏ tù cũng như mình tu, có gì đâu mà sợ. Do đó tôi chỉ
đi xin ăn, tôi đi xin ăn thôi, tôi giữ đúng hạnh của Phật dạy như vậy à, ai làm
gì thì làm, bỏ tù tôi thì tôi ngồi tù tôi cũng tu. Tôi có nhà cửa gì đâu mà sợ,
mà vô tù thì còn có cái nhà, còn sướng hơn là ở ngoài, phải không? Các ông thấy
không, mình có ai đâu mà mình sợ, đâu có ai đem cơm cho mình. Buộc mình vô tù
thì nó cũng phải mang cơm cho mình ăn không lẽ bỏ đói mình chết? Thành ra mình
khỏi đi khất thực, không phải sướng? Mà ăn cơm trong tù cũng có muối, có đồ ăn
chứ đâu phải không cho ăn, thế nào cũng cho ăn, mà cho ăn còn sướng hơn. Phải
hông? Vậy mà mình rảnh, mình tu ở trong tù còn khỏe, mà mình có tội gì mà bắt
bỏ tù mình lâu đâu? Phải hông? Phải thả mình ra thôi, mai mốt tôi cũng vác bát
đi xin nữa, mấy ông làm gì thì làm, tôi tu là tu, giải thoát là giải thoát chớ,
đâu có sợ gì, ngại gì. Cho nên vấn đề đó là mình vẫn làm không ngán nào hết,
mình có ăn trộm ăn cắp ai đâu đâu sợ, tôi đi xin mà, tôi xin ăn để tu thôi, tôi
đâu có ngán ai, tôi đâu có làm gì phi pháp đâu mà tôi sợ. Có bao giờ mà nhà
nước ra cái lệnh là cấm đi xin bao giờ đâu? Nếu mà có cấm vậy thì tôi không đi
xin, còn bây giờ không có lệnh cấm, không có cái pháp luật cấm thì tôi vẫn đi
xin được. Có vậy thôi.
Thì như vậy chúng ta cũng thấy được cái lộ
trình của cái lộ trình thứ hai mà chúng ta thực hiện, là cái người quyết tu
giải thoát là thực hiện được, mà cái người nhát gan là thực hiện không được. Chúng ta không phải cái người đói mà đi xin
đâu, mà chúng ta đi xin là để xả ly cái thế gian ra, để tách lìa nó ra không
còn dính ở trong ta chút nào. Đó, là cái chỗ mà chúng ta thực hiện. Bởi vậy
đặt niệm trước mặt, nếu mà chúng ta muốn được như vậy, cái vị ngọt mà nếm được,
cái vị ngọt như là cái pháp lực mà giới bổn Patimokkha mà đạt được như là cái
bánh mật thì như thế nào? Ở đây Thầy nói
phải đặt niệm trước mặt, cái niệm nào trước mặt? Cái niệm ăn uống của chúng ta
trước mặt đó, cái niệm mà khổ, khắc khổ của chúng ta trong giới bổn của giới
luật này. Chúng ta phải đặt nó trước mặt, chúng ta phải dùng cái pháp hướng
chúng ta tu tập nó chứ không phải đơn giản là chúng ta nếm nó như bánh ngọt
đâu. Mà cái người mà không biết pháp này
rồi á, thì kể như là nếm mật nằm gai chứ chưa phải là ăn bánh ngọt đâu. Bởi vậy
đặt niệm trước mặt, đừng cho thất niệm, đừng có cho thất niệm mà thất niệm là
đói bụng đó mà cái niệm còn là không đói bụng đó, nó phải hiểu cái chỗ đó. Vị
ấy dùng tri kiến giải thoát, cứ mỗi phần suy tư, dùng tri kiến của mình, mình
suy tư để mình đánh đuổi cái đói, cái khổ, cái gian khổ của mình trong cái giới
luật này chứ không phải là tầm thường đâu. Qúy vị muốn nếm được cái miếng mật này không phải là chuyện dễ đâu.
Cho nên phải tu tập hết sức ở trong cái Định vô lậu chứ không phải thường đâu.
Cái lậu hoặc nó kéo lên là mình thấy cái thân
của mình nó sắp thoi thóp, nó sắp chết chứ không phải là cái chuyện dễ, nó mệt
mà đầu óc nó choáng váng hết khi nó đói bụng chứ không phải là thường đâu. Cho
nên phải đặt niệm, mà đừng có cho thất niệm, lúc bấy giờ không cho thất niệm
cho nên nó mới mát lạnh cái thân của chúng ta, còn không nó không có mát lạnh
đâu, mà nó co giật nó răn rúm, nó kéo chân, kéo tay của chúng ta nó giựt nó méo
hết đó.
“Vị ấy dùng tri kiến giải thoát, cứ mỗi phần
suy tư đến ý nghĩ của pháp môn càng lúc càng thâm sâu với tri kiến thì lậu hoặc
càng lúc càng vơi đi. Cứ mỗi lần quán xét thấm lý vô thường của các pháp, của
thực phẩm thì vị ấy thưởng thức sự hoan hỷ, hân hoan nơi tâm hồn của mình. Cứ
mỗi lần được quán xét đúng lý vô lậu thì vị ấy được thưởng thức sự thoải mái,
tâm trí an lạc vô cùng.”
Đó trong lúc mà chúng ta phải chuẩn bị cho
chúng ta một cái pháp như vậy đó, để chúng ta mới giữ được cái giới bổn đó, chứ
còn lơ mơ thì không có sống nổi đâu. Cho nên khi mà vô tù thì các vị nói trời
ơi khổ quá ở ngoài thì đi tới đi lui, còn trong này đi đái đi ỉa cũng thấy quá
khổ, trời đất ơi nó không có để cho mình cái ghè gì hết, hoặc nó để cho mình
cái ghè vừa đái vừa ỉa vừa hôi thối mà mình ở chỗ đó. Thì lúc bấy giờ phải đặt
cái niệm như thế nào mà an tịnh được tâm của mình chứ không khéo nói thôi thôi mai
mốt tôi dẹp cái bộ y này đi tôi về tôi sống với vợ con tôi còn khỏe hơn chứ
sống kiểu này chắc là tôi chết. Vô trong tù rồi mới biết cảnh đó.
Các thầy khi mà học được cái gì rồi thì chúng
ta cũng chuẩn bị cái đó với cái tư tưởng rất là vững chắc chúng ta mới dám làm,
chớ còn nếu mà không có vững chắc chúng ta không dám làm đâu. Trước khi mà Thầy
lên Hòn Sơn Thầy cũng chuẩn bị tinh thần Thầy ở một mình trên Hòn Sơn, trên núi
á, trên Hòn Sơn là ở giữa biển, trên núi ở giữa biển đó. Thầy phải chuẩn bị
tinh thần ở trên đó một mình chứ còn không chuẩn bị lên trên đó nội ba con chim
rừng, ba con chim biển nó vô nó đáp ở trên hòn thì cũng là hồn siêu phách tán
lên rồi, nó kêu một cái “quéc” là mình thấy lạnh xương sống rồi, chỉ ngày mai
là lo xuống núi chứ đừng nói chuyện ở trên đó nổi. Mà gió biển mà nó thổi vô
Hòn Sơn mà người ta gọi là Ma Thiên Lãnh ở trên cái đỉnh Hòn Sơn đó, gió nó
lạnh, nó lạnh thấu xương chứ không phải lạnh ít đâu. Chui trong hang mà nó lạnh
cũng muốn run, người ta gọi là Ma Thiên Lãnh mà. Thì các thầy biết Thầy đã
chuẩn bị cái tư thế của Thầy khi trèo lên Hòn Sơn không phải là cái chuyện tầm
thường của một cái người mà nhút nhát mà dám lên đâu. Cho nên những cái này mà
không có tu tập, không có sự chuẩn bị cho cái này thì cái sự sợ hãi chúng ta
không thể nào chúng ta ở một mình ở trong cái sự hoang vắng đâu, nó khó lắm,
phải có sự chuẩn bị tinh thần cho vững chắc, nghĩa là cái người đó phải liều
chết coi như cái mạng sống này như là chỉ mành treo chuông ấy thì mới thực hiện
được. Vì vậy cho nên khi chúng ta bắt đầu qua cái giới bổn này để mà học tập nó
thì coi như thân chúng ta chỉ là sợi chỉ mành treo chuông trước giới luật thì
chúng ta mới đạt được nó. Vậy mà Thầy còn trang bị cho quý thầy một cái niệm để
mà đặt trước mặt thực hiện nó, thì quý thầy biết rằng Thầy đã chuẩn bị cho quý
thầy rốt ráo hết mọi mặt mà có được hay không là do quý thầy, chứ còn không
phải là Thầy nữa. Đây là lời khuyên của đức Phật.
Kế tiếp thì đức Phật có dạy chúng ta cái bài
kinh trong kinh Trung Bộ, bài kinh này tên là bài kinh Khu Rừng, thì ở đây Thầy
ghi lại những cái lời mà Phật khuyên chúng ta, khi mà chúng ta thực hiện con
đường tu này chọn lấy cái chỗ nào tu cho đúng, cái chỗ nào để mà ở tu, cái chỗ
nào mà không nên ở tu, cái chỗ đó là cái chỗ quan trọng, chứ không quý thầy nghe Thầy giảng về đụng chỗ nào cũng thấy ngồi tu
hết thì chỗ đó coi chừng, nó không có đúng đâu. Cho nên đây là cái bài kinh
mà đức Phật đã khuyên cho người đã học xong con đường tu tập của đạo Phật thì
nên chọn. Hay những cái bài kinh này thì sau khi cái giáo án này xong Thầy
thuật nhưng vì trường hợp nó có xảy
ra cho nên cái tâm của quý thầy có nhiều cái dao động cho nên buộc lòng Thầy
phải nói trước để quý thầy chuẩn bị tinh thần.
Đây là lời khuyên của đức Phật :
“Này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống tại một
khu rừng nào để tu tập (nếu mình chọn một nơi nào đó mà tu tập) thì các niệm
chưa được an trú lại không được an trú; tâm tư chưa được định tỉnh, lại không
được định tỉnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ, không được hoàn toàn
đoạn trừ vô thượng an ổn khỏi các ách phược; chưa được chứng đạt, không được
chứng đạt và những vật dụng này cần thiết cho đời sống người xuất gia cần phải
sắm đủ như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, bát, y dược trị bệnh những
vật dụng này kiếm được khó khăn, này các thầy Tỳ Kheo”.
Nghĩa là ở chỗ đó tu hành tâm nó không được
an ổn, giải thoát nó không được, lậu hoặc nó không có được gì hết. Mà đồ ăn
khất thực, y cụ sàng tọa thì khó khăn
lắm, kiếm khó khăn lắm, muốn ăn cũng khó nữa thì đức Phật khuyên: “Này
các thầy Tỳ Kheo, các thầy cần phải suy nghĩ, ta sống đây, ta sống tại khu rừng
này đời sống tu hành khó khăn quá và sự tu hành không có kết quả ta phải từ bỏ
khu rừng này không được ở lại, ngay lúc ban ngày cũng như lúc ban đêm, hãy đi liền không để mất thời gian vô ích”.
Đức Phật khuyên nếu mình đến đó, mình an trú ở chỗ đó, cái chùa hoặc cái khu
rừng hoặc cái thất hoặc cái chỗ nào đó mình cho rằng khi mình chọn tới chỗ đó
mình ở, mà mình thấy mình ở đó mình tu một hai ngày tâm sao mà nó không có được
an tịnh, lậu hoặc thì nó không dẹp được hết mà đồ ăn ở đây, đồ khất thực, đồ y
bát này kia sao mà khó kiếm ăn quá thì ngay đó nên đi liền chớ đừng có ở đó
nữa. Trong vài ba ngày mà thử không có được thì thôi rút đi đi chứ đừng ở đó
nữa, đức Phật khuyên chúng ta như vậy, đó là cái mà chọn cái địa điểm để mà
chúng ta tu tập.
Này các thầy
Tỳ Kheo, ở đây đức Phật khuyên cái lần thứ
hai này để chúng ta thấy cái chỗ này như thế nào:
“Này các thầy Tỳ Kheo, thầy Tỳ Kheo sống tại
một khu rừng nào để tu tập nếu các niệm chưa được an trú, lại không được an
trú, tâm tư chưa được định tịnh, không được định tỉnh. Các lậu hoặc chưa được
hoàn toàn đoạn trừ, không được hoàn toàn đoạn trừ. Vô thượng an ổn khỏi các ách
phược chưa được chứng đạt, không được chứng đạt và những vật dụng cần thiết cho
đời sống mà người xuất gia cần phải sắm đủ như y phục, đồ ăn uống khất thực,
sàng tọa, y dược, những vật liệu này kiếm một cách rất dễ dàng”.
Nghĩa
là đi xin những thứ đồ đó kiếm một cách rất dễ dàng, nghĩa là đời sống của mình
y phục này kia, ở đó người ta cúng dường ngờm ngợp ăn uống đầy đủ hết không có
thiếu cái gì hết, ốm đau bệnh gì cũng có thuốc thang hết, thì cái chỗ đó thì
đức Phật khuyên như thế nào, kiếm được một cách không khó khăn tức là dễ dàng
đó nhưng không phải, “vị tỳ kheo đó mới suy nghĩ nhưng không phải
vì y phục, không phải vì đồ ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì
dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia từ bỏ gia đình sống không nhà cửa, nhưng
trong khi ta ở tại khu rừng này mà các niệm an trú chưa được an trú và các triền
phược chưa được chấm dứt vô thượng an ổn chưa đạt được. Này các thầy Tỳ Kheo,
các thầy suy tính như vậy thì các thầy phải từ bỏ khu rừng này, từ bỏ nơi này
không được ở lại”. Đức Phật
bảo mặc dù ở đó người ta cúng dường đầy đủ nhưng mà ở cái chùa nào đó bây giờ
người ta cúng dường mình đầy đủ đồ ăn thức uống, mà mình ở đó cứ ít bữa họ vô
họ làm động mình, mình không an trú được, tâm mình ngồi tu cũng hông được mà họ
cứ bắt mình đi tụng kinh thì thôi thôi từ bỏ cái chùa đó đi. Đừng có ở đó nữa,
đừng có ở cái khu rừng đó dù là người ta nơm nớp người ta cúng dường mình thì
đức Phật khuyên thôi đừng có ở đó, ở đó tu cũng không có được đâu. Ăn uống đầy
đủ không phải là mình bỏ nhà bỏ cửa bỏ gia đình của mình, bỏ cha mẹ mình đi tu
mà cái kiểu này đi tìm ăn uống đó, thì như vậy là mấy ông nên bỏ đi, đừng có ở.
Đó là đức Phật khuyên mình cái thứ 2, đừng có
tìm những chỗ trụ xứ đầy đủ như y phục, thuốc thang, ăn uống đầy đủ đó. Thì hầu
như là hiện bây giờ tu sĩ chúng ta tới chỗ nào mà có ăn uống đầy đủ thì hầu như
là chúng ta cũng mê lắm đó chứ. Chùa to tháp lớn, thấy ở cũng khang trang,
phòng ốc rồi điện nước, rồi radio, tivi đầy đủ, máy ghi âm, cassette đều đầy đủ
thì tập trung nhau mà ở dữ tợn chứ đừng có nói ít. Do đó mà cái nơi đó là Phật
khuyên thôi thôi đi đi đừng có ở, tâm nó không có an lạc đâu, tâm nó không có
giải thoát đâu, lậu hoặc nó còn triền phược nó trói buộc chặt lắm đó, đó là đức
Phật khuyên chúng ta như vậy. Đó đó là cái mà để biết rằng ông Phật ông ấy đã
định cho chúng ta biết cái nơi nào mà tu được, nơi nào mà không tu được ông đã
viết ra cái bài kinh đó, có giá trị rất lớn mà hiện giờ người ta đâu có đọc cái
bài kinh đó làm gì, đọc xong mắc cỡ quá mà làm sao đọc.
“Này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống tại một
khu rừng mà các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tỉnh được
định tỉnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi
các triền phược chưa được chứng đạt đã được chứng đạt. Dù cho vật chất cần
thiết cho đời sống của một người xuất gia cần phải sắm đủ như ý phục, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật này kiếm được rất khó khăn”.
Nghĩa là tất cả ở chỗ đó mà mình tu hành được
tâm mình nó được an ổn như vậy mà vật thực thì rất khó khăn, y phục rất khó
khăn, đau bệnh thì không có thuốc thang, nghĩa là cái chỗ đó rất là khổ, khổ
cho cuộc sống của mình, rất khổ đó thì ông Phật khuyên như thế nào: “Này
các thầy Tỳ Kheo, các thầy cần phải suy nghĩ như sau những vật dụng này kiếm
được một cách khó khăn nhưng không phải vì y phục, không phải vì món ăn, không
phải vì sàng tọa, không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình nhưng trong khi ở tại khu rừng này mà các niệm chưa
được an trú đã được an trú, này các thầy Tỳ Kheo, các thầy nên ở lại khu rừng
này không được bỏ đi”. Các thầy thấy không, đói mà biểu không có được
bỏ đi vì lúc bấy giờ chúng ta ở đây tu được không bị ai quấy rầy, nghĩa là Phật
tử không đến cúng dường nữa. Yên ổn lắm, yên ổn lắm rồi, ăn lá cây đó mà tu
được. Đó quý thầy thấy không? Phật khuyên mình ăn lá cây mà tu được còn mình ăn
cơm, y áo đầy đủ, ăn có sữa có bơ đầy đủ, mập béo ra đó thì nên bỏ đi, phải
hông? Mà ăn lá cây mà được yên ổn mà tu tập, được cái tâm an ổn, được giải
thoát các triền phược thì cái nơi đó là cái nơi mà của những vị tu sĩ lựa chọn.
Ông Phật dạy kỹ lắm đó các con, chứ không phải, dạy rất kỹ để chúng ta chọn cái
chỗ mà tu cho thật để mà giải thoát đó.
“Này các thầy tỳ kheo, các thầy sống tại một
khu rừng mà các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tỉnh
được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ được đoạn trừ, vô thượng an ổn
khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, những vật dụng cần thiết
cho đời sống tu hành hàng ngày được xin một cách không khó khăn, này các thầy
Tỳ Kheo các thầy suy nghĩ nơi đây là chỗ lý tưởng tu hành. Phải ở lại khu rừng
này cho đến trọn đời không được rời bỏ”.
Chỗ đó nó
phù hợp heng, có đồ ăn đồ uống nó vừa phải nó không
có quá khó khăn, xin khó khăn mà lại tu hành được, nó yên ổn nên ở bám cái chỗ
này mà tu hành suốt đời chứ không có được đi chỗ khác. Đức Phật dạy như vậy.
Còn cái kia, là cái chỗ đó tuy rằng mình tu hành được nhưng mà nó có những cái
đời sống nó khó khăn, nhưng mà đừng có bỏ, phải ở đó mà tu hành, đó đức Phật
khuyên đừng có bỏ nhưng mà không có bảo mình ở suốt đời vì ở suốt đời đói chịu
sao nổi.
Ông Phật cũng hay chớ, ỗng biết, bởi vì mình
ở đó mình tu cho xong rồi thì mình đi đi chớ đừng có ở đó, ở đó cứ ăn lá cây
không chắc là thành cây hết rồi, thành bò chứ, chớ chứ đâu phải thành Phật
được. Bởi vì mình tu theo hạnh con bò thì ăn lá cây rồi ăn cỏ thì nó thành con
bò chứ làm sao mà thành Phật. Cho nên ông Phật ông nghĩ mình cũng phải ăn cơm
chứ, cho nên từ đó khi mình tu xong rồi thì mình cũng sống hòa mình với chúng
sanh như mọi người, mình là con người chứ đâu phải bò trâu mà ăn cỏ hoài. Nhưng
mà bây giờ đang tu mà nếu ở đó được an ổn thì ăn cỏ cũng nên ở. Chứ đừng ở cái
chỗ mà đức Phật đã khuyên, cho nên đừng có bỏ. Nhưng mà đến cái chỗ mà có cơm
có y phục có đủ thứ để cuộc sống của mình và chỗ đó tu hành được thì ở đó suốt
đời. Phật nói ở đó suốt đời vì chỗ đó có thể độ người được. Bởi vì có người mới
đem cơm cho mình ăn, do đó mình phải trả ơn cho người ta chứ nếu mình bỏ đi
không ở suốt đời thì sao trả ơn họ được, phải không? Ông Phật khuyên có lý lắm.
Đó thì hôm nay đức Phật muốn nói cái chỗ này
và đồng thời thì cái bài pháp này còn dài và đức Phật có chỉ định chúng ta sẽ
chọn một ông thầy, đây là chọn chỗ ở rồi chọn ông thầy, chớ không phải là không
chọn đâu, đức Phật nói kỹ lắm chọn ông thầy phải ở như thế nào để mà tu hành
cho được. Mà cái chỗ đó, mà ông thầy ở chỗ đó mà ăn lá cây mà tu hành được thì
cứ sống với ông thầy, đừng có bỏ ông thầy, ông thầy có đuổi, có xô gì… ở đây
Phật dạy mà. Thầy có đuổi xô gì thì đuổi miễn là mình cứ sống gần bên ông ta
thì mình sẽ đạt được cái giải thoát. Miễn ở đó ổng ăn lá cây hay ăn gì thì ăn
thì mình cũng ráng ăn với ổng thì chắc chăn sớm muộn thì mình cũng giải thoát
như ổng. Ông có đuổi xô mình cái gì đi nữa, ổng có đạp đá mình nhất định là
mình không rời ổng, còn cái chỗ nào có sung sướng mà tu hành không được thì bấy
giờ ông thầy có ngọt dịu mời mình ở mình cũng không ở và bỏ đi nữa. Đó, những
cái đó để sau này khi mà kết thúc thì Thầy sẽ đọc lại cái đoạn kinh đó để mà
quý thầy chọn một bậc thầy mà tu tập. Còn bây giờ Thầy chỉ gợi nên cái ý để
chọn nơi, nơi chốn chúng ta ở. Trong kinh nó đầy đủ lắm các con, Phật nói cái
gì cũng có những cái hay của nó hết, nhưng vì chúng ta chưa có thực hiện được
cho nên chúng ta cũng chưa thấy cái hay của nó.
Đến đây thầy cũng xin nhắc lại một vài cái
mẩu chuyện để góp lại cho cái phần tu tập của chúng ta có những cái gương hạnh,
mà trong mỗi bài kinh đều có những cái gương hạnh để chúng ta noi theo đó mà tu
tập.
Và bây giờ Thầy thuật lại một vị Thánh tăng,
ngài Ra Đa (Ràdha), ngài là một Bà La Môn lớn tuổi, ngài không làm hết bổn phận
của mình đối với một Bà La Môn, ngài không được các Bà La Môn khác chấp nhận,
ngài đi đến đức Thế Tôn và nói lên những lời ước muốn của ngài. Bậc Đạo Sư nhận
xét ngài và thấy ngài có những điều kiện căn bản nên bảo ông Xá Lợi Phất chấp
nhận cho ngài xuất gia và được Đạo Sư dạy bảo cho thấy rõ con người không khéo.
Dạy cho ông thấy rõ cái sự khôn khéo tự huấn luyện tâm của mình, chế ngự các
dục của mình. Đức Phật dạy cho ông cái pháp khéo léo huấn luyện cái tâm và chế
ngự các cái lòng ham muốn của mình khi nó sanh khởi. Thầy dạy ông những cái
điều đó thôi, hiểu được cái lời dạy này ông dùng cái thiền quán Định Vô lậu và Chánh niệm tỉnh giác, Định Sáng suốt, nhờ thế
mà ông khéo huấn luyện tâm, khéo chế ngự các dục, không bao lâu ông chứng quả
Alahan. Sau đó ngài làm bài kệ để nói lên kinh nghiệm tu hành của mình. Nghĩa
là khi đức Phật dạy ông đó, là dạy ông khéo, khéo léo để huấn luyện cái tâm,
rồi khéo léo để chế ngự các dục trong tâm ông. Thì lúc bấy giờ ông được học với
đức Phật là cái Định Vô lậu, cái Định
Chánh niệm tỉnh giác, cái Định Sáng suốt, nhờ đó mà ông lấy cái pháp đó mà
ông dùng để điều khiển ông huấn luyện cái tâm của ông, ông chế ngự các lòng ham
muốn của ông và cuối cùng ông chứng quả Alahan. Thì ông chỉ tu có ba cái định
đó thôi chứ không có Định Hơi thở nhưng mà ông cũng thành tựu luôn cả cái Định
Hơi thở luôn.
Bây giờ qua cái bài kệ của ông, nói kinh
nghiệm của ông mà, để chúng ta thấy qua cái bài kệ của ông, ông nói cách thức
nào mà ông khéo léo mà huấn luyện cái tâm ông nè, rồi chế ngự cái dục vọng của
ông nè. Đây là cái bài kệ, nó có cái giá trị là ở chỗ cái bài kệ:
Như
mái nhà vụng lợp
Mưa
dễ thấm ướt vào
Cũng
vậy tâm vụng tu
Tham
ái được xâm nhập
À các thầy thấy ông ví nghe rất rõ như vậy.
Hàng ngày chúng ta hằng sống đó, thì làm sao như mái nhà mình khéo lợp chứ còn
vụng lợp thì mưa xuống thì nó nhiễm nó dột ở trong nhà mình ướt hết, thì cái
tâm của mình nó lậu hoặc cũng vậy nó rỉ dải, rỉ dải tùm lum ở trong đó hết.
Ngồi đây mà để cái tâm mà nhớ nhà hoặc để cái tâm nghĩ cái này lăng xăng cái
kia thì cái đó là mưa nó dột đó đó. Cái đó là mưa dột đó. Nhà chúng ta lợp kỹ
rồi, cho nên huấn luyện cái tâm của mình là như cái người mà lợp cái nhà mà lợp
chưa kỹ, lợp cho kỹ thì như thế nào? Ba cái pháp, ba cái định đó ông có kẽ hở
không? Các con hiểu cái điều đó chưa? Cho nên ở đây nếu mà ba cái pháp này liên
tục hàng ngày tu không có khe hở thì để cho cái tâm mình khởi nghĩ cái gì hông?
Mà nó không nghĩ thì các con thấy nó kín không? Nó kín thì nó đâu có dột, phải
không? Cho nên ông nói bài kệ sau này:
Như
mái nhà khéo lợp
Mưa
không thể thấm vào
Cũng
vậy tâm khéo tu
Tham
ái không thâm nhập
Mà nó không
thâm nhập một thời gian, hai năm, ba năm cái nó sạch bóng,
nó hông ướt thì cái nhà mình khô reo thì bắt đầu đó là thành tựu đạo Phật chứ
gì, có gì đâu. Đó là cái kinh nghiệm của ông qua cái sự tu tập của ông, ông nói
lại chúng ta thấy rất rõ. Còn hàng ngày quý (...) vậy là cái nhà của mình dột,
thường thường Thầy thấy quý thầy tu chứ nó có kẽ hở, cho nên cái nhà quý thầy
lột ra thấy trần, mưa xuống nó dột, có hông? Quý thầy cứ nghĩ coi xem cái nhà
của mình có dột không? Ai có dột thì biết chứ gì, ai không dột mình tự biết.
Bởi vì mình tu cái nhà của mình kín hay không kín mình biết chứ, đó là cách
thức mà khéo huấn luyện cái tâm của mình đó, đó là vậy đó. Mà ở đâu đức Phật đã
cho chúng ta ba cái loại định để mà huấn luyện nó mà, thế mà mình cứ để cho nó
dột hoài à. Trời đất ơi cất có một cái chòi, cái nhà mà cũng để cho nó dột ướt
vậy thì Thầy nói thôi, còn cái gì mà gọi là tu, phải hông? Các thầy nghĩ coi
mình có để dột không? Có chớ làm sao không, nếu mà không có thì từ hôm vào hạ
tới nay các thầy gần như là thành tiên hết rồi. Có tâm đâu mà phiền não đâu?
Chứ không phải nhìn gương mặt của mấy thầy nụ cười nở trên đó hết chứ đâu có
còn mà lăng xăng, phải hông? Cái này nó chưa đâu, nó dột tùm lum thành ra cái
mặt nó héo. Cái nhà dột thì có ai mà vui được, phải hông? Cái nhà không dột thì
mới vui được chớ, đó là cái thực của một cái đạo của Phật đã dạy thực chớ không
phải, qua cái bài kệ này thấm thía lắm quý thầy.
Đây là một bên nữ, có một vị tu hành mà Thầy
xin đọc để chúng ta thấy cái vị này. À, đây là tới 500 người lận, 500 bà Liên
hoa sắc, đây là 500 cô gái mà đến tu tập chứ không phải một người, nhưng mà qua
cái bài kệ để chứng tỏ do các vị này tu tập những cái pháp môn nào mà có thể đi
đến cái chỗ mà được giải thoát đây? Có 500 cô gái lấy chồng, có con sống lo
việc bếp nước trong gia đình, chúng đều chịu sự đau khổ khi con của chúng bị
chết, rồi chúng đi tìm bà Hoa -Ni -Sắc Tỳ kheo đảnh lễ bà rồi xin kể nỗi khổ
đau của mình. Bà Hoa - Ni - Sắc Tỳ kheo khuyên lơn an ủi làm cho 500 cô Liên
Hoa vơi bớt sự đau khổ và nói lên bài kệ như sau, nghĩa là bà Hoa – Ni - Sắc bà
nói lên cái bài kệ để an ủi các cô này bằng các bài pháp. Nhưng đây là cũng là
một cái pháp hướng, trạch ra một cái pháp hướng của cái này để cho các cô này
dùng cái pháp đó để mà tu tập sau này.
Đây là bà nói cái bài kệ:
Người
không biết con đường
Nó
đến hay nó đi
Từ
đâu con trai đến
Người
lại khóc: 'Con tôi'.
Đó là bà nói bốn câu kệ thứ nhất, bây giờ
Thầy đọc lại các thầy suy ngẫm.
Người không
biết con đường, nghĩa là nói như chúng ta chưa có
biết con đường đâu, chưa có biết con đường nhân quả đâu.
Nó đến hay
nó đi, nghĩa là nói con mình nó đến hay nó đi, từ
đâu nó đến, mà từ đâu nó đi đây?
Từ đâu con
trai đến, à đứa con của mình là con trai một
đó nó đến, từ đâu nó đến đây?
Người lại
khóc con tôi. Nghĩa là các cô lại khóc con, cái
người đó họ đến chứ, họ là con của cô, mà cái người đó là ai cô có biết không,
đâu có biết, đó là cái ý của cái bài kệ nói.
Chứ nó đến nó đi đâu có biết được, mà nó đến
thì mình lại khóc con mình, chứ nó biết nó là con mình hay là ai đây? Mà tại
sao cái mình sanh nó ra rồi mình nhận nó là con mình rồi mình khóc à. Còn hồi
mà nó chưa có thì nó ở đâu, đó là có phải con mình hông? Mà rồi nó vô nó đi, nó
đến nó đi mình đâu có biết được nó đến đi hồi nào, mà nó lọt vô bụng mình, mình
sanh ra cái rồi mình khóc con mình. Như vậy nó là ai đây? Cho nên mấy cô đâu có
biết, vì vậy mà khóc tầm bậy, không đúng. Phải hông? Cho nên bây giờ thấy vợ
mình mà tưởng đó là vợ mình à? Nó đến đi do đường nhân quả nó đến đi nó mới là
vợ mình bây giờ chứ mai mốt nó vợ ai chứ đâu phải vợ mình, vậy mà ngồi đây mà
nhớ nó? Đó là cái lầm lạc, cái hiểu sai cho nên ngồi đây mà thương vợ nhớ con
là cái điều trật, không đúng. Đâu có biết được cái đường đi nhân quả của nó
đâu, cho nên bà nói rất đúng, bà Hoa -Ni -Sắc Tỳ kheo bà nói rất đúng.
Người
đâu biết con đường
Nó
đến hay nó đi
Người
khóc nó làm gì
Nó đến nó đi nó đâu có phải cái liên hệ gì
mình, nó là cái nhân quả mà, nó vay nợ mình nó đến nó đòi mình mà bây giờ mình
lại khóc nó là khóc làm sao?
Người
khóc nó làm gì
Pháp
hữu tình là vậy
Phải hông? Đó là các pháp nó đến nó đi. Vợ
mình, con mình, những người thân của mình, cha mẹ mình là các pháp hữu tình chứ
đâu phải là cái gì của riêng mình đâu mà mình giành. Mình giành nó là của mình
xong mình khóc, vì tại vì mình mê muội cho nên mình giành nó là của mình, cho
nên mình thấy nó chết mình khóc, chớ còn nếu mà mình đừng có giành nó thì nó là
của ai đâu, thì nó đi đâu nó đi, nó đến nó đi. Cũng như bây giờ mình ngồi đây
là chủ nhà này, có một người khách đi ngoài đường họ vô nhà mình, rồi cái họ đi
ra, thì mình đâu có nghĩ mình thương tiếc gì. Thì đó là người khách họ đến nhà
mình rồi họ đi chứ họ đâu có ở, cho nên nó đến nó đi thì mặc nó có can dự gì
đến mình mà ngồi đó mà khóc, mà buồn, phải hông? Thấy như vậy gọi là thấy được cái nẻo của nhân quả luân hồi. Còn
mình không thấy được như vậy, cái tâm của mình hễ nó vô nhà mình rồi nó đi cái
mình khóc. Cái đó là mình không thấy nẻo luân hồi. Các con thấy sâu sắc của đạo
Phật chưa?
Cho nên từ đó mà mấy cô này mới tỉnh ngộ, mới
không khóc nữa, mới không đau khổ chứ còn nếu bà này không có làm cái bài kệ
này thì mấy cô này chắc chết điêu chết đứng với mấy đứa con mà bị chết. Thì thử
nghĩ chúng ta có đứa con chết chúng ta có khổ không? Mà chúng ta đâu có thấy
nhân quả phải hông, nó đến nó ở đâu nó đến chứ mình biết nó ở đâu, là ai mà nó
vô nhà mình rồi mình nói nó là con, rồi bây giờ nó chết rồi mình khóc, chết tức
là nó đi, nó ở đâu nó đến rồi nó đi mà mình khóc mình nói nó là con mình, vợ
mình hoặc những người thân mình. Trời ơi, thiệt là ngu si sao mà ngu si, bởi vì
học Phật pháp rồi Thầy thấy cái người ta mà khóc người chết Thầy thấy sao mà
ngu ngu quá ngu, vô minh quá độ. Tại sao không thấy, ngu quá, ở đâu nó đến,
pháp các pháp bởi vì pháp hữu vi và pháp hữu tình là nó như vậy nó đến nó đi
chứ đâu phải. Mọi người đều là pháp chứ gì? Mà đến đi mặc nó chứ mắc mớ gì mình
lại khóc, vô nhà mình rồi bắt đầu đi cái mình khóc còn hồi đó ở ngoài đường sao
mình không khóc? Đó là cái khóc bậy, khóc vô minh.
Không
có ai yêu cầu
Từ
chỗ kia nó đến
Mình có yêu cầu nó đến mình đâu, mà giờ tự
nhiên ở đâu nó đến cái bắt đầu khóc chớ có phải mình yêu cầu ờ thôi bây giờ chú
anh đến nhà tôi đi, làm con tôi đi thì thôi nó đến thì thôi mình cũng chấp nhận
là con mình, mình khóc cũng phải, đằng này mình có yêu cầu nó đâu. Nó đến cũng
thình lình mà nó đi cũng thình lình, cũng như bây giờ mấy chú thanh niên nho
nhỏ bây giờ đâu có biết cái cô nào là vợ mình, bỗng dưng thấy cô đó có cảm tình
được, đi cưới cô ta về làm vợ chứ đâu có chắc là cô đó, phải hông? Nó đến tự
nhiên nó đến trong cái vay nợ nhân quả mình, mình đâu có hay chừng đó gặp nhau,
họp mặt nhau thấy được cảm tình với nhau lôi nhau thành vợ chồng đẻ ra một bầy
con, phải báo khổ nhau không? Ngu si gì mà ngu si đến cái độ, mà khi rủi nó có
chết này kia rồi khóc lóc, trời đất sao mà không thấy nhân quả gì hết. Bởi vậy
cuộc đời tu hành của đạo Phật nó vạch ra từng cái khía cạnh nhỏ để chúng ta
biết được cái điều đó, thế mà con người ngu quá ngu. Thầy nói thiệt, họ cứ chấp
chặt cái gia đình của họ, họ cột chặt, trói trong đó họ không thấy nhân quả, họ
không thấy kẻ đó có phải mình muốn hoặc yêu cầu họ đến đâu. Cho nên bà ấy nói:
Không
có ai yêu cầu
Từ
chỗ kia nó đến
Nó từ đâu nó đến mà đâu có ai yêu cầu nó.
Không có ai cho phép, cũng không có ai cho phép nó đến, phải hông, đâu có ai
cho phép, nhân quả mà làm sao ai cho nó được. Từ chỗ nọ nó đi, nghĩa là bây giờ
mình cũng đâu có bắt buộc mình cho phép nó đi đâu. Rồi nó muốn đi tức là nó
chết thì nó chết chứ mình làm sao mà kéo nó được đâu. Bài kệ quá tuyệt, chỉ
đường lối nhân quả quá hay mà đâu có dở đâu. Rõ ràng là bà này thiệt là thông
suốt nhân quả cho nên bà ấy viết bài kệ này Thầy rất là tâm đắc cái chỗ bài kệ
này, là Thầy đã hiểu nhân quả, thì bà này lại cũng hiểu nhân quả cũng như Thầy,
không khác chút nào hết, Thầy biết nó rất rõ. Cho nên đối với Thầy không có
nước mắt tầm bậy, còn các con lơ mơ là đổ nước mắt cả đống chứ hông có dễ đâu.
Chưa có hiểu cái này các con khổ sở lắm.
Cho nên ông Anan mà nghe Phật chết ông khóc lu bù là vì ông ấy chưa hiểu
nhân quả. Các con biết ông ấy ra rừng mà ông ấy khóc hù hù. Mặc dù ông Anan là
ông ấy thông kinh sách chứ ông ấy chưa có thông nhân quả đâu, cho nên ông ấy
khóc dữ tợn lắm. Còn cái bà Hoa- Ni -Sắc Tỳ Kheo này bà đã thông nhân quả.
Không
có ai cho phép
Từ
chỗ này nó đi
Từ
đâu nó đi đến
Được
sống bấy nhiêu ngày
Nó được sống bao nhiêu ngày thì hay bao nhiêu
ngày chứ nó đâu có cần biết gì mà nó sống cho nhiều hoặc là nó sống bao nhiêu
thì kệ nó, ăn thua gì với nó, nó đến nó đi kệ nó, có mắc mớ gì mình đâu mà mình
buồn khổ.
Từ
chỗ này nó đến
Từ
chỗ kia nó đi
Nó
đến một con đường
Nó
đi một con đường
Nó đến thì một con đường, nó đi thì một con
đường, nhưng con đường đến, con đường đi nó chỉ là nhân quả thôi chứ đâu có gì
đâu.
Mạng
chung hình sắc người
Luân
hồi nó sẽ đi
Đến
vậy đi như kia
Ở
đây khóc than gì ?
Các câu bà kết luận nghe rất là thắm thía, ở đây khóc than gì? Mà bà Hoa - Ni - Sắc
Tỳ kheo bà đã từng khóc hai đứa con của bà, từng khóc cha mẹ chết, từng khóc
đứa em trai chết trong một lúc thì các con biết bà đứt ruột biết bao nhiêu. Sau
khi theo tu đạo Phật bà mới thấu rõ được cái lý nhân quả, cho nên bà mới viết
bài kệ thấm thía, đến thấm thía vì cái người mà đang sống ở trong cảnh đau khổ
đó người ta mới hiểu được cái nhân quả. Người ta tu chứng được người ta thấy
được cái nhân quả, còn người chưa chứng được người ta bị mờ mịt không thấy gì
hết.
Sau khi nghe xong bài kệ, 500 Liên Hoa Sắc
cảm thấy tâm hồn dao động liền xuất gia dưới dự lãnh đạo của bà Hoa- Ni - Sắc
Tỳ kheo. Sau khi xuất gia 500 nàng giới pháp tín thọ, tín nghĩ, tín nghĩa thọ,
giới pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, nghĩa là đây
Thầy đưa ra cái pháp mà cho 500 vị này mà tu tập đó, tức là bà Hoa- Ni -Sắc Tỳ
kheo đưa ra cái pháp, với cái pháp, cái pháp đầu tiên là pháp tín thọ, cái pháp thứ hai là nghĩa tín thọ. Các
nàng triển khai thiền quán, tùy pháp,
hướng pháp chẳng bao lâu chứng quả Alahan, sau khi chứng quả Alahan các
nàng làm kệ, các bà đó làm kệ.
Thì cái nghĩ như thế nào, cái pháp tín thọ,
cái pháp tín thọ khi mà nghe cái bài kệ rồi thì mấy cô Liên Hoa Sắc này, các cô
thấy rất rõ cái đường đi nhân quả, cho nên các cô tin thọ, tin mà thọ đó, tin
là tin sâu đó, tin không có bao giờ mà tin một cách lờ mờ đó. Thấy rõ cái đường
đi của nhân quả, cho nên các cô này đang còn cha mẹ gì hết, cắt đứt hết. Tôi thấy
rõ đường đi của nhân quả rồi, nó đến nó đi cha mẹ tôi có đến đi cũng là nhân
quả đi nó ở kia nó đến mà nó hợp với nhân quả cho nên tôi là con vậy thôi chứ
không có cái gì khác hết. Cho nên tin quá thôi, tin thọ, tin quá tin không có
nghi ngờ.
Mà cái nghĩa, ở đây cái nghĩa tín thọ, cái nghĩa đó, cái
nghĩa mà hiểu ra làm cho các cái cô này rất là tin tưởng, tin tưởng từ trong
thân tâm của mình cho nên bắt đầu bỏ hết của cải tài sản. Bắt đầu bỏ hết cái sự
sắc đẹp của các cô, dẹp hết, dẹp hết hoàn toàn cho nên cái câu, cái
pháp mà tín thọ, cái pháp nghĩa tín thọ này nó có cái nghĩa đặc biệt là
ở chỗ này, là cắt
đứt tất cả những cái dây mơ rễ má mà cái lộ trình thứ nhất mà con người cư sĩ
cần đi.
Còn chúng ta bây giờ có đủ cái niềm tin ở cái
pháp tín thọ chưa, có đủ cái niềm tin mà hiểu được nghĩa của những cái bài kệ
này chưa? Còn người ta chỉ nghe cái bài kệ thôi, mà người ta đã với cái pháp
tín thọ và nghĩa tín thọ. Thì các thầy đã nghe Thầy giảng chứ nhưng mà có được
tin như vậy không? Có làm được như vậy không, làm được như vậy mới là pháp tín
thọ và nghĩa tín thọ, còn làm chưa được như vậy thì chưa được gọi là pháp tín
thọ và nghĩa tín thọ.
Đó, Thầy giải thích như vậy, quý thầy có hiểu
chưa? Nghĩa là mình làm cho được như các cô này, mà dứt bỏ được như vậy để mà
thực hiện con đường tu hành cho đến chứng quả Alahan như vậy đó, mà dứt bỏ một
cách “rụp” như vậy, đến đó quá khổ là bị dính mắc tất cả những sự thương ghét
cha mẹ, anh em, nhà cửa con cái của mình, đau khổ nó đến mà khi bà nói bài kệ
thì đã thông suốt được cái lý nhân quả rồi. Cho nên dứt bỏ liền tức khắc xin
xuất gia liền tu hành theo bà liền, không có hề mà còn thương ghét gì đối với
gia đình vì con đường nhân quả quá rõ. Nội cái bài kệ không, Thầy đã thấy rằng
khi mà cái người mà tín thọ và nghĩa tín thọ này thì thấy cuộc đời không có gì
cả, không còn con cái, này nọ, nghĩa là dẹp sạch hết thì mới đúng là cái nghĩa
pháp tín thọ và nghĩa tín thọ. Còn nếu mà chưa được vậy, chưa cắt đứt được vậy
thì chúng ta chưa dám dùng cái danh từ, hoặc là cái pháp đó gọi là pháp tín
thọ, nghĩa tín thọ. Còn nếu mà chúng ta làm được thì mới gọi là pháp tín thọ,
nghĩa tín thọ.
Đó thì, những cái danh từ nó dùng trong kinh,
nó nhấn mạnh đến - mức độ mà chúng ta không ngờ được ông Phật ông dùng những
cái danh từ như vậy để mà chỉ cho cái người đoạn dứt, đoạn lìa ra các sanh pháp
của thế gian mà không cho nó dính mắc ở trong ấy. Cho nên sự chứng quả Alahan
của các vị này cũng rất là nhanh chóng, không phải là khó khăn. Đây thầy đọc
bài kệ
Cây
tên khó thấy được
Nghĩa là các cô đó
nói ví dụ như những cái sự tình thương, cái nhân quả, mà tình thương đó giống
như là cái mũi tên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét