Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 31

CẦN HIỂU KINH PHẬT MỘT CÁCH ĐÚNG ĐẮN
Thì như vậy là có sự cố định. Cho nên câu chuyện mà đức Phật dồi cái đầu cá rồi bị nhức đầu ba lần khi đức Phật thành Phật thì như vậy là mình từ lâu tới giờ bao nhiêu cái sự kiện, không dám giết hại, không dám đạp một con kiến, không dám đạp ở trên cây cỏ để héo úa. Chuyện đó nó có chuyển được cho cái kia không? Chắc chắn là nó không chuyển cho nên mới bị nhức đầu. Còn nó chuyển nó còn bị nhức đầu nữa không? Chắc chắn là phải hết. Đó thì thấy, từ cái chỗ thiện mà chúng ta đã không làm đau khổ nữa, mà cái này chỉ là trẻ con vô tình thôi. Lấy một cái đầu cá dồi chơi như là dồi trái banh thôi mà còn phải trả quả, mà trả quả rất là cố định, không có được thay đổi, thành Phật rồi mà cũng không chuyển được nữa, thì như vậy có phải là phỉ báng Phật pháp không?
Cho nên không hiểu được cái nhân quả nó linh động và di chuyển như vậy thì tức là chúng ta đã sai lệch qua cái thuyết định mệnh. Mà chúng ta đã biến cái thuyết nhân quả thành cái thuyết định mệnh á thì nó đã lệch Phật pháp mất rồi. Không chuyển được. Mà không chuyển được thì làm sao gọi giải thoát. Nếu ông Phật không chuyển từ cái pháp thiện thì cái giải thoát làm sao mà được. Cho nên phải nói rằng, phải chuyển.
Như vậy nếu mà chúng ta chuyển thì chúng ta phải có phương pháp chuyển. Cái thân này là cái thân của vô thường, cái thân của nhân quả. Tức là nó có sự hoại diệt, mà nó có sự hoại diệt thì Phật nói cái gì vô thường thì khổ, nó có sự thay đổi thì phải khổ. Khổ thì như thế nào? Nó phải bệnh nó mới khổ, nó không bệnh làm sao chúng ta khổ. Mà bệnh á, thì chúng ta có chuyển vì chúng ta có phương pháp chúng ta chuyển. Thành ra, khi nó bệnh, nó khổ thì chúng ta chuyển thì chúng ta đâu có khổ. Bởi vì chính nó là vô thường cho nên chúng ta chuyển bằng cái sức tu tập của chúng ta. Lúc bấy giờ chúng ta thấy, chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp, chúng ta ly tất cả các pháp mà thay đổi đó đi, thì trong tâm tư chúng ta không còn nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta sẽ có một sự mát lạnh. Cho nên Phật nói, khi cái sức tận cùng chịu đựng của thân mạng chúng ta trong cái thọ khổ thì nó có một cái cảm giác rất là mát lạnh. Đó là cái chỗ chúng ta chuyển cho nên tâm chúng ta luôn luôn bất động. Còn cái người mà chúng ta không có thực hiện được đến cái chỗ mà chúng ta giải quyết được cái nhân quả, làm chủ được cái sanh tử nhân quả, thì lúc bây giờ đau quá chúng ta chịu không nổi cho nên nó không mát lạnh. Vì cứ tập trung trong cái thọ, cái sự vô thường của các pháp thọ, cho nên do vì vậy mà chúng ta không thể thoát khổ.
LÝ DO XUẤT GIA
Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề chánh của cái bài học của cái Giáo án này. Nãy giờ chúng ta bàn ra ngoài vấn đề để chúng ta thấy được cái đúng, cái sai của đạo Phật và cái tư duy cho đúng đắn để cho chúng ta không có lạc lầm vào cái sự mê tín. Mà chúng ta phải hiểu Kinh chớ không phải Thầy muốn nói là đừng có tụng kinh niệm Phật. Không phải, tụng kinh, niệm Phật rất tốt chứ đâu có sao. Vì nó cũng giúp cho chúng ta thực hiện được cái nhân lành để thọ hưởng được cái phước lành, cái sự an ổn, yên vui của mình và của mọi người xung quanh nữa.
Phương thức sinh hoạt xuất gia của Phật giáo có tác dụng nhiều tới giai đoạn tu tập. Nghĩa là khi chúng ta bước đầu vào lộ trình xuất gia của người tu sĩ thì nó không có đơn giản, mà nó có nhiều cái phương thức mà để chúng ta tu tập qua nhiều giai đoạn tu tập. Chớ không phải là có một giai đoạn nào mà nó đạt được ngay liền được. Mà nó có nhiều giai đoạn.
- Thứ nhất, là vì lý do “liễu sanh thoát tử”. Ở đây chúng ta thấy, cái phương thức sinh hoạt của giới xuất gia nó có nhiều cái tác dụng mà nhiều cái giai đoạn tu tập. Thứ nhất, thì chúng ta vì lý do gì. Vì lý do liễu sanh thoát tử. Tức là chấm dứt cái tái sanh luân hồi để làm chủ cái sanh tử, nó không còn chi phối trong cái đau khổ trong kiếp con người nữa. Đó là lý do thứ nhất để một người mà bước vào lộ trình này, họ sẽ gặp những cái khó khăn là đi ngược với dòng đời. Họ không có chạy theo dục lạc của thế gian được nữa.
Do vì vậy đó, mà họ phải chấp nhận ở trong cái cuộc sống đó để mà họ liễu sanh thoát tử. Còn nếu mà họ thấy bây giờ bước qua cái lộ trình này quá khổ, muốn cái gì cũng không được, cái gì cũng hoàn toàn khép mình trong khuôn khổ của thập giới Sa di. Thì chúng ta thấy một cái người bước vào mà ép chặt mình trong cái giới sa di đã là cái người mà không có ý đi tìm cái sự liễu sanh thoát tử, thì chắc chắn khó mà sống được cái này. Hầu hết là chúng ta cũng muốn đi tìm cái đó, nhưng mà chúng ta thấy cũng đâu có dễ mà bước vào cái thập giới Sa di này nổi. Cho nên vì vậy, chúng ta thấy phải có một cái lý do rất là chơn chánh, một cái tư tưởng của chúng ta rất là mạnh mẽ. Phải có một sự nhiệt tâm hết sức ở trong cái ước vọng đó. Ước vọng gì, ước vọng liễu sanh thoát tử. Chúng ta phải đặt mạnh cái tâm của chúng ta ở cái chỗ: làm sao để thoát khỏi cuộc đời đau khổ này, làm sao mà liễu sanh được cái sống chết này, làm sao chấm dứt được cái sự luân hồi.
Thì đó là cái lý do thứ nhất  của cái người bước qua cái lộ trình thứ hai này. Bởi vì chúng ta phải biết, cái lộ trình thứ hai này nó không thể sống như đời sống thế tục được, mà nó phải sống rất là khắc khổ. Nếu mà không khắc khổ, chúng ta không thể sống nổi. Tri túc thiểu dục đến mức độ có gì chúng ta vẫn thấy nó đủ chứ không có đòi hỏi thêm nữa, vẫn thấy nó đủ.Thiểu dục đến độ mà, bây giờ bệnh đau thế này mà không có thuốc thang thì chúng ta vẫn có cái tinh thần là thiểu dục, biết đủ, không có rên la. Có ai có bố thí thuốc cho mình, mình cứ thọ dụng mà không có mình cứ thấy biết đủ. Biết đủ là mình biết được cái nghiệp của mình, mình chịu ở trên cái nghiệp chứ không có đòi hỏi, không có chạy đông chạy tây, chạy tới chạy lui. Nhận qua cái chỗ đó thì chúng ta mới thấy được cái tinh thần mà xuất thế. Nếu không nhận ra cái chỗ này, chúng ta không đặt xuất thế thì chúng ta khó mà có thể sinh hoạt trong cái xuất gia được.
- Lý do thứ hai là lí do cảnh tỉnhdẫn dắt thế tục. Nghĩa là lí do, chúng ta nghĩ mình phải nỗ lực tu hành để mình giải thoát được rồi thì mình đem cái sự hiểu biết này, đem cái lợi ích này để dẫn dắt chúng sanh, để dẫn dắt mọi người, để người ta cũng được như mình, cũng giải thoát như mình. Những cái người mê luyến ở trong cái trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong biển ngũ dục mà mở ra pháp môn thức tỉnh giải độc cho họ. Thì đó là cái lý do thứ hai, chúng ta thấy rằng khi mà tu xong rồi, để mà dẫn dắt họ ra khỏi sông mê bể khổ. Thức tỉnh họ để mà giải những cái độc ở trong tâm của họ, đang lầm chấp, say đắm cái ngũ dục lạc ở trong cái thế gian. Đó là những cái chất độc mà họ không thấy. Cho nên chúng ta tu được rồi, chúng ta mới giải độc cho họ, để cho họ thấy cái ngũ dục lạc là những thứ độc của những thứ độc.
Lý do thứ hai này là một biện luận. Trong khi mà chúng ta tu chưa có xong, chưa có thực hiện được. Thì có nhiều người, họ dùng cái lý do này để thực hiện bồ tát hạnh, độ chúng sanh á, thì nó trở thành một cái lý luận, cái biện luận che đậy. Một cái người mà tu xong rồi, thì cái này mới chính là cái chỗ mà họ độ chúng sanh. Cho nên, hầu hết là chúng ta có nhiều người tu chưa xong chưa có liễu sanh thoát tử, chưa làm chủ sanh tử, nhưng mà vì cám dỗ của dục lạc thế gian, danh sắc, nó làm chúng ta mờ mắt đi. Do đó chúng ta sẽ lấy lí do rằng, chúng ta sẽ dẫn dắt chúng sanh, để độ cho mọi người. Mình biết được tới đâu, mình dẫn dắt tới đó, đều có lợi ích như nhau. Không ngờ, là cái biết của mình chỉ là cái tưởng mà thôi. Cái tri kiến mà thôi. Nó không có gì kinh nghiệm, cho nên mình dẫn dắt mình đi chưa xong, rồi dẫn dắt một số người nữa. Cùng với mình, thì chắc chắn số người này sẽ bị lạc ở trong rừng sâu, rồi rơi vào hố thẳm mà chết hết.
Chúng ta phải hiểu, bởi vì nó có nhiều lý do như vậy mà chúng ta phải nắm cho vững để không chúng ta sẽ bị những lý do đó lý luận, che đậy và gạt gẫm chúng ta.  Cho nên hầu như chúng ta chưa có tu xong gì hết mà ra lãnh một cái chùa. Nhiệm vụ của một cái chùa là phải hướng dẫn phật tử, tăng ni tu học. Cái gánh vác đó, khi mà chúng ta chưa có tu xong mà chúng ta gánh vác thì chúng ta đã bị chìm ở trong cái đó rồi. Bị chìm nghỉm ở trong cái danh lợi vị trụ trì chùa đó rồi. Vì vậy, mình tiếp tục dẫn dắt một số người này nữa thì đó là mình dẫn dắt họ đi xuống địa ngục hết. Nó có những lý do mà hiện bây giờ trong những kinh đều có những ca ngợi, những tán thán công hạnh của những bậc Bồ tát như vậy. Cho nên chúng ta không khéo rồi chúng ta bị lầm lạc. Rồi cuộc đời tu hành chúng ta chẳng đi tới đâu hết.
Ở đây, các thầy cũng có những vị làm trụ trì thì các thầy thấy lời nói của Thầy có đúng không? Từ ngày mà lãnh cái chùa rồi, quá bận rộn không có thời gian nào mà có thể tu hành cho mình được nhiều hết. Nhiều khi mình ráng hết sức mà giao lại cho người ta mới nhập thất được đôi ba tháng đó là may lắm. Mà trong ba bốn tháng đó, họ kêu tới kêu lui, họ hổng có để cho mình yên ở trong thất nữa. Mà vì quí trọng ông thầy, họ ráng giữ ổng ở, để không để cho ông thầy đi. Họ ráng để cho ông thầy nhập thất ba tháng hay sáu tháng gì đó, chờ mong cho ông thầy ra để bao nhiêu công chuyện họ giao. Cái ông thầy khi mà ra thất rồi, tưởng là giải thoát không ngờ rằng, việc này rồi việc kia họ để cho cả đống đó, họ hổng giải quyết. Ra mà giải quyết một hồi đó là mệt, mệt là thấy, thôi cuộc đời mà tu riết kiểu này là tiêu chớ hổng còn gì nữa. Như vậy là chúng ta có làm trụ trì rồi chúng ta biết được bao nhiêu cái gánh vác, chứ không phải dễ mà độ chúng sanh đâu. Cho nên khi nào mà chúng ta tu xong rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy dễ dàng.
Lý do thứ hai này là một biện luận che đậy tâm tham danh lợi của chính mình. Vừa gạt, vừa bịp mình và người nữa. Khi họ là người tu hành chưa chứng đắc, câu nói trên đây là bịp mình, bịp người rõ ràng. Còn khi họ là người đã tu xong, đã liễu sanh thoát tử được rồi, thì câu nói này là câu nói từ tâm từ của họ, thoát ra, lưu xuất ra để thương xót tất cả chúng sanh. Khi mà cái người tu xong rồi thì cái lời nói để mà độ chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh như vậy là do cái tâm thương yêu của họ chân thật. Còn cái người mà chưa có xong thì cái câu nói đó là lời nói che đậy tâm danh lợi của họ. Họ bị chết trong danh lợi mà không biết, họ bị lường gạt mà không biết. Họ tưởng đó là Bồ tát hạnh độ chúng sanh.
Lý do rất là chính đáng nhưng người tu mà chưa chứng đạo mà lấy lý do này cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục cũng giống như người mù mà dẫn dắt một đám mù. Thì tất cả mọi người đều phải chết hết. Cũng vì lý do này, nhiều người lợi dụng nó để kinh doanh tôn giáo. Cũng ra mặt tui độ chúng sanh, không ngờ như vậy. Có người họ có thủ đoạn, họ lợi dụng chỗ đó họ tập trung một số tu sĩ ở chỗ đông, họ ở phía sau kinh doanh sự làm giàu làm có cho họ.
Cho nên, có một câu chuyện thế này, có hai ông nhà giàu có tiền bạc, ở thôn quê họ cũng là gia đình địa chủ, giàu có. Hai ông này mới  bàn giờ tui với anh ra thành phố sẽ lập nghiệp. Anh kia nói rằng, ra thành phố mình sẽ lập cái khách sạn, người ta sẽ đến ở thì hàng ngày mình sẽ thu được tiền bạc này kia nhiều và đồng thời mình phát triển, thu được này kia giàu có được. Ông kia nói, anh tính như vậy chứ hổng bằng tui. Tui sẽ ra đó tui lập cái chùa, tui thờ Phật, kêu quí thầy đến ở, giúp đỡ họ. Rồi bắt đầu, người ta cúng bái này kia. Họ thuyết giảng này kia, thì tôi nghĩ rằng, tôi phải làm việc này. Vì tôi cũng là một ông thầy chùa đi, tôi cũng thuyết giảng, tôi cũng học hiểu cho giỏi để tôi thuyết giảng hấp dẫn. Bắt đầu họ tập họ trung nghe, đúng lý họ bắt đầu cúng dường. Hằng ngày họ tấp nập cúng.
Quả như vậy, hai ông này ra thực hiện. Một ông thì cất chùa ở thành phố, một ông thì cất khách sạn. Nhưng mà khách sạn thì lần lần nó ế ẩm mà cái chùa thì lần lượt nó tập trung càng ngày càng đông. Cái ông mà kinh doanh này, càng thấy ổng cất nhiều chùa lên, còn ông kia cất được cái khách sạn lên thôi chứ hổng cất nữa được. Còn ông này, chỗ này cũng có cái chùa, chỗ kia cũng có cái chùa. Mà cái chùa nào người ta cũng đến tấp nập hết, qua những cái lời mà thuyết giảng của ổng hợp lý quá, người ta thấy đúng lý cho nên người ta đến rất đông. Còn tu chứng hay không tu chứng ông ta không cần biết. Nói làm sao đúng lý là được. Cho nên cuối cùng ông ta cất được rất nhiều chùa mà người ta rất là tin tưởng, còn cái ông kia, khuếch trương 2,3 cái khách sạn thì người ta nói, ông này làm ăn theo cái đời, không có đúng. Còn ông này làm vì Phật pháp, người ta ca ngợi ông này, coi ông này như là Phật. Thì cái điều đó, cả hai ông này, hai ông nhà giàu địa chủ này, sau này một ông người ta ca ngợi như Bồ tát. Từ chỗ đó chúng ta thấy có cái lợi, ông này được cái danh lớn hơn. Còn ông kia cuối cùng thì chẳng qua chỉ là một ông giám đốc khách sạn thôi chứ chẳng có ai lạy ông ta nữa. Còn ông này người ta lạy ổng tối ngày, sáng đêm. Đụng đâu, người ta cũng cung kính ổng hết, cho nên ông này kinh doanh mà danh mà lợi rất là lớn. Còn cái ông kia kinh doanh mà không bằng.
Cho nên, hầu hết người ta có thể lợi dụng tôn giáo làm những cái chuyện rất là phi pháp. Nhưng ở đây, thì khi mà làm như vậy, có cái ý đồ như vậy thiệt là ác. Còn nhiều khi có những người, người ta nghĩ người ta vì chúng sanh, vì thấy cái sự đau khổ của chúng sanh. Người ta cố gắng nghiên cứu giáo lý của Phật, người ta hiểu, người ta dạy cho họ làm những điều lành, họ không có nghĩ đến mình, người ta chưa có đạt. Bởi vì thương chúng sanh. Những người này là những người chưa có hiểu cái sự giải thoát của mình, chưa có làm chủ. Nhưng chính cái lý luận, cái hiểu, độ chúng sanh đó nó lại lừa bịp mình. Rồi do đó nó vô tình lừa bịp người khác. Chứ cái người này không có cái thủ đoạn kinh doanh làm giàu, mà chính bị cái lý luận mà trong kinh sách để thế này, thì chúng ta thấy cái lý do mà thứ hai nó thường thường bị lầm, chính cái người thầy cũng vẫn bị lầm mà bị lường gạt ở cái lý do thứ hai này mà làm cho người ta có tội lỗi. Mà cái tội lỗi này là cái tội lỗi còn nhẹ là vì người ta vô tình mà thôi, người ta không có hiểu qua cái lý do đó.
Cho nên, ở đây đức Phật dạy các đệ tử khi mà tu xong rồi thì mới đi độ người ta. Mà chưa xong thì ông Phật ổng không cho đi độ ai hết. Do vì vậy, chúng ta thấy có ông Phú Lâu Na ông xin đến một cái xứ nào đấy để độ, thì Phật trắc nghiệm ổng xong rồi thì Phật chấp nhận cho ổng đi. Mà nếu mà ổng trả lời không được thì ông Phật ổng không cho đi đâu. Cho nên, cuối cùng thì ông Phú Lâu Na trả lời Phật như thế nào? Họ giết con, con thấy càng tốt càng thiện, họ thương con. Khi mà người ta giết mình mà mình không có giận hờn thù oán mà còn thấy họ thương mình thì chính là mình mới đi độ được. Thì đó là đức Phật trắc nghiệm ổng ở trên cái thiện pháp, chứ không phải ác pháp. Tức là đứng ở trên nhân quả. Qua câu chuyện của ông Phú Lâu Na với đức Phật khi ông Phú Lâu Na xin đi để độ chúng sanh ở biên cương. Ở đó, dân chúng nó rất là hung ác. Cho nên đức Phật trắc nghiệm người đệ tử mình không phải ở chỗ thiền định mà cũng không phải ở chỗ thần thông, mà cái chỗ nhân quả, cái chỗ thiện ác đó. Chúng ta thấy qua cái bài pháp đó chúng ta thấm, Phật nhắm vào cái chỗ đó mà độ chúng sanh. Cho nên ở đây, nó không phải lưu xuất ra những cái gì để mà gạt người mà thực chất là làm cho người ta ở trong thiện pháp. Cái nhân quả mà người ta đạt được cái chỗ giải thoát của họ.
- Lý do thứ ba là gì, lý do Phật pháp mà trụ ở thế gian mà có. Đây là để ý vào trong cái chỗ kiến lập tăng đoàn. Mong có qui luật mà vĩnh cửu, triển khai, và nối tiếp nhiệm vụ hoằng dương Phật Pháp. Lý do thứ ba này, lí do hồi nãy là để độ chúng sanh, lí do thứ ba này là để cho Phật Pháp cửu trụ. Cũng như Thầy mà viết cái giáo án này là cũng muốn cho Phật Pháp cửu trụ. Mà nếu mà Thầy không có hiểu, Thầy cũng là bị cái ý này nó làm lệch mình đi. Thầy viết cái giáo án này ra để cho người ta hiểu biết được cái chánh pháp, người ta theo đúng nhân quả thiện ác người ta tu hành. Người ta hiểu được những cái lý hành đem ra thực hiện chớ đâu rốt ráo. Mà Thầy cứ ngồi chình ình ra đây thì chắc chắn ông thầy coi chừng chấp danh chấp lợi mất rồi. Bởi vì người ta hiểu biết được thì người ta phải đến người ta tu tập chớ sao. Mà người ta không dựa vào cái giáo pháp này, mà người ta cứ dựa vào Thầy. Thì người ta cứ dựa vào Thầy. Đó là cái chỗ mà chúng ta thấy rõ, là tại sao Thầy phải tránh danh, tránh lợi, tránh sự cung kính là như vậy. Là vì khi viết ra rồi thì nó không thật chất cụ thể của nó, nó không thể lệch lạc được. Chính ông Phật đã di chúc lại cho chúng ta sau này, ông Phật đã hoàn chỉnh được ông thầy này trước khi Phật nhập niết bàn. Do vì vậy, Thầy mới đi vẽ ra cái lộ trình này, không phải ngoài cái ông thầy giới luật nữa, mà chính ở trong cái giới luật khai triển ra cái hành của giới luật giúp chúng ta hiểu rõ để tự chúng ta đi, thắp đuốc lên mà đi theo cái ông thầy này chớ không phải theo thầy.
Các thầy hiểu cái điều đó. Cho nên, khi Thầy có ẩn bóng đi thì quí thầy vẫn có một cái lộ trình là ông thầy giới luật của quí thầy rõ ràng mà Thầy đã vạch ra qua cái kinh nghiệm tu của mình, được ông thày giới luật đã dạy như thế nào, thế nào. Thầy đã vạch ra cho quí vị như vậy. Quí vị cứ sống đúng rồi tập đúng thì quí vị sẽ đến đích chứ không cần ai hướng dẫn hết. Bởi vì Đạo Phật là đạo tự mình, chính ông Phật cũng ngày xưa tự ổng cứu ổng chứ có ai dạy cái đạo đó cho ổng đâu. Và bây giờ ổng để lại ông thầy là cái gương hạnh của giới luật để chúng ta nương vào đó, lấy đó chúng ta tiến vào con đường giải thoát. Như vậy chúng ta đâu đời đời kiếp kiếp chúng ta đâu cần phải thay đổi ông thầy đâu, lúc nào chúng ta cũng có ông thầy giới luật. Bởi vậy Giáo án của Thầy ra nó cụ thể, thực tế, chúng ta thấy được cái lộ trình của một người xuất gia tu hành giải thoát, đi đến chỗ chấm dứt sanh tử luân hồi thì chính là cái chỗ này chứ không phải là Thầy đâu. Thầy chỉ lấy qua kinh nghiệm của mình mà tu tập được, dựng nó lại những gì mà người ta bỏ quên, mà người ta không làm được.
Thì qua ba điều kiện này chúng ta thấy nó rất là chính đáng. Nếu mà chúng ta lầm lạc về cái lý do vì Phật Pháp cửu trụ mà chúng ta ngồi đó để đón nhận thì coi chừng chúng ta cũng lầm lạc mất đi.
Cái lý do chứng đạo thì lý do thứ ba là tốt đẹp. Nghĩa là mình chứng đạo rồi, Phật Pháp mình mới giữ cửu trụ được, còn mình chưa chứng đạo mình đón thì cũng là nguy hiểm. Khi mà mình chứng đạo rồi thì mình cửu trụ cũng bằng thừa, mình ở lại cũng bằng thừa. Tại sao, tại vì giới luật nó hẳn hòi rồi. Đâu đâu nó ra đó, pháp hành ra đâu đó rồi thì mọi người nương theo giới luật mà làm thầy. Do đó, cái ông thầy đứng ở giai đoạn thứ ba muốn cửu trụ thì phải thực hiện cái giới pháp của Phật hẳn hoi đàng hoàng, giải thoát thì ông thầy đó làm sao không hiểu được cái giới luật rõ ràng. Một khi hiểu được giới luật rõ ràng thì ông đã vẽ ra một cái đường đi, vẽ ra một cái gì mà Phật đã dạy thì nó rất đúng rồi, nó không còn sai nữa. Thì ông thầy đó, ổng có ở đó nữa không? Không. Nếu ổng ở đó thì bằng thừa. Bởi vì ông thầy giới luật đã có rồi, lại thêm ông thầy bằng xương bằng thịt ngồi gần bên nữa, thì đây cả hai ông thì mọi người người ta biết nương vào ông nào đây. Bây giờ nương vào ông thầy có thịt, có da này. Ông thầy kia ông câm miệng, hổng nói cho nên họ làm biếng, họ hổng chịu nghiên cứu. Vì vậy cho nên họ càng không có cái trí tuệ sáng ra, họ không chịu nghiên cứu cả cái thân họ, không chịu nghiên cứu đường lối Phật dạy qua cái giới luật này. Họ cứ nương vào cái ông thầy, nương vào ông thầy làm gì, để sống cho nhờ ông thầy có cơm ăn, áo mặc, khỏi cần đi khất thực chứ gì. Nhưng rồi rốt cuộc rồi, nó sai cái hạnh của mình đi. Nó hổng đúng.
Đó, thì tới đây quí thầy thấy rất rõ là con đường của đạo Phật, nó có cái ông thầy sẵn có. Tuy rằng nó vô hình, nó có một cái đường lối cho chúng ta theo ông thầy mà đi. Người xuất gia theo đạo Phật phải (...) thực hiện ba ý nghĩ này. Nhưng chúng ta phải thực hiện từng ý nghĩ chứ không thể vì chúng ta chưa tu chứng mà thực hiện cả ba ý nghĩ là không được.
Đối với chính mình là cầu giải thoát sanh tử. Đối với người khác là vì cảnh tỉnh, dẫn dắt thế tục. Đối với Phật Pháp là vì trụ trì, hoằng dương, làm cho sáng tỏ lại con đường đó. Đồng thời truyền kinh nghiệm của mình cho một vài người như thế nào để cho nó có đủ cái niềm tin cho những người khác. Rồi đồng thời cái đường lối đó nó hẳn hòi là cái ông thầy của mọi người rồi, họ tự đó mà họ đi.
Ba điều này, thiếu một thì không hoàn chỉnh được, cái vị thầy mà đã vạch ra được cái này thì phải khéo léo, không bị danh bị lợi che mắt ông thầy này. Nhưng mà ông thầy đã giải thoát rồi thì ổng biết cái thời gian nào, cái thời điểm nào mà ổng còn ở trong ba ngôi tam bảo này. Thời gian nào ổng ẩn bóng, thời gian nào ổng thị tịch, chứ không phải là ổng không biết cái điều này, ông phải biết rõ.
Về giải thoát sanh tử thì xuất gia mà chẳng tự cầu giải thoát sanh tử thì chẳng cần xuất gia. Nghĩa là mình xuất gia mà không cầu sanh tử thì mình xuất gia làm gì, chẳng cần xuất gia. Xuất gia mà chẳng cảnh tỉnh, dẫn dắt thế tục ấy là trái với tinh thần Phật giáo, nghĩa là không hóa độ chúng sanh. Xuất gia mà không trụ trì Phật pháp, ấy là cô phụ cái ơn lớn của Tam Bảo. Thí dụ bây giờ Thầy xuất gia, Thầy giải thoát rồi, mặc ai thầy hổng thèm độ, hổng thèm viết ra cái giáo án để cho người ta thấy con đường của đạo Phật thì đó là mình cô phụ của Phật Pháp. Mà xuất gia mà không làm cho người ta hiểu đúng, để cho người ta hiểu sai Phật Pháp thì cái xuất gia mình cũng chẳng có nghĩa lý gì hết.
Nghĩa là mình chứng đạo rồi, mình thấy họ tu sai mình hổng dám nói, mình nói đây rồi họ thù họ oán, họ giết này kia, họ hại mình bằng cách này cách khác, thì cái xuất gia của mình không có ý nghĩa. Mình xuất gia, mình biết cái sai cái đúng rồi thì mình phải nói thật ra để cho người ta biết được cái sai, cái đúng người ta sửa, người ta đi theo con đường của đạo Phật cho đúng. Đó thì quí thầy phải hiểu chỗ này, cho nên Thầy làm sao mà thầy câm miệng lại được khi mà mọi người người ta không thấy cái đúng cái sai của đạo Phật. Bây giờ Thầy nói lên, mặc dù là có những sự kiện nó có thể xảy đến với thầy bằng cách này, bằng cách nào Thầy cũng phải nói lên để dựng lại những cái gì mà của Phật pháp đem lại lợi ích cho con người rất lớn. Mà bây giờ mình không dám nói ra, sợ bao nhiêu người, người ta tu sai, người ta sẽ phiền não, người ta sẽ tìm cách hại mình. Thì như vậy Phật Pháp biết bao giờ mà phơi bày ra cái sự thật của nó được.
Cho nên đứng ở trên ba cái lý do này, cái người mà tu làm chủ sanh tử rồi thì họ không có ngần ngại trước cái sống chết, những cái danh, cái xấu. Miễn làm sao phơi bày được Phật Pháp, để người ta trở về đúng với chánh pháp của Phật. Cái đó là cái viên mãn ước nguyện của cái người tu đó.
Ba lý do trên đây, chỉ lý do thứ nhất được chấp nhận với người mới tu. Nghĩa là lý do thứ nhất, chúng ta phải lo cái vấn đề này trước cho chúng ta đã. Còn hai cái lý do kia là khi mà chúng ta tu xong rồi, thì chúng ta mới tiếp tục để làm cái điều này.
Vì vậy mà mười bảy năm trời khi mà tu làm chủ được cái sự sống chết rồi, 17 năm trời Thầy khắc khổ với nỗi lòng lo lắng về cái vấn đề mình phải làm gì cho lợi ích chúng sanh, phải làm gì cho Phật Pháp trường tồn. Bây giờ mình nhìn chung người ta tu sai rồi, giờ mình làm sao đây? Nói làm sao được, nói ra không biết thầy tổ của mình có nghe không. Cho nên cái khổ tâm của Thầy rất lớn. Còn chiều theo họ thì nó lệch Phật pháp đi, rồi người sau người ta đâu biết lối đâu mà đi nữa. Như vậy là cái nỗi khổ rất là khổ, cho đến cái giờ phút cuối cùng này, Thầy thấy không còn giải quyết gì được hơn hết, không còn âm thầm mà làm những gì êm đẹp được hết. Buộc lòng phải nói ra hết sự thật mà thôi. Đó là đúng lúc mà đúng thời rồi, không còn có cái chỗ nào mà không nói.
Ba cái lý do trên đây chỉ có lý do thứ nhất được chấp nhận cho người mới tu, còn hai lý do sau người đang tu không được nghĩ đến, nghĩ đến là tai hại khó đo lường cho người đó. Và Phật Pháp sẽ mất lối giải thoát, chỉ còn lại hình thức mà thôi. Nếu mà người tu chưa xong, độ chúng sanh thì chỉ còn cái hình thức tu hành chứ không phải là để giải thoát nữa.
Người xuất gia phải buông bỏ hết tất cả, thấu suốt tất cả, không tranh thị phi, không phân biệt nhân ngã vì thế ở đời ít có người làm được. Nghĩa là cái người xuất gia phải thông suốt được cái này, không có tranh hơn thua với thị phi, không có phân biệt nhân ngã...Tất cả những cái gì chúng ta cũng phải bỏ hết. Vì thế ở đời ít có người làm được là như vậy. Cho nên cái lộ trình xuất gia rất là khó, chớ không phải là dễ. Nhưng có một số người tu theo kiểu Phật giáo thời đại hiện nay bảo những người tu này là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh, ép xác. Họ thấy những người tu theo thập giới Sa di sống đúng những cái hạnh của người tu sĩ là tiêu cực, yếm thế, khổ hạnh, ép xác. Đúng nghĩa người xuất gia theo đạo Phật phải tự mình buông bỏ sạch, trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Ngoài  ba y một bát, những người này nếu không tích cực làm sao bỏ xuống hết được. Nếu mà chúng ta không tích cực từ bỏ thì không bao giờ chúng ta bỏ xuống hết được. Cho nên chúng ta không thể nào mà thực hiện được cái thập giới Sa di hết. Cho nên phải hết sức tích cực trên bước đường tu tập. Vì chính bỏ hết thì mới hết tai họa và đau khổ. Nghĩa là bỏ hết mới hết tai họa và đau khổ, còn không bỏ hết thì chúng ta sẽ còn tai họa và đau khổ.
Tội ác và đau khổ của con người chẳng toàn là do con người không chịu buông xuống. Nghĩa là chính những sự đau khổ và tội ác của chúng ta là do chúng ta chưa chịu buông xuống mà thôi. Chứ nếu mọi người mà biết buông xuống như một chú Sadi thập giới thì đâu còn tội ác, đâu còn sự đau khổ nữa. Thấy chỗ này thì chúng ta mới thấy lộ trình của Đạo Phật là từ cái cuộc sống của chúng ta mà thay đổi thì chúng ta mới thấy cuộc sống buông bỏ, buông xả.
Tội ác và đau khổ của con người chẳng toàn là do con người không chịu buông xuống và không sáng suốt mà tạo ra ư? Nghĩa là, do người ta không chịu buông xuống nên mới có những tội ác và những sự đau khổ. Và cũng chính vì không sáng suốt nên người ta không có buông xuống được. Còn cái người mà người ta sáng suốt thì người ta buông xuống được. Cho nên mình nói mình sáng suốt nhưng sự thật mình đi tu rồi mà mình cũng chưa bỏ được hết thì mình cũng chưa sáng suốt. Mà mình bỏ xuống được hết thì đó mình mới là sáng suốt. Và như vậy mình không  còn khổ đau nữa. Người xuất gia là người sáng suốt, biết buông xuống hết, danh lợi, tư dục ...
Mục đích xuất gia của Đạo Phật tự mình cầu giải thoát và khi tu xong trợ giúp người khác giải thoát, lấy việc tự cứu mình rồi sau cứu người và mọi người đều được giải thoát như mình. Vì thế xuất gia quí thầy phải hiểu là việc làm của bậc đại trượng phu chẳng phải việc quan tướng có thể làm được. Nghĩa là cái việc xuất gia là cái việc của bậc đại trượng phu, chứ không phải cái việc mà làm quan, làm vua. Cái việc làm quan, làm vua nó không phải là việc của bậc đại trượng phu. Còn cái việc chúng ta buông xả xuống hết là việc làm của bậc đại trượng phu. Còn làm quan, làm vua cái việc làm nó tích, nó không có buông xuống, nó tích lũy, nó đem vô thêm. Nên cái việc đó dù làm quan làm tướng, làm gì đi nữa thì cái vấn đề đó nó vẫn đem vô chớ không buông xuống nên không thể nào gọi họ là bậc đại trượng phu được.
Việc quan tướng là điển hình cho anh hùng hào kiệt. Đó thì đó mình thấy những người mà làm quan, tướng người ta gọi là anh hùng hào kiệt, nhưng những người đó có buông xuống không. Không có buông xuống nên người ta gọi là anh hùng hào kiệt. Còn việc làm của đại trượng phu là điển hình như Thánh hiền. Những cái bậc Thánh hiền người ta buông xuống hết mà, người ta xả hết những lòng ham muốn, những cái vật dụng của thế gian, những tình cảm nhỏ mọn ở thế gian. Hào kiệt dựa vào khí thế mà thành. Thánh hiền thì bám vào khí chất mà thành. Ở đây quí thầy thấy này, hào kiệt họ vào cái khí thế mà thành. Nghĩa là mình muốn thành anh hùng, tui muốn thành hào kiệt thì mình dựa vào cái khí thế tạo cho mình mạnh lên thì mình mới thành anh hung hào kiệt. Còn thánh hiền bám vào khí chất mà thành. Nghĩa là cái khí chất đó gì, là cái sự buông xả của mình, nó tạo nên một cái toàn là thiện pháp cho nên mới gọi là Thánh Hiền. Trong khí chất của Thánh Hiền thì hàm dung cả khí thế của hào kiệt. Bởi vì nếu không có khí thế mạnh, thì chắc chắn là chúng ta không bao giờ buông xả xuống được hết. Nhưng trong khí thế của hào kiệt, chẳng có cái khí chất của Thánh Hiền. Cho nên nó có thể nói là anh hùng hào kiệt, nhưng vẫn giết hại con người như cỏ rác chứ nó đâu có tha, nó đâu có phẩm chất của Thánh Hiền được, cho nên nó đâu có thiện. Cho nên muốn làm hào kiệt anh hùng thì phải đầu rơi máu đổ, dữ lắm mới làm tướng, làm nên danh phận. Một danh tướng thì phải đầu rơi máu đổ bao nhiêu của thiên hạ mới là danh tướng được, chớ đâu phải ít. Đó là cái chỗ phân tích để thấy được những hào kiệt, những anh hùng, và những Thánh Hiền là như thế nào, chỗ nào là bám vào khí chất, khí thế. Cả hai cái này có khác nhau chớ không phải giống nhau.
Lấy Phật mà làm điển hình, cái sanh, già, bệnh, chết của chúng sanh chỉ có xuất gia, tu chứng thì giải đáp được sanh già bệnh chết, ưu bi sầu khổ. Chỉ có chúng ta tu chứng mới giải đáp được cái đó. Còn chúng ta tu chưa chứng thì chúng ta không giải đáp được cái sanh già bệnh chết.
Mục đích của người xuất gia trong Phật giáo, trên nguyên tắc là phải sống y như Phật, nghĩa là phải ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ vợ con, lìa bỏ cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, đó là đi ra khỏi cái nhà khổ của sanh tử. Mình lìa bỏ cha mẹ, đó là mình ra khỏi nhà khổ của sanh tử, chỗ đó là chỗ sanh tử. Bởi vì chính chỗ đó sanh mình ra mà, cho nên chỗ đó không phải là chỗ sanh tử sao. Cũng từ chỗ đó mà mình chết. Rồi mình đi ra mình xuất gia rồi, là mình ra khỏi nhà sanh tử đó. Mà ra khỏi nhà sanh tử rồi, quí thầy ngồi đây tu mà nhớ, thì thử hỏi quí thầy có ra khỏi không. Cho nên chúng ta ra khỏi không phải thân chúng ta ra khỏi mà cả tâm chúng ta cũng phải ra khỏi nữa. Hiểu như vậy thì chúng ta thấy cái lộ trình thứ hai của cái người xuất gia rất là khó chứ không phải dễ. Cái tình cảm của chúng ta nó đâu có phải dễ, cái nhân quả của chúng ta nó trói chặt rất là bền chặt, chắc lắm. Không có thể nào mà chúng ta dứt cái tình thương của chúng ta đối với những người thân của mình dễ dàng đâu.
Đến với đường tu của đạo Phật, tốt nhất là lúc tuổi còn trẻ. Nghĩa là ở đây Thầy cũng xác định, đến với đường tu của đạo Phật tốt nhất là lúc tuổi còn trẻ, tại sao? Sức khỏe chúng ta còn, chúng ta sống mới nổi với cảnh giới ly dục, ly bất thiện pháp, với cảnh ăn một ngày một bữa. Già rồi nhiều khi chúng ta sống không nổi nữa, ăn một bữa chúng ta thấy khó sống lắm. Chỉ có khi chúng ta tu xong rồi, chúng ta quen thì chúng ta mới sống được, chớ không thì cũng phải thêm cái này kia chớ còn ăn một lần thì họ ăn hổng được đâu. Tốt nhất là nên xuất gia lúc tuổi còn trẻ, sức lực còn cường tráng, thì lúc tu hành tốt nhất và dễ thành tựu nhất. Có người nói thôi hãy đợi về già hãy tu, họ nói như thế là để kéo dài thời gian chạy theo dục lạc chứ chẳng phải gì hết. Phí đi cái tuổi trẻ quá uổng, là vì cái thân người rất khó, mà tìm được cái chánh pháp còn khó hơn, thế mà họ cứ lần lữa. Hẹn lần hẹn lữa, đến khi mà thân hoại mạng chung thì ôi thôi, không làm sao mà cứu kịp.
Thất bại trên đường tình ái và sự nghiệp mà xuất gia. Bây giờ đến những người thất bại trên đường làm ăn hoặc tình ái, sự nghiệp mà xuất gia. Thì Phật giáo cũng không cự tuyệt, song cũng không có khuyến khích, cổ xúy họ và cũng không thể nào nhiệt liệt hoan nghênh những kẻ này. Nghĩa là mặc dù những người này họ đến với cái tâm đau khổ thì Phật giáo cũng cho họ xuất gia, cũng cho tu để cho họ an ủi. Nhưng mà cái mục đích của họ không phải là giải thoát sanh tử đâu, mà chính họ để quên đi cái nỗi khổ thất vọng, thất tình của họ vì họ không đạt được ý muốn chạy theo dục lạc thế gian thôi. Có vậy thôi, cho nên đối với cái người mà nhận họ, không nhiệt liệt hoan nghênh những người này, biết rằng họ có tu cũng chẳng tới đâu. Vì những kẻ ấy có xuất gia tu hành cũng chẳng đi tới đâu hết, không bao giờ tìm được sự giải thoát. Nghĩa là cái người thất tình, thất vọng mà vào tu thì cũng chẳng đi tới đâu hết. Vì tâm tư của người thất tình, thất vọng là tâm tư của người chạy theo dục lạc thế gian. Còn đạo Phật là đạo dứt bỏ thế gian. Hai cái này nó khác. Ông ta thất tình tức là ông ta bị bạc đãi gì ở ngoài thế gian, ông ta chạy theo dục lạc không có đạt được, nên ông đau khổ. Cho nên có một chàng trai yêu cô gái nào đó, cô này cô đi lấy chồng khác đi, ông này mới thương quá, ổng đau khổ bỏ vô chùa tu. Thì tu cái kiểu này là không có giải thoát. Lấy câu kinh, tiếng mõ để tụng niệm hàng ngày để quên đi cái hình bóng. Cũng như cái câu chuyện ở trong “Tâm hồn cao thượng” mà Lan với Ngọc hoặc là trong cái “Hoa rơi cửa Phật” gì đó, chú tiểu Lan mà cắt đứt dây chuông gì đó, đó là cái tình cảnh mà tu ngàn đời cũng hổng thành Phật được.
Thì cái người tu của chúng ta cũng có nhiều dạng như vậy lắm chứ không phải không. Cho nên ở đây Thầy nói hết để cho quí thầy thấy tu như vậy không có đúng cái nghĩa của người xuất gia để mà tu. Cũng mặc áo tu nhưng mà tâm tư nó thường đau khổ, nó nhớ tình nhân của nó ở ngoài đời, rồi nó không làm sao gặp bởi vì cái người tình nhân đó đã có vợ có con rồi, hoặc là có chồng rồi. Bây giờ ngồi tu nó nhớ hình dáng trong lúc mà còn gặp nhau ở ngoài đời.
SADI, SADI NI
Bây giờ mình tới cái giai đoạn phải thông hiểu về cái Sadi giới và các loại Sadi. Bây giờ mình tới cái giai đoạn mình phải hiểu về cái Sadi, cái giới Sadi rồi, giờ tới các loại sadi như thế nào. Tại sao gọi là sadi và sadi ni.
Như các thầy đã học, lộ trình thứ hai của đạo Phật gồm có 5 hạng chúng. Ở giai đoạn này chỉ có 3 hạng Sadi: một là Sadi, hai là Sadini, ba là thức xoa ma ni, người ta còn gọi là thức xoa mana. Ở đây chúng ta thấy chữ ni đúng hơn. Vì Sadi ni, trên bậc Sadi ni, để 2 năm nữa mới thọ Tì kheo ni, thì bặc này nên gọi là thức xoa ma ni. Trong nhà Phật gọi ba giai đoạn là Tam tiểu chúng, tức là ba chúng nhỏ. Nam nữ xuất gia nhỏ hơn 20 tuổi không được thọ Tỳ kheo giới và tỳ kheo ni giới.
Giới luật của sadi và sadini đều gồm 10 điều, đều giống nhau chỉ điểm khác nhau là ở oai nghi đại chúng và đại chúng học. Nghĩa là đối với ni thì cái oai nghi của nó khác với bên nam. Sadi phải học theo luật nghi tỳ kheo còn sadi ni phải học theo luật nghi của tỳ kheo ni. Do vì thế ở đây có sự khác biệt giữa tỳ kheo và tỳ kheo ni. Nghĩa là bên đây phải học luật nghi của Tăng, bên kia phải học luật nghi của Tỳ kheo ni. Ở đây quí thầy chỉ học Sadi giới là thông suốt Sadi ni giới.
Sadi dịch âm chữ Phạn là ramanora. Chữ này có ba cách dịch nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tức từ, nghĩa thứ hai là cần sách, nghĩa thứ ba là cầu tịch. Tức từ là dứt ác mà hành thiện. Cần sách nghĩa là khuyến khích, siêng năng. Cầu tịch nghĩa là cầu lấy đạo niết bàn và quả viên tịch. Nghĩa thứ nhất, cái người sadi đi vào cần phải dứt ác hành thiện. Cho nên thập giới sadi cũng dạy chúng ta những cái điều dứt ác hành thiện. Cần sách thì chúng ta phải khuyến khích, siêng năng. Có khuyến khích siêng năng, khích lệ trên con đường dứt ác hành thiện thì chúng ta mới làm trọn vẹn được. Nghĩa thứ ba cầu tịch là nghĩa cầu lấy đạo niết bàn, giải thoát cho đến viên mãn, giải thoát. Nghĩa của Sadi nằm ở ba nghĩa này. Cho nên hiểu cái nghĩa Sadi, chúng ta bước qua cái lộ trình thứ hai nó vững chắc không có còn lưỡng lự, lo lắng vì chúng ta đã chuẩn bị cho cái tinh thần của chúng ta, phải có ba cái nghĩa bắt đầu để chúng ta tu tập.
Một người mà thất tình, thất vọng mà đi tu làm sao đúng nghĩa được. Phân biệt như vậy chúng ta mới thấy rõ được. Bởi vì chỉ có cầu tịch là đúng nghĩa hơn hết. Nhưng để mà cầu tịch được nó phải có tức từ, tức là phải có dứt ác hành thiện. Mà nếu không có siêng năng, hổng có cần sách thì làm sao siêng năng mà được. Cho nên phải nói chỉ có cầu tịch là đúng, chúng ta có tâm hướng đến giải thoát đó, nhưng chúng ta phải có thực hiện từ cái bước đầu. Cho nên Sadi nó phải bao hàm cả cái hành động để thực hiện lộ trình của cái người Sadi.
Sadi ni có nghĩa là cầu tịch nữ, chữ ni ở đây chỉ cho chữ nữ. Nội dung của Sadi thập giới và Sadi thập giới trong bát quan trai giới là đã đủ 9 điều của Sadi, chỉ còn có một điều của Sadi là giới không cất giữ tiền bạc mà thôi.
Nghĩa là khi mà học thọ Bát quan trai, quí thầy đã thấy thầy giảng 9 cái điều, còn 1 điều của sadi là không cất giữ tiền bạc, châu báu.
Ở đây thầy liệt kê lại cho quí thầy thấy rõ hình thức, hình thái của thập giới sadi mà có lần thầy đã dạy rồi. Mười giới Sadi là:
1 không sát sanh,
2 không trộm cắp,
3 không dâm dục, ngũ giới của cư sĩ á là không tà dâm, còn ở đây sadi là không dâm dục nghĩa là không có phi phạm hạnh được.
4 không nói vọng ngữ,
5 không uống rượu,
6 không đeo tràng hoa, chuỗi hoa, không dùng dầu thơm,
7 không ca múa, biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không ca hát và nghe ca hát,
8 không ngồi giường cao rộng lớn,
9 không ăn phi thời,
10 là không cất giữ tiền bạc, châu báu. Tất cả giới này thầy đã giảng trong thọ bát quan trai, chỉ có giới thứ 10 là chưa giảng, không cất giữ tiền bạc, châu báu.
Bây giờ Thầy mới giảng tiếp cái giới không cất giữ tiền bạc để cho quí thầy hiểu đủ 10 cái giới Sadi.
Ở đây qúi thầy phải hiểu, người xuất gia vì phá trừ tâm tham, phá trừ thói quen. Người ta thường nói con người chết vì của cải, có người còn nói con người không sống được ngàn năm mà lo tính chuyện vạn năm. Sự ham muốn và tích tập chất chứa của cải của con người có thể nói là bẩm sinh, có 100 mong muốn 1000, có 1000 mong muốn 1 vạn cho đến thành phú ông trăm vạn, ngàn vạn rồi lại mong muốn lũng đoạn kinh tế thế giới, muốn cả thế giới này đều thuộc sở hữu của mình. Điều này ở trong xã hội tư bản chủ nghĩa của công thương nghiệp thì được cổ vũ, nhưng ở trong thế giới đại đồng XHCN thì lại không được hoan nghênh. Trong Phật giáo của chúng ta lại càng không có chấp nhận, nghĩa là không có chấp nhận chuyện làm giàu như vậy. Có thêm hoài, thêm hoài là không chấp nhận, bởi vì đạo Phật thì phải bỏ ra chứ không có chấp nhận thêm vô.
Của cải có thể tạo phước cho con người, đó là một lẽ thật không thể phủ nhận được. Nhưng của cải có thể trở thành chủ nhân của loài người và con người trở thành nô lệ cho của cải, cũng là sự thật không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng biết của cải là vật ở ngoài thân, xem của cải là vật ở ngoài thân là điều ít ai làm được. Nghĩa là nó ở ngoài thân chứ đâu ở trong thân, thế mà không có người nào mà bỏ nó được hết. Đó là một cái khó. Ai cũng biết của cải là vật ở ngoài thân, xem của cải là vật ở ngoài thân lại là một điều điều ít ai bỏ được. Nghĩa là nói nó ở bên ngoài chứ bỏ ra hổng được, chứ phải nó ở trong ruột mình, bỏ ra nó khó, thế mà nó hổng ở trong ruột, ở ngoài mà bỏ hổng được. Do thế chúng ta phải biết, của cải dù ít, dù nhiều, nó vẫn có khả năng lớn sai khiến loài người. Cho nên người xuất gia trong đạo Phật chủ trương buông xả sạch, không tích tụ của cải. Vì thế giới luật của Phật cất giữ của cải, tài sản là hành vi phạm giới. Khi đã thấy và thấu suốt tính chất trói buộc của tài sản của cải đối với sự ham muốn, chiếm hữu mãnh liệt của con người đối với của cải. Khi mà chúng ta đã thấy và thấu suốt tính chất trói buộc của tài sản đối với mình là như vậy, thì mình phải sợ lắm. Còn nếu mình mà không sợ, thì mình sẽ bị cột chặt, vì vậy mà con đường tu hành của mình, càng tu thì mình bị của cải tài sản, những cái vật chất của thế gian nó trói mình rất chặt. Mặc dù hình thức mình tu, nhưng mà mình ko để ý, thì mình bị trói chặt rất lớn. Cho nên mình phải nhìn thấy cuộc sống của mình, đừng có nghĩ nó là gian khổ. Như Thầy nghĩ, ba y một bát, đi chỗ này đi chỗ kia, nay ở hang mai ở núi thì gian khổ lắm. Do đó mà không dám thì tức là chưa dám xả. Còn một cái người đã thấy thân này là vô thường thật sự rồi, không có cần nó nữa thì người ta xả hết. Cho nên vì vậy mà người ta không có ngại gian khổ đối với cái thân tứ đại này. Còn nếu mà không thấy, coi chừng một chút xíu nó vẫn trói mình đó. Nó không có thể mà nương tay mình được.
Biết như thế nên muốn cho đệ tử xuất gia của mình đừng bị dính mắc nên ngài mới chế giới cấm không cất giữ tiền bạc, châu báu. Vì của cải, tiền bạc làm động tâm khiến khởi tâm tham đắm, ham mê. Quí vị nào mà đã có sự tu chánh niệm tỉnh thức, quán xét ngũ triền cái thì bây giờ mới thấy thấu suốt được, mới buông xuống được. Còn nếu mà chúng ta chưa có tu chánh niệm tỉnh thức thì chưa có đủ cái sức mà tỉnh thức sáng suốt thì chúng ta ham mê nó mà chúng ta ngỡ rằng mình không ham mê. Cho nên cái vấn đề mà tu chánh niệm tỉnh thức thì nó rất là quan trọng, để khi mà chúng ta đặt một cái niệm gì. Tham thì ngay đó chúng ta quán xét tâm mình xem nó còn tham chỗ nào không. Thì chừng đó mình thấy những cái vi tế của vật chất nó còn dính mìn thì mình thấy cái tâm tham của mình rất rõ. Cho nên cái vấn đề ở đây, cái tu chánh niệm tỉnh thức á, nó làm chúng ta sáng suốt để mà chúng ta quét sạch tâm tham. Và quét sạch tâm tham của chúng ta, thì những cái vật chất, tiền bạc của cải ở xung quanh chúng ta đều được buông xuống được hết. Còn nếu mà chúng ta không có tu tập cái đó thì coi như chúng ta không sáng suốt mà chúng ta cứ ngỡ là mình buông xả, nhưng sự thật ra là mình dính hết, chớ không thể nào mà không dính.
Không tu thì thôi, mà đã tu thì phải thật tu, tu cho rốt ráo, tu cho thành đạt, tu cho giải thoát. Mình đã cạo cái đầu tròn rồi, đã bước vào chùa rồi, thì quyết định là phải tu cho đến giải thoát, thì quyết định là phải quán xét cho sạch, cho thông suốt, không còn một vật gì chướng ngại là mình sợ nó đói, khổ, lạnh lẽo, y áo…
Vì chính chúng ta sợ cái thân của chúng ta khổ cho nên chúng ta không dám hành những giới luật của Phật. Nếu mà chúng ta gan dạ, chúng ta không có sợ, thì chắc chắn là chúng ta đạt được những cái kết quả rất lớn của sự tu tập.
Đó hôm nay thầy nhắc lại cho quí thầy thấy, khi bước qua cái lộ trình này chúng ta phải hiểu để mà chúng ta bước. Chứ còn nếu chúng ta mà chưa hiểu, chúng ta bước không trọn vẹn thì chúng ta cũng chẳng đi tới đâu hết.
Người tu theo đạo Phật xem của cải như đồ vô dụng, giữa ngày ăn một bữa, sau khi đi từng nhà khất thực, ngủ đêm dưới gốc cây là chỗ có thể an thân của người tu sĩ. Đó mình phải chấp nhận, thấy được của cải, tài sản, nhà cửa nó không có quan trọng đối với người tu sĩ nữa.
Nghĩa là cái bữa ăn chúng ta đi xin, có cái gì ăn cái nấy, rồi đi xin từng nhà, rồi ngủ thì dưới gốc cây hoặc là cái đống rơm nào đó chúng ta có thể chui vào ngủ cũng được, không cần phải có nhà có cửa gì hết. Gặp cái gò mả hay là cái nhà mồ của người Hoa chỗ nào đó, chúng ta chui vào đó ngủ chung với mấy cái thây ma đó cũng an ổn. Một đêm sáng ra rồi cùng yên ổn. Còn mà người nhút nhá, vô đấy thấy mấy cái quan quách của người Hoa mà để trong nhà mồ, không dám ở thì không thể nào mà lập cái hạnh của người xuất gia được. Cho nên vì vậy mà trước khi xuất gia thì người nào mà có tánh mà sợ ma rồi thì phải tập sửa, đừng có sợ ma nữa. Vì cuộc đời chúng ta còn sợ mà là còn sợ chết. Bởi vì ma nó có làm hại gì mình đâu được, mà mình còn sợ tức là mình sợ chết, mà còn sợ chết tức là còn sợ ma. Cho nên vì vậy mình phải cố gắng tập, đừng có sợ ma nữa. Do đó thì mình ngủ nhà mồ, ngủ ở đâu cũng hổng sợ. Ngủ rừng, ngủ bụi cũng hổng sợ. Còn mình còn chút sợ chết, sợ khổ thì không thể nào thực hiện được cái hạnh của người tu giải thoát của đạo Phật được. Đó chúng ta phải thấy được cái mục đích, vì chúng ta sợ khổ, sợ chết mà chúng ta không dám rời cái gia đình, không dám rời cái cuộc sống, cho nên chúng ta không thực hiện được cái đạo giải thoát.
Ở bên Ấn độ là miền nhiệt đới, thân cây to lớn, nhánh lá nó sum suê, ngủ dưới gốc cây giống như ngủ ở trong cái lồng thiên nhiên. Khí hậu Ấn độ thì rất nóng, giả sử đêm đông lạnh nhất, đức Phật sống ba y một bát có thể đủ ấm. Nghĩa là trong cái thời đức Phật cái thời tiết của đất nước đó nó nóng chứ hổng phải là như những đất nước lạnh. Vì vậy mà đức Phật sống ba y một bát rất dễ dàng. Gặp mà chúng ta ba y một bát ở đất nước Liên Xô chắc là chúng ta tiêu luôn. Cho nên nó cũng phải tùy theo cái đất nước, cái địa thế, cái khí hậu ở đất nước đó nó thế nào. Chấp nhận ba y mà không có mặc áo bông mà ở Liên Xô thì chắc cũng phải chết chứ hổng sống bởi vì lạnh quá, lạnh dưới không độ. Lạnh 75,76 dưới không độ chớ hổng phải dưới không độ 1,2 đâu. Mà dưới không độ ở cái mức độ đó thì cái nước đá của chúng ta nó không có chảy nước. Còn của mình bây giờ cục nước đá để đó, nó đông nó là 0 độ đó, nhưng mà vì cái độ nóng của nó, nó tan nó chảy nước hết. Còn cái kia người ta chun vào trong nước đá mà người ta ở trong đó người ta thấy ấm hơn là ở ngoài. Mình đụng vô nước đá là thấy tê cóng tay chân rồi, người nào cầm cục nước đá thấy cái tay nó hẻo hết, nó cóng ra liền, nó cứng ngắc hết. Như vậy mà người ta chưng nó người ta sống được, còn ở bên Ấn độ điều đó hổng có đâu.
Cho nên như vậy mà Phật ba y một bát, nếu mà một cái người mà không hiểu mà cũng sống như vậy, xả bỏ. Nhưng mà vì cái đất mà lạnh quá, chúng ta cũng phải y áo cho ấm cái thân của chúng ta, nhưng mà không được nhiều, vừa đủ. Đừng có nghĩ nước tui lạnh, tui phải sắm 5,7 cái bộ áo lông cừu cho dữ tợn, thì cái đó là ôm theo cả đống là còn nguy hiểm hơn. Cho nên vừa đủ 1 cái ấm thân thôi chứ đừng có mang nhiều, như vậy thì nó mới đúng cái nghĩa của người tu. Thay vì ở bên Ấn độ thì ba y một bát nó mỏng, qua đó thì ba y một bát nó dày, nó cứng, nó ấm đủ cái sức mà giữ ấm trong người, không bị cái thời tiết lạnh mà làm hại mình. Đó thì phải biết sử dụng cho đúng cách, nhưng mục đích của nó là buông xả chứ hổng phải cố chấp ba y một bát.
Còn ở đất nước của chúng ta thì là một đất nước ở trong cái nhiệt đới, nó không phải là xích đạo nhưng mà nó ở trong cái nhiệt đới thì nó cũng nóng chứ đâu có phải lạnh như các nước khác. Nhưng mà ở miền Bắc thì cũng có lạnh chớ không phải là không lạnh đâu. Chớ đừng có mùa lạnh mà tui cũng ba y một bát theo cái y của Thầy đây thì chắc là tiêu đấy, chiu hổng nổi đâu. Mình phải sáng suốt, sau cái y này mà trời lạnh, ở miền Bắc thì chúng ta cũng choàng thêm một cái áo ấm để giữ cái thân của chúng ta được mạnh khỏe và tiến bước trên con đường tu. Nhưng mà đừng có nhiều cái áo, 2,3 cái áo ấm thì trật. Một cái mà thôi, tùy cái thân của mình chứ đừng cố chấp ba y một bát.
Đồng thời, phong tục Ấn độ, đương thời người chết phần nhiều đem bỏ vào thi lâm, để lộ thiên cho tan rã, để mặc cho đến khi chim thú ăn chỉ còn xương trắng mà thôi. Nghĩa là cái phần nhiều ở bên Ấn độ, người ta có những cái rừng gọi là thi lâm, lâm là rừng, thi là cái thây ma. Khi mà người chết họ đem vô rừng đó họ bỏ, rồi chim rồi này kia sình lên hôi thúi. Chim chóc nó đến nó ăn, nó rỉa, riết còn xương trắng thôi. Họ chôn thây ma ở trong rừng, cho nên vì vậy ở bên Ấn độ, theo cái kiểu mà chôn cất như vậy, cái môi trường nó rất là ô nhiễm. Cái đó là cái không đúng, tại vì ngày xưa người ta chỉ làm vậy thôi để khỏi mất công đào hầm, đào hố. Lẽ ra thì đốt là tốt nhất.
Do đó những cái quần áo của những cái thây ma đó nó vứt bỏ đầy rừng. Nghĩa là chết rồi người ta đem vải quấn cái thây ma đi, người ta cũng bỏ đi. Sau khi chim rồi những cái loài vật nó xé cái thây ma đi nó ăn, thì những cái vải đó nó vương vãi khắp khu rừng. Thì những cái người mà xuất gia, người ta chỉ cần đi nhặt những cái vải đó mà thôi. Chúng ta bây giờ mà mặc thì chắc chắn là tối ngủ thấy ma. Đó là cái sự thật mà Thầy nghe nói những cái người mà người chết có miếng vải đậy mặt, thì họ lấy miếng vải đó đi. Khi mà chôn cái người đó rồi, cái người nào mà lấy miếng vải đó trùm lên mặt, tối mình trùm lên mặt mình thấy cái người chết đó liền. Đó là cái thấy ma đó. Như vậy là họ nói như vậy chứ chắc hổng có ai làm, chắc chắn là họ cũng nghĩ vậy thôi. Cái tưởng của họ có thể lưu xuất qua chiếc khăn mà đậy cái mặt người chết, thì thầy cũng nghe cái người xưa người ta nói như vậy. Người ta còn nói cái chiếu mà cái người chết, mà đem cái chiếc chiếu đó đừng có chôn theo, rồi giặt cái chiếu đó, để lên bàn thờ. Trong nhà mình mà có trộm cướp gì thì coi như là cái linh hồn của người đó họ còn nằm ở cái chiếu đó, họ chưa có đi đâu. Cho nên nhà mình có ăn trộm thì người chết sẽ báo mộng, kêu mình dậy thì ăn trộm không lấy đồ được. Thầy nghe nói như vậy.
Tại vì có một sự kiện như vầy, lúc mà Thầy còn nhỏ thì ở bên ngoại Thầy thì bà cố của thầy chết cho nên bà ngoại Thầy với ông ngoại Thầy mới lấy cái chiếu mà bà cố thầy nằm, mới đem giặt rồi trải lên cái giường thờ. Bởi vì ở trên cái bàn thờ, xưa nó có giường thờ, chứ cái bàn thờ nó khác nha. Mới trải lên đó, cho nên nhà có ăn trộm thì cứ bà cố Thầy về kêu, thành ra ăn trộm hổng lấy đồ được. Đó là những cái mê tín của người ta như thế nào Thầy chẳng biết nhưng mà nghe thuật lại như vậy. Cho nên thầy thấy cũng là cái chuyện tạo ra cái tưởng của mình thôi. Người này đồn người kia rồi tạo ra cái tưởng. Từ cái niềm tin đó cái tưởng nó lưu xuất. Có những cái duyên lành, người này không có tham lam, ăn trộm của cải của ai thì từ đó cái người mà ăn trộm vô lấy của cải của người đó, tự nhiên cái tưởng của họ nó sẽ lưu xuất.
Cũng như bây giờ mình không có tham lam, ăn trộm của ai, mình làm bằng mồ hôi nước mắt, cái kiếp trước mình cũng hổng có ăn trộm, ăn cắp của ai hết. Cho nên bây giờ ăn trộm vô, thì chừng đó mình tự thức giấc à, thằng trộm nó vừa móc, nó sắp sửa đào lỗ thì mình thức giấc rồi, thì mình nghe lộm cộm thì nó hoảng hồn nó chạy rồi, cũng hổng lấy được nữa. Đây là cái chuyện thật sự. Còn mình có tham lam trộm cắp, cái nhân quả nào đó, lúc đó mình ngủ mê thì lúc đó mình còn ngủ mê hơn lúc chưa có ăn trộm nữa. Nó khiến cho mình ngủ rất mê, để cho thằng trộm lấy sạch rồi, đi mất rồi mới thức dậy, thấy nhà mình trống trơn.
Đó là tại cái nhân quả của mình, chứ không phải là tự dưng mà nó có. Cho nên khi mà cái người không mất của, ngay khi thằng trộm lúc đầu vô họ đã thức. Cho nên ăn trộm không làm sao lấy được. Còn cái này là cái nguồn tin, tin tưởng như vậy, cho nên mới lấy cái chiếu đó giữ nhà của mình. Tức là bắt bà cố thầy phải ở trên cái chiếu đó, hổng có cho đi đầu thai. Cái kiểu đó nó là như vậy. Vì vậy cho nên cái đó nó là cái mê tín, hiểu sai hổng có đúng, do hành động thiện ác của mình, nó bao bọc được cái tài sản của mình.
Cho nên, khi mà ở bên Ấn độ mà quán về cái xương trắng thì nó quán rất dễ, nó quán về cái thân bất tịnh rất dễ. Chỉ cần vô rừng đó, thấy cái thây ma mà nằm sình lình, hôi thúi, mình đi tới đó, mình giở ra mình thử thử chút coi, hôi thúi thế nào. Tức là mình về, mình ngồi đó nghe nó hôi thúi rồi. Còn bây giờ mình đi tìm cái thây ma khó lắm chứ đâu phải dễ. Người ta chôn hết hoặc đốt sạch rồi, tìm đâu mà được. Mình tưởng tượng ra cái mùi thúi, tưởng hổng nổi. Mà mình có con chuột chết hoặc con chó nào mà chết mình mới tưởng tượng được cái thây ma nó thúi. Cái thây ma con người nó thúi hơn con chó mà chết nữa. Cái thây con người nó thúi ghê lắm.
Cho nên chúng ta tưởng tượng hổng ra đâu. Chúng ta nghe con chuột chết nó thúi vậy đó, hoặc con chó con mèo nào chết, chúng ta nghe thúi cũng khó chịu rồi. Thế mà cái thây con người chết nó còn thúi hơn. Bởi vì nó huân ba cái đồ gì độc ở trong này thì nó phải thúi hơn chứ. Chó thì nó ăn thừa của mình nó ít thúi hơn mình, bởi vì mình ăn ngon nhiều mình thúi nhiều. Còn nó ăn dở thì nó ít thúi. Đó thầy nói sự thật mà, cái gì mình chấp nó là ngon nhứt là bậc nhứt thì là bất tịnh nhứt chứ hổng phải. Thì khi một người mà quán cái định vô lậu, mà quán bất tịnh thì chúng ta nên trực tiếp đến những cái rừng đó. Mà rừng của mình thì hổng có cái chuyện bỏ thây ma đó rồi. Có lỡ mà có hôi thúi thì cả xóm đã chạy đi đào lỗ dập liền chứ hổng có để.
Quần áo của cái người mà chết trong rừng đó thì mấy vị sư, mấy người xuất gia đi lượm cái đó mà kết lại thành cái áo mà để mặc, đắp. Thì những người đó thiệt là những người không có nhát gan rồi đó. Còn chúng ta mà nhát gan thì chắc chắn chẳng dám rớ đâu. Mà lại còn gớm nữa. Còn những cái người mà tu hành họ hổng có gớm đâu, bởi vì chính cái gớm cũng là cái chỗ tâm của chúng ta nó còn chấp đó, nó còn dính mắc, còn chê dơ chê sạch đó. Nhưng mà đứng ở trên một cái nhìn, vệ sinh hay không vệ sinh, cái đó là quan trọng lắm đó. Bởi vì, chúng ta phải hiểu, muốn mà lấy những cái vải đó làm cái vải mà đắp trên mình của mình là phải tẩy nó như thế nào để cho nó đắp vệ sinh chớ. Một cái ông bệnh cùi mà mình lấy cái vải ông mình đắp lên, ba bữa rụng tay, rụng chân mình hết.
Bởi vậy nó cũng là một cái cho chúng ta có sự suy tư, chớ không phải là không suy tư, chớ không phải là đụng đâu mình cũng chắp vá lại này kia, nhưng mà cái vải mà mình chắp vá nó phải là vệ sinh chứ không phải là thiếu vệ sinh. Vì cái thân của chúng ta dễ bị bệnh, mà cái bệnh vi trùng rất nguy hiểm. Cái bệnh mà rối loạn thần kinh, nó không nguy hiểm đâu. Mà cái bệnh vi trùng, nó rất nguy hiểm bởi vì nó có một cái loài vật đục phá cơ thể của chúng ta. Nó làm cho cơ thể chúng ta sẽ bị hoại diệt trước khi chúng ta thành tựu sự tu tập. Mà cái loại trừ vi trùng trong thân chúng ta rất khó, mà phục hồi chức năng của rối loạn của cơ thể chúng ta rất dễ khi chúng ta dùng thiền định. Còn loại trừ cái vi trùng trong thân chúng ta rất khó, dùng bằng sức tu tập trong thân chúng ta loại trừ rất khó. Ví dụ như bây giờ một người bệnh bị phổi vi trùng cốc, dùng cái sức thiền định, họ loại trừ cho nó ra được thì cái chuyện này cũng không phải là chuyện dễ. Nó khó lắm. Còn cái bệnh mà rối loạn cơ thể, chúng ta chỉ ngồi thiền là nó phục hồi, mau lắm.
Đó, phải hiểu được cái điều kiện cho nó rõ ràng. Cho nên vì vậy mà cái sự vệ sinh về cái y áo mặc của chúng ta, dù nó không tốt, không đẹp nhưng ít ra nó cũng phải vệ sinh. Bởi vì cái chỗ hiểu biết của chúng ta, kiến thức của chúng ta không thể nào như người xưa nữa. Chúng ta có hiểu biết rất nhiều, vì khoa học nó đã cho chúng ta biết có những loại vi trùng nó thế này, thế khác, tàn phá cơ thể chúng ta.
Vì thế nguyên lai phấn tảo y cũng lấy từ vải gò mả, người sau này muốn làm kiểu đó, nên lấy vải nguyên cắt rụng ra rồi may lại làm giống như y phấn tảo. Nghĩa là mấy ông khất sĩ của mình, họ không có đi lượm vải ở ngoài đồng mả được cho nên họ ra chợ họ mua tấm vải lớn về, 2 thước, 3 thước, 10 thước rồi họ cắt nhỏ nhỏ ra. Rồi bắt đầu đem mấy ông thợ may kết lại từng miếng, từng miếng nhỏ thành cái y phấn tảo theo kiểu của Phật. Nhưng mà cách thức này, theo Thầy thấy, thôi để tấm vải đắp cho khỏe đi.
Bởi vì ngày xưa, những sợi vải, chim chóc, chó nó xé cái thây ma nó ăn, nó rách tùm lum tà la đi thì bây giờ mới kết lại từng miếng nhỏ nhỏ vầy. Còn bây giờ mấy ông này, vải lớn hổng để làm chi cho nó cực. Theo Thầy thấy tấm vải cứ để nguyên đó mà đắp lên cho nó khỏe. Mình tu giải thoát tâm chứ đâu giải thoát ở tấm vải. Nhưng mà đứng có trang diện cái tấm vải đó, có hãnh diện ở trong tấm vải đó. Tui là cái người mà mặc y phấn tảo. Nhiều khi chúng ta thấy cái người mặc y như thế này, những cái miếng lớn này thì có người họ nói, thầy mặc y không xứng đáng. Thầy giữ gìn giới hạnh như vậy, phải mặc cái y bát hàm hàm, nó từng miếng từng miếng nhỏ là nó mới xứng đáng, đó là cái y phấn tảo. Đó là sai rồi, bởi vì cái hình thức là nó như vậy, nhưng mà cái chuyện mình làm nó trật rồi.
Bây giờ nói, thầy phải mặc cái y mà lượm vải ở ngoài đồng, từng miếng nhỏ người ta quăng ra đó, mình mới kết lại để làm cái y thì như vậy là đúng. Còn bây giờ mình mua ngoài chợ cái tấm vải quá bự, cắt nhỏ ra rồi cũng làm như vậy, qua cái hình thức cho đó là cái y phấn tảo. Thì những người sau này họ hay làm cái hình thức quá cho nên nó mất cái ý nghĩ của cái cái y phấn tảo. Nếu đức Phật còn tại thế, Ngài cũng bật cười. Nghĩa là thấy các sư mà mặc cái áo đó, Ngài cũng bật cười. Mấy y phấn tảo của mấy ông làm khổ người ta không. Chớ làm sao mà nín cười được, bởi vì tui thì lượm từng miếng nhỏ tui chắp lại cho nó thành miếng lớn tui đắp. Còn mấy ông miếng lớn mấy ông lại cắt nhỏ ra mấy ông đắp. Thành ra phải cười mấy ông chớ sao.
Chọn cái hình thức phấn tảo bên ngoài mà không chọn cái phấn tảo ở trong tâm của mình. Nghĩa là ở đây các ông chọn cái hình thức phấn tảo bên ngoài cái áo mà không chọn cái phấn tảo ở bên tâm của mình.
Phấn tảo có nghĩa là bỏ sạch đi, tảo có nghĩa là quét, quét cho sạch, thì mình mặc cái y thì mình quét hết rồi, thế mà ở trong tâm thì không quét. Phấn tảo có nghĩa là bỏ sạch đi, lượm đồ bỏ của người ta bỏ mà mặc. Chúng ta cũng vì cái chỗ bắt chước mà không thấu cái lý mà tu hành, cho nên biến ra cái chỗ tu hành bằng cái hình thức cho nên nó không đúng cái cách của y phấn tảo. Cho đến đây Thầy giải thích cái y phấn tảo cho chúng ta thấy đúng cái nghĩa của nó. Cho nên nếu muốn mặc đúng, thì chúng ta nên đi lượm vải rách của mấy người thợ may, họ để thừa dư đó, chứ đừng có mua vải miếng lớn rồi cắt nhỏ ra thì đó là cái hình thức.
Mình đi xin những người thợ may, họ cắt vụn thiếu gì. Do đó mình kết lại mặc thì nó cũng đỡ đi. Chứ còn đúng nghĩa của nó là phải đi lượm vải mà người ta chùi đít con họ, rồi họ quăng vô thùng rác. Còn cái vải mà người ta may á, người ta còn có chỗi người ta dùng được. Mấy người ở không đó, họ lấy vải vụn rồi họ lấy dầu ăn gì đó, họ chấm cho nó dính dính họ làm chổi quét nhà, nên vẫn chưa là đồ bỏ, vẫn còn dùng được. Cho nên mình xin đó thì họ cũng thương mấy nhà sư, họ cũng cho đó, chứ thật ra họ còn bán được, chưa có bỏ.
Đó thì chúng ta thấy, cái vật bỏ là cái vật mà người ta quăng ở trong cái thùng rác, hoặc là vải mà mấy ông thợ máy mà họ lau tay, mà dầu dính vô dữ tợn, họ hết xài được, họ quăng đi mình lượm về mình giặt, mình đắp lên thì là y phấn tảo thiệt.
Bởi vì đất nước của mình nó không có vải thây ma, vải bó cho thây ma quẳng ngoài rừng, cho nên nó khó kiếm. Vì vậy mình cứ đi ra ngoài thùng rác, mấy ông thợ máy mà vải ông lau tay, ông quăng, không dùng được nữa thì mình lượm về, giặt chút đi rồi kết lại cho được thành một cái y thì đúng nghĩa của phấn tảo, của người ta bỏ. Thì trong sự tu hành nó phải đúng nghĩa của nó, chứ nếu mà không đúng nghĩa của nó, thì mình thành hình thức mất đi. Nên ở đây, Thầy nói, hiện giờ phật tử cúng gì mình có mình xài thôi. Chứ mình hổng ham thêm nữa, miễn là cái y mình đắp lành lặn thôi. Đừng nghĩ phải là miếng lớn, miếng nhỏ này khác. Thì cái đó nó thuộc về hình thức, vì bây giờ mình đâu có kiếm vải thây ma được mà gọi là phấn tảo. Mình đi nhiều thùng rác bây giờ chưa chắc đã có rác, người ta chùi đít con người ta cũng đâu lấy giẻ đâu, người ta cũng lấy giấy rồi. Thành ra cũng khó tìm những cái vải bỏ lắm, hầu như là khó tìm cái vải người ta bỏ.
Xin quí thầy nghe một vị luật sư, Thánh Nghiêm giới thiệu cho chúng ta biết cái người xuất gia nó như thế nào. Những người xuất gia của Phật giáo mỗi ngày càng đông, thể chất người xuất gia, có người thì tráng kiện, có người thì yếu đuối. Đặc tánh của người xuất gia có người thì can đảm, có người thì sống đạm bạc, cũng có người thì không chịu nổi phong sương, dãi dầu. Có người còn mang tạp khí tham cũng rất nặng, có người thì không xúc tích của cải nhiều, có người thì xúc tích của cải nhiều. Đó là luật sư Thánh Nghiêm có giới thiệu, so sánh cho chúng ta thấy, cái giới xuất gia của chúng ta hiện giờ, thì có người dãi gió phong sương thì được, có người thì chịu không được. Có người thì tâm tham vẫn còn, tạp khí tham vẫn còn, trong giới tu hành có người thánh thiện, có người yếu đuối… Chúng ta phải thấy rõ.
Đây là lối luận của luật sư. Thầy xin xác định lập trình của tu sĩ đạo Phật. Nếu tu được thì lập hạnh thiểu dục tri túc. Nếu tu không được thì đừng có đổ thừa thể chất này hay thể chất khác. Nghĩa là mình đổ thừa như luật sư Thánh Nghiêm thể chất của chúng ta như thế này thế khác, cho nên lần lượt rồi chúng ta phải tu tập bỏ cái này, bỏ cái khác. Lần lượt nghĩa là mình cũng xuất gia, thọ giới sadi, tâm tham còn, mình còn giữ chút ít tiền, đừng có giữ nhiều có cất mà cả triệu bạc, chỉ cần có vài trăm thôi, để cho có hữu sự, đi xe thì nó có. Bởi vì cái tạp khí của mình nó tham, thì mình còn cất giữ chút ít. Còn cái người yếu đuối, nay đau mai ốm, thôi thì giữ chút chút đi, để rồi đau ốm rồi hỏi xin ông thầy trụ trì lúc đó ông không có làm sao ông cung cấp cho mình được, nằm chịu đau sao nổi. Có người thích đạm bạc, có người không thích đạm bạc. Người đạm bạc, người ta thiểu dục thì nó cũng đỡ, người ta nằm cái giường không cũng được. Còn mình nằm cái giường không nghe nó lạnh quá, hổng được. Cho nên thôi cho ông này trải tấm ga hay gì đó chút. Hoặc là ông này hơi ốm, xương cấn, ông nằm cái giường không nghe nó hơi cấn thôi cũng cho ông miếng mút để cho ổng nằm êm. Đó là những cái mà luật sư Thánh Nghiêm cho chúng ta biết, mặc dù ổng không có nói ra, nhưng mà thầy hiểu ý của ông, giờ giới tu sĩ của mình có những loại như vậy đó, mình phải nới một chút để họ tu được. Nhưng mà sự thật ra, những người mà tu như vậy khó mà đi đến con đường giải thoát lắm, khó lắm. Bởi vì nếu mà tu được, lập hạnh thiểu dục tri túc, còn không thà chết. Bây giờ nằm lạnh cấn thì cấn chứ không có thêm cái gì ở trên mặt giường hết.
Đó là chúng ta mới có sự quyết định, đi tìm cái chết để mà tìm cái sống, để mà giải thoát cái cuộc đời của chúng ta. Nếu tu không được thì đừng có đổ thừa thể chất thế này thế khác, đổ thừa không chịu nổi cái phong sương, đổ thừa tạp khí nặng. Những lối lí luận này là khéo che đậy để phá giới luật của Phật mà thôi. Bởi vì hầu hết người ta chỉ nhìn vào một số tu sĩ mà thôi, ví dụ 100 người mà toàn sống đúng cái giới hạnh của Sadi, người ta quá kính trọng. Mà 100 người, có 3 người sống đúng, cả lố người không sống đúng, thử hỏi người ta nhìn cái số tu sĩ này ra làm sao. Đó là cái mà mình cứ bào chữa, bào chữa cho số này thọ Sadi hết. Mà cuối cùng, Sadi này là Sadi của thế gian chứ không phải Sadi xuất thế gian.
Cho nên mà nói Sadi thế gian thì tốt hơn là làm cư sĩ đi, tập luyện cho nó được rồi mới vô. Còn tập luyện không có được mà cũng vô làm tu sĩ nữa thì thôi. Cái tu sĩ này chắc là làm hư hại Phật pháp hết. Cho nên theo thầy nghĩ, quí vị còn sợ phong sương, chịu hổng nổi. Còn những cái tạp khí mà bỏ tiền hổng được, phải bỏ túi chút ít. Thì quí vị cứ ở trong cái lộ trình của người cư sĩ đi, chừng nào mình thấy bỏ được mình mới bước vô, còn chưa bỏ được thì thôi. Chớ đừng có bước vô, mà người ta nhìn quí vị, người ta chê cười Phật pháp.
Đó là cái lý mà Thầy bàn ở trên cái giới của luật sư Thanh Nghiêm để mà giảm bớt cái giới luật, để làm cho nó nhẹ bớt. Một số tu sĩ mà tu như vậy, không lấy chỗ đó làm phiền hà. Nhưng riêng Thầy thì không được, đó là làm hư Phật pháp đi. Nhìn vô 1 số tu sĩ, 100 người, mà có 2,3 người giữ đúng giới thì người ta vẫn chê cả đám với nhau hết. Hoặc là thầy nói cho 50 người giữ giới, 50 người mà không giữ giới nghiêm túc vậy, thì người ta cho đó là hư hết, chứ người ta có khen được đâu, bởi vì có người vầy, kẻ khác là người ta đã thấy rồi.
Những hạng người này, có xuất gia mà cứ phạm giới thì tu hành tới đâu, tu mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời. Bởi vì đời người ta cất giữ tiền bạc rất nhiều, thậm chí người ta còn gửi ngân hàng, đó là đời thật đời đi. Còn bây giờ, mình cất  giữ chi nhiều chỉ 5, 3 chục ở trong túi chi cho mắc công, nhiều khi đi giặt quần áo quên đi, vò nó nát. Tốt hơn đừng có cất thì đâu có vò nát. Cho nên không có thấy cái điều đó.
Thường đừng nên, đứng ở vị trí này, đứng ở vị trí của người cư sĩ mà  trông vào vị trí người tu sĩ, nghĩa là chúng ta đứng ở vị trí người cư sĩ là chúng ta chưa có xả bỏ, mà chúng ta cứ ham vào để đứng ở vị trí người tu sĩ thì không có được. Phật giáo như vậy là không có chấp nhận.
Vào tu mà sợ ăn ngày một bữa, sợ ngủ ít, sợ không được nói chuyện, sợ nắng, sợ mưa, sợ không được tiêu tiền, sợ mất hết tài sản, của cải, sợ xa nhà, xa vợ, xa con, sợ xa cha, xa mẹ. Thì cái tu hành mà sợ như vậy nó chẳng đi đến đâu. Nếu ai tu hành mà sợ những loại này thì như vậy thì xin lột áo tu sĩ trả lại cho Phật giáo đi. Để cho đạo của Phật nó được thanh tịnh, trong sạch. Nó phải thực hiện cái hạnh tri túc thiểu dục, chứ còn mình tu như vậy làm cho người ta thấy cái đạo Phật nó chẳng ra gì hết. Cho nên mình có sợ thì thôi mình đứng trong vị trí của người cư sĩ. Còn mình thấy rằng mình không có sợ những cái loại này thì mình hãy vào tu, mà mình giữ đúng cái hạnh thiểu dục tri túc, xứng đáng là người tu sĩ, buông xả, giải thoát dòng thế tục mới đáng là đệ tử của Phật.
Đây quí thầy nghe tiếp, một sự bào chữa cho tu sĩ phạm giới hiện tiền trong cái thế gian này, do đó đức Phật vì nhu yếu dần dần cho phép chúng tăng có chùa chiền, có tịnh xá, có tăng phòng, có xúc tích đồ cần dùng cho cuộc sống cũng như khai mở ra cho phép được tiếp nhận của cải tiền bạc. Cái câu này là sư Thánh Nghiêm nêu lên cho chúng ta thấy giới bổn của đức Phật có những câu như vậy đó. Cho nên Thầy đóng lại những câu này ở trong những cái giới bổn mà sư Thánh Nghiêm đã trích ra.
Vì đức Phật đã thấy dần dần cái pháp tu xuất gia nó khó khăn quá, nhất là cái giới sadi đó, dầm sương chang nắng khổ sở, cho phép chúng ta được ở chùa chiền, tịnh xá, tăng phòng, cho nó khang trang, xúc tích đồ đạc, tiền bạc cho nó có ở trong chùa, dần dần cho tiếp nhận tiền bạc, của cải nữa. Cái điều này thật ra là cái lời nói phá giới rất là phạm. Ông Phật đã dạy mình là ông thầy rất thanh tịnh, mà giới luật thêm như vậy, coi bộ ông thầy này bớt thanh tịnh rồi, có nhà có cửa có tăng phòng, rồi xúc tích đồ đạc, của cải, rồi cuối cùng ông Phật cho tiếp nhận tiền bạc nữa thì ông thầy giới luật chấp nhận cho như vậy rồi, thì bây giờ tu sĩ của chúng ta thiệt là giống y vậy hết, nó không khác. Ông Phật nói cái làm liền. Nói bảo nó giữ gìn thập giới Sadi, thì nó còn lâu, mà nói như vầy thì mau đó mau đó, nó cất chùa liền, cất tịnh xá liền, xúc tích đồ vật đầy đủ ở trong chùa hết liền. Và đồng thời nó tiếp nhận tiền bạc, không phải tiếp nhận ít mà nhiều. Đó là cái hiện tượng mà chúng ta đã thấy được cái giới luật của Phật, cái lời mà ghi như thế này. Cho nên bây giờ người ta dựa vào  cái này người ta nói người ta không có sai, người ta làm đúng là vì Phật đã dạy mà.
Cái câu kinh này dạy rõ ràng, trong giới luật của Phật có chế ra như vậy, bảo chúng ta vì có những cái cần dùng, vì dầm sương dãi nắng cho nên nó có sự khó khăn, từ đây đến đó dễ sinh bệnh sinh tật, cho nên cho phép chúng tăng có chùa có tịnh xá, có đồ đạc. Rồi khai mở cho phép tu sĩ được nhận tiền bạc. Thì như vậy là nó tiêu tùng giới luật hết rồi. Tức là bây giờ thập giới Sadi bảo không cất giữ tiền bạc, không có đồ đạc châu báu, không có chùa to tháp lớn, thế mà bây giờ vẫn là cho phép được. Thì như vậy chúng ta thấy ông Phật này ổng xây dựng ông thầy cho chúng ta mà bây giờ ổng sửa sao mà thầy, thấy từ hai chân ổng còn có một chân à. Thử hỏi ông thầy giới luật này ông đứng sao mà vững. Chắc chắn là ổng phải té.
Giọng luận điệu, già hàm, lẻo mép. Tự đặt ra những lời nói này mà dám bảo là Phật nói. Bởi vì ông thầy giới luật là ông thầy thanh tịnh, thì thêm bớt như vậy là một cái điều rất tội lỗi của đạo Phật. Bởi vì có cái hạnh nào mà chúng ta suy nghĩ ly dục ly bất thiện pháp, có cái hạnh nào mà hơn là giới luật của Phật, mục đích để làm chủ sanh tử là phải ly dục ly bất thiện pháp chớ, đó là một cái thiền định mà chúng ta cần phải đạt được. Thế mà qua những giới luật của Phật là mục đích giúp cho chúng ta không phải là cái hình thức, không phải vì giới luật mà giải thoát mà vì ly dục ly bất thiện pháp. Cho nên giới luật giúp chúng ta ly được cái đó để chúng ta đạt được cái sự giải thoát. Mà bây giờ chế ra như vầy, chúng ta làm sao ly, ly gì, ông này ổng có cái chùa rồi làm sao ông ly được. Tối ngày ông lo ông quét chùa rồi, thành ra ông làm nô lệ cho cái chùa rồi. Rồi bây giờ ổng lại có tiền bạc của cải rồi sợ ăn trộm, ăn cắp vô lấy mấy cái máy của ông làm sao, cho nên ông ngủ cứ chập chờn chập chờn, hổng dám ngủ. Như vậy ông có giải thoát được đâu. Rồi bây giờ ông có tiền bạc nữa, ông gởi ngân hàng, rồi ông lo ngân hàng không biết nó có sập tiệm không. Đó những nỗi lo của những người tu sĩ kiểu đó thì Thầy thấy, bị trói hết rồi. Vì vậy chúng ta thấy nỗi khổ, người ta phá giới bằng những câu nói đó thì ông này ông có ly được không, ông ly không được thì có tu ngàn đời của ông cũng có nhập được Sơ thiền không, mà không nhập được Sơ thiền làm sao ông nhập được Tứ thiền. Đó, mục đích chính của đức Phật là nhắm vào cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp, mà trong khi đó chúng ta sống cái đời sống không ly thì làm sao mà chúng ta ly được. Cũng như giờ chúng ta ăn một ngày ba bữa, thì chúng ta đâu có ly được. Mà ăn còn biết ngon thì chúng ta cũng chưa có ly được, mặc dù chúng ta ăn một bữa, chúng ta còn thấy muốn ăn ngon là chúng ta cũng chưa có ly được đâu. Ly dục nó phải hiểu được cái dục, còn mình thích ăn ngon là còn dục rồi. Phải hiểu như vậy, mục đích của Phật dạy chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp và ác pháp thế mà chúng ta không làm được, không sống được, chúng ta lại chế ra như vầy, chúng ta thấy làm sao đúng giới luật của Phật được. Cái chỗ đó làm sao chỗ ly, chỗ đó là cái chỗ lìa. Họ tưởng chế như vậy rồi sống rồi giữ gìn giới luật, đâu có được. Ly là ly mà hổng ly là thôi chứ, làm sao mà được cái này. Có hiểu như vậy thì quí thầy mới thấy cái luận điệu già hàm lẻo mép của cái người sau, họ mới đặt ra, họ mới nói là Phật nói. Vì Thầy xét hết tạng kinh, Thầy đọc hết tạng kinh không thấy Phật có nói câu nói này, mà sao ở trong giới bổn lại có lòi câu nói này. Đặc biệt, kì cục vậy.
Có lẽ là khi mà phân chia hai cái bộ phái thì chắc chắn là mấy ông muốn cất giữ tiền, cất giữ của cải tài sản gì đó, hoặc là đi lang thang cũng cực khổ, dầm sương chang nắng. Thôi mấy ông cũng chế ra có chùa có tịnh xá này kia mình ở một chỗ cho yên, để khỏi phong sương, dãi nắng dầm mưa. Cho nên các ông đặt ra cái này gán cho ông Phật.  Thì các thầy thấy người sau họ cũng khôn ngoan khéo léo mà gán cho Phật đủ mọi cái điều. Thành ra ông Phật mình mâu thuẫn quá, trước thì nói như vầy, sau thì nói khác, thành ra không có làm sao mà tin được.
Bây giờ thời đại hiện tại của chúng ta lại có thêm biết bao nhiêu là giới sư, luật sư. Nói cái kiểu như vậy thì rất nhiều, họ luận cái kiểu như vậy thì rất nhiều. Chớ không phải chỉ một cái ông luật sư đó nói như vầy đâu, đây là ông Thánh Nghiêm ông nói cho chúng ta thấy, những cái bộ luật mà đã có những cái câu nói như vậy, để chúng ta biết rằng nó đúng hay là sai. Mà trong những cái bộ giới luật, bao nhiêu là luận sư, người ta luận kiểu này, kiểu nọ để mà phá giới rất nhiều chứ không phải không có.
Thì lúc bấy giờ mà luận như vậy chúng ta mới nghĩ rằng, hiểu  biết đúng là ly dục ly bất thiện pháp, nó phải nương vào giới luật đúng mới có ly được. Mà cái giới luật mà sai thì không thể nào ly được. Vì vậy, khi mà Phật pháp có những cái luận đó nó xen vô thì Phật pháp còn gì không, không còn gì hết. Chỉ là những người chạy theo danh lợi, sắc, thực, thùy đặt điều cho Phật nói, Phật cho phép. Những cái luật sư sau này, họ không căn cứ vào giới kinh mà căn cứ vào giới bổn, thấy ghi những cái lời của Phật nói, cho phép như vầy như vầy, là họ tin theo thôi. Bởi vì, luật sư họ đâu có hiểu, giới kinh là phương pháp tu, họ đâu có ở trên giới hành mà họ hành, họ chưa chứng đạt. Họ chỉ ở trên giới bổn mà nghiên cứu, do đó, họ dựa trên những bản kinh giới họ cho đó là đúng, không dám nghĩ đó là sai. Bởi vì Phật cho phép mà, đâu dám nghĩ sai được. Mà cứ dựa vào giới bổn. Giới bổn đâu phải là chỗ tin cậy được của chúng ta, xin quí vị phải sáng suốt, nhận xét cho phân minh, đừng dựa vào người xưa cho là đúng, rồi theo đó mà luận thì sẽ sai hết.
Đạo Phật vốn đem lại sự giải thoát chân thật cho mọi người, chỉ có mục đích là buông xả, ly dục ly ác pháp, mà không xả lại còn xúc tích thêm thì thử hỏi có đúng đường lối tu hành giải thoát của đạo Phật không. Đây quí thầy nghe một đoạn kinh giới của các giới sư. Nhân vì tiền tệ là tài sản vật chất của nền văn minh nhân loại. Nó có thể làm môi giới cho …



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét