Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 19

CÂU CHUYỆN CÁC BẬC THÁNH TĂNG, THÁNH NI
GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu như là muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà muốn cửa, muốn chùa to, tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh làm ông này, ông kia đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác chứ không phải như vậy, muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi người đều thực hiện những cái thiện pháp để đem lại những cái quả lành cho mọi con người để được an lành trong cuộc sống. Đó là cái muốn của những bậc mà người ta có Trí tuệ, có Giới tuệ. Còn những bậc mà chưa có Giới tuệ, họ còn muốn danh, muốn lợi của thế gian, họ còn muốn tiền tài của báu, họ còn muốn chùa to, tháp lớn hoặc còn muốn đồ chúng, họ còn muốn bành trướng chỗ này đến chỗ kia để gây cơ sở bằng cách này, bằng cách khác. Đó là cái muốn của họ đó. Đó là cái muốn của thế gian!
***
CHUYỆN NGÀI UTTARA
Bây giờ Thầy thuật lại cho quý thầy thấy một vị nữa: Ngài Uttara, Ngài sanh ở thành Vương Xá, Ngài thông minh và thông suốt ba bộ kinh Vệ Đà. Ngài có danh tiếng tốt, Ngài có đức hạnh và dung sắc đẹp đẽ. Ngài được một vị Bộ trưởng ở thành Ma Kiệt Đà gả con gái cho Ngài, nhưng Ngài từ chối và xuất gia với ông Xá Lợi Phất nên Ngài thường làm bổn phận của một chú Sa Di hầu thầy. Một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất bị bệnh, Ngài phải ôm bình bát ra bờ hồ lấy nước cho ông Xá Lợi Phất. Khi lấy nước xong, Ngài để bình bát ở trên bờ rồi lội xuống hồ để tắm, cùng lúc ấy có một tên trộm bị lính đuổi chạy ra khỏi thành. Khi chạy ngang qua bình bát của Ngài đang để trên bờ sông, gã ăn trộm liền quăng của báu đánh cắp vào bát của Ngài. Các người lính đuổi theo thấy trong bình bát của Ngài có của báu ăn cắp nên bắt Ngài về đưa cho Bộ trưởng đó (Vassakàra đó, là cái người muốn gả con cho ông ta đó, mà ông từ chối ông đi tu đó) để trừng trị. Nghĩa là bây giờ bắt ông đem về trừng trị do cái tội ông ăn cắp.
Ngài bị hành hạ đến chết đi, sống lại. Bậc Đạo sư liền đến khuyên Ngài : “Đây là kết quả của nghiệp đời trước của ngươi, ngươi cần phải chấp nhận và nhờ sức mạnh tư duy khổ thọ, tu tập Định vô lậu thì mới thoát khỏi nghiệp khổ này”. Bậc Đạo sư nói xong, đặt tay nhẹ lên đầu ông. Trong lúc đó ông bị cột trói ở trong một cái trụ cột rất là to và đồng thời thì đức Phật hiện đến và khuyên ông nên lấy cái Định vô lậu đó mà thực hiện cái khổ thọ, lấy cái đề mục khổ thọ mà đặt ra trước mặt để mà thực hiện cái Định vô lậu. Khi nói xong, thì đức Phật xoa đầu ông một cái rồi đức Phật biến mất. Nhờ thế mà tâm tư ông phấn khởi, đặt niệm quán xét thọ khổ, cuối cùng đoạn tận các uế nhiễm và lậu hoặc, chứng sáu thắng trí, chứng quả A La Hán. Lúc bấy giờ ông đang bị cột trói trong một trụ cột rất to. Khi chứng quả xong, ông dùng Giới tuệ Thần túc thông, vươn mình lên khỏi trụ cột, Ngài đứng trên hư không và hiện thần thông. Vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác, Ngài không làm hại một người nào hết. Nghĩa là ông bị hành hạ đến cái mức độ mà tàn nhẫn sức không chịu đựng nổi. Bởi vì cái thù hận của cái ông bộ trưởng này đó là vì gả con cho ông mà ông không có nhận, cho nên khi mà bắt ông là ăn trộm rồi thì ông này hành hạ rất là độc. Do đó khi ông đã thực hiện được, nhưng cái lòng từ mẫn của ông, ông không bao giờ hại những cái kẻ mà đã làm hại ông. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương trên thân Ngài đã bị tra tấn quá tàn ác đều được lành hẳn. Nghĩa là lúc bấy giờ ông dùng thần thông thì các vết thương ở trong thân của ông nó đều lành hết, nó không còn bầm xanh, hoặc là còn đổ máu hoặc còn  rỉ máu hoặc còn mủ máu nữa.
Có người hỏi Ngài, “Trong cảnh đau khổ ấy, làm sao Ngài còn bình tĩnh mà tu tập được?”. Ngài trả lời: “Tôi nhờ bậc Đạo sư nhắc nhở và an ủi, khi tôi thấy rõ sự đau khổ là nhân quả kiếp trước tái sanh của tôi và tánh nhân duyên sanh của sự vật và sự nguy hiểm của sự đau khổ trước kia nhiều hơn hiện tại. Vì thế tôi không còn dao động, tôi phát triển Thiền quán Vô lậu và chứng được kết quả. Sau khi chứng quả, tôi có làm bài kệ”.
Ở đây, cái chỗ này thì quý thầy phải hiểu, ông thấy rõ, khi mà được đức Phật nhắc ông thì ông thấy rõ cái nhân quả cái kiếp trước ông, ông đã tạo cho người ta khổ còn gấp mấy lần trong hiện tại ông đã chịu khổ. Ông ấy đã thấy được cái điều đó, cho nên ông nhận kiếp trước mình đã làm cho người ta khổ biết bao nhiêu, thì bây giờ cái chuyện hiện tại ông, cái khổ mà hiện bây giờ bị hành hạ như vậy nó không có khổ nhiều đâu. Vì thế mà tâm ông không còn dao động nữa, ông đã hiểu được như vậy, tức là đã hiểu được cái nhân quả chứ gì, cho nên tâm ông không sợ hãi, không dao động nữa, từ đó mà ông yên tâm, ông phát triển. Đang bị cột trói như vậy mà ông vẫn an nhiên mà phát triển cái con đường thiền quán của ông, cuối cùng ông thành quả. Cho nên ông viết cái bài kệ để cho chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm mà tu tập.
“Không có gì có mặt
Lại thường còn mãi mãi
Không có các hành gì
Lại thường hằng, thường trú
Các uẩn được khởi lên”
Đó là cái pháp hướng, cái đề mục của ông mà ông đã đặt thành một cái niệm tu cái Định vô lậu mà qua cái bài kệ này ông lấy ra.
“Đến đời khác diệt vong
Biết được nguy hiểm này
Tôi chấm dứt sanh hữu
Từ bỏ tất cả dục
Tôi chứng lậu hoặc tận”
Nghĩa là ở đây Thầy giải thích từng câu kệ cho quý thầy thấy rõ. Khi mà quán vô thường mà đặt cái niệm khổ, niệm thọ khổ này, ông thấy lúc có đau, lúc không đau, cho nên ông thấy “không có gì có mặt”. Nghĩa là trong thế gian này không có một cái gì mà có mặt hết. “Lại thường còn mãi mãi”, nghĩa là vật này có thì nó không có kéo dài được trường tồn, cũng như bây giờ chúng ta có, chưa chắc đã là nó mãi mãi được, nó sẽ bị hoại diệt đi. Đó là cái sức quán của ông, thấy nó vô thường như vậy đó. “Không có các hành gì” tức là cái hành động nào, “Lại thường hằng, thường trú”, nghĩa là không có hành động nào mà nó thường hoài được, mà không có cái pháp gì mà trong thế gian này mà thường trú được, nó luôn luôn nó thay đổi và hoại diệt. Đó là ông thấy các pháp vô thường đó!
“Các uẩn được sanh khởi”, tức là năm cái uẩn của chúng ta nó sanh khởi thì nó lên nó thành cái thân, mà nó không có sanh khởi thì nó hoại diệt, thì nó đâu có cái thân. “Đến đời khác diệt vong”, nghĩa bây giờ hiện đời này thì nó hợp nhau nó sanh khởi thì nó có mình, mà đến đời khác thì nó mất đi. Cho nên đến đời khác thì nó diệt vong mất, nó đâu còn nữa. “Biết được nguy hiểm này”, nghĩa là thấy sự sanh khởi, sự vô thường, sự vô ngã của nó, sự thọ khổ của nó như vậy thì biết nó là cái sự nguy hiểm, rất là nguy hiểm. “Tôi chấm dứt sanh hữu”, sanh hữu là cái gì các thầy biết không? Sanh hữu tức là những cái dây mà trói buộc như nhà cửa, của cải, tài sản, anh em, cha mẹ ruột thịt, dòng họ, tất cả những vật nhỏ, vật lớn, đó gọi là sanh hữu. Cho nên, ông nghĩ rồi bắt đầu ông buông hết, không có còn gì trong tôi nữa hết, nghĩa là tôi phải buông sạch, thì buông sạch như vậy là còn ba y, một bát chứ gì? Từ lâu tới giờ ông đi theo, ông thọ theo làm Sa Di, theo hầu với ông Xá Lợi Phất nhưng ông có hết sanh hữu không? Còn sanh hữu chứ, chứ chưa phải hết. Cho nên, tới bây giờ ông mới quán được cái sanh hữu, ông mới diệt sạch nó, dứt sạch nó.
“Từ bỏ tất cả dục”, tất cả lòng ham muốn ông cũng đều bỏ hết xuống, không có ham muốn nữa. Mà dứt bỏ sanh hữu tức là dứt bỏ dục, bởi vì không có vật để mà dục nữa thì sao mà có dục? Cho nên ông không còn vật gì để mà ham muốn nữa. “Tôi chứng lậu hoặc tận”, nghĩa là lậu hoặc ông quét sạch rồi, không còn nữa, cho nên Định Vô lậu ông đã thành tựu, từ đó nó thực hiện được Tam minh, tức là có cái Trí tuệ, cái Giới tuệ của ông hẳn hoi.
Đó thì đó là một vị mà đã có thần thông, đã bị cột trói rồi từ cái chỗ mà chứng đạt thì Ngài thực hiện cái Tuệ, cái Giới tuệ vô lậu của Ngài mà Ngài thực hiện được thì Ngài biến ra một con người đứng ở trên hư không, rồi từ đó người ta hoảng sợ, người ta quá là sợ hãi rồi, không còn ai mà có thể hành hạ ông ta được nữa hết, và cuối cùng thì ông không trả thù người nào hết hoàn toàn, người nào đối xử với ông như thế nào ông cũng không có thù nhưng ông chỉ nghĩ rằng mình được giải thoát mà thôi.
Đó hôm nay chúng ta thấy những cái đó là những cái mà chúng ta bước sang qua một cái điều kiện mà chúng ta học về cái Giới tuệ, thì cái Giới tuệ là cái vấn đề mà chúng ta phải có Thiền định. Bởi vì nếu mà không có Thiền định, làm sao mà chúng ta có cái này được? Nếu không có Thiền định thì làm sao chúng ta có được? Có Thiền định là như thế nào? Chúng ta bảo các hành phải ngưng, thì bây giờ trong thân chúng ta các hành ngưng tức là thân định, mà tâm chúng ta nó diệt tầm tứ thì nó là định rồi. Cho nên lúc bấy giờ tâm nó định ở trên thân, mà thân bây giờ định ở trên tâm, cho nên Phật nói khi mà thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta câu hữu Tứ như ý túc, là Dục như ý túc, chúng ta muốn như thế nào là nó sẽ theo như thế nấy. Mà bây giờ cái hơi thở, các hành trong thân của chúng ta mà chúng ta bảo nó ngưng, thì nó ngưng được thì cái lực mà của tinh thần của chúng ta trong cái pháp hướng nó vi diệu đến mức độ nào nó mới ngưng chứ? Còn bây giờ chúng ta tập thở rồi chúng ta ngưng thở, thì cái điều đó không phải là chúng ta dùng cái lực của tinh thần mà chúng ta dùng cơ để nín thở. Dùng cơ nín thở thì chắc chắn là không đạt được kết quả mà phải dùng pháp hướng mới kết quả.
Cho nên Thầy thường nhắc quý thầy, người ta chỉ dùng cái pháp hướng mà người ta tu Định Vô lậu để người ta quét sạch được cái lậu hoặc của người ta thì cái pháp hướng đó nó trở thành hiệu quả mà người ta điều khiển được cái thân nó ngưng hoạt động, chứ không phải là chúng ta ngay đây mà chúng ta tập thở chậm hoặc là thở như thế nào chúng ta cũng có vận dụng cái sự thật chậm của nó thật, nhưng không phải quá sức của nó, quá sức của nó sẽ rối loạn cơ thể và làm chúng ta sẽ trở thành bệnh. Cho nên chúng ta phải hiểu được, còn cái lực mà tinh thần của chúng ta điều khiển nó rất là vi tế, nó ra lệnh, tuần tự nó sẽ chậm, nhẹ dần theo nó mà nó sẽ không bị rối loạn, nó thay đổi toàn bộ cơ thể chúng ta, đến khi nó dừng mà chúng ta không chết.
Quý thầy phải hiểu con đường tu tập theo đạo Phật là như vậy nó mới đúng cách. Cho nên ở đây chúng ta cần làm sao ly dục, ly bất thiện pháp mà thôi, mà ly được rồi thì chừng cái điều khiển này nó không phải khó khăn, bởi vì trong cái thời gian mà ly dục, ly bất thiện pháp đó chúng ta phải tu tập Định vô lậu và Chánh niệm tỉnh thức định cho cái sức tỉnh của chúng ta rất cao độ, để chúng ta phóng ra những cái tri kiến, làm cho cái sự quán xét của tất cả lậu hoặc chúng ta đều bắt được nó, cho nên chúng ta phải quét cho ra khỏi tâm. Mà quét ra khỏi tâm thì tâm chúng ta tịnh rồi, tức là cái pháp mà chúng ta đã dùng pháp hướng để quét tất cả lậu hoặc, nó trở thành một cái tinh thần, cái lực của tinh thần, cho nên gọi là lực định, hay hoặc là cái Định lực.
Trong đạo Phật nó có năm cái lực (Ngũ lực đó) thì: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Huệ lực. Năm cái lực này chúng ta thấy rất rõ ràng nếu mà chúng ta tu tập đúng thì chúng ta có năm cái lực đó. Mà năm cái lực đó thì cái Niệm lực là nơi mà chúng ta tu cái Định vô lậu là nó đã có Niệm lực, mà cái Niệm lực đó thì đó là cái lực tinh thần của chúng ta, nó là cái pháp hướng, cho nên chúng ta ra lệnh thì ngay đó các hành trong thân của chúng ta ngưng, tức là cái Định lực. Do cái Định lực nó đã điều động được cái thân định - rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới dùng cái Huệ lực của chúng ta, do vì vậy mà cái Tam minh, cái Lậu tận minh nó mới thể hiện, nó mới thấy đây là khổ thật, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường diệt khổ, đây là cảnh giới Niết Bàn.
Đó, nó mới thấy thật, mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Còn bây giờ chúng ta hiểu là cái ngộ chứ chưa phải là cái chứng lý. Chờ khi nào mà cái Lậu tận minh nó hiện ra thì cái Trí tuệ của cái Giới tuệ này nó hiện ra thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy nó mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo, nó mới rõ ràng hơn.
Đó thì trên cái bước đường tu tập, thì quý thầy phải thấy, hiểu được những cái sự tu tập của chúng ta nó như thế nào mà đúng, như thế nào sai. Qua cái bài giảng của Thầy rồi thì quý thầy biết, quý thầy tu. Từ lâu tới giờ quý thầy tu sai hay đúng quý thầy biết liền. Còn ngay bây giờ quý thầy mà đi vào từ cái Chánh niệm Tỉnh thức, rồi bắt đầu từ cái Định Vô lậu mà quý thầy tu tập cho đến khi mà quý thầy thấy ly được dục, ly được ác pháp rồi thì quý thầy lấy những cái pháp hướng mà quý thầy đã từng tập luyện đó nó có cái hiệu quả đó, thì ngay đó bây giờ quý thầy chỉ thay đổi, thay đổi Trạch pháp cái câu ra, cái câu này bây giờ phải sử dụng cho nó như thế nào, sử dụng cho nó muốn nhập Nhị thiền thì mình chỉ ra lệnh rằng : “Tầm tứ phải tịnh chỉ, phải ngưng, không có được hoạt động nữa”. Thì ngay đó chúng ta chỉ dùng cái pháp hướng đó, nhắc một lần, hai lần thì ngay đó là Tầm, Tứ chúng ta diệt liền chứ khỏi cần phải mà ức chế nó đâu. Các thầy thấy rất rõ, bây giờ chúng ta muốn sáu cái loại tưởng hay mười tám cái loại tưởng mà để cho nó ly ra thì chúng ta chỉ cần ra lệnh “Mười tám cái loại tưởng phải ra khỏi”, tức là ly hỷ, trú xả đó, thì ngay đó là mười tám cái loại tưởng nó sẽ ra khỏi tâm chúng ta liền tức khắc, từ đó chúng ta sẽ nhập vào Tam thiền, đâu phải là cái khó? Đâu phải còn ma chướng nữa?
Còn chúng ta chưa có cái hiệu quả của cái pháp hướng tức là lực của tinh thần chúng ta chưa có mà chúng ta thực hiện thì chúng ta không bao giờ mà đạt kết quả được hết. Chúng ta phải có một cái sức lực của tinh thần của chúng ta, mà lực tinh thần tức là Niệm lực chứ cái gì? Cái Niệm lực là cái Pháp hướng, câu pháp hướng đó nó trở thành cái Niệm. Nếu mà không có cái câu đó, làm sao gọi là niệm? Chẳng hạn bây giờ chúng ta bảo Tầm - Tứ phải diệt mà không có cái tên Tầm - Tứ thì làm sao gọi là cái niệm? Quý thầy phải hiểu một cái đoạn văn, một cái câu nào đó nó là cái niệm. Mà cái niệm đó để chúng ta ra lệnh, truyền lệnh cho cái hành động của cái đối tượng đó nó phải ngưng, phải dừng, cho nên gọi là cái niệm. Vì vậy mà gọi là Niệm lực. Mà Niệm lực thì quý thầy phải biết nó là Tứ niệm xứ, mà Tứ niệm xứ thì nó ở đâu? Thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta ở trong thân của chúng ta chứ đâu? Đâu phải ngoài thân? Cho nên chúng ta ra lệnh trong thân chúng ta để mà làm chủ. Vì vậy mà học tới Tứ niệm xứ Thầy sẽ giảng cái này rất rõ để cho quý thầy biết để mà sử dụng ở trong Tứ niệm xứ. Nếu mà chúng ta chưa tu Tứ niệm xứ mà vội tu bốn Thiền thì cái chuyện đó hoài công.
Bởi vì Niệm rồi mới tới Định chứ? Chứ đâu lý nào mà Định đi trước Niệm được? Đó thì quý thầy phải biết, chứ không có thể nào mà chưa có Định mà có được cái Trí tuệ Tam minh thì làm sao có, làm sao có Trí tuệ mà thần thông được? Đâu có thể nào có Trí tuệ đó được? Cho nên phải tuần tự mà chúng ta tu tập từng cái bước của mỗi bước đi trên con đường của đạo Phật, xây dựng cho chúng ta từng chút để cho chúng ta không lạc lối.

CHUYỆN NGÀI GANGÀTIRIYA
Bây giờ tới một cái Ngài nữa, Ngài Gangàtiriya, Ngài này thường cái tên quá dài là tại vì cái tên này để mà dịch nghĩa ra là, trước kia thì Ngài không có cái tên, nhưng mà thường Ngài ở bên bờ sông Hằng, Ngài cất cái chòi ở trên đó, mà Ngài theo Phật xuất gia và Ngài ở trên cái bờ sông đó Ngài tu cho nên người ta gọi cái tên đó là cái người sống ở trên bờ sông Hằng. Cái tên của Ngài đó là “Người sống ở trên bờ sông Hằng”, chúng ta dịch ra Việt ngữ là như vậy đó! Còn gọi chung cái tên của Ngài là như vậy! Ngài xuất gia theo Phật tu hành, Ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng nên người ta gọi Ngài là “Người sống trên bờ sông Hằng”. Ngài làm một cái chòi để ở, Ngài nguyện không nói với một ai. Nghĩa là Ngài nguyện suốt cái thời gian tu hành, Ngài ở trên cái bờ sông Hằng đó, không có bao giờ nói với ai một lời nào hết. Suốt một năm, Ngài không thốt ra một lời nói nào. Trong năm thứ hai có một người nữ nhân trong làng thường mang thực phẩm đến cúng dường cho Ngài, muốn biết Ngài có phải là người câm hay không. Bởi vì suốt thời gian cả năm trời, mà không thấy ông này ổng nói một lời nói nào hết, cứ đem sớt bát rồi đi về chứ ông cũng không hỏi gì hết, không có nói chuyện gì hết, mà cũng không xin thêm cái gì hết, cứ cho cái gì thì ăn nấy chứ không hỏi gì hết. Cho nên cái cô này cô ấy không biết ông này ổng câm hay sao mà không nói tiếng nói nào hết, không thấy không nói nào hết, cho nên muốn thử ông ta coi thử coi có nói hay không. Thì đến năm thứ hai, cô mới đem đồ ăn uống đến cúng dường, khi đổ sữa cúng dường, cô làm đổ sữa ra ngoài.
Nghĩa là thay vì cô đổ vào trong bát cho ông ta thì cô lại làm cho nó đổ ra ngoài đi. Thì do đó, Ngài mới nói “Thôi, vừa rồi bà chị”, nghĩa là đổ ra ngoài khiến tràn bát ông, ổng thấy kỳ quá rồi cho nên buộc lòng ông phải nói tiếng nói “Thôi đủ rồi bà chị, đừng đổ nữa!”. Đó, như vậy là bà này biết ông này nói chứ không phải là câm. Các con thấy bà này cũng khéo đấy chứ? Để dò biết mà khiến ông ấy nói “Đổ vừa thôi chứ đổ gì đổ dữ đổ tràn ra mà cứ đổ hoài”. Nhưng đến năm thứ ba thì ông chứng quả A La Hán, nghĩa là khi mà bà ta biết ông nói được rồi thì bà ta cứ đem cơm đến cúng dường cho ông, rồi ông chẳng nói nữa. Suốt năm thứ ba thì ông đã chứng quả A La Hán. Ngài có làm bài kệ tán thán hạnh cũ của mình. Đó, thì các thầy nói là Thầy dạy độc cư mà các thầy mà giữ gìn đúng như vậy để chờ người ta thử như vậy. Bởi thấy nó kỳ lạ quá thì mới thốt ra nói thôi chứ còn cái chuyện mà không kỳ lạ chắc ông này không cạy miệng ổng được đâu! Cho nên ông ấy lập hạnh cũng dữ tợn lắm đó!
“Trên bờ sông Hằng
Dùng ba lá thốt nốt
 Chỉ dùng có ba lá thốt nốt thôi chứ ông ấy cũng không có dùng cái gì hết.
Ta dựng lên cho ta
Một chòi lá nho nhỏ
Bát ta là cái ghè
Dùng cúng sữa người chết
Nghĩa là ông lấy cái bát không phải cái bát như chúng mình đâu, mà là cái ghè người ta để ngoài gò mả để khi mà người ta tảo mộ đó, người ta đổ sữa vô đó để cúng người chết. Ông lấy cái đó ông làm cái bát ông ăn cơm. Các con thấy ghê gớm không? Mình thì chắc không dám đâu!
Bát ta là cái ghè
Dùng cúng sữa người chết
Còn y áo của ta
Lượm chấp từ đống rác
Suốt hai năm sống vậy
Ta chỉ nói một chữ
Nghĩa là chỉ có nói một lời với cô ta đó thôi chứ còn không có nói với ai nữa hết.
Trong khoảng năm thứ ba
Khối si ám tan tành”
Nghĩa là tất cả vô minh đã tiêu sạch hết rồi.
Đó, thì qua cái bài kệ này chúng ta thấy những bậc trong thời đức Phật có những bậc thiệt là vĩ đại thiệt chứ không phải thường đâu! Thậm chí là câm đến nỗi người ta tưởng là ông này câm thiệt, không có nói nên người ta mới thử đó, còn chúng ta chưa có gì hết, chúng ta lia lịa hết, không có còn giữ được cái chuyện gì nữa.
Qua cái hạnh này Thầy mới ghi chép lại cho chúng ta biết rằng những cái sự tu tập của chúng ta nó phải theo những cái gương hạnh. Bởi vì mình quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng mà? Mình phải quy y cho đúng các bậc Thánh Tăng chứ? Chứ không lẽ mình quy y nó không đúng các bậc Thánh Tăng thì mình nương với ai đây? Cho nên mình phải nương các bậc này, vì những bậc này chúng ta thấy tuyệt diệu, quá là tuyệt!
Bây giờ về bên phái nữ thì Thầy cũng khai triển luôn về cái phần nữ để chúng ta có những cái gương hạnh của người nữ, vì chúng ta ở đây, Tu viện chúng ta ở đây cũng có phái nữ, cho nên Thầy cũng khai triển thêm một vài vị tăng, một vài vị ni, Thánh ni.

CÂU CHUYỆN BÀ SHIHA
Bà được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo Phật. Bà tu tập thiền quán nhưng không thể chặn đứng tâm tư chạy theo ngoại vật khả ý. Nghĩa là bà tuy tu vậy nhưng lòng bà cứ luôn luôn chạy theo sự ham muốn ở bên ngoài chứ không có nhiếp tâm được.
Bảy năm bị dày vò, nghĩa là bà tu tập bảy năm như vậy mà cái tâm ham muốn, cái tâm mà còn dính mắc cái này, cái kia của thế gian, còn thương mẹ, thương cha hoặc cái này kia nó vẫn còn hoài, nó không hết mà suốt bảy năm như vậy, làm sao thoát khỏi nếp sống ức nhiễm này? Bà nói cái ức nhiễm tức nó là cái thương, cái ghét, cái này, cái kia, cái nọ, ham muốn cái này cái kia, làm sao mà thoát ra được? Mà ông Phật, ông dạy mình mà tu hoài cũng không được! Nó không xả ra được, nó cứ dính hoài à! Cho nên bảy năm trời bà rất đau khổ! Ta hãy chết là tốt, bà nghĩ rằng mình đi tu như vầy mà cái tâm nó như vầy mà dẹp nó không được thì thôi chết cho rồi đi, để làm gì?
Bà cột một cái dây thòng lọng ở trên nhánh cây, đút cái cổ vào cái dây thòng lọng để thắt cổ chết cho rồi. Trong những giờ phút cuối cùng bà cố gắng triển khai thiền quán. Tức là bà đút cái cổ bà vô trong cái dây thòng lọng nhưng mà bà chưa có dám đạp cái ghế, sợ đạp nó siết họng chết đi. Cho nên lúc bấy giờ bà lúc đó bà chờ nếu mà quán mà nó không trôi được rồi, nó không xa được rồi thì bà đạp cái ghế một cái cho nó siết cái họng bà cho chết cho rồi chứ đừng có để cho nó dính dính ở trong đó nữa. Đó! các thầy thấy cái gương hạnh của người xưa kinh không? Người ta tu mà người ta thấy cái tâm nó không có dẹp được, người ta chỉ còn tìm cái chết. Mà giờ trước khi giờ chết người ta còn đem cái pháp ra để người ta tu hành coi xem cái giờ phút cuối cùng này nó ra hay không, hay nó còn dính nữa? Dính nữa thì ta đạp cái ghế cho mày đứt luôn! Đó, các con thấy cái sự tu hành của cái người xưa sao mà tuyệt quá! Họ không coi cái thân họ ra gì hết mà chỉ coi cái sự giải thoát là hơn hết!
Bà cố gắng triển khai thiền quán, trí tuệ viên mãn, nội tâm thiền quán tràn đầy, bà chứng được quả A La Hán, mở thòng lọng tức là cái dây cột cổ bà đó, bà trở về Tịnh xá. Nghĩa là bà chứng rồi đó, bà trở về Tịnh xá. Chỉ có đút cái cổ vô đó mà bà đã tu chứng, xa lìa được cái tâm thế gian tức là ly dục, ly bất thiện pháp đó. Những cái gương hạnh thiệt là tuyệt vời! Bà sung sướng, phấn khởi nói lên bài kệ:
“Không như lý tác ý
Bị dục tham ám ảnh
Nghĩa là luôn luôn lúc nào bà cũng tu tập theo lời Phật dạy mà bà không có cái Như lý tác ý ra, tức là Ám thị đó! Các thầy thấy bà sơ xuất ở chỗ Ám thị này! Ở trong này bà nói “Không như lý tác ý”, cho nên “Bị dục tham ám ảnh”, cái lòng ham muốn cái này, cái kia nó ám ảnh bà hoài mà không dứt được là do bà không có Như lý tác ý, tức là bà không dùng Pháp hướng. Còn chúng ta bây giờ hằng ngày tâm chúng ta khởi ham muốn cái gì hoặc là khởi có cái gì thì chúng ta dùng Pháp hướng chúng ta đánh bạt nó đi. Thì như vậy là chúng ta Như lý tác ý chứ gì? Còn cái này không, bà không có dùng theo cái lời Phật dạy cho nên bà nói:
Không như lý tác ý
Bị tham dục ám ảnh
 (nó cứ ám ảnh bà hoài à!)
Ta trước bị dao động
Không chế ngự được tâm
Bị phiền não chi phối
Lạc tưởng ngự trị ta
Tâm ta không thăng bằng
Bị tham tâm chi phối
Bảy năm sống ốm yếu
Da vàng, dung sắc xấu
Đêm ngày không an lạc
Ta sống chịu khổ đau
Do vậy ta lấy dây
Đi vào giữa khu rừng
Tốt hơn ta treo cổ
Còn hơn sống hạ liệt
Nghĩa là bà thấy cái tâm mà nó còn thương, còn ghét, còn ham, còn muốn này kia là cuộc sống hạ liệt, đâu phải là cuộc sống mà cao thượng đâu? Cho nên bà biết như vậy mà sao lại ly không được? Do cái chỗ bà không dùng pháp hướng, cho nên khi mà chứng rồi bà mới thấy, cái chính là do không Như lý tác ý, Như lý tác nó nó mới chính là cái chỗ để dẹp, còn bà không có dùng cái đó, cho nên bây giờ bà mới vô đầu bà nói “Không như lý tác ý” cho nên tâm bà bị tham dục, bà nhắc cho chúng ta thấy cái chỗ đó.
Bởi vì qua cái bài kệ này Thầy thấy qua những cái kinh nghiệm mà người ta nếu một người có tu, người ta nghe cái câu đó người ta biết rằng cái bà này thiếu Như lý tác ý tức là pháp ám thị, cho nên bà mới khổ sở bảy năm trời như vậy, cho nên đến chừng mà đút thòng lọng vô trong cổ đến gần chết rồi bà cứ nhắc đi nhắc lại, bà tác ý lia lịa, đến chừng đó bà xả được cái tâm của bà liền. Bà thấy đúng là pháp Như lý tác ý là cái pháp tuyệt diệu nhất chứ không có gì hơn. Đó thì, hôm nay lấy cái bài kệ này thì các thầy đã biết cái pháp nào mà các thầy tu rồi chứ gì? Cái gì mà tâm của quý vị nó khuấy động thì quý vị phải biết nó động tâm vì cái gì chứ gì, mà nó động tâm gì thì ngay ngay ngồi dậy thẳng lưng liền để mà đặt cái niệm đó trước mặt mà lấy cái pháp Như lý tác ý đó mà tát tai cho nó văng ra đi, đừng có để nó ôm ở trong bụng của quý vị thì quý vị sẽ thoát khỏi chứ gì? Cứ như vậy mà tu tập thì vô lậu nó sẽ đến với quý vị chứ có gì khác hơn?
“Còn hơn sống hạ liệt
Làm chắc dây thòng lọng
Ta cột ở cành cây
Quàng thòng lọng quanh cổ
Tâm ta liền giải thoát”
Mau không? Các thầy thấy xỏ cái đầu vào dây rồi bắt đầu ở đó mà quán, mới dùng Như lý tác ý ra, tất cả đều khổ, bây giờ có đứt cổ thì chết cũng là khổ, có nghẹt họng cũng chết cũng là khổ, cho nên vì vậy mà bà quán riết trôi ra hết tất cả, từ đó giải thoát.

Ðó thì, những cái gương hạnh của người tu nó gần gũi với chúng ta quá chừng, mà gần cái pháp mà Thầy dạy cho các thầy quá đỗi. Mà cái người ta không có tu tập mà người ta không có khai triển được cái gương hạnh này ra? Những cái bài kệ bà ta viết rõ ràng, bà ghi lại ở trong kinh rõ ràng như vậy, thế mà không có ai khai triển nổi ra những cái pháp tu hành này! Còn bây giờ, vì cái sự kinh nghiệm tu tập, qua cái pháp hướng mà Thầy biết đó là Ám thị chứ gì? Như lý tác ý chứ gì? Do đó Thầy khai triển ra thì đâu đâu nó cũng giống nhau như là in rập khuôn hết. Cho nên các vị đều là những bậc Thánh tăng, những bậc Thánh ni thời xưa, cũng đều là có những cái tu tập giống như mình không khác, mà người ta đạt được cái kết quả là do cái pháp hướng chứ không phải gì. Bởi vì chúng ta tu tập sai thì nó làm sao mà nó đúng được?

CÂU CHUYỆN BÀ PATACARA
Bây giờ Thầy nhắc đến bà Patacara, bà Patacara này là người ta còn dịch cái tên theo cái âm của người Hoa đó thì bà có gọi là cái tên là Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, mà cái tên này thường thường chúng ta hay nghe bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo. Ở đây, cái câu chuyện của bà thì dài dòng lắm, nó không có ngắn, nhưng mà ở đây thì Thầy tóm lược lại để cho chúng ta biết để mà qua những bài kệ của bà để mà chúng ta lấy kinh nghiệm mà tu tập thôi. Khi bà đến với đức Phật với một tâm trạng đau buồn nhất, hai đứa con đã chết, chồng cũng chết, cha mẹ và đứa em trai cũng chết. Nghĩa là đồng thời trong một cái ngày hôm đó là cả một cái gia đình chết tan nát, chỉ còn một mình bà sống thôi. Đức Thế Tôn dùng kệ khuyên bà:
“Nước bốn biển ít hơn
Nước mắt của loài người”
Đức Phật nói nước bốn biển nó còn ít hơn nước mắt loài người.
“Khóc than vì đau khổ
Vậy sao ngươi hủy hoại”
Nghĩa là bà đang ở trong cảnh đau khổ, hai đứa con chết, chồng chết, rồi cha mẹ, rồi đứa em trai cũng chết, làm sao bà không khổ? Vì vậy mà đức Phật có cái bài kệ để khuyên bà, thì đức Phật ví như nước bốn biển ít hơn nước mắt của bà trong lúc này nữa, nhưng đức Phật có cái ý trách bà sao bà lại quá ngu si vậy, khóc than để mà mình tự giết hại mình, hủy hoại cái sinh mạng của mình sao? Nghe kệ xong, bà nguôi được cơn đau buồn. Bậc Đạo sư lại dạy tiếp :
“Các con, cha, bà con
Không phải chỗ nương tựa
Khi thân hoại, mạng chung
Bà con, huyết thống ngươi
Không thể che chở ngươi
Thấy được sự thật này
Kẻ trí sống giới đức
Và mau chóng thành tựu
Con đường hướng Niết Bàn”
Đó, đức Phật nói là dù mình có thương, có gì đi nữa mà khi thân hoại, mạng chung hoặc mình đau bệnh, mình già chết thì chắc chắn là bà con huyết thống của mình, những người thân, cha mẹ của mình không thay thế mình được cái điều đó đâu! Cho nên cái người trí biết thì phải sống với giới đức, giới hạnh, còn cái người không biết thì không sống với giới đức, giới hạnh thì không có thể nào mà hướng tới con đường mà Niết Bàn được.
“Và mau chóng thành tựu
Con đường hướng Niết Bàn”
Đức Đạo sư lại dạy tiếp:
“Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”
Nghĩa là Ngài khuyên như vậy để rồi Ngài cho một cái đề mục. Ngài khuyên cho bà này và an ủi được bả rồi, bả hiểu được rồi là lấy giới mà sống, khi mà sống được với Giới đức rồi thì cái người đó phải dùng cái Định vô lậu mà quán xét, quán xét cái sự vô thường, cái sự sanh - diệt của các pháp, cho nên cái bài kệ, bốn câu kệ này :
“Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”.
Chúng ta tuy là biết cái thân này nó vô thường, nó sanh - diệt liên tục ở trong này, mà chúng ta biết, hiểu như vậy mà chúng ta không sợ hãi, không có lo lắng tu hành mà cứ sống để cho nó sanh - diệt, sanh - diệt mãi.
Cho nên, coi như là sống dù một trăm tuổi mà không biết nó sinh - diệt, như bây giờ chúng ta là những người chưa biết sinh - diệt, cho nên chúng ta chưa dám ly gia đình, chưa dám bỏ của cải, chưa dám bỏ tài sản. Đó là chúng ta chưa biết pháp sinh diệt, bởi vì tất cả các pháp sinh - diệt nó đều thay đổi liên tục. Bữa nay nó là của mình, ngày mai nó là của người ta chứ còn là của mình nữa sao? Thế mà mình cứ chấp là của mình, mình cứ ôm giữ nó hoài. Cũng như bữa nay là vợ mình, ngày mai biết là vợ ai đây? Cho nên vì vậy mà mình cứ ôm nó là vợ mình không à, mà không ngờ rằng ngày mai mình chết, ngày mốt nó đi lấy thằng khác mất rồi! Mình đâu có biết được chuyện đó, vì nó là pháp sinh - diệt mà? Nó đâu có phải là thường còn được? Cho nên có ông Trang Tử ông ấy vỗ bụng ca đó, khi mà vợ ổng chết ổng đánh trống ổng vỗ: “Vợ chết trước là vợ ổng, vợ chết sau là vợ người ta”.
Rõ ràng là cái lời của ông Trang Tử nói rất đúng về pháp sinh - diệt, cho nên nó đâu có thường hằng được? Mình nghĩ là mình chết chắc vợ mình nó ở vậy nó nuôi con thôi chứ, nhưng mà sự thật ra ba bữa sau nó chờ cho mình chôn xuống mồ rồi, ba bữa sau nó đi theo thằng khác rồi. Cái điều đó là mình không ngờ được cái sự sinh - diệt đó, thế mà mình cứ ôm ấp cho mọi cái là của mình hết. Tiền của bữa nay do mồ hôi, nước mắt mình làm ra, chưa chắc gì mình đã thọ hưởng hết được, tối mình làm ra rồi mình đem cất trong tủ, tối thằng trộm nó vô nó lấy hay hoặc ăn cướp nó vô nó cạy họng, nó đánh mình u đầu, đổ máu rồi lấy ra cũng sạch. Đó là pháp sinh - diệt, nó càng đem cái sự khổ đến cho mình, cho nên ở đây đức Phật nói:
“Tốt hơn sống một ngày
Mà thấy pháp sinh diệt”.
Thấy được pháp sinh - diệt thì người ta vứt bỏ hết chứ người ta đâu có thèm nữa? Nó là rắn độc mà, nó là thú dữ mà, tại sao mình cứ huân vô để mình lấy khổ? Nó không giải thoát được! Cho nên ở đây, khi một người mà đã hiểu được Phật pháp rồi người ta rất sợ các pháp sinh diệt! Mà các pháp sinh diệt là gì? Là xung quanh chúng ta toàn là các pháp, nó luôn luôn sinh - diệt! Cho nên chúng ta phải ra khỏi, ra khỏi cho mau chứ không phải là còn một phút giây nào là đau khổ, cũng như là bây giờ Thầy còn cái thân này nè tức là Thầy còn đau khổ chứ? Bữa nay nó không đau nhưng ngày mai nó đau.
Suốt cái thời gian mà Thầy giảng cho quý thầy, quý thầy thấy Thầy cũng mệt nhọc, cũng khổ sở, cũng đủ thứ hết, cũng nhức đầu, cũng mệt cái này, cũng mệt cái kia chứ đâu phải, đó là cái pháp sinh - diệt mà làm sao mà bảo nó đừng làm cái chuyện đó được? Cho nên bỏ nó là chúng ta khỏe, vì vậy mà bỏ nó tức là Thầy được giải thoát hoàn toàn, cho nên đâu có thiết gì cái thân này mà phải trường thọ làm gì?
Khi nghe kệ xong, bà đặt cái pháp trạch pháp đó, bà lấy các pháp vô thường sinh diệt, bà đặt thành một cái pháp hướng, cho nên từ đó bà quán cái pháp hướng đó mà bà tu tập cái Định vô lậu, bà chứng được quả A La Hán liền tức khắc. Các thầy thấy chưa, nội cái ông Phật, ông cho bốn cái câu kệ này là bà ấy đã biết được đó là cái pháp hướng của bà rồi. Còn chúng ta nghe cái câu kệ này chứ chưa biết đâu, phải không? Nhưng mà Thầy giải thích ra thì quý thầy biết đây là một cái pháp hướng trạch ra cái câu này, tức là ông Phật ông ấy biết không có thế nào mà không dạy cho cái bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này mà hiểu được cái pháp hướng này thì chắc là không hết cái lậu hoặc của bà ta đâu! Cho nên ông Phật tiếp thêm cho bà cái câu trạch pháp ra, cái câu pháp hướng.
“Người sống một trăm tuổi
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”.
Do đó bà đặt cái câu này ra bà làm cái trạch pháp của bà, thì hằng ngày bà dùng cái đó mà quét sạch cái tâm vô lậu của bà, cho nên bà chứng quả A La Hán. Sau khi bà chứng quả A La Hán rồi thì bà cũng có làm một cái bài kệ nói lên cái chỗ tu tập của mình:
”Với cày, cày ruộng đất
Gieo hạt giống trên đất
Loài người được tài sản
Nuôi dưỡng vợ và con
Sao ta giới đầy đủ
Làm theo Đạo sư dạy
Lại không chứng Niết Bàn?
Không sợ, không dao động
Khi ta đang rửa chân
Làm cho dòng nước chảy
Thấy được nước rửa chân
Từ cao chảy xuống thấp
Nhờ vậy tâm ta được định
Như ngựa hiền khéo luyện”.
Đó, thì khi mà đức Phật khuyên bà để cho bà không có buồn khổ, rồi khuyên bà để bà thấy rằng các pháp thế gian không phải là chỗ nương tựa như cha mẹ, anh em, huyết thống gì đó, không phải là chỗ nương tựa, của cải, tài sản cũng không phải là chỗ nương tựa, nhưng mà bà cứ bà tu hoài mà sao bà thấy rằng giới luật của Phật giảng cho bà như vậy, bà giữ giới luật như vậy. Bởi vì trong cái bài kệ trước thì quý Thầy thấy có cái chỗ “Kẻ trí sống giới đức” đó, cho nên bà giữ gìn giới đức của Phật dạy, cái giới nào bà cũng giữ rất là nghiêm chỉnh, nhưng mà bà thấy sao mình lại không chứng Niết Bàn? Làm theo lời Đạo sư dạy lại không chứng được Niết Bàn, mà tâm thì không sợ, không dao động, không có buồn lo nữa mà sao vẫn không chứng?
Một hôm đó bà được đức Phật cho cái bài kệ tiếp bà cũng chưa hiểu nữa. Cho nên bây giờ hôm đó bà đang rửa chân, bà rửa chân, rồi bà thấy cái dòng nước mà nó chảy xuống, rồi thấy được nước rửa chân từ trên cao mà nó chảy xuống thấp, “Nhờ vậy tâm ta định”, nghĩa là trong lúc đó bà mới nhớ lại câu kệ này, tức là cái dòng nước nó chảy hoài, chảy hoài thì bà nghĩ rằng nó chảy hoài tức là vô thường chứ gì? Đó, thì các pháp sinh - diệt đó nó không còn cái chỗ mà một mực nữa, cho nên từ đó mà bà mới ngộ được bốn cái câu ở bài kệ trên, do đó bà mới đặt nó thành một cái câu thiền quán vô lậu của bà để cho bà quét sạch những lậu hoặc. Nhờ cái thực hiện rửa chân rồi bà, bởi vì đức Phật nói mà bà chưa có hiểu, bà chưa có thấu đạt cái lý đó, từ cái chỗ bà rửa chân, bà thấy nước nó chảy xuống, chảy xuống mà nó không có chảy lại được, do đó bà mới thấy à cái dòng nước là cái dòng các pháp sinh - diệt, cho nên bà ngộ được rồi. Bà ngộ được rồi thì cái tâm bà nó được định tỉnh rồi, được định tỉnh rồi thì bà mới như thế nào để cho tiếp tục trên con đường tu hành của bà.
“Rồi ta cầm cây đèn
Bước vào ngôi Tịnh xá
Nằm trên chiếc giường nhỏ
Ta nhìn, quán ngọn đèn
Rồi ta lấy cây kim nhỏ
Dìm tim đèn xuống dần
Thấy cây đèn Niết Bàn
Tâm ta được giải thoát”.
Như vậy là như thế nào? Bây giờ cái ngọn đèn nó như thế này, đang cháy ngọn lửa đó, bà lấy cái kim bà đè cái tim đèn cứ dần dần xuống thì ngọn lửa cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi cái tim nó bị lún sâu quá và ngọn đèn nó tắt đi, thì bà thấy ngay đó là cái dòng sinh - diệt nó đã hết rồi. Các thầy thấy, đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của người ta, quán xét từng chút để người ta thấy được cái tâm của người ta thay đổi từng chút từng chút ở trong cái sự quán xét của Định vô lậu nó như vậy. Còn mình ngồi quán quán gì thì mình cũng chẳng biết gì hết, còn người ta rất là vi tế ở trên cái sự tu tập của người ta để người ta quán xét được cái chỗ tu tập đó. Đó là những cái bài kệ qua những cái kinh nghiệm tu tập rất là vi tế khi mà chúng ta tu Định vô lậu. Chúng ta phải xét từng chút, nếu chúng ta cứ đặt một cái câu rồi chúng ta quán thường nó thì không có nhằm nhò gì hết.
Cho nên Thầy nói Thầy ngồi ở trên núi, ở trên cái Hòn Sơn đó, Thầy ngồi mà Thầy dùng những cái sự quan sát những loài chúng sanh, Thầy thấy như thế này, thế khác, nó làm cho tâm của Thầy nó mới có khởi lên cái lòng thương yêu đối với chúng sanh sâu sắc. Còn các thầy không chịu ngồi quan sát thì làm sao các thầy có lòng thương yêu đó được? Cho nên, ở đây chúng ta muốn vô lậu thì chúng ta phải quan sát tất cả những sự kiện thay đổi, mà những sự kiện thay đổi đó nó làm cho chúng ta sâu ở trong cái chỗ pháp, cho nên chúng ta mới chứng được cái lý vô thường. Còn các thầy cứ nghe Thầy nói câu nào viết đó, rồi cứ nhai đi nhai lại cũng như nhai bã mía vậy thì thôi thôi nó có vô thường gì được? Các thầy hiểu điều đó không?
Cho nên Thầy mới thấy bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này thiệt là hay à! Cái bài kệ này thật là tuyệt diệu, nó ở trong cái hành động để mà phá vỡ cái lậu hoặc. Nếu mà không đem cái bài kệ này giảng cho quý thầy thì chắc chắn là quý thầy cũng nhai lại bã mía của Thầy thôi chứ không có gì khác hơn, nhai hoài mà lậu hoặc nó vẫn còn, cũng vẫn còn nhớ nhà nhớ cửa, cũng còn nhớ này kia mà nó không hết. Đó, đến đây là chúng ta đã qua những cái gương hạnh của Thánh Tăng và những bậc Thánh ni.
***
GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

Tiếp tục trong cái phần giáo án hôm nay, để bổ túc thêm phần Giới hạnh và Giới đức, quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ ở phần này để biết, mà giữ gìn và trau dồi thân, tâm đầy đủ Giới hạnh và Giới đức, để không còn vi phạm một lỗi lầm nhỏ nhặt nữa, để tâm trọn vẹn lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp thế gian, để tâm sống trong cảnh giới thanh thản, an lạc mà các bậc Thánh đang thọ hưởng, đang sống thầm lặng trong cảnh giới đó, cảnh giới của Giới hạnh và Giới đức đã viên mãn.
Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe những câu hỏi và trả lời, những câu hỏi để truy tìm cái gốc tội lỗi, ngõ hầu để biết rõ dùng Giới hạnh và Giới đức đập tan tành cái gốc khổ của loài người. Nghĩa là chúng ta phải truy tìm ra khi mà học cái Giới đức và Giới hạnh xong thì chúng ta phải truy tìm coi những cái gốc khổ và cái gốc mà làm cho con người đau khổ như thế nào. Mặc dù là trong kinh Phật có nói là do cái lòng ham muốn là đau khổ, nhưng mà chúng ta phải truy tìm cho nó sâu xa hơn nữa, chứ không thể nói đơn giản là do cái lòng ham muốn đó, do cái tâm dục của mình là cái nguyên nhân sanh ra đau khổ, mà nó còn có những cái chi tiết li ti nhỏ mà chúng ta phải thấu đáo. Nếu không có thấu đáo thì chúng ta không có biết đường đâu mà chúng ta dẹp.
Bây giờ, đầu tiên có một câu hỏi và có một sự trả lời để chúng ta theo đó mà chúng ta tìm ra xem cái lối nào mà cái tâm chúng ta nó đi đến cái chỗ tham dục đó?
Tại sao con người lại sanh ra oán thù và đánh đập nhau bằng dao gậy? Đó, vào đầu cái câu hỏi đầu tiên đó, thì chúng ta thấy cái sự đau khổ của con người ở trên thế gian này là cái sự oán thù, cái sự đánh đập nhau bằng dao gậy.
Bắt đầu để trả lời cái câu hỏi đó, sự sanh ra oán thù và đánh đập nhau đều do lòng tham lam và ganh ghét. Do lòng ham muốn, tham lam của mình, tham cái này, tham cái kia và cái sự ganh ghét đó nó mới có cái sự đánh đập nhau, mới có sự thù hằn nhau. Thì chúng ta thấy nếu mà không có lòng tham lam, không có sự ganh ghét thì làm sao đánh đập nhau? Đúng không? Đó là câu trả lời rất đúng! Không thể nào mà chúng ta phủ nhận rằng cái câu trả lời này là sai được.
Lòng tham lam và ganh ghét do đâu mà sinh ra? Người ta lại đặt câu hỏi thêm cho mình thấy, bây giờ mình nói bây giờ có sự đánh đập, cái sự thù hằn nhau là do lòng tham lam và ganh ghét thì ai cũng chấp nhận rồi. Nhưng mà bây giờ người ta hỏi lòng tham lam và ganh ghét này ở đâu mà sanh ra?
Đó, tức là chúng ta phải truy ra thử coi nó ở chỗ nào? Thì đây là câu trả lời Phật đã trả lời trong kinh để chúng ta thấy rất rõ, “Lòng tham lam và ganh ghét là do thương, ghét mà sanh ra”, có thương, có ghét thì mới sanh ra, chứ không phải là ngoài cái thương ghét mà nó có cái lòng tham lam và ganh ghét được.
Thì người ta lại hỏi :  thương, ghét do đâu mà sanh ra?
Trả lời, thương, ghét là do tham dục mà sanh ra. Mình có thương, có ghét là do cái lòng ham muốn của mình mới sinh ra. Bây giờ mình mới thấy cái chỗ dục đó, truy ra từ cái chỗ mà oán thù, đánh đập đến cái chỗ tham dục thì mình mới biết rằng thương, ghét này là nó do cái sự tham dục mà sinh ra. Vậy chúng ta có thương cũng là do tham dục, mà có ghét cũng do tham dục. Mà có thương, có ghét thì nó mới có tham lam và ganh ghét, mà có tham lam và ganh ghét thì nó mới có đánh đập và oán thù. Đó, bây giờ mình đi ngược trở lại thì mình thấy rất rõ.
Rồi bây giờ người ta hỏi : tham dục do đâu mà sinh ra? Đó, từ đó rồi bắt đầu mình mới trở về cái gốc của tham dục đó, tức là Phật nói cái gốc muôn khổ đó. Vậy thì người ta hỏi tham dục do đâu mà sinh ra?
Trả lời, do tưởng mà sinh ra! Mình tưởng chứ nó đâu phải có thật? Mình tưởng ra, mình ham muốn cái gì đó rồi mình tưởng ra chứ đâu phải khi không mà mình có ham muốn cái chỗ đó được? Mình tưởng ra, mình tưởng ra nó đẹp, mình tưởng ra nó xấu, mình tưởng ra thế này, kia. Đó là do tưởng mà sanh ra! Đúng không? Tham dục của mình do tưởng mà sinh ra chứ không có tưởng thì chắc chắn không có. Cho nên cái người mà người ta dẹp cái tưởng rồi thì người ta có tham dục nữa không? Người ta hết tưởng là hết tham dục mà còn tưởng là còn tham dục!
Cho nên chúng ta biết cái người mà tu thiền định là phải dẹp tưởng! Mà dẹp tưởng dần thì sẽ hết tham dục!
Tưởng do đâu mà sinh ra? Người ta hỏi tưởng do đâu mà sinh ra?
Bắt đầu ở đây Phật mới trả lời “Tưởng do điệu hý mà sinh ra”, điệu hý là cái gì? Các thầy có hiểu hai chữ này không? Đó, điệu hý có nghĩa là hý là vui, thích vui, mà điệu hý là cái kiểu cách làm thế này thế kia cho vui đó. Cũng như bây giờ mình thấy người ta đá banh cái mình thấy mình thích tức là mình bị điệu hý đó rồi, bị điệu hý đá banh rồi. Thấy người ta đánh cờ mình nhòm vô mình cũng ngứa nghề vô đánh cờ, thấy người ta bài bạc mình cũng ngứa nghề, thấy người ta uống rượu mình cũng ngứa nghề mình vô gọi là điệu hý! Đó, thấy không, cái đó là nó vui, nó đủ cái màn cách của nó gọi là điệu hý của nó đó! Cái danh từ người ta dùng như vậy, mình hiểu như vậy là nó gợi cho mình những cái vui thích, nó gợi cho mình vui thích. Do cái sự vui thích đó nó mới do cái tưởng và cái tưởng này nó mới sanh ra cái tham dục, nó mới có cái tham dục.
Mình tưởng cái đó là vui, đó cái điệu hý đó, tưởng do điệu hý sinh ra, cho nên do điệu hý với mấy cái chuyện người ta làm đó, nó vui vẻ đó, cho nên mình tưởng nó là vui, cho nên cái tưởng nó mới có sinh ra chứ biết đâu chừng đó là cái chuyện đau khổ của người ta? Cho nên mình tưởng nó là ngon rồi mà không ngờ mình vào đó là thấy mệt. Nhìn mấy thằng đá banh tưởng đâu là ngon lắm chứ nó đá, Thầy thấy nó thở muốn chết nó luôn, đâu có sung sướng gì đâu? Nhiều khi nó đá banh nó té ngã gãy chân, gãy giò nó nữa, coi nó muốn chết chứ đâu có sung sướng gì? Thế mà ở ngoài thì người ta vỗ tay khen, đó là điệu hý đấy! Thầy giải thích như vậy, dùng cái danh từ đó như vậy thì quý thầy chắc hiểu nó rồi!
Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, cho nên Phật cấm mình không có cho vui chơi gì hết ấy, các thầy thấy không? Cho nên vui chơi là nó điệu hý đó, nó sẽ không an trú được đâu!
Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Đó, bây giờ có cái người mà hỏi đức Phật, bây giờ nếu mà nói như vậy thì là do cái này nó tưởng ra nó mới tham dục, bây giờ mình muốn diệt tham dục thì tức là mình phải diệt hết cái điệu hý này đi thì chắc chắn là nó hết chứ gì? Thì hỏi ông Phật và ông Phật nói “Không có trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú cảnh giới tịch diệt”, nghĩa là ở câu này Thầy xin đọc lại để cho nó rõ ràng hơn, nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Hay không trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt được chăng? Nghĩa là hai câu hỏi này nó rất là rõ ràng. Một câu hỏi thứ nhất là nói mình diệt trừ hết điệu hý thì mình có an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Mà hay là không trừ bỏ hết điệu hý này thì mình vẫn có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt chăng?
Bây giờ đức Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú trong cảnh giới tịch diệt thì sao được?”. Phải không? Nghĩa là mình còn vui thì mình làm sao an trú trong cảnh tịch diệt được? Cho nên ông Phật, ông trả lời một câu mà bằng cách là trả lời luôn cả hai câu. “Vì thế gian có nhiều cõi, chúng sanh đều y cứ theo loại cảnh ấy và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, còn ngoài ra là hư dối”. Đó, nghĩa là thế gian thì người ta chấp cứng trong những cái vui đó, cái điệu hý đó, cho nên người ta cho những cái đó là cái vui, cái hạnh phúc của họ. Cho nên ngoài ra thì nó không thật và là hư dối hết, chỉ có những cái đó là cảnh giới của họ, dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi. Cho nên nếu cái người mà muốn mà được ở trong cái cảnh giới mà tịch diệt, an trú ấy thì phải ly trừ hết những cái điệu hý thì nó mới có an trú trong cái cảnh giới đó được! Vì vậy mà đức Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú cảnh giới tịch diệt sao được?”. Đức Phật nói như vậy thì chúng ta biết rõ.
Vậy có bao nhiêu điệu hý?”, có người hỏi đức Phật thêm, có bao nhiêu cái điệu hý đó?
“Có ba điệu hý. Một là về khẩu, hai là về tưởng, ba là về mong cầu”. Quý thầy thấy ông Phật, ông dạy chúng ta từng cái chi tiết nhỏ để chúng ta hiểu biết được, đó là chúng ta phanh ra để chúng ta diệt cái lòng tham dục của chúng ta. Một người mà còn vui theo, thì tức là mình còn thích nói chuyện với nhau là còn vui theo chứ gì? Mà còn vui theo tức là điệu hý rồi! Nghe người ta thuật lại chuyện đông chuyện tây mình cũng khoái lắm chớ. Nghe người ta thuật lại chuyện cổ tích rồi mình cũng nghe cũng thích chứ! Đó thì tức là mình còn đang ở trong cái chỗ điệu hý. Đó là điệu hý về khẩu. Một là hại mình! Cái sự vui chơi đó nó làm cho mình có hại nè. Rồi hai là hại người. Cái chuyện mà vui chơi đó nó có thể làm hại người đó. Cái điệu hý đó nó có tên là (..?.) 52:10, và ba là hại cả hai, nghĩa là hại mình và hại người. Trong cái điệu hý đó nó có xảy ra về khẩu thì một là mình nói ra mà hại mình, hai là mình nói ra hại người, ba là mình nói ra là hại cả hai (cả mình và cả người).
Đó là đức Phật phân tích cho chúng ta thấy là về cái khẩu thì mình có những cái điều kiện đó. Nếu mà xả bỏ lời nói hại mình, hại người, hại cả hai và nói đúng lời, nói chân thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Đó, đức Phật nói mình nói ra cái lời nói gì, miệng của mình mình nói ra lời nói mà hại mình thì không nên nói, đó là điệu hý thứ nhất. Điệu hý thứ hai là nói ra lời nói mà hại người thì không được nói. Mà cái điệu hý thứ ba là nói ra lời nói mà hại mình, hại người thì không được nói. Cho nên mình phải nói như thế nào, nói như thế nào để cho đúng cách. Nói lời nói đúng như thật, không hại mình, không hại người mà không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Vậy thì mình nói lời nói mà không hại ai hết thì cái đó nói sao quý thầy thấy chưa? Là không nói! Phải không? Không nói là độc cư thì nó đâu có hại ai? Cho nên bây giờ nó chuyên niệm chứ gì? Cho nên tâm không tán loạn! Còn mình nói là tán loạn. Rõ ràng thấy không? Đó là mình diệt trừ cái điệu hý thứ nhất về khẩu của mình đó! Có đúng không? Nhờ vậy là chúng ta biết rằng diệt điệu hý tức là chúng ta sẽ diệt lòng tham của mình chứ gì? Đi từ cái gốc nhỏ đó mà chúng ta diệt ra chứ gì? Vậy thì chúng ta sống độc cư, không nói thì tức là không hại mình, không hại người mà không hại ai hết. Do đó là tâm không tán loạn, thành ra vô lậu! Ta thấy chỉ nội cái miệng của mình mà nó đã có được cái vô lậu rồi đó!
Về phần tưởng cũng có ba, tưởng mà hại mình, tưởng hại người và tưởng hại cả hai. Nếu xả bỏ tưởng ấy và dùng tưởng như thật, không bị hại mình, hại người, hại cả hai thì chuyên chú, nhớ mãi không quên, sáng suốt, thành vô lậu. Đó, không tưởng! Các thầy nghĩ đức Phật dạy như vậy thế nào? Nghĩa là ngồi đừng có tưởng tầm bậy! Mà không tưởng tầm bậy thì nó có hại ai đâu? Phải không? Mà không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì lúc bấy giờ có tưởng nữa không? Mà không tưởng thì nó chuyên chú, nhớ mãi cái việc gì thì các con biết không? Đó thì chỉ còn có cái tâm của mình thanh tịnh, yên lặng, thanh thản đó thôi. Cho nên, sáng suốt thành vô lậu! Đúng không? Ông Phật dạy rất đúng! Như vậy là mình phá cái tâm tham dục của mình rất là dễ dàng đâu có gì khó? Biết cách làm như vậy, vì vậy cho nên bây giờ ngồi đừng có tưởng, ngồi đây mà tưởng đến chuyện nhớ nhà thì cái đó là như thế nào? Điệu hý rồi còn gì đâu? Nhớ cái này, nhớ cái kia là điệu hý rồi. Bởi vậy ông Phật ổng dạy để chúng ta biết rất rõ những cái điều kiện để mà chúng ta ngồi một cái tâm niệm của chúng ta chúng ta biết rằng nó thuộc về cái loại nào rồi!
Cho nên ở đây nếu mà Thầy không giảng cái này ra thì Thầy thấy thiệt là cái lời ông Phật dạy chỉ là phí cho ông, ông mệt mỏi quá rồi! Ông giảng ra cho chúng tỳ kheo trong thời đó mà bây giờ người ta chối bỏ cái này, người ta nói cái gì mênh mông ở trên trời ấy mà không dạy cho chúng ta biết từng chút này để mà chúng ta ly để mà chúng ta được cái tâm vô lậu. Mà thấy cái này rồi chúng ta biết cái tâm tư của mình bây giờ nó ở trong tưởng này, tưởng điệu hý này, phải không? Bây giờ miệng mình đang nói cái gì thì mình biết đây là khẩu nè, là điệu hý nè, biết nói như vậy là hại mình, hại người và hại cả hai nữa. Thôi thì im luôn cho rồi! Như vậy là mình ở trong cái chánh niệm của mình. Đó, tức là nó thành vô lậu! Thì cái tưởng nó cũng như vậy cho nên nó cũng thành vô lậu.
Về mong cầu cũng có ba, sự mong cầu của mình mà, mình ngồi mình mong cầu cũng có ba cái điệu hý của nó, hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ sự mong cầu, thấy và mong cầu đúng cho thật, không hại mình, hại người, hại cả hai thì mong cầu đúng như thế sẽ chuyên chú, nhớ mãi không quên thành vô lậu.
Sự mong cầu mà không hại mình, không hại người và không hại cả hai hết thì cái sự mong cầu đó là mong cầu cái gì quý thầy biết hay không? Đó tức là mong cầu sự giải thoát nơi tâm của mình, là không có ai dính mắc vào trong tâm của mình được hết, cho nên nó thành vô lậu. Có gì đâu mà khó khăn khi mà nó mong cầu một cái gì khác hơn thì mình biết liền, mà nó không mong cầu thì tức là nó ở trong thanh thản rồi, nó ở trong cái tâm rất là an ổn rồi thì đó là vô lậu. Tâm niệm của mình chút nào là mình biết nó ở trong cái chỗ nào. Thì như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điệu hý của nó rồi. Như vậy là biết được cái nguồn gốc để mà chúng ta tu về cái Định Vô lậu để cho nó quét sạch vô lậu, để cho nó quét sạch cái tâm tham dục của chúng ta.
“Bậc Thánh hiền xả thân có ba”. Bây giờ cái thân của chúng ta có xả ba cái cách của nó. Bây giờ hồi nãy là chúng ta do cái điệu hý, bây giờ chúng ta lại xả vì cái thân của chúng ta. Một là Hỷ thân, hai là Ưu thân, ba là Xả thân. Bây giờ đến cái giai đoạn của những bậc Thánh hiền tu tập, hồi nãy là những bậc phàm phu đó là chúng ta có những điệu hý, còn giờ là bậc Thánh hiền thì có vui nữa không? Có vui điệu hý như chúng ta này nữa không? Không! Hết rồi! Vậy thì bậc Thánh hiền có xả thân có ba là Hỷ thân, Ưu thân và Xả thân. Trong cái thân của chúng ta coi vậy nó còn có cái Hỷ nè, còn cái Ưu nè, rồi còn cái Xả của nó nữa nè. Bây giờ chúng ta là những bậc Thánh rồi, chúng ta đã xa lìa những cái tham dục của thế gian rồi, bây giờ còn cái phần thân của chúng ta để nó như thế nào đây?
Cho nên bậc Thánh mới có ba phần này! Hỷ thân cũng có ba, hại mình, hại người và hại cả hai. Bởi vì khi mà mình đã đứng vào trong những bậc Thánh hiền rồi thì mình coi chừng cái thân của mình nó cũng có thể làm hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ hỷ ấy, chỉ dùng hỷ đúng như thật, không hại mình, hại người và hại cả hai, nhờ đó chuyên chú mãi không quên, đây là thọ Cụ túc giới. Bây giờ đó mới là một bậc Thánh hiền, mới gọi là thọ Cụ túc giới đây, chứ không phải như hồi nãy là Vô lậu đâu mà đây là thọ Cụ túc giới, nó mới đầy đủ cái giới, đầy đủ của cái vị tu sĩ đây. Nếu mà chúng ta dùng cái hỷ mà cái hỷ đó nó như là chúng ta tu về cái Hỷ vô lượng tâm đó. Cái Hỷ vô lượng tâm đó nó sẽ giúp chúng ta xả được không hại mình, hại người và hại cả hai. Cho nên chúng ta biết cái hỷ đó là hoan hỷ, vui theo với mọi sự, mọi vật. Do đó chúng ta không làm hại người nào hết, không làm khổ ai hết, không làm khổ mình, khổ người nữa.
Do đó mà chúng ta đã thực hiện Tứ vô lượng tâm thì chúng ta thấy cái hỷ này rất là cần thiết cho cái sự tu tập của chúng ta. Do đó thì chúng ta nhớ mãi không quên do cái lòng hỷ này, đó là chúng ta mới thọ Cụ túc giới.
Về Ưu thân cũng có ba, hại mình, hại người và hại cả hai. Chữ Ưu đây là cái sự buồn khổ đó, buồn khổ trong cái thân của mình. Thân mình nhức chỗ này, thân mình đau chỗ kia, lói chỗ nọ đó là sự buồn khổ của cái thân đó. Nếu xả bỏ Ưu thân này, dùng Ưu thân đúng như thật, không hại mình, không hại người và hại cả hai. Đây gọi là thọ Cụ túc giới. Nghĩa là chúng ta dùng cái Ưu thật, nghĩa là đừng có lấy cái đau khổ của mình mà làm cho mình khổ sở đó là cái sai. Mà lấy cái đau khổ phiền toái của chúng sinh mà làm cái chỗ thương xót, thì đó là chúng ta đã thọ Cụ túc giới đó. Như Thầy dạy Từ, Bi, Hỷ, Xả đó, quý thầy tu tập về cái lòng thương yêu của mình đó. Đó là cái chỗ về Ưu thân có ba đó, là không hại mình, hại người và hại cả hai. Tức là thực hiện tâm từ bi của mình đó. Đó gọi là xả về cái Ưu thân của mình. Đây gọi là thọ Cụ túc giới thứ hai.
Về Xả thân cũng có ba. Mình xả, có cái mình xả mà hại người, có cái mình xả hại mình, có cái mình xả hại cả hai. Cho nên mình phải xét cái nào mình xả, mình bỏ ra mà hại người khác. Cũng như bây giờ mình tính thôi bây giờ mình bỏ đi, mình bỏ mình đi tu đi, mình xả bỏ hết của cải, tài sản đi, bỏ luôn cả vợ con đi. Lúc bấy giờ vợ con không ai nuôi, không ai làm cho nó sống hết, nó khổ sở. Đó, mình xả cái kiểu đó là mình xả hại người ta đó, chết đó! Bây giờ con mình mới sanh ra, nó chưa có ai mà chăm sóc, chưa có ai lo lắng mình muốn xả bỏ con đi đi thì lúc bấy giờ ai nuôi nó? Đó là mình xả như vậy là sai! Vì vậy cho nên chúng ta khi mà xả những cái gì mà ở trong thân của chúng ta cũng như xả một cái gì đó thì chúng ta phải sáng suốt, khéo léo. Cũng như bây giờ, cái thân của chúng ta như thế này thôi bây giờ mình chặt cái đầu nó chết đi, nó là vô thường đi, mình xả bỏ nó đi cho nó không khổ nữa. Cái điều đó là mình xả ngu rồi chứ không phải là xả đúng. Cho nên vì cái sự xả đó mà làm khổ mình, hại mình thì cái đó là Phật nói xả kiểu đó là xả thân mà hại mình thì đừng có làm cái chuyện đó. Cho nên có một thời tỳ kheo mà nghe quán thân bất tịnh rồi họ thấy cái thân này ghê gớm quá, họ mướn người khác đâm cho họ chết đi thì một lúc sau đức Phật hay được cấm không có cho làm cái chuyện đó, không phải là cái chỗ như vậy.
Đó thì chúng ta thấy trong cái bước đường, nói về xả thì chúng ta phải sáng suốt xả mà không hại mình, không hại người mà không hại cả hai. Chứ có nhiều người ham tu, xả, bỏ gia đình, bỏ chồng con, trời ơi! Tức tối gần chết, vợ con gì nói nó không biết nghe, nó bỏ nó đi tu thì chắc là ông thầy chùa nào quyến rũ như vậy, tao đốt chùa. Bởi vậy trong cuốn Diệu Thiện đó, mà cô Diệu Thiện, cổ đi tu đó, cha cổ giận quá ổng đốt chùa. Ổng nói ông thầy quyến rũ con ổng, công chúa đi tu ổng giận đốt chùa, cho ớn, cho ghét! Đây gọi là thọ Cụ túc giới.
Về các căn, đầy đủ trong luật nghi của Hiền Thánh có chừng bao nhiêu tâm? Có người hỏi, về các căn mà được đầy đủ trong luật nghi của Thánh hiền có chừng bao nhiêu căn?
Đó, thì đức Phật cũng giải thích cho chúng ta thấy rằng về luật nghi mà đối với các căn của chúng ta được đầy đủ của Thánh hiền, về mắt thấy sắc, ta nói có hai. Nghĩa là đối với mắt ta thấy cái sắc, thấy các pháp đó thì ta thấy phải có hai, để cho cái luật nghi của giới Thánh hiền nó phải như thế nào đúng ở trong cái chỗ căn đó, cho nên đối với mắt thì nó có hai.
Một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận. Đó thì các thầy thấy khi chúng ta thấy một cái vật đó mà chúng ta đáng thân cận, mà khi chúng ta thấy cái vật đó mà chúng ta không đáng thân cận. Thì chúng ta phải thấy khi con mắt thấy cái vật đó mà chúng ta thân cận, mà thấy cái vật đó mà chúng ta không nên thân cận, thì cái này nó là Luật nghi của Phật đó, cái luật nghi của Phật. Mình thấy một cái gì đó mà gợi cái tâm dục của mình lên là không nên đáng thân cận, mà thấy cái đó mà tâm dục của mình không có gợi lên và không có ham thích đó, thì cái đó là đáng thân cận. Cũng như bây giờ các thầy vô đây ăn ngày bữa cơm mà không cho quý thầy ăn phi thời ấy, thì cái đó là quý thầy đáng thân cận. Thấy thực phẩm ở đây mà bắt đầu cho quý thầy không thấy thèm, thấy khát cái gì hết đó, thì đó là đáng thân cận. Mà các thầy thấy còn thèm ăn, còn này kia thì không nên đáng thân cận, vì cái chỗ đó không phải là cái chỗ tu.
Cho đến tai nghe cũng vậy, mà mũi ngửi mùi cũng vậy, lưỡi nếm vị cũng vậy, thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy. Nghĩa là cũng có hai pháp, lúc thì cái mũi ngửi mùi của mình, cái tai nghe tiếng của mình thì cái tiếng nào đáng thân cận, cũng như nghe Thầy thuyết giảng thì các con nghe cái tiếng đó là đáng thân cận. Mà nghe ca, nghe hát, nghe mấy cô đào ở thành phố mà phát đài á, các con mở đài ra nghe ca hát, trời du dương quá! Tám câu vọng cổ, mười câu vọng cổ nghe trữ tình dữ tợn, nghe nó muốn xiều hết á, thì các con nên dẹp những cái thứ đó đi! Cái đó là không có đáng nghe! Cái tiếng đó là không có được nghe!
Còn những cái mùi thơm, mùi này mùi kia, mùi mà làm cho chúng ta gợi lên cái thích ăn, thích mà gần gũi thì những cái mùi đó dẹp đi! Những cái mùi vị của đạo thì nên là gần gũi, còn cái mùi vị mà của thế gian thì không nên gần gũi!
Còn cái lưỡi nếm vị cũng vậy, vị ngon, vị đắng, vị này kia tất cả, xa lìa nó đi, đừng có nếm những cái vị đó nó không có được! Phải nếm cái vị Cam Lồ của cái sự tu hành của chúng ta mà thôi!
Thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy, cho nên nó cũng có hai. Đó là quý thầy nhớ kỹ để mà chúng ta nỗ lực tu hành.
Đó là như thế nào? Mắt thấy sắc mà thiện pháp tổn giảm. Nghĩa là đức Phật nói khi con mắt chúng ta thấy một cái hình ảnh đó mà cái thiện pháp nó bị làm giảm xuống đi mà bất thiện pháp nó tăng trưởng thì không nên thân cận cái đó. Bây giờ các thầy hiểu chưa? Mà bây giờ mắt nó thấy cái sắc đó mà cái thiện pháp nó tăng trưởng. Bây giờ thấy thí dụ như có người ăn mày đi sang đường của mình, đi ngang trước ngõ mình, mình thấy cái người đó đói khổ quá, tội nghiệp, mình lấy gạo mình cho người đó, hay lấy cơm cho người đó, hay lấy thực phẩm cho người đó, hay lấy tiền cho người đó thì cái đó là mình thân cận cái đó!
Còn mình thấy một cái người uống rượu mà mình nhào vô mình uống rượu với họ, thì thôi thôi đừng đừng thấy cái này thì thôi, đó là ác pháp nó tăng trưởng rồi đó, mà thiện pháp nó giảm xuống thì mình tránh xa cái bọn uống rượu đi! Như vậy đó là mình mắt thấy sắc mà thiện pháp nó tổn giảm thì ngay đó là mình lui đi, thấy người ta bài bạc thôi đừng rớ vô vì đó là cái ác pháp rồi. Bất thiện pháp nó sẽ tăng trưởng lên mà thiện pháp nó giảm, vì vậy cho nên mình tránh xa đi!
Mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp tổn giảm thì nên đáng thân cận! Đây là các căn đầy đủ luật nghi Thánh hiền. Đó thì quý thầy thấy chưa? Bởi vì mình muốn cho cái luật nghi của Thánh hiền mình, cái oai nghi, cái tế hạnh của luật của mình được đầy đủ thì mình có con mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình đối với pháp nào mà đáng thân cận và pháp nào không đáng thân cận. Thấy thiện pháp tăng trưởng thì thân cận, còn thấy ác pháp tăng trưởng thì mình không được thân cận. Đó, Phật dạy cho mình từng chút để mình giữ oai nghi, cái luật nghi tế hạnh của mình ở trong những cái chỗ mà mình có thể tiếp xúc chứ đâu phải là đức Phật dạy luật nghi mà không có cái hiểu biết như vậy thì quý thầy sẽ bị phạm hết sao?
Cho nên trong cái dạy về giới luật Thầy dạy rất kỹ về cái vấn đề này để cho quý thầy thấy được cái chỗ tu tập của chúng ta trong cái giới hạnh cho nó nghiêm chỉnh, biết được nó cái nào là đúng, cái nào là sai ở trong cái oai nghi, chánh hạnh của bậc Thánh hiền.
“Có bao nhiêu cứu cánh?”, ở đây có người hỏi đức Phật, “Có bao nhiêu cứu cánh?”.
“Bị ái làm khổ thân, tâm mà diệt được thì là cứu cánh”. Đức Phật trả lời đó! Bị ái, tức là bị thương ghét, bị ham muốn làm khổ thân, tâm của mình mà diệt được cái đó là cứu cánh!
“Vậy thì cứu cánh có bao nhiêu?”.
“Có ba cứu cánh!”. Đó, đức Phật phân tích cho chúng ta thấy nó có ba cứu cánh. Bây giờ chúng ta diệt ái mà nó sạch rồi thì thân, tâm của chúng ta không còn khổ được nữa, thì đó gọi là cứu cánh chứ không phải là cứu cánh có một cảnh giới nào khác lạ hơn là cái chỗ mà chúng ta diệt cái lòng ham muốn của chúng ta. Do đó, khi mà cái lòng ham muốn nó hết thì đó gọi là cứu cánh. Nhưng mà nó có mấy loại cứu cánh? Ở đây Phật nói có ba loại cứu cánh.
- Một là cứu cánh phạm hạnh. Cứu cánh phạm hạnh tức là giới hạnh đó, các con thấy giới hạnh đó! Vậy thì cứu cánh phạm hạnh, một người mà còn làm nghề nông nè, còn làm thư ký nè, còn làm thầy thuốc nè thì cái đó có phạm hạnh không? Không có phạm hạnh! Cho nên nó còn bận tâm lo là đi vào rừng đào rễ cây về vạt, rồi hốt, rồi bằm, sắc, sao, rồi đốt hay hoặc là tẩm rồi chế cái này, chế cái kia ra rồi mới hốt cho họ thành thang để họ trị bệnh, thì như vậy họ có cứu cánh không? Hay hoặc là họ đang bận công việc, họ đâu có giải thoát đâu mà gọi là cứu cánh? Cho nên không thể nào mà gọi là cứu cánh phạm hạnh được! Mà cứu cánh phạm hạnh thì gọi là giới hạnh.
- Cái thứ hai là cứu cánh an ổn. Cứu cánh an ổn gọi là giới đức. Một người mà tu mà ngồi thiền định mà nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền, có an ổn không quý thầy? Rất an ổn, hỷ lạc rất tràn đầy, lúc bấy giờ ngồi như ở trên cái cảnh giới mà Thiên đàng chứ đâu phải là ngồi dưới đất này đâu? Cho nên vì vậy gọi là Giới đức.
- Ba là cứu cánh Vô dư, đó là cứu cánh Vô dư, đó là Giới tuệ. Cái cứu cánh Vô dư đó là Giới tuệ. Các thầy thấy, ba cái cứu cánh này nó ứng với ba cái giới mà chúng ta đã học, Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ.
Đó, thì qua những cái bài học như vậy thì chúng ta đã thấy, biết được con đường mà chúng ta tu tập nó phải đi từng bậc nào để đi vào trong những cái giới luật mà chúng ta đã học.
Tiếp tục Thầy giảng thêm cái phần này để chúng ta thấy được con đường mà tu tập giới luật của chúng ta nó thực hiện như thế nào để mà chúng ta biết được cho nó rõ ràng hơn để mà chuẩn bị cho cái sự bước qua một cái giai đoạn mà giới tuệ cho nó thông suốt. Chứ còn nếu không bước qua giới tuệ thì tức là chúng ta thấy như mình ở trên trời xanh chứ chưa phải là ở dưới đất đâu!
NĂM DỤC TRƯỞNG DƯỠNG
Có năm pháp khiến dục lạc tăng trưởng! Hồi nãy chúng ta nói dục đó, tham dục đó, thì bây giờ cái việc mà khiến cho dục lạc nó tăng trưởng, có năm pháp khiến cho dục lạc tăng trưởng. Người tu sĩ Phật giáo phải xem năm pháp này là dây xiềng xích, lòi tói trói chặt người tu sĩ, không có vẫy vùng, khó mà vẫy vùng ra khỏi. Nghĩa là phải thấy năm pháp mà khiến cho cái dục lạc của thế gian nó tăng thịnh ở trong tâm của chúng ta. Vậy năm pháp đó là gì?
Những pháp, những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc, ái lạc. Đó, thì cái pháp nào, lẽ ra thì Thầy đã giảng ở trong cái chỗ mà ngũ dục lạc, rồi sáu cái dục lạc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó, nhưng mà Thầy lướt qua cái chỗ đó đi. Cho nên bây giờ Thầy nghĩ là nếu mà không nhắc lại sơ cái này coi như lược sơ ấy, thì quý thầy, không có giảng cái phần đó thì coi như là hơi thiếu. Thay vì phải giảng cái phần đó thì nó cũng quá nhiều cho nên Thầy không giảng nhưng ở đây Thầy chỉ lược sơ để cho quý thầy thấy được cái chỗ mà sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó, đó là nó lôi hút, nó cám dỗ chúng ta cũng dữ lắm!
Nhưng ở đây, để xuyên qua trong cái phần mà giới luật của Giới tuệ thì chúng ta nhắc lại cái phần này để chúng ta thấy được cái chỗ mà chúng ta tiến vào con đường của đạo Phật.
“Những sắc pháp do mắt cảm nhận, nó làm cho chúng ta thấy khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc và ái lạc”. Đó, thì những cái pháp đó chúng ta thấy nó là những cái sợi dây mà xiềng xích, lòi tói mà trói chặt chúng ta lắm đó! Coi chừng những cái hình ảnh, những sắc pháp đó nó sẽ cám dỗ chúng ta mạnh lắm đó!
Những tiếng pháp do tai cảm nhận, những cái âm thanh, tiếng pháp đó, coi chừng nó cũng có thể là những sợi dây xiềng xích, lòi tói nó trói chặt chúng ta lắm đó!
Những hương do mũi cảm nhận, những hương thơm do mũi cảm nhận, nó cũng là sợi dây xiềng xích, lòi tói trói chặt chúng ta đó!
Những vị do lưỡi cảm nhận, tức là những ngày mà chúng ta ăn những cái món ăn ngon, dở, coi chừng nó trói chúng ta chặt lắm đó! Nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói rất là chặt đó!
Do xúc cảm nhận, do xúc thân cảm nhận, đó thì những cái điều kiện đó nó là những cái sợi dây trói chặt.
Năm pháp này khiến cho con người chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly chúng. Nếu mà chúng ta không nhận nó được thì nó sẽ trói buộc chúng ta rất chặt chứ không phải là đơn giản đâu! Thường thường là chúng ta xem thường nó lắm, nhưng mà rồi chúng ta sẽ bị nó trói chặt! Cho nên ở đây, Phật chỉ nêu lên năm cái pháp để mà nó lôi cuốn, nó trói chặt chúng ta, nhưng chúng ta còn quên có một cái pháp nữa, tức là cái pháp thứ sáu đó, do cái ý, ở đây nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Thân thì có xúc, mà ý thì nó có cái khởi ra các pháp. Cho nên cái pháp đó nó làm cho chúng ta trở thành những cái kiến chấp, nó cũng ghê gớm vô cùng, nó trói chặt chúng ta. Biết cái pháp của mình là sai chứ chưa dám bỏ đâu!
Khi mà mình nghĩ rằng con đường thiền của tôi tu đây là đúng của Phật rồi, mà sự thật thì nó trật lất à, nó không đúng, mà họ nói đó là đúng rồi, họ bỏ không có được, cũng như họ tu tập thiền xuất hồn, họ nói đây là xuất hồn, tôi đã xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là cái pháp, cái pháp làm cho họ dính mắc, nó cũng cám dỗ dữ lắm! Khi mà đọc được một cái bài nào đó họ thích thú, cũng chẳng hạn như là có người đọc sách của ông Krisnamurti, trời ơi nó hay quá, quá chừng hay, do đó mở miệng ra cứ là Krisnamurti không hà, mà cuối cùng thì ông ta chỉ có miệng không hà, chứ không có giải thoát như Krisnamurti chút nào hết. Cho nên cuối cùng thì cái đó gọi là cái kiến chấp của pháp, mà cái đó nó lôi cuốn cũng mạnh lắm! Hở ra chút nào thì ông ta vươn cổ lên mà khạc ra ba cái thứ đó. Nó không phải là con đường mà giải thoát mà là con đường tà kiến, một con đường sai mà lý luận nó nghe nó siêu việt dữ lắm, cho nên từ đó chúng ta bị cái lầm chấp đó, chúng ta thấy nó hay cho nên chúng ta bị dính nó rồi!
Nó cũng làm cho chúng ta thích thú, cũng say mê, cho nên nó trói buộc chúng ta rất chặt. Cho nên ở đây thì Phật nói năm chứ sự thật nó là sáu: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà! Chứ đâu phải là cái thứ thường đâu!
NĂM TRIỀN CÁI
Bây giờ tiếp tục, chúng ta sẽ học cái phần này, bởi vì chúng ta nghe triền cái rồi nghe nào là kiết sử mà chúng ta không hiểu nó thì chúng ta biết ở đâu mà chúng ta dẹp những cái triền cái này? Bắt đầu chúng ta phải học cái này.
Có năm triền cái được gọi là chướng ngại, được gọi là màn che, triền phược trong giới luật của bậc Thánh. Nghĩa là năm cái này nó làm cho chúng ta, nó làm che mất cái giới luật nghi của các bậc Thánh, nó làm cho chúng ta không giữ trọn được các giới của bậc Thánh là năm cái triền cái này. Cho nên một cái người mà học về giới luật mà không thông được năm cái triền cái này thì chúng ta bị nó che, bởi vì “cái” là cái màn che, nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không có thấy được, cho nên chúng ta phạm giới chứ không phải gì hết. Còn chúng ta thấy được thì chúng ta không phạm giới. Cho nên trong cái luật của bậc Thánh hiền mà khi mà chúng ta rõ được năm cái triền cái này thì chúng ta không còn bị nó che mất cái luật của chúng ta đi. Còn nếu mà không rõ thì nó bị che mất đi, nó làm cho chúng ta phạm giới.
- Một là Dục cái, tức là Tham cái đó;
- Hai là Sân cái;
- Ba là Hôn trầm - thùy miên cái;
Bốn là Trạo hối cái;
- Năm là Nghi cái.
Đó là năm cái được gọi là Ngũ triền cái đó! Năm cái triền cái, năm cái sự ngăn che làm cho chúng ta mờ mịt, làm cho chúng ta phạm giới của bậc Thánh hiền, đó thì đó là năm cái này.
Dục cái hay là Tham cái, tức là cái lòng ham muốn của chúng ta nó ngăn che, nó làm cho chúng ta phạm giới. Bởi vì mình ham muốn, ví như mình thấy một cục đường hay hoặc một miếng kẹo, cái bánh mình thèm ăn rồi thì bắt đầu mình lấy mình bỏ vô miệng mình nhai và nuốt đi thì tức là cái lòng tham muốn của mình đó đó mà nó che đi, làm cho mình phạm giới ăn uống phi thời, phải không? Quý thầy thấy rất rõ, cho nên chỉ một chút xíu thôi là mình bị phạm giới, chỉ một chút hà, nó ham muốn cái đó thì nó bị che giới luật đi đó là mình bị phi thời.
Sân cái tức là cái tâm sân hận của chúng ta, giận dữ lên thì nó làm chúng ta phạm vào những cái giới luật, lời ăn, tiếng nói của chúng ta thô lỗ. Tức là nó phạm vào cái giới luật đó rồi. Nó chửi mắng người ta, nó nạt nộ người ta, nó làm dữ tợn, thì đó là phạm phải cái giới luật của về khẩu nghiệp của chúng ta. Cho nên chúng ta có phạm vào cái giới.
Ba là Hôn trầm - thùy miên cái. Hôn trầm là ngủ gục, Thùy miên là ngủ. Những cái người mà ngủ này họ thường thường là họ bị phi thời. Cho nên trong cái vấn đề Hôn trầm - thùy miên này nó mới sanh ra cái nghi, à cái si mà cái si tức Si cái ấy tức là cái ngu si, cái vô minh thì gọi là hôn trầm ,thùy miên cái tức gọi là si cho nên gọi là tham, sân, si á, nó là ba cái độc. Hôn trầm, thùy miên là cái trạng thái của cái người ngu si, mà ngu si thì nó làm cho người ta vô minh, người ta không có thấy cái đúng, cái sai, cái nào là hại, cái nào không hại, cái nào là đúng chân lý, mà cái nào là không đúng chân lý. Vì cái si mà làm sao đúng được? Cho nên do đó nó bị lầm chấp!
Cũng như bây giờ mình chấp một cái pháp nào đó, mình cứ cho nó đúng, tức là do cái si mê của mình, bị cái kiến chấp. Cũng như mình lầm chấp cái thân của mình, có cái ngã ở trong này, có cái thật ở trong này. Đó là cái lầm chấp, mà cái lầm chấp đó gọi là si, si mê. Mà cái si mê đó nó hiện ra cái tướng hôn trầm, thùy miên. Tức là cái người mà ngu si là cái người ham ngủ. Cái người mà ham ngủ, ngủ gà ngủ gật là mấy cái người ngu si đó! Họ không có thông minh. Mặc dù là họ thông minh cái gì kệ họ nhưng mà đối với Phật pháp, đối với sự giải thoát, tu hành họ là người ham ngủ thì họ là cái người ngu si, họ không sáng suốt được, họ không thấy được cái chân lý đúng là cái chỗ giải thoát. Cái người mà ngu si mà hôn trầm, thùy miên đó thì cái người đó họ luôn luôn là những hạng người chạy theo dục chứ không bao giờ họ thoát ra khỏi dục.
Bốn là Trạo hối cái. Trạo hối cái là những cái loạn tưởng, những cái vọng tưởng nó liên tục, nó từ cái này đến cái khác. Nó làm cho họ nhớ, tiếc, thương cái này, nhớ, tiếc, thương cái kia. Ngồi đây mà nhớ chuyện quá khứ không thì cái chuyện đó là Trạo hối của họ. Gọi là Trạo hối cái, nó che làm cho họ không có thấy được cái tâm của họ đang dày vò, đang đau khổ, đang nhớ cái này, đang tiếc cái kia gọi là Trạo hối!
Cũng như mình đến mình học với ông thầy nào đó dạy mình nghi ông thầy ổng chưa có tu chứng như thế này như thế khác, thôi mình học ít bữa mình bỏ đi. Như mình thấy cái vị đó mình tu hành, mình đâu có hiểu được họ như thế nào. Trong một ngày, hai ngày đâu làm sao thông họ được? Ông thầy này ổng ở bẩn quá, không thể được! Rồi mình ở với ông thầy này, ổng lại khổ hạnh quá, mình ở cũng không được! Ông thầy này ổng ăn uống ngày có một bữa như vậy, mình sống sao nổi mà tu? Ông thầy này ổng làm cái kiểu cách của ổng chứ chưa chắc đã là chứng! Do đó mình nghi ổng đi! Mình nghi ổng tức là mình phải bỏ ổng thôi, mình không làm sao mà tu. Cho nên, những cái nghi đó nó che mờ mà mình không thấy được cái (sự thật). Hoặc là ông thầy ổng thể hiện qua sự thử thách người đệ tử, cái người đệ tử tưởng là ông thầy này còn phàm phu quá, thấy kiểu cách của ông ấy không phải là bậc Thánh. Nhưng mà không ngờ là người ta thử thách mình, nhưng mà cuối cùng thì mình bị người ta gạt mình, rồi mình đâm ra mình nghi. Từ đó mình sẽ mất cái chỗ đứng của mình để mình tu tập.
“Bởi năm triền cái này mà người tu sĩ bị che khuất, bị trói buộc, bị triền phược, bị chướng ngại khiến cho người tu sĩ phạm giới”. Đó, thì năm cái triền cái đó nó sẽ làm cho cái người mà tu sĩ phạm giới, đều là do năm cái triền cái đó.
NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ
Vậy thì chúng ta đã biết được năm cái triền cái rồi thì bây giờ chúng ta học thêm năm cái Hạ phần kiết sử. Bởi vì về Kiết sử thì nó có Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta làm sao biết được? Do đó chúng ta thấy Triền cái nó cũng giống, mà lại là Kiết sử nó cũng giống, nó cũng giống như nhau, nó không khác nhau. Chỗ nào là Kiết sử, mà chỗ nào là Triền cái? Chúng ta phải phân biệt được cái chỗ này!
Năm hạ phần kiết sử : Một là Tham, hai là Sân, ba là Si, bốn là Mạn, năm là Nghi.
Tham tức là hồi nãy là Dục cái đó, chúng ta thấy nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không thấy, gọi là Cái. Mà nó làm cho chúng ta bị trói buộc, bị dính mắc đó, thì đó là Kiết sử. Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, nó làm cho chúng ta chạy theo nó, gọi là Kiết sử. Cho nên, khi mà chúng ta bị một cái tâm tham mà nó kiết sử á thì chúng ta bị nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, gọi là Kiết sử. Mà khi một cái tâm tham mà của chúng ta nó bị mờ ám, nó làm cho chúng ta phạm giới thì cái đó là Dục cái. Chúng ta không rõ cho nên do cái tâm ham muốn đó mà nó xảy ra, nó làm cho chúng ta phạm giới. Đó là Dục cái!
Chẳng hạn như bây giờ mình bị che mờ, mình thấy một cái cô phụ nữ đi ngang qua, trong tâm mình khởi lên có cái tâm dục thì do đó mình bị cái tâm dục mình nó che đi, tức là cái tâm tham dục nó che đi, do đó cái ý mình khởi lên thấy cô ta đẹp. Chứ mình chưa khởi gì hết, thấy cô ta đẹp thì ngay đó là mình bị che mờ đi do cái ý đó mà mình đã bị phạm giới. Còn bây giờ thì Kiết sử nó lôi chúng ta chạy theo cười cợt, nói chuyện với cô ta rồi đó, thì cái chuyện đó là Kiết sử! Bây giờ nó lại gần hơn đó, hồi đó nó che chúng ta, rồi chúng ta không thấy, chúng ta mới khởi ý thích thôi thì bắt đầu cô này ngó mình một cái, liếc qua, rồi mình cũng ngó theo, mình liếc theo bắt đầu bây giờ đi theo gót cô ta tìm cách gợi chuyện nói. Thì như vậy đó là mình đã bị Kiết sử, nó trói mình đó.
Sân nó cũng vậy, mà Si, ở đây chỗ Si mà gọi là Năm hạ phần kiết sử thì Phật còn gọi một cái tên là Giới cấm thủ. Giới cấm thủ nghĩa là cái Si nó làm cho mình dính mắc, giữ gìn cái đó trở lại, nó làm cho ḿnh không có thấy nên ḿnh không có buông ra được, mình không có ly ra được. Đó, chạy theo hoài mà không có biết mệt mỏi. Đó gọi là Si, cho nên Phật còn gọi là Giới cấm thủ.
Mạn tức là ở đây Phật còn gọi chữ Mạn đó là Thân kiến, nghĩa là mình chấp cái thân của mình. Cái phần mà Năm hạ phần kiết sử này là thay vì Mạn là ngã mạn, là kiêu mạn, thì ở đây cái Mạn của Năm cái hạ phần kiết sử này thì Phật cho là Thân kiến, tức là mình chấp cái thân của mình là có thật, ở trong cái thân này nó có cái thật ở trong này. Ở trong cái thân Tứ đại này nó có cái thật ở trong này, cho nên đó gọi là Thân kiến, kiến chấp, tức là chấp cái thân có thật.
Cho nên chữ Mạn đây là chỉ cái Thân kiến chứ không phải Mạn là ngã mạn, cao ngạo, mà đây là Thân kiến. Cho nên Năm hạ phần kiết sử đây mình chấp cái thân mình là có, vì vậy mà những cái vật chất xung quanh là cái năng sở của nó, nó trói buộc mình, làm cho mình bị cái Mạn này.
Nghi thì chắc chắn là lúc nãy Thầy có giảng ở Nghi cái rồi, bởi vì cái nghi này khi nó nghi rồi bắt đầu nó cứ theo dõi này kia nọ, nó đủ cách nó lôi cuốn mình đó, gọi là Nghi. Mà cái Kiết sử thì nó lôi mình đi theo cái sự Nghi đó mà nó không bao giờ mà rời, gọi là Kiết sử. Cho nên đây gọi là Năm hạ phần kiết sử!
NĂM THƯỢNG PHẦN KIẾT SỬ
Năm thượng phần kiết sử thì như thế nào? Một là Sắc tham, hai là Vô sắc tham, ba là Mạn, bốn là Trạo cử, năm là Vô minh. Vô minh ở đây chúng ta phải hiểu nó là Si đó, là Hôn trầm, thùy miên như hồi nãy đó, là ở trên cái Cái kia, còn chữ Si ở Năm hạ phần kiết sử này là Giới cấm thủ tức là bị dính mắc, nó không rời ra được, nó giữ chặt, bị nó trói buộc ở trong cái vật chất, cái giới đó rồi. Nó làm cho chúng ta chặt ở trong đó. Cho nên cái Si này nó bị mờ mịt, nó không thấy, nó vô minh không thấy mà cứ cho đó là cái chấp của mình, như mình bây giờ Thân kiến, mình chấp cái thân này thật mà mình bị Giới cấm thủ của cái Si cho nên mình coi nó là thật, ai nói gì mình cũng chẳng nghe hết. Tức là mình bị Si, tức là Giới cấm thủ đó!
Còn ở đây, còn ở Năm thượng phần kiết sử này, Sắc tham nghĩa là có một cái hình ảnh, có một cái sắc tướng nào đó làm cho mình chạy theo cái sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó tức là Sắc tham. Vô sắc tham tức là mình ngồi, mình tưởng tượng ra cái hình sắc này, hình sắc kia thấy thích thú ở trong đó, đó là kiết sử nó Vô sắc tham. Ba là Mạn, Mạn tức là ở trong chỗ này là cao mạn, kiêu mạn chứ không phải Mạn là Thân kiến nữa đâu! Nghĩa là nó coi mình là trên hết đó! Thì cái Mạn cũng có nghĩa là Thân kiến, mà cũng có nghĩa là cao ngạo, mà cũng có nghĩa là chấp ngã. Trạo cử, Trạo cử như hồi nãy mà ở chỗ Trạo hối đó. Trạo cử là nó lăng xăng, nó nghĩ chuyện này đến chuyện kia, lung tung đó.
Đó là Năm thượng phần kiết sử! Thì cái triền miên của cái tư tưởng nối tiếp nhau nó gây cho chúng ta có cái sự liên tục, trói buộc nhau ở trong cái triền miên suy nghĩ đó thì cái đó gọi là Trạo cử của Kiết sử, Năm thượng phần kiết sử. Vô minh tức là Si thì Si vô minh thì nó cũng giống như những cái Si kia, nhưng mà cái Si này nó thể hiện qua cái chỗ vô minh, mờ không thấy rõ năm cái Thượng phần kiết sử này, là không có thấy rõ cái chân lý giải thoát của đạo Phật. Còn cái Si hồi nãy á, nó là cái Hôn trầm, thùy miên, đó là cái sự ngu si của một cái mất tỉnh thức, nó không sáng suốt.
Còn cái chỗ Vô minh này nó có minh, cái chỗ vô minh của thượng phần kiết sử này là người đó có thể là một nhà bác học, có thể là một nhà tiến sĩ học rất thông minh, thông minh mọi mặt của thế gian nhưng mà họ không có thông minh cái con đường giải thoát của họ, không có trí tuệ hiểu biết chân thật như Bốn cái chân lý của Phật là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, cho nên họ không giải thoát được họ, vì vậy cái Vô minh này gọi là Si, họ không thấy được cái chân lý giải thoát và họ thấy toàn là chạy theo cái danh lợi, chạy theo cái danh của thế gian, cái lợi của thế gian, cái sắc của thế gian, cái ăn, cái uống, ngủ của thế gian. Họ làm cái gì họ cũng lo phục vụ cho những cái đó thì họ gọi là Vô minh chứ họ thông minh lắm chứ đâu phải, họ làm ông giám đốc, bà giám đốc không chứ đâu phải làm nhỏ đâu? Họ làm ông lớn không chứ không phải làm nhỏ, nhưng mà họ vẫn vô minh là vì họ không giải thoát.
Cho nên chữ Si của Năm thượng phần kiết sử thì chúng ta phải hiểu chữ Si này nó nằm ở chỗ nó là chạy theo những cái thông minh của dục lạc chứ không phải là Si theo cái kiểu mà buồn ngủ như mấy cái thằng làm biếng đó đâu, như là Triền cái đó đâu! Đó thì phải hiểu như vậy thì chúng ta mới hiểu được những cái danh từ ở trong kinh điển của đạo Phật đã chỉ cho cái tên của nó như thế nào!
BẢY KIẾT SỬ
Và về phần Kiết sử mà gọi chung thì đức Phật có cho nó là bảy cái kiết sử. Nghĩa là hồi đó thì năm cái Hạ phần kiết sử rồi năm cái Thượng phần kiết sử, tức là mười cái Kiết sử, nhưng mà đức Phật tóm lại thì cho chúng ta biết rằng có bảy cái Kiết sử. Đó là, một là Ái kiết sử, hai là Sân kiết sử, ba là Kiến kiết sử, bốn là Nghi kiết sử, năm là Mạn kiết sử, sáu là Hữu tham kiết sử, bảy là Vô minh kiết sử. Đó, thì chúng ta thấy nó rõ ràng là bảy cái Kiết sử này mà gồm chung nó là mười cái Kiết sử kia là Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Gồm lại thì nó chỉ có bảy kiết sử, tắt lại thì có bảy kiết sử mà thôi!
Ở đây, thì những kiết sử cũng là Ái kiết sử tức là Dục kiết sử hay là Tham kiết sử thôi chứ không có gì. Sân thì biết rồi, Kiến thì Thân kiến biết rồi, Nghi thì quý vị cũng biết rồi, Mạn thì cũng biết rồi, Hữu tham kiết sử mà Hữu tham kiết sử thì các vị cũng biết rồi, mà Vô minh kiết sử thì cũng biết rồi, Hữu tham tức là có khởi một cái lòng ham muốn. Hữu là có nghĩa là có khởi một cái lòng ham muốn, tức là có kiết sử liền tức khắc.
BẢY TÙY MIÊN
Nói như vậy là chúng ta đã rõ hết là bảy cái Kiết sử. Vậy thì rõ biết bảy Kiết sử thì chúng ta phải rõ thêm bảy Tùy miên. Tùy miên đây không phải Thùy miên là buồn ngủ. Còn Tùy miên, Tùy là theo, Miên là liên tục. Theo liên tục, cho nên cái này gọi là theo liên tục đó! Thì gọi là Bảy tùy miên. Cho nên có nhiều người không hiểu thấy trong kinh sách có chỗ sao để Thùy miên và có chỗ sao lại để Tùy miên? Họ không hiểu! Họ không hiểu cái danh từ chỗ người ta dùng và người ta cũng không hiểu bởi vì chữ Tùy với chữ Thùy nghe nó gần như là cái âm nó gần giống nhau, nhưng mà cái nghĩa nó cách xa lắm! Chữ Thùy là nó ngủ, mà chữ Tùy là nó theo! Đó phải hiểu như vậy để rồi chúng ta mới thấy được bảy cái chỗ Tùy miên này, nó có bảy Tùy miên chứ không phải có thùy miên, hôn trầm, thùy miên không. Cái kia là ngủ nghỉ, ngủ gục thôi. Nó khác!
Cho nên bảy Tùy miên này nó như thế nào?
Một là Dục ái tùy miên, nghĩa là cái lòng tham ái, tham dục của mình nó miên man, nó thích thú ở trong đó, nó kéo dài thích lắm, nó kéo dài cái thời gian liên miên ở trong đó. Cái người mà có cái tâm dục nó miên man ở trong những hình ảnh của các cô gái mà khiêu gợi họ đó, họ không bao giờ quên những hình ảnh đó. Cho nên nó làm cho họ miên man ở trong cái chỗ thích dục đó!
Sân tùy miên cũng vậy. Người ta chửi mình, cái bắt đầu suốt ngày đó nó cứ ở trong lòng nó cứ liên tục phiền não, phiền não hoài gọi là tùy miên Sân đó, đó là mình phải hiểu cái chỗ đó! Ngay sân rồi thì mình dứt đi liền, không, để nó kéo dài từ ngày này đến ngày khác, ba bốn bữa mới cười cười được một chút, chứ cái mặt nó sầu. Đó là nó bị tùy miên Sân đó!
Kiến tùy miên cũng vậy, luôn luôn lúc nào mình cũng chấp những cái ý nghĩ của mình, cái gì của mình đúng luôn luôn mình cứ cho nó đúng, luôn luôn liên tục hoài cái gì cũng cho đúng đó. Coi chừng cái đó nó kéo dài mình mà nó không bao giờ cho mình thoát ra khỏi những cái tà kiến nữa! Nhiều khi những cái tà kiến của mình mà mình cứ cho mình đúng rồi mình cứ miên mật, cứ luôn luôn liên tục ở cái chỗ đó mà mình cho nó là đúng, đúng, đúng, không bao giờ sai hết. Ai nói gì cũng trật, chỉ có mình là đúng thôi! Thì cái đó là cái tùy miên đó, Kiến tùy miên.
Nghi tùy miên cũng vậy. Nghi người nào thì nghi chết thì thôi hà, không có chịu suy nghĩ con người ta có đúng có sai, người ta có ăn trộm hay không mà cứ nghi người ta ăn trộm, cứ để nghi người ta ăn trộm hoài mà người ta có ăn trộm đâu? Đó là Nghi tùy miên!
Mạn tùy miên cũng vậy! Ngã mạn, cống cao, luôn luôn lúc nào hở ra cũng nghênh mặt ở trên trời, đi thì không ngó dưới đất mà ngó lên trời coi thiên hạ không ra cái gì, coi ngýời ta nhý kiến cỏ đó. Ðó là Mạn tùy miên!
Hữu tham tùy miên. Lòng ham muốn của chúng ta, có cái gì cũng ham muốn liên tục ở trong đầu, thấy cái gì cũng ham, thấy cái gì cũng ham, gọi là Hữu tham tùy miên. Thấy vật gì nhỏ, lớn gì cũng tham hết, cũng đem nhét cất hết, đó là Hữu tham tùy miên đó!
Vô minh tùy miên là luôn luôn lúc nào cũng không thấy hiểu biết gì hết à. Cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc hết á. Lúc nào nó cũng miên mật ở trong cái đầu của người đó hết, thì đó gọi là Vô minh tùy miên, không có hiểu cái gì hết! Cái gì cũng bị dính mắc hết!
Đó là những cái phần mà chúng ta học về những cái từ để chúng ta biết được những cái trạng thái của tâm của chúng ta nó rơi vào ở trong cái trạng thái nào của Kiết sử, của Cái, của Năm triền cái, của bảy cái Tùy miên. Chúng ta biết được những cái chỗ đó để mà chúng ta biết được cái tâm niệm của mình nó đang ở cái dạng nào mà chúng ta diệt trừ nó chứ không có để. Nói như vậy nó quá nhiều, quý thầy cũng khó nhớ, do đó quý thầy cũng cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần để nhớ những cái này. Khi tâm chúng ta khởi ra, chúng ta biết nó nằm ở trong cái Kiết sử nào, cái Dục cái nào như thế nào thì chúng ta mới loại trừ nó ra được, còn nếu không thì chúng ta khó mà loại trừ ra được!
Bây giờ Thầy đọc lại chỗ Tùy miên để cho các con kiểm tra lại bảy có phải không? Một là Dục ái tùy miên, hai là Sân tùy miên, ba là Kiến tùy miên, bốn là Nghi tùy miên, nghi là nghi ngờ đó, năm là Mạn tùy miên, sáu là Hữu tham tùy miên, bảy là Vô minh tùy miên. Đủ rồi phải không?

GIỚI TUỆ
Để tiếp tục cái chương trình giáo án này, quý thầy học đến Giới tuệ. Sau thời gian đã qua, đã được học Giới hạnh, Giới đức và bây giờ là học Giới tuệ. Giới tuệ phải được đặt trên nền tảng của Giới đức, nếu không đặt trên nền tảng Giới đức thì khó mà xây dựng ngôi nhà Giới tuệ được. Nghĩa là không tu tập xong Giới đức thì không thể nào tu tập Giới tuệ được. Cũng như các thầy không tu tập Giới hạnh được mà vội tu Giới đức thì khó mà tu tập được. Ví như trường học ngoài đời có ba cấp, một là Tiểu học, hai là Trung học, ba là Đại học. Nếu học chưa xong Tiểu học thì làm sao lên Trung học học được? Nếu học chưa xong Trung học mà lên Đại học thì làm sao học được? Vì vậy quý thầy muốn tu theo đạo Phật thì quý thầy phải tu tập lớp Sơ thiện tức là Giới hạnh. Khi đã tu tập lớp này xong mới tiến lên lớp Trung thiện - Giới đức. Sau khi đã tu tập xong lớp Trung thiện xong thì quý thầy mới tiến lên lớp tu tập Hậu thiện là Giới tuệ.
Đó thì quý thầy thấy nó phải có từng bước từng bước, cũng như bây giờ thí dụ như cái lớp mà Sơ thiện là cái lớp Giới hạnh, mà cái lớp Giới hạnh thì quý thầy biết rằng đó là cái lộ trình của người tu sĩ. Bây giờ quý thầy còn ở trong chiếc áo của cư sĩ, còn gia duyên còn làm những công việc, còn bao nhiêu nghề nghiệp để sinh sống thì thử hỏi quý thầy không có thực hiện cái lớp đó mà bây giờ cho quý thầy ngồi cái lớp Giới đức để tu thiền định thì có được không?
Như vậy là quý thầy không có học cái lớp Tiểu học mà nhảy lên Trung học học thì ngồi đó chỉ ngó thôi chứ làm cái gì? Người ta cho bài ra thì chỉ còn có nước cắn ngòi bút chứ làm sao mà làm? Đó thì quý thầy thấy điều đó là một cái điều mà quý thầy đã lạc ở trên con đường tu tập. Cho nên cái ba y, một bát mình chưa xong mà mình vội mình ngồi tu thiền thì chẳng qua là mình đi vào cái thiền ma, thiền quỷ thôi chứ làm sao mà thiền gì đúng được? Bởi vì đức hạnh của con người là cái Giới hạnh, là phải dẹp tất cả cái đời sống của thế gian mới đi vào cái con đường này được!
Bởi vậy đến Giới tuệ, quý thầy mới thấy cái lực của Giới tuệ nó tuyệt vời không thể nào tưởng tượng được là vì người ta phải dẹp hẳn cái cuộc sống của thế gian, hoàn toàn là người ta thực hiện cái đời sống của bậc tu sĩ rồi. Do đó mới đến cái Giới tuệ này chúng ta mới thấy nó là cả một cái sự siêu việt của con người chứ đâu phải là tầm thường?
Cho nên muốn đi được vào cái chỗ này mà quý thầy còn sống ở trong thế gian thì thử hỏi làm sao mà quý thầy được? Cho nên cái lớp Sơ thiện mà không được thì làm sao mà học cái lớp Đại học – cái lớp Giới tuệ được, cái lớp mà Hậu thiện được? Đâu có phải chuyện dễ đâu?
Lẽ ra người dạy đạo tu hành không thể dạy mênh mang như thế này được. Nghĩa là đối với Thầy là một người mà dạy đạo thì không bao giờ mà dạy mênh mang. Nhưng vì cái giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm, nghĩa là cái giáo án của Phật đã để lại trong kinh sách của chúng ta mấy ngàn năm chứ không phải là ít, hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm chứ đâu phải ít? Thế mà đến bây giờ chưa có ai sắp xếp lại được những cái thứ lớp này. Cho nên ở đây vì vậy mà Thầy phải dạy mênh mang như vầy chứ còn lẽ ra mà dạy đạo là tùy theo căn cơ của mỗi người. Bây giờ đến đây là phải sống đúng cái hạnh của người tu. Nghĩa là phải bỏ hết của cải, tài sản, dẹp hết những nghề nghiệp, đến đây chỉ ôm bát đi xin mà thôi, thì cái đó là cái Giới hạnh thứ nhất!
Cho nên chấp nhận được thì vô tu, còn không chấp nhận được thì thôi chứ còn tu lơ mơ mà như thế này thì tốn của đàn na thí chủ chứ có ích gì đâu? Nó có đi đến chỗ nào được đâu? Cho nên khi mà chấp nhận cái đời sống mà xuất gia tu hành rồi thì phải ba y một bát rồi. Đó là cái Giới hạnh!
Về cái Giới đức thì bắt đầu bây giờ mình đã ly được rồi thì ngay đó cái Giới đức mình có thể tiếp tục mình tu được rồi, đâu có gì khó đâu? Đó thì quý thầy thấy cái điều kiện tu tập nó phải rõ ràng. Còn bây giờ mà thầy dạy mênh mang như thế này thì thử hỏi cái lớp mình có ai dứt được chưa? Chưa à! Phần nhiều là chúng ta còn đang ở trong lưng chừng chứ chưa phải là rõ nét đâu, khó lắm chứ không phải dễ!
Đó, nhưng vì giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm nhưng chưa ai sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật, thấy sao thấp cao cho rõ ràng để người tu tập được dễ dàng, vì thế Thầy phải sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật nên mới dạy mênh mang như thế này. Vả lại nếu Thầy không làm điều này thì nhìn trước, nhìn sau còn có ai làm được và làm sống lại giáo lý của đức Phật? Nghĩa là bây giờ nhìn trước, nhìn sau thì Thầy thấy chưa có một vị thầy nào, chưa có một người nào mà có thể gánh vác cái trọng trách này được! Cho nên buộc lòng Thầy phải dạy cái cách thức mênh mang như thế này nè. Chuyện mà các thầy chưa tu tới mà phải nói á, gọi là dạy mênh mang đó! Thay vì tu tới đâu Thầy dạy tới đó chứ không phải là dạy như cái kiểu này được! Cho nên ngày xưa đức Phật dạy đệ tử của Ngài cũng vậy. Khi tu tới đâu thì Ngài dạy tới đó, mà người nào chưa tu tới thì Ngài chưa có dạy tới những cái mà chưa có thể mà dạy cho họ được. Còn bây giờ vì có những cái điều kiện cần phải làm cho nên Thầy phải làm mà thôi! Chứ dạy như thế này nhiều khi gieo vào trong tâm tư của quý vị những cái tưởng giải trong đó không hà, những cái tưởng tượng của các vị trong đó không hà, chứ không phải là cái tốt lành gì đâu!
Cho nên Thầy không có mong muốn làm cái điều này. Cho nên từ cái ngày mà Thầy tu hành xong ấy, Thầy ra thất, Thầy không bao giờ Thầy muốn viết một bài kinh nữa. Thầy đã hiểu biết cái lầm lạc đó vì viết bài kinh là giết người ta chứ chưa phải là độ người ta đâu! Vì khi mà người ta hiểu nó hay là người ta bị dính nó rồi. Rồi khi mà người ta chưa tu tới đó, người ta tập chưa có căn bản, đầu chưa có mà người ta tập, người ta thấy cái hay đó, người ta bắt đầu người ta tập cái đó thì cái tưởng của người ta sẽ sinh ra. Mà nó sinh ra thì nó là ma chướng của họ chứ đâu phải là chuyện dễ? Cho nên viết kinh sách là một cái tai hại! Cho nên thời đức Phật Ngài không có viết kinh sách và người nào tu tập tới đâu là dạy tới đó rồi sai thì Ngài nhắc nhở chứ cũng không cho ai lấy lá buông hay hoặc là lấy lá thốt nốt mà ngồi viết chữ lên đó hết để mà ghi nhớ lại như bây giờ đâu!

Còn bây giờ chúng ta ghi nhớ như vậy, nó làm cho đầu óc của chúng ta không có sống độc cư, không có sống trầm lặng được! Thường thường là chúng ta hay quên, mà chúng ta tu tập vốn tu tập chứ không phải vốn để nhớ. Tu tập để giải thoát chứ không phải là nhớ một cái bồ chữ đó đâu, một cái tủ đựng kinh sách đó đâu! Cho nên chúng ta vốn để nhớ, nhớ để nó trở thành cái tâm của chúng ta trở thành một cái tủ đựng kinh sách, từ đó mới giải thoát.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét