Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 20

GIỚI TUỆ

... toàn là có tri kiến mà thôi. Đó là cái tai hại khi mà Thầy dạy đạo Thầy biết cái này rất là rõ ràng, không có phải là một cái chuyện đơn giản. Vì vậy mà vì vấn đề mà giáo lý của nhà Phật bây giờ phải sắp xếp mà nhìn trước nhìn sau thì ai mà làm cái này, cho nên Thầy phải buộc lòng mà làm, làm với cái sự bất đắc dĩ của mình chớ không phải làm với cái sự cầu danh cầu lợi ở trong này. Thầy chỉ mong có người tu hành chứng đạo chứ không phải mong cho người ta có kiến thức hiểu biết như thế này đâu. Cho nên cái viết ra là một cái tai hại rất lớn, cái nói ra mà khi người ta chưa tới là một cái điều rất tai hại cho tư tưởng, làm hư hoại tâm hồn của họ, làm hư hoại tư tưởng của họ. Họ hiểu rồi, nó dính mắc ở trong đó, nó khó mà giãy dụa, cho nên họ đâu còn thanh thản được. Họ bị lời nói của Thầy, họ bị những dòng chữ của Thầy làm cho họ bị chi phối tâm hồn của họ. Cho nên họ đâu còn là một tờ giấy trong sạch nữa, họ bị Thầy gạch mực ở trong đó quá nhiều ở trong đó rồi. Cho nên những điều này là điều bất đắc dĩ mà Thầy phải làm thôi.
Bây giờ quý thầy bắt đầu tu, học tập Giới tuệ.
Khi tu tập Giới đức xong thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng được thấm nhuần, thuần tịnh, trong sạch. Nghĩa là khi mà tu tập Giới Đức rồi thì thân tâm của quý vị nó thuần tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và thanh tịnh, rất là sáng suốt. Nghĩa là lúc bấy giờ khi mà Giới Đức mà  thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh lắm! Tâm hồn của quý vị nó không còn ô nhiễm một chút gì ở thế gian, nó không còn có khởi một sự ham muốn dục lạc của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu sức cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được quý vị nữa. Cho nên nó gọi là thuần tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng. Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới học Giới Tuệ thứ nhất của cái tâm này đây!
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.
Như vậy nghĩa là lúc bây giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong cái trạng thái như vậy đó. Những cái danh từ mà Thầy chỉ đọc ra đây để cho quý thầy nghe được cái tâm của mình như vậy đó. Thầy đọc lại một lần nữa để quý thầy xét cái tâm của mình khi đã tu Giới Đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý vị bao giờ nó cũng ở trong cái trạng thái này:
Với tâm định tĩnh - rất định tĩnh, không có gì làm cho nó chao động được hết, thuần tịnh - thuần là thanh tịnh, nó không còn bị cái gì mà dơ bẩn ở trong đó, cho nên nó không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến - nhu là mềm, nhuyến là nó mềm dẻo, dễ sử dụng - cái tâm của quý vị bây giờ dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó không bao giờ có chỗ cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu, vững chắc - luôn luôn nó rất vững chắc, cái sự nhu nhuyến đó nó mềm dẻo vậy chứ nó rất là vững chắc, nó không có bị chao động, nó bình thản, nó thản nhiên, nó thanh thản, nó không cái gì làm mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được. Đó là lúc bây giờ các vị đã học tu tập được cái Giới Đức rồi thì cái tâm của quý vị nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này thì quý vị mới tập luyện được cái Giới Tuệ, chứ còn nếu không thì quý vị không bao giờ mà thực hiện được cái Giới Tuệ này đâu.
“Lúc bây giờ vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Chánh trí, Chánh kiến”. Bây giờ chúng ta mới dẫn tâm, tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi thì quý vị mới dẫn cái tâm của quý vị đến Chánh trí - tức là trí chân chính của quý vị, rồi cái Chánh kiến - cái hiểu biết chân chính của quý vị thì vị ấy biết rõ, biết rất rõ. Nghĩa là người đó mà dẫn cái chánh trí với chánh kiến của mình thì biết rất rõ:
“Thân này của ta là do sắc pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà lớn, nhưng nó lại vô thường, biến hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong thân này chỉ có thức uẩn là bị trói buộc, là bị quên mất”.
Nghĩa là khi người đó mà có sức định tĩnh của tâm như vậy rồi thì hướng tâm đến Chánh trí thì bây giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng như vậy và biết được cái thức nó đang bị trói buộc trong cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó và nó bị lãng quyên mất đi và bây giờ nó đang hiện ra được. Đó, thì bây giờ mới thấy được cái chỗ mà Thức thức nó đã từ lâu chúng ta nói thân ngũ uẩn của chúng ta mà, Sắc – Thọ - Tưởng – Hành – Thức đó, thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói buộc, cột chặt, không làm việc gì được hết. Tất cả  mọi “thằng khác” thì làm việc, còn riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người ta không có nhớ nó được vậy. Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tĩnh của tâm chúng ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên, bị trói buộc từ lâu tới giờ vậy đó.
Bây giờ là lúc cần thiết dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà ta sai bảo trong khi tu tập Giới Tuệ. Đó, bây giờ nhìn nó mình thấy nó từ lâu bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy bây giờ mình mới cần thiết mình mới dùng nó để cho mình sai nó làm những phận sự sau này, cho nên mình sai nó cái gì thì nó cũng nghe theo hết.
Như vậy là khi mà chúng ta dùng được cái Chánh kiến, Chánh trí chúng ta mới quan sát lại nó, khi mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh, cái thuần tịnh này thì chúng ta mới có sai được cái Thức thức của chúng ta, mới dậy nó làm việc ở trong cái Giới Tuệ của nó mới được.
“Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hoặc màu nâu chúng ta đều nhìn thấy rõ sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai một chút nào”.
Nghĩa là đức Phật ví như cái lúc mà cái tâm của chúng ta thuần tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến chánh trí, chánh kiến mà thấy cái Thức của chúng ta bị trói buộc, bị ngủ quên, giống như chúng ta xỏ một sợi dây qua một hàng ngọc bảo châu trong suốt, cho nên sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng, màu xanh là chúng ta thấy xanh, màu đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy màu khác và không có mờ mịt chút nào hết. Đó là đức Phật đem cái ví dụ như vậy để chúng ta thấy rằng cái tâm mà chúng ta thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái tri kiến và cái chánh kiến, cái chánh trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn luôn là bị hoại diệt, thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, đau khổ và đồng thời cái mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi. Đó là cái Thức thức của chúng ta bị bỏ quên đi, chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên, nó không có làm việc gì được hết. Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết phải đánh thức nó dậy, phải dựng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong sự tu tập Giới Tuệ của chúng ta. Nghĩa là chúng ta muốn tu tập Giới Tuệ thì chúng ta phải đánh thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu tập được Giới Tuệ. Còn Thức thức chúng ta không có dậy thì không có tu tập được Giới Tuệ. Đó, quý thầy hiểu chưa?
Mà khi đó chúng ta phải thực hiện Thiền định rồi thì chúng ta đánh thức nó dậy. Mà Thiền định tức là Giới Đức, mà Giới Đức xong thì mới có được cái này. Còn nếu mà Giới Đức chưa xong thì thử hỏi làm sao có được.
Hôm nay quý thầy đã thấy từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức thức của chúng ta bằng cái chánh trí, bằng cái chánh kiến của chúng ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ nhất trong Giới luật của đức Phật mà cũng là một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị ấy”. Nghĩa là cái vị ấy mà tu được tới chỗ này là cái Giới Tuệ của vị ấy đã đánh thức được cái Thức thức dậy rồi. Đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy. Cái kết quả rất là vi diệu. Đó là cái Giới Tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái Thức đó là lúc bây giờ mới dùng cái chánh trí và cái chánh kiến mà đánh thức nó dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì? Bằng cái pháp hướng.
Đó là Giới Tuệ thứ nhất chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường tu tập để đánh thức cái Thức thức của chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở trên con đường mà thực hiện những cái Giới Tuệ của nó, tu tập những cái Giới Tuệ của nó.
“2. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra, vị ấy tạo ra một thân khác từ thân này, cũng là Sắc pháp, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào, cũng ví như người rút một cây lao ra khỏi vỏ lao, cũng ví như người rút thanh gươm thanh kiếm ra từ bao kiếm, cũng ví như người lột xác một con rắn”.
Đó, khi mà chúng ta đến đây chúng ta thực hiện cái Giới Tuệ của chúng ta mà cái Giới Tuệ thứ hai này là chúng ta sai cái Thức thức của chúng ta phải làm việc. Bây giờ từ ở trong một cái thân này phải biến ra một cái thân khác, hiện ra một cái thân khác mà làm cho được đầy đủ cái thân đó cũng là Sắc tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng vậy, lớn nhỏ mắt tai mũi miệng nó cũng y như cái thân của chúng ta mà nó hiện ra nó ngồi ý như hai người ngồi như là một. Như vậy là chúng ta đã thực hiện được cái Giới Tuệ thứ hai của chúng ta. Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái sức làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ của chúng ta lúc bấy giờ điều khiển thân và tâm của chúng ta nó phải thể hiện qua cái trí tuệ của chúng ta chứ không còn làm sai khác được cái ý của chúng ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ hai trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu và thù thắng”.
Các thầy nghĩ coi bây giờ từ chỗ Thiền định mà nhập Tứ thiền rồi mình ngưng các hành trong thân của mình rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi thì bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình đánh thức cái Thức thức của mình dậy. Mình đánh thức cái Thức thức mình dậy rồi bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân này phải biến ra một thân nữa y như nhau, cũng có các căn mắt tai mũi miệng thân ý đàng hoàng, mặc y áo giống nhau, thì nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa. Lúc bây giờ quý thầy thấy cái Giới Tuệ nó như thế nào? Có thù diệu không? Có vi diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể, nó hiện tại chứ không phải nói cái chuyện mù mờ, vu vơ đâu! Lẽ ra cái này khi nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng, và đồng thời giảng thì phải có một người thực hiện cho được. Còn cái này thật ra thì đây là xếp thành một cái giáo án chứ nó chưa phải là quý thầy tu tới. Chứ trong thời đức Phật nói ra là có chứng minh liền tức khắc chứ không phải nói vu vơ như thế này! Còn bây giờ mà Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì cái điều đó là cái điều quá là ngu si chứ chưa phải là người biết Phật pháp. Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu hỏa nhập ma thì phải có một người bị thì cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn như hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không được giảng mênh mông như thế này mà chỉ giảng những cái nào người ta tu tập mà thôi. Còn giảng mênh mông như thế này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá nhiều.
Nói đến cái Giới Tuệ này thì Thầy thấy nó là siêu việt, người thế gian không thể lường được. Thành ra Thầy nói tới đây dường như người ta nói Thầy nói láo, nhưng mà nó là một sự thật! Nó không phải là nói láo đâu! Bởi vì kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà bây giờ cái người thể hiện ra thì chưa có ai thể hiện cho nên người ta vẫn nói đó là Phật cũng là nói láo chứ không phải là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã biết cái điều nói láo hay không nói láo,Thầy biết chứ làm sao ai biết được.
Cho nên hôm nay vì cái giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết những cái gì mà Phật đã dạy ở trong Kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì và bỏ một cái gì được. Vì đây là một cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng ta là một cái gia tài rất quý báu mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái lỗi của mình là nhìn tới nhìn lui không ai làm được cho nên phải nói.
Bây giờ về cái phần Giới Tuệ thứ ba.
“3. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Dục Như Ý Túc, (Bây giờ tới Tứ Như Ý Túc đó, bây giờ là Dục Như Ý Túc đó), vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân  hiện ra một thân”.
Trước thì đức Phật chỉ ra Giới Tuệ đầu tiên là một thân hiện ra một thân, các căn mắt tai mũi miệng đều y, quần áo đều mặc y giống nhau không khác. Đó là mới có biến ra một thân mà thôi. Các thầy thấy phải đi tuần tự chứ không thể nào mà nghe nói cái biến ra nhiều thân một lần được đâu! Chúng ta phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta hướng ra một thân biến ra một thân được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới giai đoạn chúng ta một thân biến ra nhiều thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý Túc đó! Chứ hồi đầu nó chưa phải Dục Như Ý Túc đâu! Chúng ta mới tập luyện cho cái Thức thức của chúng ta sống dậy biết điều khiển mà thôi, chứ chưa phải hoàn toàn là đủ cái Dục Như Ý Túc đâu! Bây giờ bắt đầu chúng ta mới tới nữa thì chúng ta mới thấy được cái Giới Tuệ thứ ba này chúng ta mới thấy một thân nó hiện ra nhiều thân.
“Một thân hiện ta nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân”, nhiều thân nó gộp lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân, “hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm rờ mặt trăng mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại thần lực”.
Như vậy nghĩa là đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao xa, nó lớn như vậy đó mà bàn tay của chúng ta vói tới chúng ta rờ mặt nó được. (Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc cháy tay). Có đại oai thần như vậy có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến cõi phạm thiên được.
“Ví như một người thợ gốm khéo tay với đất sét, khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích”. Đức Phật ví như người tu tới Giới Tuệ thứ ba này họ cũng như một người thợ đồ gốm khéo tay, với cục đất sét mà nhồi rất nhuyễn rồi thì cái người thợ gốm này muốn làm cái chum, cái chén, cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật hoặc bình sứ, bình bông cái gì họ khéo tay cũng làm được hết. Thì ví dụ như chúng ta tu tới đó bây giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải 72 phép biến như là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu! Có 72 à! Còn ở đây nó vô lượng chứ đừng có nói! Quý thầy phải hiểu rằng đường lối của đạo Phật không phải tập luyện có 72 phép biến đâu! Mà đây là chúng ta muốn cái gì được cái nấy hết, cho nên ví như một ông người thợ gốm mà với cục đất sét ông nhồi rất nhuyễn rồi bây giờ ông chỉ có nắn, ông muốn nắn con bò, con trâu, con voi, con ngựa gì cũng được hết à. Một người đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì cũng được hết như vậy đó!
“Ví như một người thợ ngà voi khéo tay với ngà voi đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích”. Nghĩa là người thợ đó khéo tay thì lấy cái ngà voi đó họ làm cái gì cũng được, không có gì khó khăn đối với ông hết. “Ví như người thợ vàng (thợ kim hoàn đó) khéo tay với vàng khéo tinh luyện có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích”. Đó là đức Phật ví dụ như những người làm ra những điều đó thì cũng như là chúng ta đang ở trong một cái tâm định tĩnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì cũng được hết chứ không có khó khăn gì hết.
Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật. Đây là cái Giới Tuệ thứ ba thôi chứ chưa phải là nó hết những Giới Tuệ của Phật đâu! Mới bắt đầu nghĩa là bước qua đầu cái Giới Tuệ là chúng ta thấy có những sự vi diệu tuyệt vời rồi đó.
“Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.
Bây giờ cái đầu óc của chúng ta nghĩ không có ra được cái này đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho được đi! Nghĩ sao cho ra không? Thế mà người ta đạt được đến cái mức độ này người ta làm ra được. Nó đâu phải là chuyện khó đâu, nhưng mà bây giờ lấy cái đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn là không có được rồi. Cho nên khó nghĩ lường, ở đây nó vi diệu, thù thắng mà thiết thực, hiện tại chớ không phải là đợi ngày mai ngày mốt đâu! Bây giờ muốn là bây giờ được, mà ngày mai muốn là ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi nấy. Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu”. Trong thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chứ không phải nói mơ hồ như cái bóng ma, bóng khói, như đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là một sự thật như vậy!
“4. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm đến Thiên nhĩ thông. Tỳ kheo với Thiên nhĩ thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng nói của chư Thiên và của loài người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe rõ không sai. Ví như một người đang đi qua đường nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng kèn, tiếng kẻng. Người ấy nghe biết rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ kheo tâm định tỉnh hướng tâm Thiên nhãn thông nghe thấy rõ ràng cũng vậy.
Đó là Giới Tuệ thứ tư trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.
Quý thầy thấy khi tâm người ta như vậy thì người ta dẫn tâm người ta đến Thiên nhãn thông hoặc là Thiên nhĩ thông, hoặc là Tha tâm thông, tất cả những cái này đều là những điều kiện mà những vị đó đã tu tập ở trong Giới Tuệ và họ đã đạt được.
“5. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm và hướng tâm đến Tha tâm thông”.
Ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy hai danh từ: Dẫn tâm và hướng tâm. Dẫn tâm là như thế nào và hướng tâm là như thế nào? Sau này Thầy dạy tới các pháp Thầy sẽ giải thích chỗ này cho. Còn bây giờ thì chúng ta học suông qua thôi. Bây giờ hướng dẫn đến Tha tâm thông đây!
“Tỳ kheo sau khi dẫn tâm đi sâu vào tâm chúng sanh (hướng tâm, dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh) của loài người, với tâm thuần tịnh, trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng sanh có Tham biết là có Tham, tâm không có Tham biết là tâm không có Tham. Tâm của chúng sanh có Sân biết là tâm của chúng sanh có Sân, tâm không có Sân biết là không có Sân. Tâm của chúng sanh có Si biết là tâm có Si, tâm không có Si biết là tâm không có Si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú, tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm, không phải đại hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định, tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát”.
Đó, khi mà được cái Giới Tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì, tu tập đúng sai thì vị Thầy người ta đều biết hết nhưng mà người ta không nói ra thôi, người ta lần lượt điều khiển, hướng dẫn cho người tu đúng thôi, chứ người ta biết quý vị còn ở trong tâm nào người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết. Người ta sử dụng được cái tâm của người ta cho nên người ta phải thông suốt quý vị hết. Chứ nếu người ta không sử dụng được cái tâm của người ta thì làm sao người ta biết quý vị! Nhưng người ta không muốn làm quý vị bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý, người ta tùy thuận quý vị nhưng người ta lần lượt hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý vị sửa lần lần để đi vào con đường đúng mà thôi! Bởi vì người tu người ta hiểu biết cái kiến chấp của quý vị nó rất nặng, nó không phải dễ dàng một ngày một bữa mà nó cởi ra được, mà phải tuần tự người ta khéo léo để giúp cho quý vị cởi ra.
“Ví như một người đàn bà soi mặt mình trong một tấm gương trong sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt có tì vết, nếu mặt không có tì vết thì biết là không có tì vết, da mặt trắng biết là da mặt trắng, da mặt đen biết là da mặt đen, mặt có nốt ruồi biết là mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi biết là mặt không có nốt ruồi, mặt có vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt không có viết thẹo biết là không có vết thẹo”.
Đó, đức Phật ví dụ như một người đàn bà cầm cái gương soi vậy, thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ, thì cái người có được cái Giới Tuệ thứ năm này thì người ta dẫn tâm vào tâm của chúng sanh, vào tâm các thầy, các thầy tu như thế nào người ta biết hết chứ không phải người ta không biết đâu! Đó là như chúng ta soi một cái gương cũng như người phụ nữ mà soi một cái gương trên mặt vậy đó! Họ biết họ rõ như thế nào thì cũng ví như một người mà người ta đã có được Giới Tuệ thứ năm này thì người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng như vậy đó!
“Đó là Giới Tuệ thứ năm trong Giới luật của đức Phật vị này đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Chúng ta thấy tới Giới Tuệ thứ năm chúng ta đã thấy được thông suốt được những cái tâm sai khác của chúng sanh như thế nào, tu được hay không người ta biết hết, tu đúng tu sai người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết.
“6. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu uế, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến Giới tuệ Túc mạng minh – đó bây giờ mới hướng đến Túc mạng minh đây, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây. Như vậy như vị Tỳ kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng”.
 Đó, đức Phật ví dụ như chúng ta dùng Túc mạng minh thì chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như vậy đó chứ không là thấy ít đâu!
“Ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa và từ làng này trở về làng mình, làng của mình, người ấy nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ ta trở về làng của ta.
Đó là trí tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Đó thì quý thầy thấy người ta thấy nhiều đời nhiều kiếp người ta như là mình đi từ làng này đến làng khác rồi mình trở về làng mình như vậy. Nghĩa là thấy từ quá khứ rồi trở về hiện tại là cái vị đó cũng như mình ngồi tu đây bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp…
Bây giờ bắt đầu chúng ta tiếp tục bài học vừa rồi là thuộc về Giới Tuệ.
“Đó là Giới Tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật. Vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
“7. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Giới Tuệ về sanh tử của chúng sanh, tức là Thiên nhãn minh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do Nghiệp của chúng tạo ra. Này các con! Người thường hay làm điều ác hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc giới luật và pháp môn của các bậc Thánh hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà nghiệp, nuôi sống tà mạng… Những người này sau khi hết phước báu hiện tại, khi thọ, khi thân hoại mạng chung để lại cho thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ của các vị ấy, cực kỳ đau khổ. Đến khi mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ. Còn ngược lại những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ, không theo tà kiến, luôn luôn theo chánh kiến của Phật dạy nên không phỉ báng, thêm bớt Giới luật và giáo pháp của đức Phật, thường theo Giới luật của Phật không làm khổ mình khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi dưỡng bằng những thực phẩm bất tịnh có ác pháp, có sự chết chóc đau khổ bằng sinh mạng của chúng sinh. Những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu thốn một vật gì cho cuộc sống. Với Thiên nhãn minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh rất rõ ràng, ví như một người ở trên tòa lầu đài có thượng đài giữa ngã tư đường, môt người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy những người đi vào nhà, từ nhà đi ra đi qua đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư đường hay trèo lên đài thượng rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.
Đó là Giới Tuệ thứ bảy trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
“8. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Lậu tận trí, vị ấy biết như thật đây là Khổ, biết như thật đây là nguyên nhân của Khổ, biết như thật đây là Khổ diệt, biết như thật đây là con đường đưa đến Khổ diệt; biết như thật đây là những Lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những Lậu hoặc, biết như thật đây là sự diệt trừ các Lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các Lậu hoặc. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát như vậy sự hiểu biết khởi lên một cách rất rõ ràng “Ta đã giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã xong, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không còn có đời sống nào khác nữa!”.
Đó là cái Tuệ thứ tám của vị này nó hiện ra thì đó chứng đạt được cái lý Tứ Diệu Đế. Cho nên trong Ngũ lực thì đức Phật có nói là cái Tuệ lực là cái gì? Tuệ lực là Tứ Diệu Đế. Cho nên thấy thật, chứng thật, thấy rõ. Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế chúng ta nghe nói Khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân Khổ, rồi cảnh giới thoát Khổ, rồi tám cái nẻo để đưa đến cảnh giới thoát khổ đó thì chúng ta hiểu biết như vậy, đó chúng ta mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà thôi. Còn ở đây khi mà cái Giới Tuệ của chúng ta thực hiện được là cái Lậu tận minh thì chúng ta sẽ thấy được cái nguyên nhân Khổ, khổ thật chứ không phải là ngộ mà đây là chứng cái lý Khổ. Cho nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái Giới Tuệ đó mà nó hiện ra thì chúng ta thấy: đây là Khổ, đây là chứng thật cái sự khổ chứ không phải nói đây là Khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu! Mà đây là cái sự chứng thật! Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở trong đó do sau những ngày tu tập cái Định vô lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy như thật được, thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết cái nguyên nhân khổ là lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian chúng ta nghiền ngẫm đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái niệm đó bằng cái pháp hướng. Tùy theo cái pháp mà chúng ta nổ lực thực hiện, tâm chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó cho nên bây giờ mới gọi là cái trí tuệ Vô lậu, nó thực hiện ra chúng ta mới thấy được nó như thật, biết nó như thật như vậy! Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên nhân khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ và đây là con đường dẫn đến hết khổ.
Và kế đó thì đức Phật lại nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế này rõ ràng nhưng mà đức Phật xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế nó nhằm vào những cái lậu hoặc của chúng ta để chúng ta thật thấy nó.
Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là còn đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc”.
Thì chúng ta sống ở trong cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là nó như thế nào. Cái lậu hoặc là cái khổ, mà nguyên nhân của lậu hoặc là lòng ham muốn của chúng ta, mà diệt hết lòng ham muốn thì sẽ hết cái lậu hoặc, mà hết lậu hoặc thì đó là Niết bàn, là cái cảnh hết khổ. Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải thấy được con đường đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái lòng ham muốn thì con đường đó thì chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta thì con đường đó là Bát chánh đạo – Tám cái nẻo mà chúng ta cần phải tu tập.
Cho nên ở đây cái Giới Tuệ nó giúp cho chúng ta biết rằng, chỉ bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu hoặc. Sau khi học xong Giới luật thì bắt đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải biết từ cái Chánh kiến cho đến Chánh định, mà từ Chánh kiến đó chúng ta phải tu như thế nào, phải tập luyện như thế nào ở trong những cái Chánh kiến. Bắt đầu chúng ta phải tu những cái Định gì đối với Chánh kiến đầu tiên như bây giờ chúng ta tu cái…Nói ví dụ như bây giờ chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu trong Chánh kiến, phải phòng hộ cái Chánh kiến của chúng ta. Phòng hộ Chánh kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Tức là Phật gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
Như vậy mới đầu vô mà được Chánh kiến là phải phòng hộ mắt tai mũi miệng của mình, cho nên tâm của chúng ta bây giờ nó không bị nhiễm trước, không bị đắm trước các đối tượng, các pháp cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta đâu thấy vật nào. Sau đó thì chúng ta phải dùng trên cái mắt tai mũi miệng của chúng ta, chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh thức để khi chúng ta nhìn mọi vật mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của chúng ta làm cái duyên trở thành sự dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta phải tu Chánh niệm tỉnh thức. Cho nên phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có tu cái nẻo Chánh kiến mà chúng ta phải phòng hộ nó rồi.
Rồi đến khi mà mắt của chúng ta nhìn các vật được, trước đó phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái sức tỉnh thức. Sau khi tập luyện tỉnh thức được thì chúng ta mới cho mắt của chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho nên nó đã làm cho tâm chúng ta không còn khởi ham muốn mọi vật nữa. Vì vậy lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái Định, và hai cái Định đó để giúp chúng ta trong Chánh kiến, và bây giờ chúng ta mới quét sạch, trong cái nhìn của chúng ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc. Do đó chúng ta phải tu cái Đinh vô lậu nữa! Từ đó nó còn có những cái khó khăn của nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện tại an lạc trú để chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam minh mới quét nó ra được, cho nên con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ Định trong một cái Chánh kiến. Từ cái Chánh kiến rồi thì cái Chánh Tư duy thì cũng phải tu như vậy. Rồi Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định chúng ta cũng phải tu trong mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.
Rồi còn phải tu trong cái hành tướng, cái nhân tướng, cái đặc tướng của cái Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh định, Chánh tinh tấn, chớ đâu phải là có một cái không. Cho nên giảng về Tứ diệu đế đâu phải là đơn giản mà nói suông suông được. Cho nên nó còn rất nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý thầy biết rằng con đường của đạo Phật rất là kỹ lưỡng, trên bước đường hướng dẫn cho một người tu đạt đến chỗ giải thoát hoàn toàn của tâm họ. Chớ đâu phải là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng là nói mình phải thấy đúng hiểu đúng như thế này thế khác bằng thiện pháp như Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ có được một chút ít nào giải thoát mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà thôi, chớ không thể nào như một vị tu hành phải hiểu cho rõ cho đúng.
Đến đây là cái Giới Tuệ thứ tám mà chúng ta nhận ra được những cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.
“Ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong suốt tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi lội qua lại hay đứng lại một chỗ rất rõ ràng không có mờ mịt chút nào, không có chỗ nào còn che dấu được mắt họ”.
Đức Phật ví dụ khi mà tâm của chúng ta mà cái Lậu tận minh nó hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây giờ nó thuần tịnh, nó trong cũng như là cái nước hồ mà trong suốt mà chúng ta đứng trên hồ rồi nhìn xuống đáy hồ thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ ràng. Phật ví dụ tâm chúng ta đến cái chỗ Giới Tuệ thứ tám này thì nó trong suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong suốt, nó không còn một chút tham dục nào trong đó, nó không còn một chút bất tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt như vậy! Khi tu đến đây rồi thì cái tâm của chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ, điều khiển nó như thế nào thì nó làm được tất cả như thế nấy.
“Đó là Giới Tuệ thứ tám trong Giới luật của đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Tóm lại, tám Giới Tuệ trong đạo Phật là tám loại trí tuệ thanh tịnh, siêu việt trong kinh Sa môn quả. Đó là ở trong kinh Sa môn quả nó nếu ra tám cái loại trí tuệ đó như vậy. Nhưng ở đây chúng ta còn phải hiểu thêm cho đúng khi một người thọ trì tu tập đúng pháp của Phật là phải bắt đầu từ Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện.
Sơ thiện là Giới luật, còn gọi là Giới bổn Patimokka. Trung thiện gọi là Thiền định, còn gọi là Bốn thiền, hay gọi là Tứ thánh định. Nếu gọi Thiền định của đạo Phật như vậy chưa đủ. Ta nên xem lại Giới Đức của đạo Phật có phân làm 10 loại Định. Nghĩa là trong cái Thiền định của đạo Phật chia làm 10 loại Định chứ không phải như chúng ta nói rằng Bốn cái Thiền định đó đâu!
Có 10 loại Định. Vậy thì 10 loại Định nó như thế nào? Thầy xin kể ra cho quý thầy nghe.
Thứ nhất, Định niệm hơi thở. Đó là cái thứ nhất mà cái người tu bắt đầu vào để mà tu tập là phải ổn định hơi thở. Vì khi mà chúng ta ăn uống điều độ mà chúng ta giữ được hơi thở điều hòa thì cơ thể chúng ta không có bệnh tật. Như quý thầy biết rằng vốn đạo Phật ra đời là một y vương để trị bệnh cho chúng sanh. Bệnh chúng sanh có hai loại bệnh: Bệnh thứ nhất là thân bệnh. Bệnh thứ hai là tâm bệnh. Mà đức Phật dạy cho chúng ta để trị thân bệnh thì bằng cách ăn uống điều độ ngày 1 bữa chớ không được ăn nhiều và hơi thở được ổn định, điều hòa thì cơ thể không có bệnh đau. Cái thứ hai thì đức Phật dạy cho chúng ta trị tâm bệnh. Vì tâm bệnh thì nó mới làm cho thân chúng ta mới bệnh. Còn tâm người đó không bệnh thì ít khi mà thân chúng ta bị bệnh. Một người mà phiền não rầu buồn thì lâu ngày ăn uống không được thì sẽ bệnh; một người giận dữ, tức giận thì cũng ăn uống không ngon, do đó tạo cho cơ thể rối loạn và từ đó dễ sanh bệnh. Cho nên những cái sân hận, phiền não, đau khổ, lo lắng, suy tư là cái tâm bệnh. Cái tâm bệnh thì lấy gì mà trị? Đức Phật nói: Cái Tâm bệnh lấy Trí mà trị, lấy sự hiểu biết mà trị nó. Cho nên ở đây hầu hết để trị cho chúng ta cái Tâm bệnh Vô lậu này thì phần nhiều là lấy Trí tuệ, mà lấy Trí tuệ đó thì như quý thầy đã học rồi, Trí tuệ ở đâu thì Giới luật ở đó. Bởi vì Trí tuệ nó làm cho Giới luật thanh tịnh, mà Giới luật nó làm cho Trí tuệ thanh tịnh. Cho nên người có trí là người có Giới luật, mà người không có trí là người không có Giới luật. Dù là người đó là người có thông minh gì đi nữa mà đời sống họ không đúng Giới hạnh, không đúng cái Giới luật của Phật dạy thì đương nhiên người đó là người không có trí. Cũng như quý thầy thấy mọi vị ăn phi thời tức là người đó không có Giới luật, mà không có Giới luật tức là không có trí tuệ, mà không có trí tuệ thì người ăn phi thời sẽ có nhiều bệnh tật đem đến đau khổ cho họ. Và khi mà chạy theo sự ăn uống đó là họ bị dục lạc của ăn uống cám dỗ làm cho tâm hồn của họ khi mà ăn cực khổ hoặc là khi không có ăn thì họ phải sinh ra đau khổ, phải sinh ra phiền não, phải sinh ra những cái ác pháp.
Đó, thì như vậy là người không có trí mà chỉ sống theo dục lạc cho nên luôn luôn tạo mình khổ, tức là tạo cho mình có bệnh, tâm bệnh hoặc là thân bệnh. Cho nên ở đây là cái Định niệm hơi thở vốn mục đích nó hợp với cái sự ăn uống điều độ của chúng ta thì giúp cho thân chúng ta không bệnh. Cho nên nó là Định thứ nhất của đạo Phật để trị cái thân bệnh của chúng ta. Còn các cái định khác, còn 9 cái thứ định này vốn là để trị cái tâm bệnh của chúng ta. Đó thì cái Định niệm hơi thở nó hợp với cái đời sống ăn uống của chúng ta hàng ngày thì nó trị được cái thân bệnh. Còn 9 cái loại định sau này nó hợp lại để mà nó trị cái Tâm bệnh của chúng ta. Biết như vậy thì Thầy sẽ kể tiếp cho quý thầy nghe.
Thứ haiThánh định phòng hộ sáu căn. Bởi vì phòng hộ sau căn là một cái loại định làm cho mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta thanh tịnh, và oai nghi luật nghi, cái luật nghi mà Giới hạnh làm cho chúng ta rất rõ nét mà người nào nhìn vào cũng biết là cái người đó Giới luật hẳn hòi. Một người tu sĩ mà đi ra đường ngó qua ngó lại thì biết rằng người đó không phòng hộ sáu căn. Mà không phòng hộ sáu căn thì tức là người đó đã phạm Giới. Không thể nào trong ý của họ không phạm Giới. Họ đi mà họ ngó qua ngó lại thì cái ý họ bị dính kẹt ở trong những cái đối tượng của các pháp thế gian thì làm gì họ cũng bị phạm Giới hết. Mặc dù là Thân – Khẩu họ không phạm, đời sống họ không phạm nhưng Ý họ vẫn bị phạm Giới. Đó là Thánh định phòng hộ sáu căn.
Thứ baThánh Định Chánh niệm Tỉnh thức, nghĩa là người tu sĩ luôn luôn phải tỉnh giác, phải tỉnh thức, không có được mê mờ, cho nên khi đi luôn luôn họ tập trung dưới bàn chân họ, họ tránh tất cả những loài chúng sanh và đồng thời họ giữ được Chánh niệm là không hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tức là giữ giới không sát hại chúng sanh. Cho nên Giới luật ngay từ chỗ bước đi của họ chứ không phải họ cầm dao họ giết con vật hoặc cầm dao giết người mới gọi là sát sanh, mà chính vô tình đạp chết chúng sanh vẫn là thọ lấy cái Giới phạm Giới sát sanh chứ không phải không.
Thứ tư, Chánh Định Thiểu dục tri túc. Nghĩa là phải dùng cái sức định tâm hết sức mới giữ được cái Thiểu dục tri túc, chứ không thể nào mà thiếu Thiểu dục tri túc, thiếu cái định tâm mà giữ gìn được Thiểu dục tri túc đâu! Cho nên ở đây thứ tư là Thánh định Thiểu dục tri túc, Phật gọi nó là Thánh định. Cái Thiểu dục tri túc là của bậc Thánh chứ không phải phàm phu mà thiểu dục tri túc được. Quý thầy cứ nghĩ ba y một bát như thế này, sống ngày có người cho ăn mà có ngày không có người cho ăn vẫn thấy mình biết đủ, chưa phải là thấy mình thiếu sót đói khổ. Quý thầy có nghĩ được cái điều đó không? Cuộc sống của một người tu sĩ mà đến cái mức độ đó thì quý thầy thấy nếu mà ngoài đời sống thì không ai mà chịu nổi hết. Người ta nói quá khổ à, không thể nào cái khổ nào hơn cái khổ của những bậc Thánh này. Vì vậy cho nên Thiểu dục tri túc nghe hai danh từ thì dễ lắm, nhưng mà sống không phải dễ. Khi vào trong rừng không có cơm ăn, phải ăn lá cây rừng vẫn thấy thiểu dục tri túc. Khi đau bệnh mà không có thuốc thang vẫn thấy thiểu dục tri túc, trước cơn ngặt nghèo mà chúng ta vẫn thấy thiểu dục tri túc. Không đòi hỏi thì lúc bấy giờ mới thấy thiểu dục tri túc phải là Thánh định, chứ còn không Thánh định thì không thể nào chịu nổi trước cái cảnh thân và tâm quá khắc khổ trong cuộc sống. Đó gọi là Thánh định Thiểu dục tri túc, mà ở đây đã có cái… mình mới đạt được cái Giới Đức đó chứ không phải dễ. Cho nên Định nó thuộc về Giới đức.
Thứ năm, Thánh Định Vô lậu. Làm cho lậu hoặc chúng ta sạch cho nên gọi là Thánh Định Vô lậu.
Thứ sáu, Thánh Định Sơ thiền. Còn gọi là Định chói sáng, hay gọi là Định sáng suốt. Đó, cái Sơ Thiền nó còn có cái tên gọi là Định chói sáng hay là Định sáng suốt mà Thầy thường nhắc quý thầy ngồi lại mà giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự đó. Đó là cái Định Sơ Thiền đó. Chứ không phải là gì, vì có ly dục ly bất thiệp pháp thì mới nhập được Sơ Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi nó mới thanh thản, còn không thì làm sao mà thanh thản được. Cho nên cái Định Sáng suốt (Định chói sáng) là cái định của Sơ Thiền. Vì vậy ở đây Phật gọi là Thánh Định Sơ Thiền. Chứ không phải phàm phu mà nhập được cái Định này đâu!
Kế đó thứ bảy thì Phật gọi là Thánh Định Nhị thiền. Nghĩa là diệt Tầm Tứ, không tác ý, không phải chuyện dễ làm của phàm phu cho nên chỉ có bậc Thánh mới có thể làm được điều đó.
Thứ tám, Thánh Định Tam thiền. Chỉ có bậc Thánh mới ly tất cả những trạng thái của ma tức là mười tám cái trạng thái của Tưởng. Mỗi cái trạng thái của Tưởng nó khởi lên là nó làm cho chúng ta có niềm vui mừng, mà cái niềm vui mừng đó nó làm cho chúng ta mà Phật gọi là “Ly hỷ, trú xả”. Mỗi cái trạng thái của Tưởng khởi lên làm cho thân chúng ta đang bị đau khổ dày vò do đó chúng ta phải ly cho được thì như vậy chúng ta mới nhập cho được Tam thiền. Mà ly 18 trạng thái của Tưởng này thì mới nhập được Tam thiền cho nên mới gọi là Thánh định. Thậm chí như chiêm bao, giấc mộng chúng ta cũng phải ly sạch ra, nếu còn mộng thì chưa nhập Tam Thiền. Cho nên cái sức tỉnh của người đó dù trong lúc ngủ họ cũng phải tỉnh, mà không tỉnh thì phải có chiêm bao, mà chiêm bao tức là họ chưa lý được cái trạng thái của Tưởng. Chưa ly được trạng thái của Tưởng thì không bao giờ nhập được Tam thiền. Cho nên khi ngủ, cái người mà tu đến cái chỗ mà vượt qua cái Tưởng này thì người đó không còn mộng mị. Mà không còn mộng mị thì ngủ phải tỉnh thức chứ không thể ngủ mê như cái người tầm thường phàm phu được. Tới cái chỗ Thánh Định Tam Thiền này chúng ta mới biết rằng cái chỗ ngủ và chỗ thức của chúng ta nó không có cái chỗ sai khác chút nào hết.
Thứ chín, Thánh Định Tứ thiền. Đây, quý vị thấy cái Thánh Định Tứ thiền là cái chỗ mà ngưng hoàn toàn hơi thở chúng ta, mà chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh đó. Đó là chỗ Thánh Định Tứ thiền, không phải kẻ phàm phu mà nhập được Tứ Thiền nổi đâu! Không phải chuyện dễ, hơi thở đang thở như thế này mà ngưng lại các hành hoạt động trong hơi thở, đang co bóp, phổi chúng ta đang thở ra thở vô, thế mà nó hoàn toàn ngưng mà chúng ta không chết thì không phải là thiền của bậc Thánh mới làm được sao? Đó là cái chỗ làm chủ được sống chết của thân của chúng ta, cho nên nếu mà chúng ta muốn bỏ thân này thì đều phải nhập vào Tứ thiền thì mới bỏ thân này được.
Thứ mười, Thánh Định Diệt Thọ Tưởng. Nghĩa là cái Định cuối cùng là định thứ mười là Diệt Thọ Tưởng. Cái Định này nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt, nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt. Nghĩa là Thánh Định Tứ Thiền nó chỉ có 49 ngày, nếu quá 49 ngày thì cái thân của quý vị bị hoại diệt, vì nó còn ở trong cái Thức thức, nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, Tứ thiền nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, nó còn ở trong cái Thức thức của nó để nó sử dụng cái biết để mà trở về cái trí tuệ Tam minh của nó, tức là cái Giới Tuệ của nó cuối cùng. Cho nên nó không giữ được cái thân của nó lâu dài, chỉ có 49 ngày thì nó bị hoại diệt. Nhưng chúng ta nhập tới 49 ngày tự cái thân của chúng ta nó phải phục hồi sự sống lại, nó sẽ bung ra chứ nó không ở trong Tứ Thiền. Cho nên chúng ta chẳng ngại vấn đề đó. Nếu chúng ta nhập Tứ Thiền đến đó nó tự bung ra, nó không nằm ở trong đó cho chúng ta chết đâu. Còn Diệt Thọ Tưởng Định thì cái Thánh Định thứ mười này nó giúp cho chúng ta nhập vào cái Định này cả trăm năm, cả ngàn năm thân này bất hoại, không hư, không hôi, không thúi, luôn luôn lúc nào nó cũng giữ gìn cái thân nó vững chắc như đá, không mòn, không hao, không có một vật gì phá hoại cái cơ thể này được. Đó là cái Định giữ gìn cái cơ thể tối đa và tất cả những cái bộ phận ở trong thân đó đều hoàn toàn ngưng hoạt động, thậm chí như cái Ý căn của chúng ta cũng hoàn toàn ngưng hoạt động. Đó là cái bộ óc. Còn Tứ thiền thì cái bộ óc của chúng ta, cái Ý căn của chúng ta vẫn còn hoạt động, nhưng các phần khác của bộ óc đều đình chỉ như cái phần mà hoạt động của bộ óc chúng ta về Ý thức của chúng ta thì ngưng hoạt động, về cái phần Tưởng thức ngưng hoạt động, chỉ còn cái phần của Thức thức là nó đang hoạt động mà thôi.
Phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rằng cái Định của Tứ thiền thì cái Ý căn của chúng ta còn hoạt động trong cái phần của Thức thức, chứ không hoạt động của phần tưởng thức và Ý thức của chúng ta. Còn Thánh Định Diệt Thọ Tưởng thì cái Ý căn của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên Phật gọi nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ, phải tịnh chỉ ý hành thì mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà tịnh chỉ  ý hành tức là Ý căn ngưng hoạt động. Quý thầy hiểu cái chỗ đó. Thì như vậy quý thầy mới biết mười cái loại Định. Trong khi người dạy ta Thiền Định chỉ có một thứ Thiền Định mà ở đây Phật dạy chúng ta tới mười cái loại Thiền Định. Con đường của đạo Phật nó không đơn giản đâu! Nó không phải có một loại định nào mà chúng ta có thể hoàn tất được cái sự giải thoát cho chúng ta, mà cả mười loại mà chúng ta phải tu chứ không có bỏ một cái loại nào được hết.
Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở cũng là tốt, mà tu làm mọi công việc biết hành động làm mọi công việc cũng là tốt chứ đâu có gì sai, mà quý vị phòng hộ sáu căn, giữ gìn sáu căn của mình cũng là tốt, đâu có gì sai. Mỗi Giới luật của quý thầy học được, quý vị giữ được một cái Giới luật nào đó cũng đều nhằm ở trong mười loại Định này chứ không ngoài mười loại Định đâu mà sợ rằng chúng ta tu lạc. Chỉ có chúng ta bị lạc vào những cái trạng thái của Tưởng mà nó khiến cho thân của chúng ta trở nên rối loạn, trở thành điên khùng, trở thành bệnh Thiền chứ không có gì khác hết. Chỉ có chỗ từ Nhị thiền đến Tam thiền cái đoạn đường đó là quý vị sẽ lạc vào những cái Thiền ma mà trở thành thân bệnh, tâm bệnh mà thôi. Nếu mà vượt qua được cái chỗ từ Nhị thiền đến Tam thiền mà vượt qua mười sáu cái loại của Tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn trên bước đường tu tập, không có sợ điên sợ khùng gì nữa hết. Nó chỉ có một đoạn đường đó mà người ta chết điêu chết đứng ở đó mà không đi tới đâu được hết.
Gồm chung mười loại Định này gọi là Giới Đức. Nghĩa là mười cái loại Định này thì nó được cái tên gọi là Giới Đức, còn gọi là Giới Tâm hay gọi là Thiền Định, còn gọi là Trung Thiện. Những cái tên của nó để gọi cho chúng ta biết mười cái loại Định đó nó có những cái tên của nó như vậy để cho nó phù hợp với đạo Phật, đúng với cái nghĩa của đạo Phật. Bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp với vị trí nó.
Như vậy là chúng ta phải hiểu khi mà bốn cái loại định này nó đứng ở trong cái vị trí của Định thì nó gọi là Thiền Định, mà nó đứng ở trong Giới luật thì gọi nó là Giới Đức, mà nó đứng ở trong các pháp thiện – nhân quả thì nó gọi là Trung thiện. Bởi vậy nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp ở cái vị trí nấy, như nó ở vị trí nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện. Đó, Thầy đem cái ví dụ để quý thầy thấy rất rõ, nếu nó ở trong cái nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện, mà nó ở cái vị trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nếu mà nó ở trong cái vị trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nó ở vị trí tâm định tỉnh, trong sạch thì nó gọi là Thiền định. Nói chung nó là Giới Đức thanh tịnh tâm. Nó có một cái tên chung của nó gọi là Giới Đức thanh tịnh tâm.
Đó quý thầy có những cái tên của nó, nó đặc biệt có những cái tên riêng của nó nhưng nó có những cái vị trí đứng của nó, nó có những cái tên riêng của những cái vị trí đứng của nó.
Như vậy là quý thầy nghe nói Giới Đức thì quý thầy hiểu nó là cái gì rồi. Mà nghe nói Giới Đức thì quý thầy đứng ở trong nhân quả biết nó là cái Trung thiện rồi, biết nó là cái tên gì rồi mà nếu gọi chung nó thì Đức Giới thanh tịnh tâm. Đó thì quý vị có cái biết rằng cái Đức Giới này nó làm cho cái tâm quả quý vị thanh tịnh mà định tỉnh, rất là sáng suốt.
Còn về 25 Giới hạnh như Thầy đã dạy ở trên còn gọi là Giới bổn Patimokka. Hai nhăm cái hạnh mà mình không làm nghề nghiệp này không làm nghề nghiệp kia đó, không sát hại chúng sanh đó. Tất cả những cái ở trên thì nó thuộc về Giới bổn, sau này chúng ta ta sẽ học nó để chúng ta bổ túc thêm cho 25 cái Giới hạnh cho nó rõ ràng là oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Học Giới bổn rồi chúng ta mới thấy được 25 Giới hạnh này nó còn thêm những hành động mà chúng ta chưa có học, có thu nhập, có hiểu biết, chưa toàn diện. Khi mà học hết Giới bổn Patimokka này rồi thì chúng ta có đầy đủ hơn về những cái Giới hạnh. Hạnh Giới Ly trần tâm. Nghĩa là 25 Giới hạnh này còn có một cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, nghĩa là cái Giới hạnh này nó ly cái tâm thế tục của chúng ta, nó ly cái đời sống thế tục của chúng ta, chúng ta không còn ở trong thế tục nữa, không còn sống như cách sống thế tục nữa. Cho nên nó có cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, chúng ta không còn cái hành động sống như các người thế gian nữa, cho nên nó ly ra tất cả hết cái tâm trần của chúng ta, nó lìa ra hết. Cho nên nội cái Giới hạnh không là chúng ta đã lìa cái thế gian rồi.
Còn về 8 Giới Tuệ như trong Kinh Sa môn quả đã dạy thì chưa đủ. Nó có 13 Giới Tuệ. Bây giờ cái Giới Tuệ chúng ta phải xác định, hồi nãy Thầy xác định cái Định cho nó đủ để 10 cái Định. Còn bây giờ nói hồi nãy chúng ta có học 8 Giới như trong Kinh sa môn quả đã dạy thì nó chưa có đủ đâu, mà chính nó phải đủ là 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ đâu. Nhưng mà theo Kinh Sa môn quả thì chúng ta nêu ra 8 cái Giới Tuệ, cho nên nó có sự tóm tắt lại để cho chúng ta ngắn gọn, để không nó dài dòng cho nên ở đây nếu phải rõ thì nó là 13 Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ. Chúng ta phải kể ra cho rõ, nghĩa là Thầy phải nói ra cho rõ để cho quý thầy biết như thế nào là 13 cái Giới tuệ này mà ở trong Kinh Giới, Kinh Sa môn quả thì dạy có 8 cái Giới Tuệ mà thôi. Vậy thì nó làm sao mà có được 13 Giới Tuệ đây? Chúng ta phải thấy:
1. Bốn Như Ý Túc.
2. Lục thông.
3. Tam minh.
Quý thầy thấy nó rõ ràng là Bốn Như Ý Túc mình muốn như thế nào nó làm theo như thế nấy hết mà bốn cái lận chứ không phải một cái Như Ý Túc đâu. Cho nên nó là bốn, mà Lục thông là sáu cái thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông,… cho đến Tha tâm thông sáu cái, mà sáu cái cộng với bốn không phải là 10 sao? Rồi (3) cái Tam minh nữa. Ba cái nữa là phải 13 không? Cho nên phải nói đủ là 13 cái Giới Tuệ. Thì như vậy là chúng ta thấy cộng lại là nó đủ 13 chứ không phải như trong Kinh Sa môn quả nói đâu. Trong Kinh Sa môn quả chỉ nói cái Thiên nhĩ thông. Thầy nhắc lại cái Thiên nhĩ thông ở trong này là khi cái người đạt được cái Thiên nhĩ thông mà siêu nhân rồi thì cũng nghe cái tiếng ở cách xa ngàn dặm đó. Cũng như mình đi ra ngoài đường mình nghe người ta đánh trống, thổi kèn, đánh xập xả y như vậy, rõ ràng như vậy mà cái tiếng người ta nói chuyện ở đâu mình vẫn nghe được như vậy. Đó là đức Phật nói về Lục thông thì đức Phật có nêu lên có một cái mà thôi để nói nó là cái Trí, cái Tuệ, cái Giới Tuệ của nó ở trong cái…cho nó gọn thành lại 8, nhưng mà lôi ra cho đủ là nó phải 6 cái Lục thông này mới đủ chứ không phải một cái được. Cho nên ở đây nó là 13 Giới Tuệ này còn gọi là Trí Tuệ viên mãn. Mười ba Giới Tuệ này cũng còn gọi nó với cái tên là Trí Tuệ viên mãn vì nó viên mãn cái trí tuệ này nó phải đủ 13 cái Giới Tuệ này, chứ một cái mà nói bây giờ chúng tôi có Tam minh thôi thì cái người đó chỉ hiểu quá là cạn, đơn sơ quá đơn sơ.
Cho nên ngoại đạo nó cũng có Lục thông thì ở trong cái chỗ tu hành của chũng ta cũng thực hiện Lục thông chứ đâu phải không có Lục thông. Mà chúng ta còn có Tứ Như Ý Túc, muốn cái gì được như nấy, còn chúng nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên nó luyện có Lục thông mà nó không có Tứ Như Ý Túc thì nó đâu có bằng cái phương pháp của Phật, mà nó chưa có Tam minh nữa thì nó đâu có sánh được bằng Phật. Nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên cái Lục thông của nó là do luyện tập để tạo cho có cái Lục thông bằng Tưởng pháp chứ không phải bằng cái chánh pháp đâu, bằng cái Tưởng. Vì vậy mà khi mà đến Tưởng thì chúng ta dùng Lục thông này được, cũng như đồng cốt mà, nó chỉ dùng cái Tưởng mà nó biết nhà mình cái gì cái gì nó rõ hết, nó không có nói sai. Thì quý thầy thấy cái vấn đề Lục thông của ngoại đạo là Lục thông nó ở trong trạng thái của Tưởng uẩn mà nó thực hiện ra. Còn Lục thông của chúng ta là ở chỗ tâm thanh tịnh, sáu căn mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta do ly ác pháp và ly dục cho nên nó thanh tịnh mà nó như cái hồ nước trong. Vì vậy mà cái Lục thông này tự thanh tịnh mà thông suốt ra chứ không phải là do chúng ta luyện tập ở chỗ Tưởng.
Biết như vậy thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tuyệt vời của đạo Phật đối với cái chỗ 13 cái Giới Tuệ này. Cho nên còn gọi nó là Trí Tuệ viên mãn, viên mãn tức là đầy đủ, trọn vẹn không còn thiếu nữa. Còn gọi là Trí Tuệ siêu việt, nó còn có những cái tên Trí Tuệ viên mãn là trí tuệ đầy đủ không còn thiếu, tự 13 cái Giới Tuệ này là Trí Tuệ đầy đủ không còn có cái nào nữa thêm nữa được hết. Đó gọi là Trí Tuệ viên mãn. Nó còn gọi là Trí Tuệ siêu việt, cái trí tuệ này nó điều khiển tất cả những cái mà người ta không có thể lường được cho nên nó gọi là siêu việt.
Nói Trí Tuệ người ta tưởng lầm là Tri kiến. Bữa giờ mình nói Trí Tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái Tri kiến của mình. Có người hiểu bởi vì Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy thì người ta nghĩ như vậy, người ta cho Tri kiến là Trí Tuệ, vì tri kiến là Trí Tuệ người ta phân chia làm 3 Trí Tuệ. Cho nên bây giờ Thầy nhắc là người ta lấy cái tri kiến đó mà người ta cho rằng nó là Trí Tuệ cho nên người ta phân chia cái Trí Tuệ đó làm 3 cái Trí Tuệ của chúng ta. Đó là một cái hiểu sai của những người chưa có biết tu. Cho nên vì vậy trong Kinh rõ ràng là ghi như thế này:
1. Văn Tuệ.
2. Tư Tuệ.
3. Tu Tuệ.
Ai mà nghe những người giảng về Trí Tuệ đó thì họ phân chia rồi làm Văn Tuệ, Tư Tuệ, Tu Tuệ. Phải không? Văn - Tư - Tu đó. Cho nên cái này nó chỉ là Tri kiến chứ không phải là cái Tuệ đâu, nó không phải là Trí Tuệ đâu. Nó là cái Tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái Tri kiến giải thoát nữa. Cái chỗ mà Văn Tư Tu này nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát của chúng ta nữa. Nó chỉ mới ở cái chỗ Tri kiến mà thôi, tức là cái nơi mà chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của Kinh sách, của những người xưa người nay để thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là Văn tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là Văn tuệ. Từ cái chỗ Văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này bằng cách khác để làm cho tâm chúng ta giảm bớt sự buồn khổ, như thế này thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra để mà chúng ta tìm hiểu thêm ra, thì đó gọi là Tư tuệ. Tư là suy tư, tư duy, cái suy nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được cái gì đó thì gọi Tư tuệ. Nhưng đó cũng là cái Tri kiến của chúng ta chứ không phải là cái Trí Tuệ.
Còn đến phần Tu tuệ thì ở trong Kinh sách dạy chúng ta lấy một cái sự hiểu biết như bây giờ Phật dạy làm cho chúng ta hiểu biết đó, đó là cái thân chúng ta này, Ngũ uẩn của thân ngũ uẩn chúng ta này là Vô thường, Khổ, Vô ngã này, thì chúng ta lấy cải chỗ hiểu biết đó mà chúng ta tu tập làm cho thân, cái tâm của chúng ta không có phiền não, đau khổ nữa. Vì thế cái thân vô thường này mình không chấp ngã này, mình không có giận hờn ai nữa này, mình thấy cái thân vô thường này mình không có sợ đau sợ khổ nữa này. Cái mà làm cho mình không có đau khổ đó gọi là lấy cái Trí Tuệ đó mà tu thì gọi là Tu tuệ. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu 3 cái Trí Tuệ này chỉ là một cái Tri kiến của chúng ta thôi chứ không phải gì khác hơn hết. Nó không phải là Trí Tuệ siêu việt. Nó cũng không phải là Trí Tuệ viên mãn. Nó chỉ là một cái Tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này ai cũng có chớ không phải cần tu tập mới có. Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói nó có lưu loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn chương bằng cách này bằng cách khác là do vay mượn của kẻ khác nói thì nó hơn là cái người mà không có vay mượn văn chương cho nên họ nói lời nói bình dân mộc mạc, họ nói không có mượn câu này kia. Nói một hơi chúng ta để một câu kinh Phật ra nói, nói một hơi chúng ta đem câu Nho ra nói thì cái đó là vay mượn của kẻ khác mà làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái vay mượn.
Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn khoa học để chứng minh cho Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa học như vầy như vầy. Đó là cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học bằng máy móc của người ta tìm ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái vũ trụ này, do đó chúng ta vay mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng thực như vậy. Đó là cái vay mượn mà cái vay mượn đó không phải là Trí Tuệ, đó là cái tri kiến góp nhặt mà nói ra để làm cho chúng ta như một người thông về khoa học, thông về cái này thông về cái kia. Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và vô ngã được.
Văn Tư Tu Tuệ này chỉ là một Tri kiến góp nhặt chứ không thể được liệt vào Tam Vô Lậu học Giới – Định – Tuệ của đạo Phật. Bởi vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại Giới luật, mặc dù nói là Giới – Định - Tuệ có cái tên riêng nhưng mà sự thật toàn bộ Giới – Định – Tuệ là một cái Giới luật như Thầy đã nói. Giới bổn tức là Giới Hạnh, mà Định tức là Giới Đức, Tuệ là Giới Tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật là Giới luật chứ không phải gì khác hết. Vì người dạy Giới luật mà không hiểu được điều này mới thấy Giới là nói riêng, Định nói riêng và Tuệ nói riêng, cho nên dạy giới luật rất là khô khan. Làm cho con người ta học đến Giới luật người ta chán, người ta thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ trói buộc con người, cho nên người ta sống không nổi với nó. Còn trái lại ở đây Thầy dạy giới luật nó ở trong Tam Vô Lậu học cho nên Giới – Định – Tuệ nó là một cái Giới luật để đem lại sự giải thoát cho con người. Từ bước đầu vô cái Giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, cho đến Giới Đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng tuyệt diệu, cho đến cái Giới Tuệ chúng ta không nghĩ lường được cái quyền lực của Giới Tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy.
Cho nên ở đây dạy về Giới luật mà hiểu biết được Giới kinh, hiểu biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới – Định – Tuệ này thì Thầy nói là người dạy Giới luật rất là linh động, rất là khéo léo, làm cho người nghe càng ngày càng thích và càng ham tu Giới luật hơn. Còn nếu mà cái người mà không hiểu được như vậy dạy Giới luật người ta không bao giờ mà phát triển được Giới luật. Đứng ở trên góc độ dạy Giới luật như Thầy thì tin rằng Giới luật sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường Giới luật mọi người người ta khép chặt mình trong Giới luật để người ta thực hiện được cái đời sống giải thoát, người ta không hề sợ khổ mà người ta thấy đó là một cuộc giải thoát thực sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người, làm cho chúng ta làm chủ được cái sinh tử. Từ lâu chúng ta bị sinh tử làm chủ, bây giờ đòi lại quyền sinh tử bằng một cái cuộc cách mạng, bằng cuộc cách mạng tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ.
Đó thì quý thầy thấy rất rõ nếu mà chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền là chủ sinh tử đâu. Đó là cái mục đích của Tam Vô lậu học là như vậy. Mà Tam Vô Lậu học là một cái Định lực của Giới luật nó làm cho chúng ta thay đổi toàn bộ của cuộc cách mạng đời sống của chúng ta. Cho nên quét sạch ra được thì chúng ta mới đạt được cái này mà không quét sạch không làm cái cuộc cách mạng cho cuộc sống chúng ta thì hoàn toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát này đâu.
Vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn, nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên hoàn nhau trong một cái Giới luật chứ không phải là hai. Giới sinh Định, Định sinh Tuệ, không thể tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được. Người không hiểu pháp môn này họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn, Định nó khác rồi Giới nó khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái nền tảng của Giới luật thì hoàn toàn nó là ba pháp môn là Giới luật không gì khác. Người chưa có kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được. Thường họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Tri kiến mà họ hiểu là Trí Tuệ thì rất là sai lạc, lầm lạc.
Người phàm phu ai cũng có tri kiến, nhưng một người tu hành đã giải thoát có còn tri kiến hay không? Nếu mà cái người phàm phu thì luôn luôn họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi một người tu hành đã giải thoát rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở đây Thầy xin trả lời: Thưa không! Nghĩa là cái tri kiến đó họ hoàn toàn không có. Tại sao vậy? Vì Tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược. Nghĩa là cái tri kiến đó đây góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay thì họ dính vô đó rồi, họ cho đó là cái hay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến, cái đó là đúng cái đó là sai nữa. Họ thấy hay, họ nghe cái câu kinh đó hay thì họ chấp nhận cái câu đó hay. Họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ chấp nhận ngay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến hay chánh kiến, họ chưa biết đâu. Cho nên cái người tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có tri kiến đó nữa. Thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cuộc sống của họ hàng ngày họ đang sống? Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy.
Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc, cái tri kiến, cái sự hiểu biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy và uế trược, nó rất uế trược. Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với Trí Tuệ hay không? Thưa không! Nghĩa là họ cũng không sống với Trí Tuệ. Cái Trí Tuệ mà siêu việt họ cũng không có sống đâu. Họ không có sống với cái Trí Tuệ đó. Khi họ sử dụng thì họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn không sống với Trí Tuệ đó. Đừng nghĩ rằng khi một người tu chứng họ luôn luôn sống với Trí Tuệ. Không. Họ sống với cái gì đây? Vậy thì như thế nào? Nghĩa là họ phải sống như thế nào đây? Hàng ngày họ đang sống với Tri kiến Giải thoát. Bởi vì quý thầy thấy cái tri kiến nó dính mắc, mà Tri kiến Giải thoát nó đâu có dính mắc. Bởi vì tri kiến họ cũng y như cái đầu của chúng ta suy nghĩ sao thì họ cũng suy nghĩ vậy, họ không khác chúng ta nhưng mà mọi vật đến với họ họ không bị dính mắc, họ không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem đút miệng họ được.
Ví dụ như bây giờ Thầy sống với Tri kiến Giải thoát mà một người làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để Thầy thuyết giảng, mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng không phải, đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ cho nên hoàn toàn khô cổ là khô cổ, nhất định là không uống. Đó là không thể cám dỗ cái Tri kiến Giải thoát của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có đường mà, thì đâu cám dỗ Thầy được. Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong tri kiến thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì thích rồi, ngay cái chỗ ngọt đã đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến Giải thoát là không cám dỗ được cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà Tri kiến Giải thoát chứ không phải tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy!
Cho nên trong Kinh thường chúng ta thường thấy Giới hương, Định hương, Giữ Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương, có năm loại hương, thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta sống ở trong Tri kiến Giải thoát chứ người ta không phải sống ở trong cái Trí tuệ siêu việt đó đâu. Khi sử dụng thì người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người ta đâu cần sử dụng nó, người ta chỉ cần sống với Tri kiến Giải thoát.
Đó thì quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái chỗ, cái bài mà hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật đó, bắt đầu cầm ba cây hương lên mà niệm hương thì ngay đó đã nói lên cái chỗ nào sống của quý vị. Cho nên cái Tri kiến Giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên. Chúng tôi hãy sống hàng ngày cái chỗ này nè! Để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị uế nhiễm của những đối tượng phàm phu vật chất. Đó là cái chỗ tu hành của một cái vị mà đã viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được. Cho nên nó có một cái giải thoát kèm bên cái Tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái Tri kiến mà thích tụ, kết tập nó không Giải thoát đâu mà nó dính mắc, cho nên ở đây Thầy giảng như vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng không còn mờ mịt gì nữa hết. Bởi vậy khi một người tu hành xong luôn luôn họ sống đúng Giới Hạnh, còn gọi là Giới hương, họ sống đúng Giới Đức còn gọi là Định hương, nghĩa là họ sống… Cái hương tức là thơm chứ gì? Các con hiểu không?
Cho nên mình niệm hương, mình thắp cây hương lên mình nói chứ không phải đâu! Nghĩa là mình sống đúng Giới hạnh gọi là Giới hương. Mình sống đúng Giới Đức thì gọi là Định hương. Bởi vì Giới Đức nó thuộc về Định cho nên gọi là Định hương. Mình sống đúng Giới Tuệ thì gọi là Tuệ hương. Phải không? Họ sống đúng với Tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết không lầm lẫn, còn gọi Tri kiến hương, nghĩa là sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, với sự hiểu biết đúng chánh kiến chánh pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống không đúng với chánh pháp của Phật dạy, không sống đúng với Giới luật của Phật dạy cái Tri kiến đó, nghĩa là mình chưa thành tựu cái gì hết nhưng mình sống không có đúng, mình sống ngoài những cái tri kiến của Phật dạy, những lời của Phật dạy trong Kinh mà mình sống không đúng thì cái đó không được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống đúng tri kiến mà đúng lời Phật dạy, không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm những cái phạm giới thì cái người đó được gọi là Tri kiến hương. Họ sống đúng với Tri kiến Giải thoát nên còn gọi là Tri kiến Giải thoát hương. Đó thì Thầy phân ra cho chúng ta thấy cái mùi thơm của các loại Trí Tuệ của chúng ta, các loại sống của chúng ta ở trong Giới luật, đó là những mùi thơm của Giới luật đó. Cho nên cái Giới luật đầu tiên là Giới Hạnh thì gọi là Giới hương. Cái Giới luật thứ hai là Giới Đức thì gọi là Định hương. Cái Giới luật thứ ba tức là Giới Tuệ thứ ba gọi là Tuệ hương. Cái Tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong những lời Phật dạy gọi là tri kiến hương. Còn cái tri kiến hằng ngày mà các bậc viên mãn mà sống đó thì gọi là Tri kiến Giải thoát hương.
Thấy như vậy chúng ta mới rõ được, cái hương là cái mùi thơm mà, cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai quý mến, cũng trọng hết. Còn nếu mà cái mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng, cho nên hương không có nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà đốt lên có khói đó đâu. Hương đây là cái mùi thơm của Giới Đức, của Giới Tuệ, của Giới Hạnh, của Tri kiến, của Tri kiến đúng đó, chứ Tri kiến sai thì cũng không được, của Tri kiến Giải thoát. Đó là những hương thơm của những loại Giới luật này.
Đối với Tam Vô Lậu học…
… cái tri kiến của chúng ta không được gọi là tên Tuệ Vô Lậu đâu! Trong 13 Giới Tuệ này, Giới Tuệ thứ nhất dẫn tâm đến Chánh trí và Chánh kiến. Đây, quý vị mới nghe cái chỗ này, nếu mà cái người tu tập Giới Tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có được Chánh Tri kiến. Chánh Tri kiến này tức là Tri kiến hương đó thì chúng ta phải đạt tới cái Trí Tuệ, cái Giới Đức, cái Giới Tuệ. Đầu tiên cái Giới Tuệ thứ nhất lúc bây giờ chúng ta mới dẫn tâm nó để chúng ta đạt được Tri kiến đó chứ không phải cái Tri kiến tầm thường như Tri kiến của thế gian, cái Tri kiến kết tập, cái Tri kiến tích tụ, tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác thì tri kiến đó là Tri kiến phàm phu. Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà chúng ta phải có sự tu tập trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô lậu nó đạt được cái Giới Tuệ đầu tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là Tri kiến hương.
Giải thích cho rõ như vậy thì chúng ta mới biết được cái tri kiến của chúng ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông hiểu cái lý của Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì Thầy dạy thêm để chúng ta thấy rằng khi chúng ta muốn đạt được cái Tri kiến hương này thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì cái người đó phải nằm ở trong cái Tuệ Vô lậu thứ nhất của Giới Tuệ của nó. Trong 13 Giới Tuệ này Giới Tuệ thứ nhất “dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến”, tức là Tri kiến mà hàng ngày người tu hành viên mãn.
Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng lầm chút. Khi mà cái người đó mới tu học thì phải huân. Thầy xin lỗi phần này đính chính lại chỗ này để cho quý thầy hiểu rõ hơn. Khi cái người mới tu học mà theo đạo Phật thì chúng ta phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào đúng, cái nào sai, từ đó chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp nhưng cái hiểu biết đó là đúng, là chân lý, là sự thật, nói thân là khổ, là vô thường thì nó là sự thật, nó không còn sai nữa. Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì đó là một chân lý không thể thay đổi được, nói là cái nguyên nhân mà sinh ra đau khổ thì cũng không thể thay đổi được, mà nói một cái cảnh giới Niết bàn thì đó là một trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ. Mà nói đến tám nẻo đưa đi đến cái chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó hoàn toàn là một chân lý không thể nào có ai thay đổi tám nẻo giải thoát này được. Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích trữ cái hiểu biết đúng đắn như vậy đó gọi là Tri kiến. Còn đến khi mà chúng ta tu tập đến cái Tuệ Vô lậu thì cái Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là Tri kiến Giải thoát, chứ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết rõ của cái chánh kiến của đạo Phật mà thôi. Cái kia còn gọi là Tri kiến, mà Tri kiến đó thì nó mới chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật pháp chứ chưa chứng được cái lý của Phật pháp. Còn người tu đến cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô lậu thì cái hiểu biết cái tri kiến đó được gọi là Tri kiến Giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới được gọi là tri kiến Giải thoát. Cho nên người tu họ không sống ở trong tất cả các Tuệ Vô lậu mà họ chỉ sống ở Giới Tuệ thứ nhất là Tri kiến Giải thoát. Cho nên cái Tri kiến Giải thoát ở đây nó được gọi là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong Tuệ Vô lậu. Thì quý thầy hiểu cho rõ như vậy. Hồi nãy Thầy giảng hơi lầm lạc, Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu cho nó rõ hơn.
Cho nên hằng ngày người tu hành viên mãn thường sử dụng cái Tri kiến Giải thoát chứ không sử dụng tri kiến như kẻ phàm phu. Cho nên Tri kiến Giải thoát được nằm trong Giới tuệ, được gọi là tuệ Vô lậu, nó cũng được gọi là tuệ Vô lậu nhưng nó là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là cái Tuệ cuối cùng. Thường thường cái người tu hành viên mãn thì họ sống ở trong cái Giới Tuệ thứ nhất, họ sử dụng cái Giới Tuệ thứ nhất cho nên cái Giới Tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiền toái nữa, ai làm gì thì họ trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên mà không động tâm chút nào, không dao động tâm mình. Tức là cái Tri kiến Giải thoát đó hay là Giới Tuệ thứ nhất của trong 13 Giới Tuệ.
Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ Giới – Định – Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.
Còn Niết bàn là gì? Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.
Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn Giới luật của Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành được Thiện pháp của đạo Phật, và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là chúng ta đến đây thì người ta hỏi chúng ta còn cái Niết bàn là gì? Nghĩa là chúng ta đến đây chúng ta đã viên mãn được Giới – Định – Tuệ như vậy tức là từ Giới Hạnh, rồi Giới Đức, rồi Giới Tuệ. Chúng ta hoàn thành được những cái Giới luật này rồi thì có người hỏi khi mà hoàn thành được các Giới luật này rồi, Giới – Định – Tuệ này viên mãn rồi thì cái Niết bàn nó là gì? Có người hỏi chúng ta cái Niết bàn là gì? Thì ở đây chúng ta không có trả lời cái câu hỏi mà hỏi như vậy, là cái Niết bàn là gì thì chúng tôi không có trả lời. Nhưng khi mà giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết bàn thì chúng tôi sẽ giảng cái Niết bàn. Còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái chỗ hỏi Niết bàn của chúng tôi. Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới – Định – Tuệ mà nếu chúng tôi còn nói cái Niết bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn chấp kiến, còn chấp cái Niết bàn. Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết bàn mà chúng tôi chỉ nó như thế nào cho đúng. Chúng tôi sẽ trả lời: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là bây giờ chúng tôi đang sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chứ khi mà chúng tôi bỏ cái thân này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh ra trong cuộc đời này nữa, chứ chúng tôi không biết Niết bàn nữa.
Mà những người nào tới đây mà còn nói cái Niết bàn như thế này thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái lý Tứ Diệu Đế chứ chưa phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế. Quý thầy phải hiểu cái chỗ đạo Phật như vậy đó, cho nên khi một người mà tới rồi mà còn nói rằng bốn đức Thường – Lạc – Ngã – Tịnh trong đó thì người đó chưa tới. Cũng như cái người mà tới rồi họ nói tui chứng quả A-la-hán thì người đó chưa chứng quả A-la-hán đâu. Bởi vì mình còn thấy chứng quả A-la-hán thì tức là mình mới ngộ thôi chứ chưa chứng đâu. Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng nữa. Thì tức là mình chỉ biết nó như thế nào? Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa hết. Nghĩa là tôi không có còn sanh thêm sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ nào mà tui sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ nó Niết bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui hết rồi.
Đó thì quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái hiểu biết gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là không chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế này thế khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này cho nên Thầy mới khi mà viên mãn cái về ba cái Giới này, vạch ra một con đường đi cho đến cuối cùng tới hôm nay thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói gì khác hơn là còn một câu nói: Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống không còn có đời sống nào khác nữa!
Quý thầy hiểu cái chỗ đó sao đó hiểu. Nếu mà tui nói còn có cái gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui rồi cho nên nó có cảnh giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã của tui thì tui không có cái gì mà tui sống nữa hết. Cho nên nó còn hay mất thì quý vị muốn hiểu sao có hiểu được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa là tới đó là tui giải thoát là tui giải thoát.
Bây giờ chúng ta tiếp tục học về Giới Bổn Patimokka.
Để thông suốt oai nghi tế hạnh của người tu sĩ, vì trong Giới hạnh chưa nói đủ ta phải tiếp tục học thêm cho được đầy đủ hơn. Nghĩa là trong cái Giới hạnh mà chúng ta vừa học 25 Giới đó, nó chỉ nói đơn giản thôi chứ nó chưa có nói đến những caí hành động hàng ngày của chúng ta. Vì vậy mà cái Giới bổn Patimokka này nó nói tất cả những cái hành động của chúng ta để mà chúng ta không có lầm lạc, để mà thực hiện những cái Giới hạnh đó để cho oai nghi tế hạnh của người tu sĩ phải được đầy đủ, phải được trọn vẹn cái hành động của nó phải như thế nào để mà chinh phục mọi người, người ta thấy được cái đức hạnh của một người tu sĩ nó không phải tầm thường. Vì Giới hạnh nó phải học rất nhiều mới có thể thâm nhập được cái oai nghi tế hạnh của nó. Bởi vậy cho nên chúng ta phải tiếp tục lại 25 Giới hạnh, là chúng ta phải học cái Giới luật Patimokka. Cái Giới luật này nó mới có thể đầy đủ và cái Giới luật này nó cũng rất nhiều chớ không phải ít. Do vì vậy trước khi mà giáo cái Giới luật Patimokka này nó phải có một cái lời nói rất là dài và đồng thời Thầy có bổ túc thêm những cái bài để mà chúng ta chuyển qua cái Giới luật Patimokka này.
Để bổ túc thêm phần giáo án về Giới luật Patimokka cho rõ nét, ở đây Thầy nhấn mạnh: Giáo pháp của đức Phật dạy người không có tranh luận với một ai ở đời. Vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh. Do thế người ấy sống không bị Dục, triền phược, không có nghi ngờ, do dự với mọi hối quá, đoạn diệt, không có tham ái đối với Hữu và Phi hữu. Ở đây quý thầy phải hiểu khi mà bước sang qua cái Giới bổn Patimokka này thì chúng ta sẽ thấy tràn trề sự sai lạc của cái người khác rất nhiều. Nghĩa là học xong cái Giới bổn này rồi thì chúng ta nhìn cái giới tu sĩ cũng như nhìn cái giới mà cư sĩ hiện giờ là đệ tử của Phật hầu như là cái danh từ là đệ tử của Phật chứ hầu như là những cái người đó đều là hành ngoại đạo hết. Cho nên vì vậy mà thầy phải phòng ngừa trước khi mà bước đầu qua học cái Giới luật Patimokka thì chúng ta phải chuẩn bị cho tinh thần chúng ta vững vàng để không khéo thì chúng ta toàn là thấy là ma quái không đó, chứ không phải là Phật  đâu. Với một người mà người ta thông suốt được cái Giới luật rồi thì người ta nhìn cái giới tu sĩ và nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ người ta thấy toàn là thứ phá đạo, toàn là thứ phá Phật pháp. Cho nên chúng ta không nói ra, không có chống báng ai là vì vậy, cho nên ở đây Phật nói chúng ta khi mà học xong rồi thì không có một cái tâm tham ái. Tham ái tức là thấy những cái sai cái không đúng của họ đó đối với Hữu, đối với cái Có và cái Không chúng ta xem thường hết. Chúng ta đừng thấy cái tâm của chúng ta nó quá như thế này hay như thế khác rồi chúng ta sanh ra nhưng cái bỉ thử ở trong đó rồi vì vậy mà chúng ta có tranh luận, rồi có những cái sự không hay cho cái đời tu hành của chúng ta.
Vì vậy mà rồi từ ở trong cái ác tưởng của chúng ta, cái tưởng của chúng ta nó khởi lên những cái ác kiến đối với những người đó làm cho chúng ta có những sự ám ảnh không tốt đối với Phật pháp cũng như không tốt đối với bản thân của những người đó. Họ sống như thế nào để nhân quả thì họ phải lãnh đủ những cái nhân quả đó. Còn riêng chúng ta thì hãy câm miệng lại, không nói ra một lời nào hết. Biết Pháp luật rất rõ ràng, biết Giới luật rất rõ ràng nhưng không động chạm đến một người nào, không nói người nào sai không nói người nào đúng mà chỉ giữ mình để thực hiện cho đúng những cái lời Phật dạy mà thôi. Mình cứu mình chứ không thể cứu ai được trong cái lúc này hết. Chừng nào mình cứu mình được thì chừng đó mình mới cứu người ta được. Mình đã ra khỏi được cái con đường của thế tục thì mình mới có mong mình cứu người còn đang ở trong thế tục. Còn mình đang ở trong thế tục mà mình cứu người thế tục thì không cứu được đâu, và đồng thời đôi khi mình lại chết chung với họ ở trong thế tục. Cho nên những cái hạnh Bồ Tát mà gọi là sống trong thế tục để độ người thế tục thì coi chừng Bồ Tát cũng chết luôn với những người thế tục mà không độ ai được hết.
“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật”. Đức Phật nói giáo pháp của đức Phật như một cái bánh ngọt, cái bánh mật, chớ không phải là một cái bánh cay đắng đâu! Cho nên đến Giới luật thì người ta thấy cay đắng lắm. Sống mà như thế này các thầy cứ nghĩ “ba y một bát” có cay đắng không? Đi xin ăn người ta không cho, ngày nay không cho ngày mai không có thì quý vị thấy như thế nào? Phải ăn lá cây rừng mà sống rồi. Mà ăn lá cây rừng quý vị chưa từng tập thì quý vị có thấy xót ruột không? Chưa chắc là đã không mệt mỏi khổ sở. Thế mà đức Phật nói “giáo pháp của ta là bánh mật”. Bánh mật là thứ bánh ngon chứ đâu phải bánh dở. Thế mà bước đầu và mà gặp tới cái Giới luật, cái Giới bổn Patimokka này thì nó không phải là bánh mật thật đâu. Mà chính nó là bánh mật nếu mà chúng ta thực hiện đúng. Nếu mà chúng ta thực hiện không đúng thì nó là những bãi chông gai, nó là những cái chỗ nguy hiểm nhất, nó là những cái chỗ mà chúng ta không thể sống nổi.
Khi đến đây Thầy cảnh giác những cái điều này mà trước khi dạy nó thì Thầy phải cánh giác rất lớn đối với quý thầy, để khi quý thầy được học đến nó thì quý thầy mới thấy được cái cái chỗ nào gọi là bánh mật mà cái chỗ nào không gọi là bánh mật. Vì thế mà cái người dạy Giới ở trong cuộc đời bây giờ thì họ… Cho nên đức Phật mới dạy chúng ta và cảnh giác chúng ta ở chỗ này để chúng ta chuẩn bị cho cái Giới bổn này, sau khi chúng ta học thì chúng ta mới biết nó là cái bánh mật như thế nào. Chớ nó không phải là đơn giản.
“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với cái người đang đói lả và mỏi mệt. Cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được vị ngọt thuần nhất. Cứ mỗi một miếng vị ấy thưởng thức càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy người khỏe hơn, khinh an hơn”.
Đó, nếu mà chúng ta tu đúng, chúng ta biết được cái Giới bổn này đúng thì mỗi một cái Giới mà chúng ta thực hiện thì giống như một người đang đói, đói lả người, mệt mỏi mà cứ mỗi một miếng ăn vô thì coi như một cái Giới luật mà chúng ta đã thực hiện vô thì mỗi cái miếng đó chúng ta thấy được vị ngọt thuần nhất của nó ở trong đời sống của chúng ta. Đời sống đang lúc chúng ta mệt mỏi đói khát đó mỗi một miếng nữa thì chúng ta thưởng thức mà càng thích thú hơn và càng thấy khỏe hơn, và khinh an hơn. Đức Phật ví dụ cái Giới bổn nó như vậy đó.
Đó là không phải là nói về Thiền định mà khinh an đâu, mà đây là muốn nói rằng cái Giới luật mỗi cái Giới luật mà chúng ta chấp hành nghiêm chỉnh nó đem đến chúng ta cũng như cái bánh ngọt mà chúng ta cầm mỗi miếng chúng ta ăn trong lúc chúng ta là người đang đói đang mệt đó mà chúng ta ăn thì chúng ta thấy nó ngọt mà nó khỏe lắm, nó ngon lắm, nó thích lắm, nó làm cho cơ thể chúng ta càng ngày càng thấy cái sự sống, nguồn sống nó dồi dào lên. Còn nếu mà sai thì các thầy thấy ngán quá, ớn quá, sợ quá. Đây đi xin ăn chắc không có ai cho chắc chết, bây giờ không có làm sao, coi chừng công an nó bắt bỏ tù nữa, nó nói mình gian lận, làm biếng, nó làm thế này thế khác. Từ cái tư tưởng đó, suy nghĩ đó thì ngay đó là mình đã thấy hoảng hồi rồi chứ chưa nói chi mà tới ôm bình bát đi xin nữa. Không biết đi xin mới đây đi ôm bình bát xấu hổ quá! Trời ơi thời giờ mình không có đi xin. Kiểu này không ai ngó tới đi mắc cỡ chết. Cái tư tưởng đó vẫn có mà.
Lúc Thầy mới bắt đầu đi khất thực Thầy cũng vậy. Đi ra đường ôm bình bát đi mà con mắt nhắm chứ không dám mở, mở sợ thấy người ta cười mình. Trời ơi mình vậy mà đi xin. Từ nào tới giờ mình đi dạy học hoặc đi làm ai cũng biết mặt hết. Trời, đi ra đường vậy, nhất là Thầy ở thành phố mà Thầy đi xin ở mấy cái chỗ chợ thành phố mà bên chùa Giác Ngộ nữa thì các thầy nghĩ sao? Bao nhiêu Phật tử quen mình quá rồi. Hồi nào tới giờ họ kêu mình thầy mà giờ ôm cái bình bát đi xin. Mà chính cái chỗ đó họ lại còn kính trọng Thầy hơn nữa chứ! Mà khi mình đi thì mình ngại ngùng vô cùng lận! Từ hồi tới giờ ai có làm này. Kỳ vậy! Đó là những cái bắt đầu của Thầy, mà Thầy đi có một mình chứ phải đi có người nào hướng dẫn thì cũng đỡ đi. Đằng này tự mình à! Rồi mình nghĩ cách thức rồi bắt chước theo mấy ông khất sĩ, thôi mình cũng làm đùa. Trong kinh thì đâu có dạy kỹ cái vấn đề nà,y bởi vì kinh Đại Thừa nó đâu có nói về chuyện khất thực đâu mà đi dạy. Đâu có phải như bên Nguyên Thủy kia nó dạy rất kỹ còn bên đây nó đâu có dạy chuyện này. Cho nên học Đại Thừa rồi đi ra khất thực ngơ ngáo chẳng biết gì hết. Thầy mới hỏi thăm thầy Thiện Huệ là hồi ông còn nhỏ ông đi với thầy của ổng, cũng đi khất thực cũng ở thành phố ở chùa Giác ngộ cũng đi khất thực. Thầy mới hỏi ông về khất thực sao, ông nói thì mình cứ ông bình bát vậy mình cứ nhắm mắt mình ngó xuống đất mình đi đi. Rồi họ cho mình chứ cái gì! Thầy nghe vậy thôi, Thầy cũng ôm bình bát Thầy cũng đi vậy thôi, mà hồi đó Thầy đâu có bình bát. Các con biết không? Thầy phải đi mua cái ô mà người ta để trầu cau đó nó tròn tròn bằng nhôm đó, Thầy mới may cái túi Thầy mới bỏ trong đó Thầy ôm vậy Thầy đi. Trời đất ơi! Người ta biết, hồi đó nó dễ chứ bây giờ mà kiểu này mà bưng cái kiểu đó mà nó thấy không có giống cái bình bát là nó ra nó chốt liền đó. Chứ phải dễ đâu! Còn hồi đó nó dễ lắm! Hồi cái chế độ trước nó dễ lắm! Bởi vậy Thầy ôm bình bát đi Thầy xin như thường mà Thầy cũng chả biết xin nhiều ít như thế nào nữa, chỉ biết đi xin thôi! Nhưng mà không ngờ khi mà Thầy vào đến đầu chợ cái họ biết Thầy ở chùa Giác Ngộ lâu rồi. Họ để cho Thầy đi mà họ không có cho. Trời mắc cỡ gần chết, không có cái gì hết, nhưng mà Thầy đi suốt hết cái đường chợ vậy mà tới cuối hết cái chợ thì họ gồm họ để một đống họ kêu xe xích lô chở về chùa Thầy. Thầy đâu có hay. Bởi vì họ thấy cái bình bát Thầy thì nhỏ, mà Thầy đi như vậy thì bỏ được có bao nhiêu. Cho nên họ nghĩ rằng Thầy đi xin cho cả chùa ăn mà, chớ đâu phải xin cho mình Thầy. Cho nên họ biết Thầy ở chùa đó thì phải xin cho các thầy ăn chung chứ đâu phải có mình Thầy. Cho nên Thầy đi hết cái đường chợ vậy không có cái gì trong bát thầy hết, mà tới cuối chợ Thầy thấy họ chất một đống nào cải nào bánh mỳ, đồ ăn đủ thứ hết, đủ loại đường sữa gì đủ chất một đống. Cái có người Phật tử đứng đó họ nói: Chúng con đã góp nhau hết chúng con để đây xin cúng dường Thầy. Ôi trời ơi! Thầy xin có mình Thầy ăn mà sao cúng dường vậy? Thầy ở chùa Giác Ngộ thì chúng con kêu xe kéo về cho Thầy chứ giờ mọi người cúng dường chứ đâu phải mình con. Thôi kêu xe kéo về chùa. Các con thấy không? Đi xin là như vậy đó! Bởi vì Thầy nói khi mới…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét