1. Thầy dạy các cô tu Định Vô Lậu
2.Giới bổn.
3. Con người ai ai cũng
thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp
4.Thứ
hai, phàm con người chưa được trau dồi thân, miệng, ý nên thân hành thô lậu
chưa được an tịnh, khẩu hành thô lậu chưa được an tịnh, ý hành thô lậu chưa
được an tịnh.
5.Phàm
người đời không như thật biết đây là thiện
6.Tâm thư
1. Thầy
dạy các cô tu Định Vô Lậu
…định mà tu tập nhưng nó
không có rõ ràng và cụ thể. Đây Thầy nói để cho các con thấy cái tu tập, tu tập
cái định nào thì nó phải ra cái định nấy, nó rõ ràng lắm.
Thứ nhất là cái Định
sáng suốt, cái định mà giữ cái tâm thanh thản của mình đó, để cho chúng ta ở
trong cái trạng thái thanh thản đó mà chúng ta biết rằng lúc bây giờ tâm của
chúng ta đã vô lậu, đã ly dục ly ác pháp chưa, nó được thanh thản như thế nào?
Thì cái kết quả mà đầu tiên của cái người tu thiền định của đạo Phật, theo đạo
Phật á thì cái mục đích của nó mà chúng ta giữ gìn cái giới hạnh ăn ngày một
bữa, sống mà ít ngủ, độc cư không nói chuyện hoặc là lao tác những cái chuyện
nhẹ nhẹ để cho nó khuây khỏa trong cuộc sống của chúng ta đó, thì cái mục đích
nhắm của nó đó là làm sao chúng ta đạt được cái chỗ mà ly dục ly ác pháp, đó là
cái đầu tiên.
Thế thì, các con hầu hết
là không có lưu ý ở trong cái Định sáng suốt này, cái định này là cái định rất
cần thiết. Nhưng nếu mà muốn đạt được cái Định mà sáng suốt này, cái tâm luôn
lúc nào cũng được thanh thản á, thì nó không phải là chỉ có giữ cái tâm này mà được thanh thản lâu dài
đâu. Do vì vậy mà chúng ta
phải tu cái định Chánh niệm tỉnh giác định, cái mà Thầy đã nêu lên mười cái
điều kiện mà chúng ta phải tu tập nó, đó. Còn cái Định mà niệm hơi thở mà hiện
giờ mấy con mà đang tu tập cái hơi thở đó, thì cái này nó chờ cái thời gian sau - nó mới tới cái giai đoạn của
nó, nhưng vì chúng ta đã
từng tu tập quen rồi bây giờ chúng ta biết được thì chúng ta nên mỗi ngày một
đêm vậy đó thì chúng ta chỉ tu tập một lần mà thôi,
mỗi lần thì chừng ba mươi phút thôi. Còn chúng ta dồn những cái công phu cho
những cái định khác. Bởi vì đây là một cái giáo án cái đường lối của đạo Phật
nó đã hẳn hoi rồi chứ không còn mờ mịt như trước kia, cho nên chúng ta cứ nghĩ
tưởng rằng mình ngồi mình tập trung cho hết vọng tưởng rồi sẽ nhập định này
hoặc nhập định khác để làm chủ cái thân tâm của mình chấm dứt cái luân hồi bằng
cái sức ức chế cái tâm của mình nó hết vọng tưởng, hết tầm hết tứ. Bây giờ chúng ta đã hiểu nó không phải vậy đâu mà
chính là cái đường đi của đạo Phật á, cái bắt đầu á, thì nó là cái định Chánh niệm tỉnh giác định, mà nó bắt
đầu hơn nữa thì nó lại là cái Thánh
phòng hộ sáu căn, cách thức chúng ta phải giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng,
thân, ý của mình mà trong ba cái đức mà
cái giới luật nòng cốt của Tu viện ở trong cái thanh quy đó là nhẫn nhục – tùy
thuận – bằng lòng. Các con hiểu cái giới luật
nòng cốt đó, đó là cái phòng hộ sáu căn giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng của mình
là bằng ba cái đức nhẫn nhục – tùy thuận – bằng lòng đó.
Cho nên chúng ta có mắt
khi một người mà bước vào tu theo đạo Phật, có mắt như không có mắt, có lỗ tai
như không có lỗ tai. Vì vậy tâm của chúng ta mới đạt được yên ổn, mới tu cái
Định chánh niệm tỉnh thức nó mới có đủ sức tỉnh thức. Còn không phòng hộ sáu
căn đụng đâu nó dính đó thì tỉnh thức không nổi đâu. Các con thấy khi tâm chúng
ta động chuyện gì chúng ta cũng dễ phiền não buồn giận thì lúc bây giờ chúng ta
còn tỉnh thức cái chỗ nào nữa, còn phiền não buồn giận thì làm sao mà chúng ta
tỉnh thức đâu, cho nên rất khó. Vì vậy mà chúng ta phải biết phòng hộ sáu căn là một cái điều kiện tiên
quyết cho cái sự tu tập của cái người mới tu, và kế đó thì là Chánh niệm tỉnh
thức sau đó mới là Định sáng suốt hay hoặc là giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô
sự.
Đó thì các con thấy từng
cái bước đi của chúng ta tu tập nó có những cái bước đi, rồi trong đó nó có
những cái trạch pháp, những cái câu để mà trạch ra, để mà dùng cái pháp hướng,
để mà nhắc đi nhắc lại tâm mình cho nó thấm cái lý. Đó.
Còn riêng phần cô Diệu
Hồng, thì Thầy thấy về cái phần Định vô lậu thì con quán lung tung, coi như
quán nhiều, quán đủ thứ quá, quán rồi nó xả, nó không xả thì cũng đành chịu
thôi, chỉ còn có giữ cái tâm trong hơi thở, rồi cho nó có cái niệm nào đó thì
dừng nó lại liền để rồi cứ nương hơi thở thì nghe nó thoải mái dễ chịu nó không
có còn lo lắng thương nhớ nữa. Còn ngồi mà quán lung tung nó quán một hơi rồi
nó nhớ nhà quá trời quá đất nó muốn đi về. Tại vì ghẹo nó, nó hiện ra cho nên
nó nhớ cái này cái kia. Thành ra cái đó là sai. Khi mà đặt một cái niệm mà tu
cái Định vô lậu á thì chúng ta phải… bởi vì Thầy đưa ra mười cái điều kiện tức
là mười cái đề mục đặt cái niệm. Bây giờ tâm của chúng ta đang nó có một
cái...thường nó hay sanh những vọng tưởng, khởi cái niệm thí dụ như con bây giờ
con đang… thường thường mà khi mà xả thiền ra không còn ở trong pháp tu á, thì
nó có cái tâm nó nhớ mấy đứa nhỏ con của con, nó không biết là làm ăn như thế
nào, sao, hôm đó nghe nó làm vậy mà không biết nó có thất bại hay là sao, hay
là nợ nần nó còn mà nó chưa trả hết… Tuy vậy chứ cái tình cảm của mẹ con nó vẫn
còn chứ chưa phải ly đâu. Cho nên khi mà cái niệm nó khởi như vậy đó thì chúng
ta mới đem cái niệm đó đặt ra trước mặt của mình, trạch ra một cái câu rồi quán
xét, đứng ở trong lcái ý nhân quả mà tìm hiểu từ chỗ chúng ta không hiểu nhân
quả mà chúng ta suy ra, tìm ra, thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó
phóng ra nó tìm hiểu những cái lý nhân quả do đâu mà có mẹ, có con, do đâu mới
có sự dính dắc như thế này, do đâu mà nó có nhân có quả như thế này, từ đó
chúng ta phá từng cái mảnh của nhân quả, từng cái nghiệp mà nó đã tạo thành một
cái cuộc sống giữa mình với người khác để thành ra thương ghét giận hờn.
Đó, chúng ta phải đặt
cái niệm, khi mà đặt cái niệm đó nó chưa rồi, nó quán chưa thông thì một lát
nữa hay hoặc là buổi tối mình đặt niệm đó trở lại. Rồi mình quán cũng chưa thấy
được, chưa thông, nó cũng còn đây, cái niệm nó cũng còn đây, nó cũng còn nhớ
đây nó chưa có hết, do đó mình đặt nữa, mình đặt chừng nào mà nó hết nhớ thì
mình mới thôi.
Còn cái này thì quán
lung tung, quán lung tung nó lại nhớ nhiều…nó cũng vô vậy à, coi như là mình
nhai lại bã mía của các cỗ Phật, bây giờ nó cũng là vô thường, cũng khổ, cũng
không, cũng vô ngã, cũng bất tịnh mình nói tùm lum một số danh từ vậy, thành ra
nó nhiều quá rồi, thành ra đâu biết cái nào vô thường, cái nào nó không, cái
nào nó khổ. Cứ theo ba cái đờm dãi của người xưa mình nhai riết, nhai hơi lạt
bách cái miệng, không có chút ngọt nào hết cái nhả bỏ đi, bỏ đi cái nghe nó
nhào vô, nhào vô cũng nói nữa, mày là vô thường, khổ, vô ngã gì, đủ thú tùm lum
hết … Rồi nghỉ, nghỉ cái thấy nó cũng nhào vô nữa. Trời! Sao mà lại nó không
hết… hễ buông ra nó nhào vô.
Bởi vậy Thầy mới nói khi
mà chúng ta thấy khi mà chúng ta ngồi không, không có pháp tu á mà chúng ta
thấy nó có thì biết rằng nó chưa có hết lậu hoặc nó còn nữa, do đó chúng ta mới
đặt cái niệm chúng ta tu nữa, tu chừng nào mà ngồi không, mà chúng ta thấy tâm
nó thanh thản, nó không có nghĩ gì hết, nó cũng không thương không ghét thì
biết là lúc bấy giờ nó ly dục ly ác pháp rồi, cho nên nó ở trong trạng thái Sơ
thiền đây. Rõ ràng là cái tâm thanh thản vô sự của mình là... Còn bây giờ các
con ngồi không thôi nó không suy nghĩ cái này thì suy nghĩ cái khác thì đó là
chúng ta biết lậu hoặc còn, mà không suy nghĩ thì nó sanh ra chuyện, ờ bây giờ
cái thất của mình phải cột cái sợi dây này lại, cột lại rồi nó nói khiêng cái
bàn này để qua, và cái giường để lại nó, cứ dời dọn vậy cho nó quên chuyện, còn
hễ nó ngồi không thôi nó nhớ nhà. Phải không? Các con thấy không, hễ nó làm lắc
xắc lắc xắc thì không nhớ. Thầy thấy như cô An Tịnh đó, cô lo trồng cây này cây
kia đồ vậy cô không nhớ ai hết, mà hễ cô ngồi không cô nhớ nhà rồi, không có
trật. Bởi vì cái Định vô lậu chúng ta phải biết khi nó nhớ như vậy đó là khi
tới cái giờ tu chúng ta đặt cái niệm đó, chúng ta làm sao chúng ta phóng ra
những cái tri kiến giải thoát, bởi vì chúng ta phải biết chúng ta có những cái
tri kiến, cái tri kiến đó là cái sự mà chúng ta dùng nó để hiểu những cái lời
Phật dạy, các Tổ dạy, các thầy dạy cho biết các pháp là vô thường, như thế này
thế kia nhưng đó là cái tri kiến mà thôi. Vì vậy mà chúng ta phải đặt cái niệm
đó để rồi trình tự chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát từ đó chúng
ta phải có cái sự hiểu biết riêng của mình cho nên nó phá vỡ từng cái mảnh.
Mà Thầy nhắc các con á,
những cái sự liên hệ, thương ghét của gia đình của mình á, đều là nó nằm ở
trong cái lộ trình của nhân quả, do đó chúng ta đặt cái nhân quả mà chúng ta
quán xét thì chúng ta thấu triệt được. Cho nên từ đó chúng ta không còn khởi
cái niệm thương ghét, lo lắng cho mấy cháu nữa hết, chúng ta yên. Bây giờ chúng
ta có lo gì thì nó cũng vậy thôi, cũng như bây giờ Diệu Hồng con ở đây con lo
con tu thì phải tốt hơn không, mà ngồi đây mà lo tụi nó thì con có phỏng chừng
có ở gần bên nó cũng coi con nó thôi chứ có làm gì hơn là lo cho nó được, đâu
có ra mà gánh vác cái chuyện buôn bán đó được đâu. Già rồi chỉ coi con coi cháu
nó để cho nó đi bán đi buôn hay hoặc là nó làm ăn thôi chứ có làm gì khác hơn.
Cho nên thay vì bây giờ mình tu thì có lợi ích hơn, đã chăm đã nuôi nấng tụi nó
cho bây giờ lớn khôn rồi bây giờ còn phải làm đầy tớ coi con nó nữa sao,
mà coi con nó mình ngồi không mình ăn cơm không có được, nó kỳ vậy cái nghiệp
báo, cái nhân quả nó vậy đó, các con cứ thử nghĩ đi.
Bây giờ này, như Từ Đức
này, như Diệu Hồng này, như An Tịnh này các con có con cái này, rồi các con cứ
về trụ xứ của mình ở đi, rồi cũng có giờ thì mình cũng tu vậy nhưng mà sao mình
bỏ không có được, thấy cháu thấy mặt nó cũng thương à bởi vì cái thứ dòng họ
của mình mà, bỏ không có được. Đó là những cái mà chúng ta phải tu cái Định vô
lậu, tu hết sức tu, chứ không phải là tu lơ mơ đâu, tu cho thấm nhuần, tu cho
chứng được cái lý của nó à, nó mới thấy được đường đi của nhân quả, từ đó tâm
chúng ta mới thanh thản mới vô sự được chứ không nó hữu sự lắm nó ngồi lại thì
nó có sự có việc à. Còn không thì nó bắt thân của quý vị chạy Đông chạy Tây ra
ngoài nào nhổ cỏ, nào làm cái này cái kia, đủ thứ để cho nó quên, còn không thì
nó nhớ. Cho nên vì vậy mà khi tu hành chúng ta biết được cái vô thường, khổ,
không, vô ngã, nhưng mình chứng được cái lý vô thường khổ không vô ngã là cả
một công phu tu tập chứ không phải ít đâu.
Nhưng mà đến cái thiền
định hơi thở, thì khi mà cái tâm nó tịnh rồi, nó không còn lậu hoặc rồi thì
chừng đó các thầy, các con mà nhập tới Bốn thiền nó không còn khó nữa, các con
chỉ cần ra lệnh là nó nghe à, bởi vì tâm chúng ta đã thanh tịnh rồi thì nó có
cái lực của nó rồi. Để tới chừng nào Thầy dạy tới các cái Giới hành á, Thầy dạy
Ngũ căn, Ngũ lực á, tới cái Ngũ lực thì các con biết rằng bước đầu vào cái Ngũ
lực thì các con biết nó rất rõ. Cũng như vừa rồi thì Thầy chưa dạy các con tu
cái pháp Tứ bất hoại tịnh, vì Tứ bất hoại tịnh là pháp bắt đầu cho cái người mà
thọ Tam quy học Giới bổn xong á thì người ta niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng.
Mà niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng thì người ta mới tu Tứ bất hoại tịnh, bốn
cái pháp làm cho tâm chúng ta thanh tịnh mà không bị hoại diệt thanh tịnh đó
thì Thầy mới dạy, nhưng ở đây Thầy chưa dạy mà con vội tu sớm quá không biết tu cái nào đây cho nó thanh tịnh.
Phật tử hỏi… (Không nghe
rõ).
Thầy nghe nói vậy, đó là
cái lý, cái pháp lý chứ không phải là cái pháp hành. Cho nên nói thì một lẽ
nhưng mà khi mà nói ra cái pháp hành á thì bắt đầu nó phải chỉ ra từng cái phần
nhỏ chứ không thể nào mà nói tổng quát, bây giờ nói giống ông Phật, bây giờ tôi
giống ông chỉ có chút là tui ăn ngày một bữa à, còn tôi ngủ, tối tôi ngủ tôi
đâu ngủ như ông Phật được, ít ra tôi cũng còn chiêm bao còn ông Phật ông hết
chiêm bao rồi mà ông đặt niệm trước mặt ông nằm, ông đâu có ngủ, còn ông Phật
thì thân ông ông nhập định thì ông thần thông đủ cách, còn mấy con thì nhập
định tưởng hết ráo rồi thành ra đâu có giống ông chút nào đâu. Cho nên bây giờ
mà nói mà thân niệm Phật hay là tâm niệm Phật hay là thọ niệm Phật á thì nhiều
khi các con đau cái chân, hai cái chân đau hay cái gì đau các con méo miệng còn
ông Phật thì ông ngồi ông không có đau gì ông đau ông không có méo miệng chút
nào hết, còn mình thì đau chịu không nổi rồi. Do đó vì vậy mà nói về cái thân,
cái thọ, tâm và các pháp mà niệm Phật á thì chúng ta phải đi từ cái pháp hành,
cái giới hành để chúng ta thực hiện cái nào trước cái nào sau để tuần tự cái thân
của chúng ta nó phải niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái Thọ
của chúng ta thì niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái Pháp niệm
Phật như thế nào đúng, như thế nào sai, rồi cái Tâm của chúng ta niệm
Phật như thế nào đúng, như thế nào sai.
Cũng lần lượt từng chút
mà chúng ta đi vào, thì lúc bấy giờ chúng ta lại có sự phân ra chúng ta biết
rằng chúng ta đang ở cái nẻo nào trong Bát chánh đạo mà niệm Phật. Bây giờ mình
niệm Phật mà mình phải ở cái nẻo nào, bởi vì tám cái nẻo lận chứ đâu phải một
nẻo. Tám cái nẻo đó mà lấy cái thân này niệm Phật, mà trong cái nẻo thứ nhất là
Chánh kiến thì nó phải làm sao đây, phải tập luyện như thế nào, phải hành như
thế nào ở trong cái Chánh kiến này, cái nẻo này để cho thân của chúng ta cho
giống ông Phật, ông Phật thì ông cái thân ông thì ông ở trong cái Chánh kiến
thì Chánh kiến nào? Cho nên bây giờ hỏi con cũng nói tu Tứ bất hoại tịnh chứ
không có biết thân của mình nó sao rồi, cái thân ông Phật ở Chánh kiến ở chỗ
nào hết thì chưa có biết.
Cho nên tới đó thì Thầy
sẽ giảng cho các con nghe để rồi các con phải hành, từ bắt đầu cái chúng ta mà
khi quy y Tam bảo, tức thọ ba cái giới đầu tiên Phật, Pháp, Tăng, kế đó là học
Giới bổn nữa là bốn cái đối tượng để mà chúng ta niệm Phật, niệm pháp, niệm
tăng, niệm giới. Mà bây giờ thì cái giới bổn nó chưa hết cho nên lần lượt thì
Thầy dạy cho hết cái Giới bổn để mà chúng ta có cái giới để từ đó bắt đầu vô Tứ
bất hoại tịnh. Tứ bất hoại tịnh còn một cái tên là Tứ kỉnh pháp, bốn
cái pháp cung kính, bốn cái pháp tỏ lòng cung kính của mình gọi là Tứ kỉnh
pháp, nhưng mà tứ Bất hoại tịnh nó còn có một cái tên nữa là Tín lực,
các con thấy trong ngũ lực thì Tín lực là đầu tiên mà Tín lực là Tứ bất hoại
tịnh, hay hoặc là Tứ kỉnh pháp. Cái kia các con nghe khi mà đức Phật chế Bát kỉnh pháp cho bên ni là cái giới
gì, bây giờ đó hay là cái này là giới hành của mọi tu sĩ tăng và ni cho nên gọi
là Tứ kỉnh pháp chứ không phải Bát kỉnh pháp nữa. Từ lâu tới giờ các con đâu có
nghe đâu nhưng bây giờ Thầy nói các con mới thấy được cái tên này, rõ ràng là
trong kinh đã nói cái tên này nhưng mà người ta không có để ý cái tên này,
người ta coi là quá thường. Cho nên bây
giờ vạch ra cho mấy con thấy
giới luật của Phật chế Bát kỉnh pháp cho ni nhưng mà chế cho tăng và ni đều là
tu tập Tứ kỉnh pháp, thấy chưa? Mà Tứ Kỉnh pháp là tứ bất hoại tịnh, phải hông?
Mà Tứ bất hoại tịnh là Tín lực, cái sự tin tưởng rất là dũng mạnh, cái lực,
lòng tin của chúng ta cho nên tu làm sao mà đạt được cái lòng tin, phải có những cái kết quả mới có tin chứ, còn
không kết quả làm sao chúng ta tin được.
Bây giờ như các con đã
thấy một số mà giới luật mà Thầy đã dạy trong Giới bổn thì các con đã thấy rằng
có quá nhiều cái sai. Đọc một số giới bổn vừa rồi ta nhận thấy người sau chế
giới không phải Phật chế. Nghĩa là toàn bộ giới bổn phần nhiều là cái người sau
chế chứ không phải là trong cái thời đức Phật chế đâu. Bởi vì chế qua chế lại, chế
rồi gia giảm làm cho cái dục lạc của tu sĩ nó theo cái nhỏ giọt của dục lạc để
làm cho người ta rộng rãi mà người ta sống được ở trong giới nhưng cuối cùng là
người ta phá giới. Bởi vì chế như vậy cái kiểu đó là đưa người ta đi đến chỗ…
Thay vì thí dụ như chế cái giới rồi nói cái người lạ đó thì không được xin y,
mà cái người cư sĩ bà con của mình thì được xin y, mà xin y tốt của bà con mình
thì được mà xin của cái người cư sĩ lạ thì không được xin y tốt được. Ông Phật
mà chế giới kiểu đó để cho mấy người mà nhà giàu họ vô họ tu thì bà con họ cho
y tốt y đẹp thử coi thì mấy ông thầy đó còn tu cái thứ gì nữa. Phải không? Các
con thấy chế giới kiểu đó là chế giới người sau chế chứ không phải ông Phật chế
đâu. Đạo Phật là đạo ly dục thì người nghèo cũng như người giàu phải ly hết
chứ, chế gì mà kỳ cục vậy, cho nên hầu là mấy cái ông sau bày đặt. Gặp Thầy,
Thầy đập xuống như vậy đó, gặp ba cái giới bổn này Thầy đập xuống cho sạch
thiệt là mệt Thầy vô cùng.
Từ lâu thì Thầy hồi đó
Thầy có học nó nhưng mà cái trong lúc học mình không để ý lúc giới nào thì mình
hay vậy thôi, nhưng bây giờ khi mà tu rồi soạn ra mà tới bây giờ Thầy dạy về
giới thì Thầy thấy thiệt là sai. Bây giờ mà Thầy ngồi lại mà Thầy soạn ra cái
bộ giới này, giới bổn này để cho người sau đúng là cái giới để ly dục ly ác
pháp thì tất cả những cái giới này Thầy quét ra hết, Thầy soạn cái khác. Thầy
dựa vào ở trong kinh giới của Phật, ở trong kinh á Thầy soạn ra thì đúng cách,
rất là đúng, rất là hợp, hợp vừa kinh giới, mà lại hợp vừa cái kinh bổn, làm
cho người ta lấy kinh bổn người ta làm cái hàng rào, người ta giữ gìn người ta
ly dục ly ác pháp. Còn cái này giữ cái hàng rào gì, muốn cái y cho đẹp cái lợi
bà con của mình cư sĩ xin cái y, Phật chế cái giới cho như vậy thì đâu có phải
lối đâu, cho nên cứ làm bừa vô thì cuối cùng hoặc là tiền bạc không cất giữ,
giao cho bà con mình cất giữ đi, rồi ít bữa nữa xì ra: ờ bà con đứng ra cất
chùa giùm tôi đi, cũng là tiền của ông Thầy đấy chứ ai vô đó, làm cái chuyện
tuy là che mặt người ta, trong cá giới luật làm như vậy là sai, quá sai làm sao
mà ly cho được.
2.Giới bổn.
Còn giới bổn chế tới chế lui cho Tỳ kheo sống rộng rãi để chạy theo những
dục lạc thế gian, giới bổn giống như điều lệ, hiến pháp, pháp luật của một đất
nước, của một xã hội, một tập thể. Xưa tập thể của đức Phật mười ba năm không có giới điều, nghĩa
là khi mà đức Phật độ năm anh em Kiều Trần Như, độ những cư sỹ đầu tiên không
có chế giới ra, mà tới mười ba năm người ta không có phạm một cái pháp gì, từ
nơi pháp của Phật dạy là giới luật rồi, người ta ly dục ly ác pháp rồi người ta
không có còn phạm, mà tới sau này nhận
ba cái ông mà Lục Quần tỳ kheo rồi thất tì kheo, ni, rồi mấy cái bà mấy ông này
đưa vô để mà làm cho phá giới rồi mới đặt ra. Sự thật ra cái người tu theo đạo
Phật mà ngay từ lúc đầu mà khép chặt á, như mấy con mà vô đây mà Thầy khép chặt á chắc chắn là đúng
cách thức mà Thầy tổ chức, Thầy khép chặt các con chưa có phạm cái lỗi nào đâu
chưa có thể nói rằng phải chế giới này, chế giới kia nữa. Còn cái này để lỏng
lẻo để rồi người ta mới làm cái chuyện này chuyện khác, nó bậy bạ, nó làm cho
không có đúng cách.
Xưa tập thể của đức Phật mười ba năm đầu không có giới điều. Tại sao? Tại
vì tâm các Tỳ kheo ly dục ly ác pháp đều sống ở trong tinh thần ly dục ly ác
pháp nên ai cũng thấy mình giải thoát hoàn toàn, thoát ra khỏi dục lạc. Vì thoát ra khỏi dục là là không bị sự cam dỗ
của dục lạc thì đó là con đường của đạo Phật, cho nên ai cũng thấy giải thoát
hết. Còn ai mà ham nữa. Cũng như bây giờ, không lẽ bây giờ Thầy ăn ngày một bữa
Thầy Thấy giải thoát rồi mà bây giờ người ta đem cái bánh hay cái gì ngon, hoặc
ly nước sữa gì ngon “Thầy uống đi cho nó khỏe, Thầy thấy ốm quá”. Họ nói thì
nói mặc họ, Thầy uống quyền Thầy chứ. Phải không các con? Đâu có điên gì mà
thầy đi phạm, mà Thầy thấy đồ đó đâu có phải là đồ ngon. Đối với thế gian thì
họ cho ngon, đối với Thầy nhìn nó là Thầy thấy đồ bất tịnh. Phải không? cái đồ
mà không có thể mà Thầy chấp nhận được. Bởi vì tâm hồn của Thầy nó ly dục ly ác
pháp nó có một trạng thái hỷ lạc cao tuyệt hơn cái đó rất nhiều.
Để Thầy nhắc lại cho các
con nghe. Xưa nhà vua mới hỏi: “Tôi là
một vị vua, cái hỷ lạc mà dục lạc của thế gian tôi đầy đủ, tôi muốn cái gì cũng
có hết”. Ông Phật hỏi: “Vậy thì cái dục lạc của ông, ông đem một cái mâm đồ
ăn của ông này nè, ông ngồi ông ăn đây này, bắt đầu bây giờ ông ngồi ông
ăn đi, cái dục lạc ngon cái miệng ông nó có tới sáng được không? Ông bỏ vô cái
cổ là nó hết ngon rồi”. Phải không, ông làm sao nó ngon tới sáng được. Còn tôi
mà ngồi thiền á, thì bây giờ tôi ngồi thiền nè mà tới sáng mai đó thì cái dục
lạc mà ly hỷ ly dục lạc nó vẫn là đầy đủ, nghĩa là tới sáng nó liên tục nó có
cái dục lạc nó ly hỷ dục lạc nó đầy đủ. Còn bây giờ ông ngồi ông ăn đi, ông bỏ
miếng ăn này ông ăn riết hơi ông ớn ông thấy có dục lạc còn không? Ờ như vậy
đâu có dục lạc đâu mà ông nói ông đầy đủ, ông muốn cái gì nó có dục lạc đâu.
Dục lạc của ông nó chỉ cấp thời, nó có đó, rồi nó sẽ mất đi làm sao mà được một
ngày một đêm như tôi được, đó là tôi nói ít đó. Còn bây giờ ông nói cái dục lạc
gì ở trên thế gian này đi, ông thấy nó là hạnh phúc nhất của ông đi kéo dài một
ngày một đêm, ông chưa có. Còn cái dục lạc mà do ly dục ly ác pháp nó kéo dài
bảy ngày bảy đêm”. Các con thấy, ông Phật ông nói rõ ràng: nghĩa là liên tục,
thời gian liên tục tôi ở trong cái trạng thái ly dục, liên tục tôi thấy có một
sự an lạc, rất là thanh tịnh, an lạc rất là vĩ đại, nó kéo dài mãi bảy ngày bảy
đêm chưa hết.
Các con có ngờ không,
các con ăn cái bánh đó các con ngọt bỏ vô miệng nghe nó ngon quá, nuốt vô khỏi cổ
rồi còn không, còn ngọt còn chỗ nào đâu chỉ Thầy xem coi, cái lạc đó còn không?
Thì các con thấy cái dục lạc nó chớp thời, nó chớp mắt, nó không có kéo dài
được thì nó là cái vô thường, còn cái này người ta kéo dài từ đêm này sang ngày
kia đêm nọ, bảy ngày đêm vậy, liên tục như vậy thì có phải là nó thường không?
Vậy thì chúng ta đi tìm cái gì chứ, còn đi tìm đổ mà giả dối, đồ đó làm cái gì
mà chúng ta ham, thế mà Phật pháp đưa ra cái pháp để chúng ta ly những cái lạc
tầm thường đó mà chúng ta lại không thấy mà bây giờ lại thấy người ta đem đồ ăn
lại thích ăn, thích uống nữa thì có phải ngu không, các con thấy cái đó là cái
quá ngu, phải không.
Đó thì hôm nay lẽ ra thì
Thầy sẽ tiếp tục Thầy giảng về các giới cho các con nghe nhưng mới có trả lời
được có một mình cô Diệu Hồng thôi, sửa soạn con phải chuẩn bị tu lại chứ không
khéo tu như kiểu đó thì cái tâm nó vô lậu nó không có vô lậu được đâu, rồi chỉ
dùng cái Định hiện tại an lạc trú là cái Định hơi thở để cho nó yên ổn ở trong
cái yên lặng của cái đó mà tránh né nó. Rốt cuộc rồi hễ khi ngồi bình thường
rồi nó lại nhớ ra, nó đâu hết lậu hoặc, nó đâu có ly được ác pháp ly được dục.
Do vì vậy đó mà con phải nhớ kỹ sắp xếp lại, trạch pháp những cái câu, bởi vì
nó khó là cái Định vô lậu nó khó là phải trạch pháp cái câu cho đúng cách, gọi
đúng tên để mà chúng ta xả được cái lậu hoặc của nó thì nó mới có kết quả còn
nếu xả không được thì nó không có kết quả.
Đến đây Thầy xin chấm
dứt các con.
3. Con người ai ai cũng thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp
Vừa rồi thì Thầy có
giảng cái đoạn kinh này nhưng vì có lẽ là cái máy nó trục trặc nó không thu
được, hôm qua Thầy giảng cho bên nữ nhưng cái bài này cũng là có cái sự lợi ích
rất lớn cho cái người mới theo đạo Phật, nếu mà không biết được ba cái điều
kiện này thì đương nhiên theo đạo Phật chúng ta không biết cái lối nào vào
trước, lối nào vào sau. Cho nên cái bài kinh này rất có giá trị, vì vậy hôm qua
Thầy có giảng ở bên nữ nhưng vì không thu được cho nên hôm nay Thầy phải giảng
lại cái bài này cho bên nam. Rồi trước khi mà nghe xong cái bài này thì chúng
ta sẽ tiếp tục cái giới luật, giới bổn.
Bước đầu tu tập đạo Phật
chúng ta nên phải lưu ý có ba điều kiện rất quan trọng. Phàm con người ai ai
cũng thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp ở trong thế gian này. Nói chung
phần nhiều là cái con người mà sinh ra ở đời thì chúng ta thường thường thích
cái dục lạc của thế gian, cho nên ai ai cũng thân cận cái dục lạc đó. Và cái ác
pháp thì ai cũng thân cận, ít có khi mà thân cận cái thiện pháp lắm. Vì vậy mà
cái điều kiện quan trọng ở đây, của đạo Phật là chúng ta phải nhận ra, phải
thông hiểu những gì chưa thông hiểu, thông hiểu coi cái dục lạc đó nó như thế
nào mà con người ai cũng thích, rồi thân cận cái ác pháp tại sao chúng ta lại
thích ác pháp.
Đó, thì như vậy chúng ta
phải tìm hiểu, phải thông hiểu, vì có thông hiểu thì chúng ta mới có thể dứt bỏ
được, còn nếu mà không hiểu thì chúng ta không thể dứt bỏ được. Ví dụ như một
người họ ghiền thuốc hút, hoặc là thuốc phiện, hoặc là rượu mà họ biết rằng
rượu là tai hại, thuốc hút là tai hại, thuốc phiện là tai hại. Khi họ biết rõ
những cái loại đó là cái sự tai hại cho cơ thể họ dễ sinh ra bệnh tật làm cho
họ đau khổ thì như vậy họ biết nó tai hại thì họ bỏ. Còn nếu mà họ thấy cái đó
không tai hại thì chắc chắn là họ sẽ không bỏ. Muốn được như vậy thì chúng ta
phải có sự thông hiểu, mà muốn thông hiểu thì chỉ có Thánh pháp mới dạy cho
chúng ta mới có thông hiểu được mà thôi, chứ không có Thánh pháp thì chúng ta
khó mà hiểu được cái dục lạc của thế gian, cái bất thiện pháp ở trong thế gian.
Bởi vậy Thầy thấy có
nhiều thầy mà còn trẻ tuổi, họ thích thân cận ở bên phái nữ lắm, cho nên họ hay
đi tìm ở bên cái phái nữ, cũng như tu viện của chúng ta ở đây, tuy vậy chứ hầu
hết là cái tuổi trẻ, bởi vì nó có nam có nữ mà. Cho nên cái tuổi trẻ không thấy
cái thân cận, cái dục lạc đó là cái tai hại, cái khổ, cái nguy hại mà cứ mải
thích đi tìm nó thì nó sẽ đem đến cái tai hại cho mình chứ gì. Thế mà cứ đi tìm
nó thì cái đó là cái nguy hiểm. Chúng ta nên tránh, cái khu vực của chúng ta
thì chúng ta ở, đừng có nên lảng vảng đến cái khu vực của người nữ, vì vậy đó
là những cái nguy hiểm nhất, mà trong đạo Phật người ta rất sợ, cái đó rất là
sợ khi đi tu rồi người ta xem cái đó là người ta rất lo lắng, rất sợ.
Cho nên Thầy nhắc lại,
ông Anan ngày xưa ông hỏi Phật: “Thưa đức
Thế tôn! Chúng con là những người tu sĩ trẻ tuổi, đối với phái nữ chúng con
phải làm sao?”, thì ông Phật nói: “Đừng
có gặp”, rõ ràng là ông Phật ngăn ngừa chúng ta đừng có gặp phái nữ, thì
ông Anan hỏi: “Lỡ chúng con gặp làm sao?”
thì đức Phật nói: “Đừng có nhìn nó, có
gặp thì đừng có nhìn”. Thì ông Anan hỏi Phật: “Bạch Thế tôn! Nếu mà chúng
con lỡ nhìn làm sao?” thì ông Phật nói: “Đừng
có nói chuyện, lỡ đã nhìn nó rồi thì đừng có nói”, rồi ông Anan hỏi Phật: “Lỡ chúng con nói thì làm sao?” thì đức
Phật nói chỉ còn nước cuối cùng: “Thì hãy
xem họ như chị, như mẹ, hoặc là như em ruột của mình” thì chỉ còn có cái
nước đó là cuối cùng, đây là tới cái bệnh tật rồi, thì chỉ còn có uống thuốc mà
trị thôi. Nhưng mà vua Ba Tư Nặc ngồi đó nghe thì vua lại nói như thế này: “Như các thầy đã xuất gia rồi thì coi tất cả
như là anh, là chị, như em, như mẹ của mình được, còn chúng con là cư sĩ làm
sao coi được như vậy, làm sao nghĩ được như vậy, bởi vì mình ly gia cắt ái rồi,
mình bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ anh, bỏ em, bỏ chị em của mình hết rồi thì mình coi tất
cả mọi người đều là như là chị em ruột thịt của mình hết, còn chúng con là cư
sĩ thì chúng con làm sao mà chúng con
nghĩ như vậy được?”. Thì đức Phật mới nói: “Chỉ còn quán bất tịnh mà thôi”.
Đó là cái cuối cùng, cái
đỡ gạc cuối cùng, chứ cái mà đầu tiên thì chúng ta không nên gặp, khi mà biết
đi tu rồi thì tuổi trẻ chúng ta nên xa lìa nó đi, để cho chúng ta tu cho rốt
ráo rồi, xong rồi thì mặc tình chúng ta có gặp thì nó cũng chẳng lôi cuốn chúng
ta được. Chứ con bây giờ mà chúng ta mới tu, mà chúng ta gặp, nó xỏ mũi chúng
ta nó dẫn đi cũng như là một cái người mà chăn trâu, họ xỏ cái mũi con trâu họ
kéo đi đâu cũng được hết. Cái đó nó khó lắm, bởi vậy biết được cái đó rất khó
là khó, nhưng mà quý thầy trẻ tuổi quý thầy không thấy cái đó là khó mà không
thấy cái đó là rắn độc cho nên rất nguy hiểm cho quý thầy đó. Ở đây cho nên cái
bài kinh này là vì thân cận dục, thì trong cái dục đó không phải có cái ái dục
không, có cái dâm dục không, có cái tình dục không mà nó có nhiều cái dục mà
cái dục nào nó cũng có những cái lạc, chứ không phải không có lạc. Nhưng mà cái
lạc…
Cho nên nhà vua mới nói
với đức Phật như thế này: “ … Chúa là những người mà có đủ những cái dục lạc,
ngũ dục lạc thế gian chúng tôi hưởng đầy đủ không thiếu gì hết”. Do đó đức Phật
hỏi nhà vua: “Vậy cái dục lạc của nhà vua có thể một đêm một ngày nó có thể kéo
dài được không?”. Nhà vua nói: “Đâu có được”, nghĩa là chúng ta ăn một miếng ăn
thì nó ngon tới cổ nuốt hết thì nó hết ngon rồi thì đâu còn lạc ở chỗ đó nữa.
Cho nên vì vậy đức Phật nói: “Cái ly dục, cái ly bất thiện pháp thì cái hỷ lạc
đó nó sẽ kéo dài một ngày một đêm vẫn được như thường, nó không có gián đoạn.
Còn bây giờ ông chạy theo cái dục lạc của ngũ dục lạc nó chỉ có một chút xíu thế thôi chứ nó không
thể kéo dài một ngày một đêm được”. Và đức Phật nói: “Một ngày một đêm, rồi hai
ngày hai đêm, ba ngày ba đêm cho đến bảy ngày đêm thì cái người ly dục, ly bất
thiện pháp người ta có thể kéo dài cái trạng thái được bảy ngày đêm vẫn được
như thường, nó không có gián đoạn”.
Đó, thì như vậy là chúng
ta thấy khi mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp thì nó có cái trạng thái giải
thoát, nó hỷ lạc làm cho chúng ta sống suốt một thời gian rất dài mà không bao
giờ dứt đoạn. Còn cái dục lạc của thế gian ngay đó nó chỉ ngay đó nó cái lạc,
hỷ lạc nó một chút rồi cái nó mất, rồi nó đem lại cái khổ cho chúng ta chứ chưa
phải là nó đã kéo dài được.
Cho nên đức Phật đã dạy
cho thấy rằng cái dục lạc của thế gian nó quá ngắn ngủi mà luôn liên tục nó có
sự khổ đau kề cận bên đó. Cho nên ở đây, phàm con người ai ai cũng thân cận
dục lạc, thân cận bất thiện pháp ở thế gian. Nói chung là con người ai cũng vậy
cho nên điều thứ nhất, sau khi được nghe Thánh pháp Như lý tác ý, tức là ám thị
đó quý thầy, đó là pháp hướng đó, cái đó là rất quan trọng. Mình hiểu được Phật
pháp rồi thì thường phải nhắc đi nhắc lại ám thị tâm của mình để mình chứng
được cái Chánh pháp, chứng được cái lý của pháp đó và nương theo cái pháp đó mà
hàng ngày chúng ta sống gọi là Tùy pháp đó. Tùy là nương theo, cũng như bây
giờ hàng ngày mình nương theo cái hơi thở mà cái thân mạng của mình sống đó,
còn nếu mà mình không nương theo hơi thở, nó không thở ra thở vô thì chắc chắn
là mình chết. Vì vậy cho nên khi mà chúng ta biết được Thánh pháp, hiểu được
Thánh pháp thì chúng ta thường phải Như lý tác ý để chúng ta không có một thời
gian gián đoạn vì vậy mà chúng ta sống ở trong cái Tùy pháp đó. Thì người này
sống không thân cận dục lạc nghĩa là chúng ta nương vào cái pháp Thánh pháp đó
thì chúng ta sẽ không thân cận dục lạc nữa. Còn hầu hết là quý thầy không có
chịu sống nương theo cái Thánh pháp cho nên hễ để cái tâm nó có kẽ hở thì quý
thầy chạy đi tìm cái dục lạc của thế gian, thân cận người này, thân cận người kia,
rồi nói chuyện này, nói chuyện kia, lăng xăng, lích xích làm cho tâm của quý vị
luôn luôn bị dính mắc ở trong cái dục lạc của thế gian. Rồi từ cái dục lạc thế
gian đó, nó mới là sinh ra, khởi ra những cái ác pháp cho nên luôn luôn dính
mắc thân cận ở trong cái ác pháp, bất thiện pháp không bao giờ xa lìa được.
Nhờ sống không thân cận
dục lạc, không thân cận bất thiện pháp thì an lạc của cuộc sống khởi lên, lòng
vui mừng sung sướng khởi lên, thấy rõ con đường giải thoát của đạo Phật, và đối
với hàng ngày của cuộc sống không còn có sự va chạm làm cho tâm hồn đau khổ
nữa. Tức là
mình nương vào cái Thánh pháp rồi thì cái tâm của mình nó sẽ thoát khổ, mình
không có thân cận dục, không có thân cận cái ác pháp ở thế gian nữa thì lúc bấy
giờ mình nương vào mình theo cái pháp của Thánh pháp, thì mình va chạm trong
cái cuộc sống hàng ngày của mình, mình hoàn toàn được giải thoát, mình không có
còn đau khổ nữa. Đó là con đường tắt đưa đến an lạc, hạnh phúc thứ nhất của đạo
Phật.
Đó, thì ở đầu tiên chúng
ta mới vào đạo Phật thì chúng ta nên hiểu biết được Phật pháp, hiểu biết được
Phật pháp thì chúng ta không có nên thân cận với dục lạc, không có thân cận với
ác pháp. Đó là điều tiên quyết đầu
tiên mà cái người tu phải hiểu. Do
cái chỗ hiểu này chúng ta không thân cận nó, thì chúng ta sẽ ly nó được, sẽ cắt
đứt nó được, vì vậy mà ở đây Thầy dạy cho các thầy là sống độc cư, sống cô đơn,
sống một mình, sống trầm lặng cho nên chúng ta, đó là một cái chúng ta sống
không thân cận với dục lạc, không thân cận với ác pháp đó, cách thức sống của
chúng ta mà. Chúng ta sống như vậy là chúng ta sẽ không thân cận, còn sống mà
chạy tới chạy lui, đến thất này thất kia nói chuyện thì quý thầy nghĩ sao, có
thân cận không, thân cận với ác pháp chứ. Quý thầy nói quý thầy là nam, nhưng
sự thật quý thầy nói chuyện qua lại thì có sự bất toại nguyện trong lòng quý
thầy, tức là ác pháp chứ gì, nó làm cho quý thầy buồn bã cái này cái kia nọ đủ
thứ, đó là quý thầy đã thân cận ác pháp.
Còn nếu quý thầy sống
độc cư một mình mình trong thất, quý thầy không nói chuyện với ai làm sao có
thân cận ác pháp đâu. Cho nên ở đây Thầy chỉ nêu ra là sống độc cư, sống trầm
lặng là quý thầy đã không thân cận dục lạc thế gian, đã không thân cận ác pháp
thì quý thầy đã tự cứu quý thầy rồi. Rồi từ cái cuộc sống đó quý thầy sẽ đi tới
những cái pháp khác, do đó mà quý thầy được giải thoát chứ không phải được bây
nhiêu đó mà đủ nhưng đây là bước đầu, bước đầu của quý thầy, đây là một cái
pháp thứ nhất để đem đến hạnh phúc, đem đến sự giải thoát cho quý thầy.
Cho nên người mà sống
độc cư được là cái người đã không thân cận dục lạc, đã không thân cận ác pháp,
đó, quý thầy hiểu. Như vậy một danh từ độc cư cũng đủ thấy là cái điều mà Thầy
dạy có đúng Phật pháp không, rất đúng bởi vì Phật dạy chúng ta ở đây là không
thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp mà Thầy chỉ dạy là sống độc cư như vậy
là không thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp. Đó.
4.Thứ hai, phàm con
người chưa được trau dồi thân, miệng, ý nên thân hành thô lậu chưa được an
tịnh, khẩu hành thô lậu chưa được an tịnh, ý hành thô lậu chưa được an tịnh. Đó thì đức Phật nói khi mà chúng ta đã sống
độc cư rồi, đã không có thân cận những dục lạc rồi, đã không có thân cận các ác
pháp rồi thì bắt đầu chúng ta hiểu biết rằng cái thân hành, cái khẩu hành và ý
hành của chúng ta từ lâu rồi chúng ta chưa có trau dồi nó cho nên hễ hở một
chút là chúng ta có thể sanh ra, khởi ra những cái ác pháp ở trong thân hành,
khẩu hành, ý hành. Thì cái mục đích mà cái lộ trình nhân quả mà chúng ta đang
đi thì quý thầy thấy nó ở đâu? Ba cái hành này chứ đâu, thân hành, khẩu hành, ý
hành mới tạo ra nhân, mới tạo ra quả chứ còn nếu không có thì làm sao có nhân
có quả được. Quý thầy thấy chưa, ở đây đức Phật dạy rất rõ, thứ nhất là chúng
ta hãy tránh, hãy tránh cái lộ trình mà nó có thể sinh ra cái nhân quả, tức là
dục lạc và ác pháp nó sẽ sinh ra nhân quả. Mà bây giờ chúng ta tránh, tức là
chúng ta sống độc cư. Nhưng mà chúng ta sống độc cư mà chúng ta không chịu trau
dồi thân, miệng, ý của mình thì phỏng chừng mình có đi đến cứu cánh không? Không
có cứu cánh, mình phải trau dồi ba cái hành động thân, khẩu, ý của mình để chấm
dứt cái nhân quả.
Các thầy đâu hiểu rằng
chúng ta là những con người đang sống ở trong cái bầu trời của nhân quả, nó
đang phủ trùm mọi người mà quý vị không có vượt ra khỏi bầu trời thì quý vị sẽ
luôn luôn bị tri phối ở trong cái luật nhân quả. Người ta sống ở trong nhân
quả, người ta biết nhân quả sanh mình ra, người ta biết từ nhân quả đó mà mình
chết đi mình trở về nhân quả, thế thì chúng ta bị bao vây bởi cái nhân quả. Thế
mà chúng ta không có tìm cách để thoát ra nhân quả thì làm sao mà chúng ta gọi
là liễu sanh thoát tử. Nhân quả muốn chúng ta chết là chúng ta chết,
muốn sống là chúng ta sống, muốn sanh là chúng ta sanh chứ chúng ta chưa có
quyền làm chủ được nó.
Vậy thì bây giờ một
người tu theo đạo Phật, là phải chấm dứt nhân quả, làm chủ nhân quả. Làm chủ
nhân quả như thế nào? Người ta chửi mình mà mình không giận đó là mình làm chủ
nhân quả đó, mà người ta chửi mình mình giận là mình không làm chủ nhân quả đó.
Mà mình thấy một vật gì mà mình ham thích đó là mình chưa làm chủ nhân quả đó,
mà mình thấy không ham thích tức là mình làm chủ nhân quả đó. Giả dụ như cái thân của quý vị, là đang có
những cái thọ khổ bệnh tật quá đau khổ, nhưng quý vị làm chủ được nhân quả thì
quý vị chẳng bao giờ có thấy đau khổ, nhưng quý vị chưa làm chủ nhân quả thì
quý vị sẽ thấy sự đau khổ. Vì vậy mà chúng ta muốn làm chủ nó thì chúng ta phải
hiểu nó, phải biết nó, chúng ta là những người đang sống ở trong cái lộ trình
của nhân quả - đang chi phối chúng ta từng phút từng giây diễn biến sự thay đổi
của nhân quả liên tục ở trong thân và thế giới này. Thế mà không hiểu nhân quả.
Cho nên chúng ta chẳng
chịu trau dồi ba cái hành động của chúng ta. Bắt đầu chúng ta trau dồi gì trước
tiên, chúng ta phải trau dồi thân, thân hành, khẩu hành và ý hành. Vì hiện giờ
nó rất là thô lậu, tại sao vậy? Tại vì mở miệng ra là có làm khổ mình khổ
người, hành động của chúng ta ở thân, không hành động thôi, mà đã hành động ra
thì có giết hại có chết chóc chúng sanh, lỡ đi mà chúng ta đạp có phải là chết
hại chúng sanh không. Cho nên Phật dạy Tứ vô lượng tâm để làm gì, để chúng
ta tu cái tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả chúng ta, để luôn luôn chúng ta có ý
tứ ở trên bước đường chúng ta đi, ở trên cái hành động chúng ta làm, ở trên cái
ý của chúng ta nghĩ, ở trên cái lời nói của chúng ta nói.
Sau một thời gian được
nghe Thánh pháp, theo Thánh pháp Như lý tác ý, theo cái Thánh pháp để mà chúng
ta trau dồi ba cái thân hành, thân hành, khẩu hành và ý hành của chúng ta đó.
Sau một thời gian chúng ta nghe được cái Thánh pháp, hiểu được cái Thánh pháp
đúng như thế nào đó, chúng ta hiểu biết đó là con đường chân thật đưa đến chúng
ta giải thoát. Cho nên từ đó chúng ta trạch pháp ra, như cái trạch pháp đó, như
cái lý đó mà chúng ta tác ý ra chúng ta thực hiện trong cái đời sống hàng ngày.
Như vậy ở đây Phật dạy chúng ta như thế nào? Theo cái Thánh pháp đó mà tu cái
Định vô lậu đó, để chúng ta trau dồi cái thân hành, cái khẩu hành, và cái ý
hành của chúng ta. Hàng ngày phải liên tục tu tập để cho nó nương vào cái pháp
đó mà nó từng sống theo cái pháp đó mà ở đây Phật gọi là Tùy pháp. Và
chúng ta sẽ chứng đắc được cái pháp đó tức là nó thấm nhuần vào cái pháp đó.
Cái Chánh pháp đó nó cho làm thân, khẩu, ý chúng ta nó có những oai nghi, phạm
hạnh rất đầy đủ, nói ra, nghĩ ra một cái điều gì, nói ra một cái điều gì, hành
động ra một cái điều gì là đem lại sự an vui cho mình cho người, không làm khổ
mình khổ người. Do đó là chúng ta nhờ được Thánh pháp vì vậy mà chúng ta tu
tập, do sự siêng năng tu tập như vậy đó chúng ta mới thấy được cái đời sống của
chúng ta, cái tâm hồn của chúng ta được giải thoát hoàn toàn an vui.
Do công phu trau dồi thân
hành thô lậu được an tịnh, khẩu hành thô lậu được an tịnh, ý hành thô lậu được
an tịnh, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc và hoan hỷ trước kia đó là con đường
tắt thứ hai đưa đến an lạc của đạo Phật. Nghĩa là cái sự an lạc này nó hơn là cái sự an lạc của cái lộ
trình thứ nhất mà chúng ta đã tu tập. Cái lộ trình thứ nhất là Phật dạy chúng
ta như thế nào, như cái lý nó tác ý như thế nào, là chúng ta xa lìa cái lòng
ham muốn của chúng ta, xa lìa các ác pháp, đó là cái lộ trình thứ nhất. Còn cái
lộ trình thứ hai Thầy bảo chúng ta như thế nào, bảo chúng ta phải trau dồi cái
miệng, cái hành – cái thân hành, cái khẩu hành và cái ý hành của chúng ta, đó
là cái lộ trình thứ hai.
Chúng ta phải biết cách
tu tập từ cái một chứ, mới đầu chúng ta xa cái lòng ham muốn chúng ta chưa hẳn
hết đâu, đó, chúng ta xa ác pháp chưa hẳn hết đâu, cái miệng cái hành thân của
chúng ta nó còn, và cái ý hành chúng ta nó còn lung tung ở trong này chưa hẳn
là nó xa đâu. Cho nên tiếp tới thì chúng ta, giai đoạn hai của lộ trình thứ hai
này chúng ta phải tu tập là phải trau dồi cái thân hành thô lậu của chúng ta,
cái khẩu hành thô lậu của mình, cái ý hành còn thô lậu của mình để cho nó không
còn cái thô lậu đó nữa, do đó nó không còn nằm ở trong ác pháp, nó không còn
nằm trọn vẹn ở trong cái lòng ham muốn của chúng ta nữa thì nó sẽ có cái sự
khởi lên cái sự an lạc và cái sự an lạc đó nó sẽ hơn là ở cái lộ hành thứ nhất
mà chúng ta mới tu tập. Đó thì chúng ta phải thấy đây là cái giai đoạn thứ hai
của sự tu tập của chúng ta là trau dồi thân, miệng, ý, hành của chúng ta. Đó
5.Phàm người đời không
như thật biết đây là thiện,
nghĩa là ở ngoài đời người ta không biết đây, đây cái này là thiện mà cũng
không biết đây là ác, cho nên do đó người ta mới lầm lạc, vì vậy mà lầm lạc
người ta không có xa lìa các ác pháp được. Còn bây giờ đó, cái người mà được
nghe Thánh pháp rồi, thì người ta phân biệt được đây là ác, đây là thiện cho
nên ở trong này Phật dạy: “Phàm người đời, không như thật biết đây là
thiện, không như thật biết đây là bất thiện, không như thật biết đây là có tội,
đây là không tội, đây cần phải thuận theo, đây cần phải tránh né, đây là họa,
đây là hạ liệt, đây là cao thượng, đây là đúng, đây là sai, đây là tai họa, đây
là vô tai họa”. Chúng ta không có thấy được cái này cho nên
lúc đầu vô cái gặp tai họa rồi thì mới bổ ngửa ra đó mà chịu chứ không có làm
sao mà tránh né ở chỗ nào được hết. Cho
nên ở đây Phật dạy chúng ta, mình phải có cái sự sáng suốt như vậy để nhận
định, đây là thiện này, đây là bất thiện này, đây là có tội này, đó, đây là
không tội này, đây là thuận này, đây là nghịch này, đây là phải tránh né không
có được mà nhào vô này, đây là hạ liệt này, đây là cao thượng này, đây là đúng
này, đây là sai này, đây là tai họa này, đây là không tai họa. Mình làm sao
mình thấy được cái này thì do đó mình đã thấy được con đường nhân quả, mà mình
thấy được con đường nhân quả thì tức là mình ly được các ác pháp, mình ly được
các ác pháp tức là cái mầm của các dục của mình nó phải ly.
Đó thì đó là để nhắc lại
cái sự trau dồi của chúng ta thì đầu tiên chúng ta phải tìm cách xa lìa lòng
cái ham muốn của mình trước mọi vật, phải xa lìa nó và không được thân cận các
cái ác pháp. Cái thứ hai trau dồi thân, miệng, ý của chúng ta rồi tới đây tới
khi mà trau dồi như vậy chúng ta cần phải học, cần phải thông hiểu. Thông hiểu
cái gì? Thông hiểu đây là thiện, đây là không thiện, đây là ác, đây là không
ác, đây là tội, đây là không tội. Đó là mình phải phân biệt cho rõ ràng giữa
hai cái này. Vì phân biệt như vậy do đó chúng ta phải học Thập thiện, mà không
học Thập thiện thì ít ra chúng ta cũng phải học nhân quả, mà cái bộ sách nhân
quả bây giờ thì chưa có ai viết, người ta viết nhân quả bằng cách mê tín thì
có, nhưng mà viết cái nhân quả mà đúng cái luật nhân quả, hoàn toàn là sự thật
thì chưa có ai viết nổi cái bộ nhân quả.
Cho nên ở đây là Thầy
thấy rằng mình cũng có một cái trách nhiệm là một vị tu sĩ từng sống ở trên cái
lộ trình của nhân quả mà bằng chứng là các con cũng đã thấy rằng Thầy đang sống
ở trong thực nhân quả cho nên hoàn toàn là trước cái nhân quả Thầy vẫn thấy tâm
Thầy bất động. Các con thấy rất rõ mà, Thầy bất động, Thầy không có bao giờ dao
động trước cái nhân quả. Cho nên vì vậy mà Thầy là một cái gương đứng trước cái
lộ trình nhân quả mà tâm vẫn bất động. Vậy mà các con còn không có nương vào
Thầy để mà sống, hở ra chút nào thì các con thấy vẫn là phiền não, vẫn là đau khổ.
Đó là không thấy cái lộ của nhân quả, chứ còn thấy cái lộ của nhân quả thì liền
ngay đó thì mình không có còn cái tâm nào mình biết giận hờn ai nữa hết, mình
không có còn phiền não ở trong lòng mình hết, mình thấy nhân quả rồi thì còn
cái gì mà mình lại đau khổ. Còn các con không thấy nhân quả cho nên hở chút nào
là các con có sự đau khổ trong lòng của các con liền tức khắc.
Người ta nói nặng nói
nhẹ mình, người ta mắng chửi mình hoặc thế này thế kia đều là ở trên cái lộ
trình nhân quả, chứ ngoài nhân quả làm sao cái điều này được. Mà đã thấy nhân
quả thì làm sao mà cái tâm mình nó làm sao nó giận hờn, nó phiền não được, cho
nên mình thấy mình rất là an vui. Sống trong nhân quả, thân do nhân quả sinh ra
thế mà chúng ta lại trốn nhân quả là trốn ở chỗ nào vậy mà con người luôn luôn
muốn trốn nhân quả thì Thầy thấy đó là cái vô lý, (mặt B) cũng như bây giờ mình sống ở trong cái nhà
này mà mình gọi là mình trốn cái nhà này là trốn làm sao? Nhà nó đậy mình ở
trên này rồi mà nói trốn cái nhà trốn ở dưới đít bàn thì trốn được có không,
trốn, trốn cái gì, cái nhà nó ở trên, cái bàn này nó ở dưới thì nó cũng đậy
luôn cái bàn nữa, mình chun dưới cái bàn này thì nó cũng đậy mình luôn nữa chứ
có gì đâu mà trốn. Cho nên trốn ở đâu cũng không khỏi hết.
Vì vậy mà mình đương nhiên mình biết
được nhân quả thì cứ ngồi giữa cái nhà nhân quả mà làm Phật ở đó thì không phải
khỏe sao. Các con thấy không như ông Phật ông ngồi trong cái nhà nhân quả ông
có buồn không, hề hề ông ngồi đó mắt ông hí ông ấy cười, các con nhìn cái miệng
ông coi ông cười luôn chứ ông có khóc không. Còn
chúng ta mỗi lần cái nhà nó hơi rung rinh là cái miệng nó méo xẹo à, phải
không? Thầy nói có không? Có người nào cái miệng không méo? Đó là những cái mà
chúng ta không thấy mình đang sống ở trong cái nhà nhân quả, chứ còn Thầy là
người đã từng đã hiểu biết đường đi nước bước của nhân quả, từng sống trong cái
nhân quả, bây giờ có cái thân này là thân nhân quả rồi thì bây giờ mỗi một chút
như cái cô Minh Cảnh mỗi một chút cái vai nó đau thì: “Trời ơi, đau”. Đã sống ở
trong nhân quả mà còn méo cái miệng, đau cái vai thì Thầy nói làm sao. Khi mà
cái bụng đau thì: “Ôi trời ơi, cái bụng đau quá”. Trời ơi nhân quả thì nó đau
mặc nó chứ phải cái bụng mình đau đâu mà sợ,
thế mà cứ rên. Thầy nói thật sự, người mà biết nhân quả chết bỏ nhất định không
rên, mình đã sinh ra trong nhân quả thì nhân quả nó làm gì mặc nó thì nhân quả
tự nó làm chứ đâu phải mình làm, sao mình sợ, mặc nó làm gì nó làm, chết sống
cũng do nhân quả chứ ai vô đây. Cho nên chúng ta đâu có định đoạt cái số mệnh
của chúng ta được, chừng nào mà chúng ta làm chủ được nhân quả thì chúng ta
định đoạt được cái số mệnh. Nhưng mà bây giờ nhân quả nó rớ tới mình cái là
mình méo miệng liền, rớ tới cái là mình lôi chân mình nhẩy ra liền. Thử hỏi làm
sao mà gọi là mình sống mình làm chủ nhân quả.
Còn đối với Thầy, Thầy
làm chủ nhân quả nó có làm gì Thầy được đâu. Cho nên đối với Thầy thì tâm nó
như như bất động, còn các con thì không có được nổi. Cho nên từ đây về sau các
con phải thấy cái lộ trình của đức Phật và chúng ta đi trên cái lộ trình nhân
quả, sống trong nhân quả mà vượt ra
nhân quả. Cũng như một bầy cá đang sa vào cái lưới chỉ có một con cá giỏi nhất
vọt ra khỏi lưới. Con cá đó giỏi thật, nó giỏi thật là tại sao, nó biết là nhân
quả nên nó không ở trong đó. Thầy thì cũng đang ở trong nhân quả như các con,
nhưng mà Thầy đã vọt ra các con có thấy đâu,
cho nên tại sao các con không theo Thầy mà nhảy ra, bởi vậy phải cố gắng mà
nhảy chứ, co đuôi nó vậy, thẳng đuôi nó vậy, bay nó ra mới được chứ, các con co
sơ sơ bay sao nổi. Các con thấy cá mà nó vượt võ môn tam cấp không, con nào mà
giỏi luôn thì co đuôi cao thì bay qua khỏi không thì xán vô mấy cục đá đó rồi
chết tiêu nó luôn hết chứ đâu còn. Các con thuộc về loại cá dở, cá thi rớt đó,
rớt ở trên đá nó bể đầu chết hết.
Cho nên ở đây, đối với
Thầy về cái thân bệnh cũng như về tất cả mọi cái, các con thấy khi mà Thầy đi
thành phố bị dầm mưa đó, về nào là mệt, nào là ho, mặc mày chết bỏ nhất định, giảng
là giảng không có sợ, không có nghỉ. Thầy thấy có chết không, các con thấy
chưa? Nay Thầy khỏe nhiều hơn rồi, đâu có chết. Hồi sáng đi đi chứ về về cũng
vẫn giảng như thường, cho nên bây giờ Thầy có thấy cái...bởi vì sống trong nhân
quả, biết nhân quả rồi thì thân này là thân nhân quả, mình sử dụng nó giờ nào
cũng được hết chứ có gì mà phải nghỉ mình, mình
có gì mà o bế nó như vậy, nó có phải vàng bạc châu
báu của mình đâu mà phải nuôi nấng nó, phải vỗ về vậy, thôi để giữ cho khỏe để
mai mốt rồi giảng nữa, như vậy là mình sợ nó rồi, sợ nhân quả rồi. Phải không
các con? Cho nên Thầy không sợ nhân quả. Mày chết bỏ, bữa nay tao còn giảng,
tao còn nói được cứ ráng nói không sợ thằng nào hết. Mà nói còn lớn nữa, không
chịu nói nhỏ nữa, phải không? Đâu có chịu thua. Bởi vậy con người biết thắng
nhân quả thì không bao giờ sợ nhân quả, cho nên quý thầy nói: “Thầy nói nho
nhỏ, Thầy nói lớn quá, Thầy giảng không hết cái giáo án này”. Không hết có
người thay thế Thầy giảng, chứ bộ mình Thầy à, Thầy đâu có giành làm mình. phải
không? Còn có nhiều người thay Thầy làm chứ. Cho nên Thầy cứ giảng, cứ giảng
hết sức mình thôi, nhưng mà nhân quả nó có cái mực, nó thua Thầy, nó sẽ lui. Cho
nên bây giờ, hôm qua Thầy nói hơi hơi cái nó ho, nay Thầy nói nãy giờ đâu có ho
cho nên nó thua Thầy. Đó là cái Thầy chiến thắng nó đó, còn nếu mà Thầy nhịn
nó: “Ờ bữa nay đi mệt quá thôi chiều nay nghỉ mai giảng” nó nói Thầy thua nó,
cho nên chiều nay nó hành hạ Thầy ho dữ lợn tợn lắm đó. Còn bây giờ Thầy nói
đã, nó bay đâu mất hết rồi đâu có thua.
Cho nên làm người mà
biết được nhân quả không bao giờ sợ. Vì vậy mà cái lộ trình ở đây Phật dạy cho chúng ta biết ba cái điều
kiện mà Thầy đang dạy các con đó. Là cái thứ nhất cũng nằm trong nhân quả này,
cái thứ hai là mình trau dồi miệng lưỡi để
mình chiến thắng được cái hành động của nhân quả bởi vì nhân quả nó hành động
chỗ nào các con biết không? Thân hành, khẩu hành và ý hành, nó lấy ba cái chỗ
của cái nhân quả thân chúng ta để nó hành ba cái động tác này để mà nó đưa nhân
thiện nhân ác, để nó đưa chúng ta đi vào cái vòng luân hồi sanh tử nó mãi mãi.
Cho nên mình há sợ nó sao?
Cho nên đầu tiên đức
Phật dạy khéo léo lắm, chúng ta biết cái dục, là mỗi con người do cái dục mà vì
vậy mới tạo thành cái nghiệp, mà tạo thành cái nghiệp tức là nhân quả, cho nên
đầu tiên ông Phật dạy: xa lìa đừng có thân cận thứ dục này, dục này là tai hại
lắm, nguy hiểm lắm, nó là rắn độc, bỏ đi. Đó là đầu tiên phải không, ác pháp nó
là rắn độc nó là nguy hiểm, nó làm chúng ta khổ, cho nên đầu tiên ông Phật dạy,
như cái lý đó mình thường nhắc, đặt niệm trước mặt, quán xét bỏ cái tâm dục
mình ra đi, cái lòng ham muốn gì cũng bỏ ra, ham muốn tốt cũng bỏ, ham muốn xấu
cũng bỏ, bỏ sạch ra hết.
Còn này, các con nhớ con
nhớ cái, nói tôi tốt tôi thương con cái tôi đâu có gì đâu mà xấu, chứ nó cũng
lôi kéo các con cũng là ác pháp chứ không phải là thiện pháp đâu. Bỏ ra đi, dẹp
ra đi không có con cái gì, cũng là nhân quả chứ không phải con cái gì hết, đó
là vay nợ nhau cả chứ gì mà ở đó mà con cái, phải không? Các con, suy tư như
vậy các con quán bỏ nó ra. Đó là lộ trình thứ nhất cũng chỉ rõ nhân quả.
Lộ trình thứ hai do ba
hành động nhân quả chúng ta cũng phải dẹp nó luôn. Từ cái chỗ ba hành động này
nó mới có nhân quả chứ nếu không có miệng lưỡi, thân hành, khẩu hành, ý hành
chúng ta làm sao có nhân quả. Một người ngồi thiền ngậm miệng cứng ngắc làm sao
nói đâu được mà có nhân quả chỗ đó được, ý không khởi niệm gì hết làm sao nó có
những cái nhân quả được, thân kéo cho ngồi cứng ngắc đó cũng như gốc cây sao nó
hành chỗ nào được mà nhân quả. Phải không các con, thấy rõ ràng nó đâu có nhân
quả được, cho nên nó tê liệt, ba cái thằng nhân quả nó tê liệt nó đứng ở ngoài
kia nó ngó vô chứ đâu dám lại gần. Cho nên Thầy chẳng sợ. Thầy nói lia lịa chứ
nó không nhập vô được bởi vì Thầy nói toàn là pháp xa lìa nó không, cho nên nó
hoảng hồn, nó ở trong bụng Thầy nó hoảng hồn nhảy mất, cho nên Thầy tự tại, an
vui, không có sợ hãi.
Đó, các con thấy không,
cho nên các con thấy mấy bữa kia Thầy nói sơ sơ cái, nó ở trong nó nhảy ra nó
chặn họng Thầy, không cho Thầy nói, mệt rồi phải ráng nói nữa, còn nay nó đâu
dám chặn Thầy nói giảng tuốt nó đi hết rồi. Bởi vì người tu hành đâu có ngán nó
cho nên nó sợ, chứ còn không khéo cứ đi nhà thương chích thuốc khỏe rồi cho nó
khỏe khỏe, trời cái thứ đó nhân quả nó nằm đầy bụng, nó nằm đầy óc đầy bụng
mình, nó hành dữ lắm. Cho nên đối với Thầy, quý thầy nghe Thầy hơi ho này, nghe
quý thầy nói để châm cứu, thì nó châm cứu chi cho đau, điên gì mà châm cứu, cái
mình không đỏ mà cứ giác không giác cho đỏ tùm lum ra đó. Điên gì mà làm cái
chuyện đau, nhân quả nó đã như vậy rồi mà còn làm thêm đau mình nữa, kệ nằm ngủ
cho đã đi thôi nó hết chứ gì, còn không thì mình ngồi thiền nó cũng hết chứ gì. Bởi vì
ngồi thiền nó đâu có hành động gì.
Cho nên mình ngồi thiền
mình tập trung, mình gom mình bảo cái ý thức á, cái biết đó phải nằm ôm chặt
cái tụ điểm, đừng có nằm ở chỗ cái vai hay cái chỗ nào đau đừng có nằm cái chỗ
đó. Bắt đầu nó nằm im, nó không thấy đau nữa không phải khỏe mình sao, còn ngồi
đó đi giác hay đi chích nó đau thấy bà luôn, còn lại đem
lửa đốt nữa thì thôi chết được, thọ lại còn thọ thêm nữa, ngu quá, các con thật
ngu đó. Còn đau đâu phải chuyện thứ thuốc đắng cứ kê miệng uống, trời ơi ngu gì
mà giữ vậy, ngon ngọt mà không thèm còn đắng lại uống vô chi. Cho nên đối với
Thầy, nhân quả không sợ Thầy được, cho nên cuối cùng Thầy giải thoát được nhân
quả hết, khỏi cần hết. Biểu mấy đứa này chắt ba nước cơm, làm chi các con biết
không? Nó có mệt mình uống vô miếng nước cơm cũng khỏe chứ, nhưng mà nói chứ trưa
phải uống chứ không thể uống bậy được.
Đó, đó là những cái điều
kiện mình chiến thắng nhân quả. Tới đây Thầy muốn nói, qua cái hành động thắng
nhân quả của Thầy, sống trong nhân quả, biết mình bị cái nhà nhân quả nó phủ
trùm mình rồi, mình không có đường nào mình đi ra khỏi nó hết. Cũng như bây giờ
người ta sinh ra ở trong cái bầu trời này, mà muốn chạy đông chạy tây thì nó
cũng ở trong bầu trời, có ai mà chạy lọt ra ngoài bầu trời được không các con.
Phải không? Cho nên nhân quả nó là cái bầu trời rồi, nó đè mình đây, nó phủ
mình đây này, bây giờ chạy đâu không được hết. Vậy thì mình ở trong bầu trời
này mình làm chủ cái bầu trời đi, phải không? Cho nên một cái nhà khoa học ông
ta nói nếu cho tôi một cái bẩy tôi bẩy bầu trời cho mà xem, phải không? Ông nói
ông bẩy được quả địa cầu mình tức là ông bẩy bầu trời đó. Vì vậy cho nên ở đây
Thầy cũng nói, Thầy cho các con một cái tụ điểm mà các con biết khéo giữ gìn
cái tụ điểm này các con sẽ đẩy được cái nhân quả, bẩy văng cái nhân quả nghĩa
là không có còn cái nhân quả nào mà bắt buộc các con đi trên cái lộ trình tái
sinh luân hồi được nữa. Nhưng các con không nghe, không nghe lời Thầy, cho nên
không tạo được cái tụ điểm cho chính mình, để cho mình tạo được cái điểm tựa,
để cho mình bẩy cái vũ trụ, các con hiểu chưa? Đó là mình bẩy cái bầu trời nhân
quả đó. Cho nên cái nhân quả đâu có làm chủ được mình nữa. Cho nên bây giờ thí
dụ như, thân của Thầy, Thầy muốn chết hồi nào chết đó, là tức là Thầy bẩy được
vũ trụ được rồi đó, Thầy ra khỏi nhân quả rồi, cho nên Thầy bảo nó chết nó
chết, nó sống, nó đâu có làm chủ muốn sai Thầy được. Còn các con bây giờ làm
chủ được chưa? Chưa thì phải ráng chứ, ráng bẩy cho nó bay cái vũ trụ này cho
rồi, để nó làm chi nó đè trên đầu mình, cho nên nó đè chừng nào mình khổ chừng
nấy à.
Đó, bây giờ tới giai đoạn
thứ ba.
Sau một thời gian nghe
được Thánh pháp, như cái lý mà tác ý, chứng đắc Chánh pháp và Tùy pháp, bấy giờ
mới biết như thật, đây là bất thiện, đây là thiện. Sau một cái thời gian tu tập ở trên hai cái
giai đoạn thứ nhất, thứ nhì đó thì các con mới biết đây mới là thật đó, đây là
thật khổ đó. Bây giờ nói đời khổ chứ các con chưa biết khổ đâu, biết chứ không
phải biết, có khổ chứ phải không khổ, nhưng mà biết như thật không có biết đâu,
còn ham lắm, còn thấy khổ còn chạy, chạy theo sao biết sao, Thầy nói sao các
con biết khổ mà sao còn chạy không, ngồi đây mà các con nhớ con nhớ cái không
phải là biết khổ mà còn chạy đó, có không, có bao giờ mà các con khỏi hết nhớ
con nhớ cái không, phải không. Ngồi đây mà còn nhớ ăn nhớ uống thì có phải là
biết khổ mà còn ham không, ăn nó bộ sướng lắm sao, mất công ngồi ăn chứ bộ
không mất công ra, nhưng mà tại vì đói mới ráng ăn. Còn mấy con, chờ cho đói,
cho tới giờ ăn là ăn cho ngon miệng, thì cái kiểu đó là biết khổ mà còn tham
khổ, còn Thầy đói mới ráng mà ăn chứ thiệt bữa trưa cũng không muốn đi ăn nữa
chứ đừng nói, đó là người ta đã biết nó là bất tịnh như thế nào người ta không
có thèm khát nó nữa đâu.
Cho nên vì vậy đó cái
người mà tu mà người ta biết đây là thật khổ rồi, đây thật sự là thiện, đây là
bất thiện, người ta biết rất rõ rồi. Đây là tội, đây là không tội, đây cần phải thuận
theo, đây cần phải là không thuận theo, đây cần phải là tránh né, đây là hạ
liệt, đây là cao thượng, đây là đúng, đây là sai, tất cả những cái này bây giờ
người ta biết rất rõ. Nghĩa là người ta biết
được cái nhân quả, cũng như là hiện bây giờ Thầy biết rõ nhân quả, cho nên Thầy
ngồi ở trong bầu trời nhân quả mà Thầy được giải thoát. Còn các con bây giờ,
nghe nói nhân quả, hiểu nhân quả chứ chưa thật biết nhân quả, cho nên Thầy nói,
hở chút nào thì các con buồn, các con khổ, các con méo miệng, các con đổ nước
mắt, các con rầu rĩ, ỉ ê đủ thứ hết, đó là các con chưa biết được cái nhân quả.
Còn khi nào mà các con biết được nhân quả tức là các con đã thông suốt
đây là thiện, đây là bất thiện, đây là tội, đây là không tội thì đó là các con
đã biết được cái lộ trình nhân quả.
Lẽ ra Thầy nói như vậy
các con lắng tai mà nghe, các con thâm sâu khi mà vừa nghe rồi các con đã chứng
Thánh quả liền tức khắc, nghĩa là buông xuống hết, người nào cũng A la hán hết
trơn đây. Thì chừng đó các con muốn đây mà vô trong mấy thất đó các con khỏi
cần đi, chỉ cần tàng hình một cái là tới ngay liền, đâu có cần. Bởi vì khi mà
chúng ta đã buông xả được, cái tâm nó liền tức khắc chúng ta đã làm chủ được
nhân quả rồi, chúng ta chỉ cần ngồi xếp bằng bảo cái thân bây giờ bay ra cốc
ngồi ở trên giường cho tao, cái nó bay ra khỏi nó ngồi liền. Đó là mình đã
thanh tịnh cái thân tâm của mình rồi, chứ đâu phải cần mà tu tập cho cực, nhưng
mà tại vì cái tâm mình chưa chịu buông nó ra, chưa thật thấy đây là thiện, đây là bất thiện cho nên chưa thật thấy
cho nên cái tâm của các con nghe thì nó có hiểu, nhưng mà cái buông xả xuống
cho nó thật buông thì chưa có buông, buông thật xuống.
Cho nên phải chờ một cái
thời gian mà các con phải đặt cái niệm đó mà như cái lý mà tác ý cho đến khi mà
biết thật, như thật, đây là thiện, đây là ác, đây là tội, đây là vô tội. Khi mà
các con biết được như vậy rồi thì các con chỉ cần ngồi xếp bằng đây, đừng có
thèm đi, đạp kiến nó chết tội, các con biểu nó bay ra ngoài nó bay ra. Sai cái
thân mình, cái thân mình là nhân quả mà mình làm chủ nhân quả thì mình bảo nhân
quả thì nó phải làm theo, các con hiểu không. Còn bây giờ các con chưa có làm
chủ được nhân quả bảo cho nên bảo gì nó ngồi lì đó à, bây giờ chỉ còn có nước
là mình phải chịu khó bước đi thì nó mới đi, chứ không bước đi nó không đi, cái
thứ cái thân này là lười biếng nhất thiên hạ, mà nó đau nó đau nó cũng làm cho
các con cũng khó chịu nữa, còn cái người ta làm chủ nhân quả bảo đừng có đau
thì cái đầu nó không đau, cái thân nó không đau nữa, còn mà không có làm chủ
được nó bảo sao nó cũng đau hết rồi.
Thì trong cái vấn đề mà
tu tập ở cái giai đoạn thứ ba này là chúng ta đã thấm được cái lý tức là chứng
được cái lý đạo, người ta nói ngộ đạo chứ chưa chứng đạo, một thời gian sau
chúng ta mới chứng đạo. Vậy thì cái giai đoạn thứ ba này là cái giai đoạn chứng
đạo chứ không phải cái giai đoạn ngộ đạo mà cũng không phải cái giai đoạn đang
tu, mà cái giai đoạn này là giai đoạn chứng đạo.
“Nhờ Chánh pháp và Tùy
pháp, biết như thật, thấy như thật, vô minh được diệt trừ, minh được sinh khởi,
nhờ thế an lạc khởi lên, hỷ khởi lên đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an
lạc được đức Phật đã chỉ dạy”. Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta ba cái lộ
trình, ba cái giai đoạn tu tập, cái giai đoạn thứ nhất là chúng ta phải sống
đừng có thân cận với dục lạc, đừng có thân cận với ác pháp; mà giai đoạn thứ
hai thì chúng ta trau dồi thân, miệng, ý của chúng ta, những cái hành động thân,
miệng, ý của chúng ta. Khi mà trau dồi như vậy rồi, tu tập như vậy rồi thì
chúng ta chứng được cái lý, giai đoạn thứ ba chúng ta chứng được cái lý nhân
quả, chứng thật được cái lý nhân quả làm chủ được sự sanh tử luân hồi của chúng
ta. Đó là ba con đường tắt mà chúng ta cần phải theo đó mà đi, theo đó mà tu
tập.
Tóm lại thì rất là ngắn
gọn, nó chỉ có ba giai đoạn tu tập. Giai đoạn thứ nhất là chúng ta đừng có gần
cái sự ham muốn của chúng ta. Vậy thì muốn đừng gần cái sự ham muốn của chúng
ta thì chúng ta nên cắt ly tất cả những vật dụng thế gian. Đó thì nói tóm tắt
nếu mà chúng ta gần những cái nơi mà vật dụng thế gian nó tiện nghi đầy đủ thì
chúng ta làm sao mà chúng ta ly nó được. Cho nên chúng ta phải tìm cái cách
sống của chúng ta, sống làm sao mà đơn giản, dưới một chòi tre vách lá đơn sơ,
vài cái muỗng dừa để ăn cơm, uống nước mà thôi. Không Thầy nói, những cái vật
đó chúng ta không có tiếc các con, chứ còn chén đĩa, đồ này kia coi chừng nó
dính dữ lắm. Lựa mấy cái muỗng dừa của người ta đó, mình cạo cho sạch đi rồi
mình cũng đựng ăn cơm được, uống nước được chứ gì đâu, thứ đó không ai tiếc
hết, mình cũng không tiếc cho nên không có dính mắc. Thầy nói thì nó đơn giản
vậy chứ mà các con buông hết rồi các con sẽ thấy nó là giải thoát, thật sự đó.
Trong nhà của mình có mấy cái muỗng dừa mình treo móc lên, không bao giờ mà sợ
ăn trộm lấy, đời không giải thoát sao, lấy chi ba cái muỗng dừa.
Cái nhà con, cái thất con ở dưới đó, mà các con treo chừng một chục cái muỗng
dừa không ai thèm lấy đâu, Thầy không, Thầy nói thật mà cho nên bỏ hết, còn y
áo của mình thứ rách rách cứ treo đi, ăn trộm không có lấy nữa còn thứ mà lành
tốt các con nguy hiểm lắm, mất công giữ cho nên không có giải thoát đâu.
Vậy cho nên chúng ta
phải, đó là Phật nói mình ly dục đó, mình ly dục là lòng ham muốn của mình, mà
giờ làm sao giờ? Thì ly đồ vật hết thì nó mới hết thôi ham muốn chứ, còn đồ vật
là còn ham muốn à. Cho nên vì vậy, bây giờ thí dụ như bây giờ Thầy nói Thầy ly,
nhưng mà bây giờ máy móc cái này cái kia đầy hết thì nói ly chứ Thầy nói láo
chứ đâu có ly được, bây giờ Thầy đi vô rừng núi không có gì hết, Thầy có ba
muỗng dừa thì chắc chắn là Thầy ly rồi. Đó là chắc chắn rồi đó, đó là cái kiểu
không có gì hết, mà còn lại cái cuộc sống của Thầy thì nhờ củ rừng, hay là củ
mài, củ rạng, cụ vịt gì trong rừng đào ăn nữa thì hay là củ nho đồ đó thì còn
khỏe biết mấy nữa, phải không đâu có lo cái đời sống nữa thì rất là sung sướng.
Có năm ba cây mít gì ở trong rừng đó mà trái nó nhiều đó mình hái mình luộc
mình ăn thay cơm cũng đỡ nữa rồi, cũng khỏe. Thầy nói nghe nói mấy người đi
rừng khi mà không có cơm gạo, không có bắp đó, rồi cái bắt đầu họ đi tìm mấy
cây mít ở trong rừng đó, thấy trái trời họ mê lắm, họ hái trái họ luộc ăn, với
chuối rừng đó, họ bẻ họ luộc, chuối sống đó họ luộc họ ăn họ cũng no bụng nữa,
mà thiệt ra ăn no bởi vì cái chuối nó có bột chứ cho nên nó vẫn sống như thường
à.
Đó là cái cách thức sống
mà Thầy đã từng góp nhặt của những cái người mà ở rừng, ở rú để khi mà mình lỡ
bước ở trong rừng rồi đó thì mình có sống mình cũng thấy sống dễ thôi, không có
khó khăn. Do cái trí của mình cho
nên mình tạo được cái đời sống giải thoát, vì vậy đó mình ly dục ly ác pháp thì
mình phải tạo cái hoàn cảnh sống trước đó. Thì ở đây đức Phật muốn nói, thì mình nói ly dục ly ác pháp ly
làm sao lìa đây, đừng có thân cận dục, đừng có thân cận làm sao, thì thân cận
dục là gì, có đối tượng dục nó mới có dục chứ không có đối tượng dục làm sao có
dục được, có bàn có ghế mới có ham chứ còn không bàn không ghế thì mình ham
muốn cái gì giờ. Cũng như bây giờ Thầy có đống đất trắng thì Thầy ham muốn cái
gì giờ, ngồi trống bốc vậy thì ham cái gì được đâu, thành ra nó chẳng có tức là
không ham, mà có thì phải ham thôi. Do đó khi mà nó không có rồi bắt đầu mình
mới trau dồi cái miệng, cái hành động thân của mình, trau dồi cái miệng cái ý
của mình, mình trau dồi cái nào nó cũng đầy đủ cái oai nghi chánh hạnh của nó. Thì
tức là từ cái không có mình mới trau dồi được, chứ mình có mình trau dồi cũng
khó lắm, khó trau dồi lắm.
Đó là những chuyện mà
cái người có hành pháp, có chuyên tu rồi người ta mới biết được cái này, còn
cái người mà không có hành pháp, họ nói khơi khơi khơi khơi vậy mà họ sống cả
đống dục, đồ đạc cả đống mà biểu họ ly dục họ làm sao họ ly được. Cho nên đây
là cái kinh nghiệm bản thân mà Thầy nói ra, thì các con thấy, lần lượt các con
dẹp hết, dẹp hết thì các con sẽ thấy mình ly hết thì nó hết dục rồi. Bởi vì
không còn gì nữa thì còn gì nó dục, nó phải sạch. Và từ đó mình sống vậy đó
mình thiểu dục tri túc rồi, nó an vui nó hạnh phúc vô cùng rồi thì chừng đó
mình thấy chỗ cái ly mới đem lại cái lạc, cái hỷ lạc của nó tuyệt vời. Cho nên
chừng đó mình thấy đồ đạc người ta đem đến người ta cho mình, thôi thôi tôi
không nhận nữa đâu, tôi sợ thứ này lắm, nó sinh ra ba cái ngủ nghê không có được,
nó cứ lo ăn trộm ăn cắp hoặc cái này kia nọ đủ thứ hết, thôi thôi tôi xin từ
đi. Cho nên các con thấy Phật tử người ta cúng Thầy cái này cái kia Thầy sợ
lắm, làm mấy cái này bởi vì nó có những cái đối tượng thì nó sinh ra lòng ham
muốn của mình à, còn nó không có thì mình không có ham muốn nữa, thôi mình bỏ
hết thì tức là mình giải thoát à. Do vì vậy đó, mình trau dồi những cái pháp
mình lần lượt mình sẽ thấy cái tâm hồn của mình càng ngày nó càng trống và càng
sạch sẽ rồi nó thanh tịnh, chứ không phải mình ngồi mà mình tu như thế nào mà
nó thanh tịnh nữa. Từ cái kiếp sống của mình
từ rồi từ cái sự trau luyện, trau dồi cái thân tâm trong cái sự không có mình
trau dồi nó mãi nó thanh tịnh được, chứ còn nó có không có thanh tịnh được đâu. Cho nên thấy những người tu mà nó có nhiều Thầy
biết người đó không có trau dồi gì được không có tu tập gì được, khó lắm, cho
nên ở đây nó là cái thực chứ không phải là cái giả. Đó là những cái điều kiện,
ba cái điều kiện mà chúng ta cần phải tu tập.
Và kế tiếp thì Thầy sẽ giảng
nói luôn trong cái lời mà trả lời cho một vị cư sĩ ở ngoài miền Bắc hỏi Thầy,
sẵn dịp Thầy cũng sẽ trả lời để cho thấy cái bước đường mà mới tu tập nó phù
hợp với những cái lời Phật dạy, ba cái cách thức để tu tập, để mà biết cách mà
tu tập cho nó được giải thoát ra khỏi cái bầu trời của nhân quả mà đang phủ
trùm chúng ta, đang đậy chúng ta ở trong cái bầu trời đó.
Thầy muốn nói cái lộ trình của nhân quả, cái đường đi của nhân quả là cái
bầu trời đang chụp chúng ta đó. Các con tưởng tượng thì biết là mình đang ở
trong cái lồng nhân quả chứ không phải là mình đang ở ngoài cái lồng nhân quả
đâu. Cho nên hở hở cái gì là nhân quả không đó, không khéo mà chúng ta không
biết rồi chúng ta cứ tạo nhân tạo quả liên tục lên nữa, nhân lên nữa thì chúng
ta thọ lấy khổ và thọ được phước báu thôi chứ không có gì khác hơn là chúng ta
vẫn tiếp tục luân hồi mãi mãi trong cái lồng của nhân quả này, trong cái lộ
trình nhân quả này. Cho nên thấy được nó là cái bầu trời nhân quả đang phủ trùm
chúng ta thì chúng ta hãy cố gắng mà vượt qua cái bầu trời này đừng để nó chụp
cái đầu của mình nữa thì chúng ta mới thoát.
Đó là cái lời của Phật
dạy qua ba cái cách thức để mà chúng ta tu tập để vượt thoát cái lộ trình nhân
quả. Người ta nói pháp gì nói, Thầy cứ nói nhân quả à, thì các con hiểu Thầy
muốn nói cái gì rồi, vì đó là cái thực của chúng ta cái sống của chúng ta từ
nhân quả sinh ra cho đến khi mà chúng ta chết đi chúng ta trở về nhân quả thì
nó không có đi đường nào mà chúng thoát ra khỏi bầu trời này, dù đi Đông đi Tây
thì cũng nằm trong cái bầu trời này chứ không nằm ngoài bầu trời nhân quả được.
Cho nên cái pháp của Thầy, Thầy giảng là đúng là cái đường đi của nhân quả mà
của đức Phật đã dựng cái giáo pháp của ngài ở trên cái lộ trình nhân quả để
chúng ta được thấy con đường đi cho nó chân chánh đó.
6.Tâm thư
“Gửi các con”, - đây là
một bức thư mà Thầy gửi cho những cái người Phật tử ở miền Bắc, người ta có một
cái người chồng người ta đến đây tu hành, người ta cũng tha thiết muốn vào đây
tu nhưng vì cái hoàn cảnh ở đây Thầy ẩn bóng, thì coi như là Thầy nghỉ ngơi
trong một vài năm, để nghỉ ngơi cho nên Thầy muốn được cái sự yên ổn một vài
năm để cho mình vào nhập cái định mà Diệt họ tưởng định trong một cái thời gian
dài để cho các con ở ngoài này các con tự hiểu lấy mà tu tập. Sau những
cái thời gian mà nhập cái định xa vời
như vậy đó, một vài năm mà nhập định, thì Thầy sẽ xuất cái định rồi ra, rồi tùy
cái duyên, cái hoàn cảnh lúc đó tốt hay xấu, rồi mới tiếp tục mới hướng dẫn cho
những người nào mà có duyên mà tu theo đạo Phật. Còn hiện giờ thì đưa cái giáo
án này ra, sau khi cái giáo án này cuối cùng mà hoàn thành được thì Thầy kết
luận để cho mọi người thấy rằng ở đây là cái sự hướng dẫn của Thầy là nhằm chấn
hưng lại Phật pháp những cái gì mà người ta đã quên đi Phật pháp.
Cái lỗi mà không phải
hiện giờ quý thầy là lỗi phạm giới, phá giới là do quý thầy mà tài vì từ xưa
đến giờ nó đã đi nhầm vào cái đường sai đó chứ không phải là bây giờ quý thầy
là người mới phạm giới. Mà vì ai cũng hiểu lầm hết cho nên cái phạm này không
phải quý thầy. Cho nên sau khi mà kết luận cái giáo án này, Thầy có một cái lời
nói cho tất cả tăng và ni, tất cả những người tu sĩ của Phật giáo ở trong nước
cũng như ở trên thế giới này, ai là người theo Phật giáo, đều là đã đi lầm lạc
trên ở con đường sai của Phật giáo thì chúng ta, không phải là cái lỗi của
chúng ta mà cái lỗi của những người bắt đầu mà Phật giáo các vị Thánh tăng đã
tịch đi rồi, thì cái người thừa kế đó họ không có tu chứng được, họ từ cái sai
ít rồi họ dần dần kế tiếp tới cái sai nhiều, sai nhiều. Đến chúng ta thì nó mất
lối cho nên chúng ta phạm giới, phá giới sống mà vẫn an nhiên ở trong cái sự
phạm giới mà chúng ta vẫn thấy không có lỗi đó là từ quá lâu rồi chứ không phải
là quý thầy mới đây mà quý thầy làm. Cho nên quý thầy không có lỗi lầm gì hết
tại vì cái con đường Phật giáo nó như vậy là như vậy.
Chứ bây giờ là Thầy chỉ
nói lại những cái đúng, những cái sai để rồi chúng ta cố gắng sửa những cái sai
để thực hiện cho những cái đúng để đem lại cái đời sống cho mọi người được giải
thoát và con người trên thế gian này được biết được cái lộ trình nhân quả mà
đem lại từng cái phút giây hành động thân, miệng, ý của mình để đem lại sự an
lạc, cái sự yên vui cho hạnh phúc cho gia đình, cho xã hội, và cho cả đất nước,
cho nhân loại ở trên thế gian này.Thì đó là cái lộ trình của nhân quả để độ tất cả chúng sanh trên thế
gian này được hạnh phúc, được giải thoát, an vui. Chứ không phải nhắm vào có
một số người giữ gìn giới luật để tu thiền định, để đạt được Tam minh. Cái phần này là cái phần mà cái gốc của Phật
pháp là cũng không phải là những cái phần này bỏ mất đi, mà cái phần này là giữ
cái giềng mối duy trì Phật pháp, là những cái người mà đã quyết tâm xả hết cuộc
đời của mình để đi vào cái lộ trình thứ hai này để thực hiện, để làm tròn cái
trọng trách của mình đối với Phật pháp để thắp lên cái ngọn đèn của Phật pháp
cháy mãi muôn đời để làm cho cái đạo đức nhân quả luôn luôn thấm nhuần trong
tâm hồn của con người trên thế gian. Thì cái này là cái rất cần thiết cho cái
đời người cho nên vì vậy đó mà những cái bài pháp mà sau cùng cái giáo án này
Thầy sẽ có những cái bài pháp kết luận để làm một cái nguồn an ủi chung cho chư
tăng, cho tất cả những người mà đang tu theo đạo Phật ở trên cái thế gian này,
không riêng gì ở Việt Nam mà cả ở ngoại quốc.
Thế thì hôm nay, đây là
một bức thư mà gửi lại cho những gia đình ở ngoài miền Bắc:
“Này các con, con đường tu hành của đạo Phật là con đường thiện”,
đó thì quý thầy phải hiểu rằng con
đường mà tu theo đạo Phật đó là một con đường thiện chứ không phải con đường ác
đâu. Vì nó từ ở pháp thiện đó nó mới đứng ở trong góc độ nhân quả mà nó ra, vì
có ác mới có thiện, còn nếu thiện không, không có ác thì làm sao gọi là thiện.
“Con đường mà bất cứ ai
trên thế gian này đều tu tập được và kết quả rất là tốt đẹp”. Không có người nào mà tu không có kết quả,
đừng có mà nghĩ rằng hạ căn, trung căn, hay hoặc là thượng căn mới tu được còn
cái thứ trung căn, hạ căn là không tu được đâu. Cái đó là những cái lời sai đã là con người mà ở trên thiện pháp mà sống
thì người nào sống cũng được bình đẳng như nhau, cũng được hạnh phúc như nhau
không có một người nào là còn kém khuyết người nào hết, người nào cũng được
giải thoát bằng nhau, hạnh phúc y như nhau, nghĩa là cái luật công bằng của
nhân quả là như vậy. Cho nên ở
trong thiện pháp mà cái người nào cũng có thể tu được hết, một người đui, mù,
mẻ, sứt chỉ cần có sự hiểu biết là đừng làm cái điều đó là cái điều ác, mà cứ
thực hiện cái điều lành thì chắc chắn là cái người nào ở trên thế gian này cũng
mang lại cái hạnh phúc do cái hành động họ đã làm điều lành.
“Con đường mà bất cứ ai trên thế gian
này ai đều tu tập được cả và kết quả cũng y như nhau, người nào cũng được hạnh
phúc, vui vẻ và giải thoát rõ ràng cho cuộc sống hiện tại và mai sau của họ”.
Các con thấy không, cứ tu theo con đường nhân quả là con đường tu tập ai cũng
được giải thoát hết, cho nên đừng rằng nghĩ tôi là người hạ liệt, tôi là người
hạ căn, còn mấy bác, mấy chú, mấy anh là thượng căn mới tu được, tu thf phải
nhiều đời nhiều kiếp. Không phải đâu, một hành động thiện bữa nay là ngay bây
giờ chúng ta đã hưởng được phước báu của nó rồi, một phước báu rất rõ ràng cụ
thể chứ không phải còn đợi ngày mai hay ngày mốt gì hết.
“Thế thì chúng ta phải hiểu biết được
cái con đường của đạo Phật đưa đến chúng ta không có thời gian, chỉ đến là
chúng ta sẽ thấy có kết quả liền. Muốn
được giải thoát khỏi sự đau khổ của thế gian thì phải rõ ràng nhân quả tức là
phải thông hiểu được nhân quả, có rõ thấu nhân quả thì hành động thân, miệng, ý
phải được trau dồi, tu tập theo thiện pháp”.
Nghĩa là luôn luôn lúc
nào hành động thân, miệng, ý của chúng ta phải được trau dồi trong thiện pháp.
Chúng ta được biết thiện pháp thì chúng trau dồi nó đừng có để cho nó, thí dụ
như bây giờ chúng ta biết này, sát sanh này là phải cầm cái dao này, hoặc cầm
cái rựa này, cầm cái mũi tên này, cầm cái lưới này, phải đi bắt cá này, phải đi
chài lưới này, phải đâm phải giết này. Thì cái hành động mà thân chúng làm như
vậy đó, đó là ác thì chúng ta đừng có làm, thì không có làm thì đâu có làm ác,
thì cái chuyện nó quá dễ rồi chứ đâu có gì. Đó thì nói đơn cử để chúng ta thấy
rằng những cái hành động ác do thân, miệng, ý của mình. Mà bây giờ cái dao
không cầm đâm người thì làm sao mà giết người, bây giờ chúng ta không lấy ăn
trộm không hái trái cà, trái bí của ai thì làm sao mà gọi là ăn trộm thì chúng
ta đừng có làm cái điều đó. Thì như vậy ai cũng biết cái điều đó là cái điều
xấu, cái điều đó là điều ác, vì mình không muốn mất của tại sao mình ăn trộm
của người khác, nếu mình ăn trộm của người khác, mai mốt người khác lấy của
mình mình nghĩ sao, mình có buồn không, nếu mình buồn thì đừng có lấy trộm của
người ta. Thì do đó, do cái chỗ mà suy tư như vậy thì cái người đó họ sẽ không
làm cái điều ăn trộm. Thì như vậy là chúng ta thấy như thế nào, tất cả những
pháp ác và pháp thiện chúng ta đã rõ rồi, thì chúng ta trau dồi thân, miệng, ý
của mình trong những pháp này không được sao. Cũng như miệng mình, hay nói láo
này, thì bây giờ đừng nói láo có được không, tại vì mình thích nói láo thì mình
nói chứ còn mình không thích nói láo thì làm sao mà mình nói, cho nên mình
biết, à bây giờ nói như vậy là nói không thật rồi, nhất định là không nói. Và
không nói, một lần mình lỡ, lần thứ hai thì mình đánh cái miệng mình cho nó
sưng lên đi, mai mốt nó thấy cái môi của nó sứt lên vầy nó hoảng hồn, mày còn
nói láo nữa là tao đánh bên đây cho nó sứt lên nữa thì mày thành còn quỷ cho
mày ớn, thì như vậy thì là mình sẽ không nói láo nữa. Mình sang đi, mình trau dồi cái miệng của
mình đi, chừng đó cái miệng của mình nó không có nói bậy nói bạ nữa, nó không
có nói vọng ngữ nữa. Còn cái miệng mình nó hay kiếm chuyện này chuyện kia, nói
chuyện này chuyện kia, chuyện xấu chuyện tốt vả nó cho nó ớn đi, một lần, hai
lần, ba lần, mười lần thì nó cũng ớn, vả cho nó rụng răng riết nó cũng phải sợ
đi.
Đó thì mình phải tự trị
mình, mình phải trau dồi mình, mình phải răn dạy cái miệng của mình, chừng đó
mình không nói thêu dệt, mình không nói lời nói phiếm, lời nói này kia, cuối
cùng thì mình trở thành cái miệng mình rất là tốt rất là thiện. Thì những cái
điều đó là những cái điều mình trau dồi ở trong thiện pháp, thì ở đây Thầy nhắc
nhở cho các con thấy rất rõ: “muốn
được giải thoát khỏi sự đau khổ của thế gian thì hãy rõ, hãy thấu rõ nhân quả,
có thấu rõ nhân quả thì hành động thân, miệng, ý phải được trau dồi tu tập theo
thiện pháp. Thiện pháp mà các con đã được học đó là mười điều lành và mười điều
dữ”.
Các con thấy Thập thiện
chứ gì mà ngược lại thập thiện là thập ác chứ gì, Phật đã vạch cho chúng ta
thấy rõ cái đường mà, tại sao chúng ta không trau dồi thân, miệng, ý của mình
để mở miệng ra thì có là thập ác rồi, mà hành động ra thì có những cái điều ác
rồi. Và như vậy khi mà chúng ta làm một cái điều gì chúng ta ít ra cũng phải có
ý tứ trên cái việc đó. Và vì vậy mà Thầy dạy các con tu tập Chánh niệm tỉnh
thức hàng ngày trong hành động của các con. Thế mà không luyện tập được, không
trau dồi được thân, miệng, ý của mình thì làm sao mình nằm ở trong cái lồng
nhân quả mà mình thoát ra được nhân quả. Nó đậy mình, nó diệt mình hàng ngày
hàng giờ, nó làm cho mình đau khổ từng phút từng giây, nó làm cho mình trở
thành những cái nghiệp, trở thành những cái sự say mê, trở thành những tạp khí
chói trặt mình đời này sang đời khác mà không thấy mà không bứt ra. Tại sao
mình quá ngu si, mình quá mê muội để mình lầm lạc đến cái mức độ như thế này.
Đó, cho nên quý thầy
phải thấy rằng Phật dạy quá thực, có pháp gì mà hơn là pháp Phật thực tế đến
như vậy, trau dồi chúng ta có một cái đạo đức nhân quả rất là thực tế, biết
thương mình, biết thương người, không làm khổ mình, không làm khổ người thế mà
tại sao mình không thực hiện được những điều này cứu mình ra khỏi nhân quả.
Thân, khẩu, ý hàng ngày phải ý tứ hết sức để tránh mười điều ác và luôn luôn
phát triển mười điều lành, nghĩa là mình phải ý tứ hết sức cái thân, miệng, ý
của mình. Hàng ngày trong những hành động thân miệng ý của mình, mình phải cố
gắng dè dặt.
Một người biết tu mà
không có cẩn thận, không có dè dặt thân, miệng, ý của mình là làm sao, tu cái
gì, ngồi thiền hít thở để làm gì đây, hay niệm Phật tụng kinh để làm gì đây,
hay nghe thuyết pháp này để làm gì đây. Có phải để cho chúng ta hiểu để hàng
ngày chúng ta trau dồi, tu tập cái miệng, cái ý của mình không? Cái chuyện mà
chúng ta làm hàng ngày nó có giá trị, bây giờ các thầy cứ nghe lời Thầy giảng
mãi nó có phỏng ích lợi gì mà hàng ngày phải để cái thời gian mà chúng ta rèn
luyện thân, khẩu, ý của mình trong thiện pháp của Phật không phải là sự giải
thoát cho tâm hồn của chúng ta sao. Thế mà quý thầy, các con nghĩ sao mà các
con không nỗ lực tu tập những cái điều này để chúng ta ở trong cái lộ trình
nhân quả mà chúng ta vượt ra nhân quả, để chúng ta ở trong bầu trời nhân quả mà
bẩy vũ trụ nhân quả. Chúng ta làm được
một chuyện vĩ đại, rất là vĩ đại, sanh tử chúng ta nghe nói làm chủ sanh tử
nghe khó, nhưng bẩy vũ trụ được là bẩy sanh tử được chứ gì, mà bẩy sanh tử
được, làm chủ được sanh tử thì phải làm chủ được cái miệng, ý của mình, đừng
nói bậy nói bạ, đừng có tạo nhân ác, đừng có tạo những cái hành động ác thì tức
là chúng ta đã bẩy được vũ trụ rồi. Chỉ ngay nơi thân, khẩu, ý chúng ta mà làm
được việc này thì cần gì mà phải lo, nhân quả luân hồi chúng ta sao được.
Đó, đó là những việc mà gần gũi nhất mà
các gia đình, mỗi gia đình có chồng có vợ có con cái đều phải thực hiện mười cái
điều lành, tăng trưởng mười điều lành và hàng ngày diệt trừ mười điều ác nơi
thân, khẩu, ý của chúng ta.
Đó là việc tu tập của
các con hàng ngày phải theo đạo Phật, hàng ngày theo đạo Phật chứ không phải
đến chùa cúng bái, tụng kinh, niệm chú hoặc ngồi thiền, niệm Phật, lần chuỗi,
vân vân,… Ở đây không phải là cái chỗ mà quý thầy đi theo đạo Phật mà làm cái
chuyện mê tín đó, cúng bái, cầu kinh, cầu siêu, cầu an, cầu Quan âm phù hộ,
điều đó không phải, dẹp quách xuống đi. Nhân quả chi phối ở trong đầu chúng ta
này, hàng ngày đau khổ liên tục ở trong nhân quả này mà cầu ông Phật làm sao
ông phù hộ được, ông Phật dẹp được cái nhân quả của chúng ta sao mà cầu, cho
nên đến chùa không phải là cái chuyện đó, mà đến chùa theo cái gương hạnh của
những bậc thầy đã từng làm chủ nhân quả, để chúng ta bắt chước mà chúng ta làm
theo như các thầy đó. Chứ không phải đến chùa lạy lạy ba bốn lạy ông Phật, bằng
xi măng đó rồi về rồi tụng kinh niệm Phật cầu cho gia đình mình an ổn mà tối
ngày rầy rà chửi lộn nhau, tranh từng miếng ăn miếng uống thì thử hỏi còn ra gì
là một người mà cư sĩ đệ tử của Phật.
Cho nên ở đây, cái gì
làm thì chúng ta phải làm cho đúng, cái gì không phải thì dẹp quách nó đi, đừng
có lần chuỗi, đừng có ngồi đó mà thì thầm chửi mắng ông Phật đó. Không, Thầy
nói thật, tên người ta mà cứ kêu hoài thì không phải chửi mắng người ta sao?
Thầy nói thật, bây giờ tên Thầy này, mà ai cứ ngồi đó cứ kêu, kêu tên riết thì
Thầy không tức hả. Không phải sao các con cứ niệm Nam mô a di đà Phật, Nam
mô a di đà Phật ông Phật ông tức thấy mồ à, ông nói không được đó, tại
miệng ông bằng xi măng chứ tại miệng ông bằng như Thầy ông la liền, tên tao mắc
mớ gì mà mày cứ gọi. Thập thiện mà không tu mà tu cái gì, nhân quả nó rành rành
ở đó, chết sống do nhân quả, chứ tao có làm nhân quả gì cho mày đâu mà mày niệm
tao. Thật mà, Thầy nói thật, cái này là cái thật tại sao họ ngu quá vậy, họ
không biết cái chuyện thật, nhân quả thì nó chi phối mình hàng giờ hàng phút,
nó sinh tử, nó liên tục, thân của mình nó thay đổi liên tục. Mà ngay đó không
chặn đứng nó lại được mà cứ niệm ông Phật, ông Phật làm sao ông thọc tay ông
chặn vô được. Đâu phải ông thọc gậy bánh xe được à?
Nói vậy đụng mấy ông mà
niệm Phật mấy ông Tịnh Độ ông chửi Thầy… Nhưng mà nói cho vậy để ông biết, đừng
làm chuyện mê hoặc quá. Tại ông không hiểu chứ không phải là ...nếu mà ông biết
được như lời Thầy nói thì ông lo tu thập thiện chứ điên gì ông ấy tu niệm Phật
làm chi. Chắc gì có cõi Cực lạc mà ông về đó mà ông niệm. Nhưng mà sự thật ra
Thầy nói, đừng có làm chuyện đó nó không tới đâu hết. Mà chính nhân quả nó chi
phối từng phút giây cái trong sự sống của chúng ta. Nó làm chúng ta đau khổ.
Bây giờ nó không đau khổ, lát nữa nó đau khổ. Nó vô thường mà. Rồi lát nữa nó
hết đau khổ, rồi lát nữa tới đau khổ nữa. Cứ liên tục như vậy. Cũng như bây giờ
các con ngồi mà nghe Thầy thuyết giảng này, lát cái nhăn mặt, nhéo mày giờ,
nhức đầu quá trời rồi. Có không? Chưa chắc đã là người nào khỏi đau. Bởi vậy
cho nên khi tu phải tu sao cho đúng. Làm sao tu mà làm sao mà bây giờ không đau,
lát nữa không đau, lát nữa không đau thì mới được. Mà đau thì mặc nó, nó đau
thì kệ nó. Thọ nó đau chứ phải mình đau đâu mà mình sợ? Cái của mình đâu có cái
đau. Cho nên cái đau là cái ngũ uẩn chứ không phải là cái của mình. Ngũ uẩn
duyên hợp lại mà do nhân quả nó tạo ra ngũ uẩn chứ bộ mình tạo ra đâu... nên
mình sợ. Do đó mình đứng ra ngoài đi, nó làm gì nó làm, kệ nó, do đó nó ho nó
làm gì kệ nó, mặc tình. Cho nên mình cứ việc mình, nó cứ việc nó, không có việc
gì. Nhân quả mày làm gì mày làm, tao là tao chứ tao không phải tao là nhân quả.
Cho nên từ đó mình thắng nhân quả. Các con thấy chưa, mình phải tu như vậy chứ.
Bởi vì mình sinh ra từ trong nhân quả, mà mình thoát ra nhân quả là mình đứng
ra ngoài nhân quả. Thì như vậy là mình không bị tác động nhân quả.
Sự tu tập của đạo Phật
thực tế, cụ thể, không phải là một thứ hình thức mê tín, trừu tượng. Đó, quý
thầy mà làm cái chuyện ở trên không phải là một cái hình thức mê tín trừu tượng
sao? Còn cái cụ thể là tại sao quý thầy, Thập thiện quý thầy không làm? Là quá
cụ thể, thực tế cho cái sự thay đổi, cho sự mà di chuyển luân hồi, vô thường
từng phút, từng giây trong thân của quý vị quý vị lại không làm? Từng phút,
từng giây trong tâm của quý vị mà quý vị không tu. Để rồi quý vị tu cái gì? Đau
thì méo miệng nhăn mặt, mà lúc bấy giờ thì niệm Phật lia lịa. Ông Phật ông có
xuống ông bóp cái đầu hết đau không? Ra mời mấy ông thầy châm cứu cái ông châm
cứu còn đau thêm chứ ở đó mà hết.
Chính đạo Phật dạy người ta tri túc thiểu dục, tức là đem lại cho họ một nguồn
vui sống yên vui, hạnh phúc. Thật
sự như vậy, bởi vì chúng ta tri túc thiểu dục như chúng ta thấy, như hồi nãy
cái bài đầu tiên Thầy nhắc phải không? Các con vô đầu, là Phật bảo là đừng có
thân cận dục, đừng có thân cận ác pháp. Thấy không? Đừng có thân cận tức là
mình phải lìa các vật đi chứ gì? Không có các vật thì làm sao mà chúng ta có
dục, như hồi nãy Thầy nói. Thì như vậy là rõ ràng là phải sống thiểu dục tri
túc. Đúng là chúng ta thiểu dục tri túc đó, thì như vậy là chúng ta không thân
cận dục chứ gì, không thân cận ác pháp chứ gì. Như vậy là chúng ta giải thoát
chứ gì? Đó quý thầy thấy chưa? Đó.
Chính vì loài người chưa
biết tri túc thiểu dục nên thường đau khổ. Tất cả tai họa trong cuộc đời này
mang đến cho họ chính là hành động ác của họ chớ không phải ai mang đến cho họ
hết. Đó, thì như vậy chúng
ta biết hành động ác của chúng ta là gì? Thân, miệng, ý của chúng ta chứ cái gì
nữa? Đó. Nếu mà thân, miệng, ý của chúng ta thiện thì làm sao mà có tai họa.
Cho nên có cầu khẩn ai, có tụng kinh, có niệm chú làm gì cho mất công. Vì
vậy mà chúng ta thảnh thơi, an lạc, không có gì hết. Cho nên cuộc đời chúng ta
biết rằng, khi mà chúng ta không có sống thân cận dục, không có sống thân cận
ác pháp thì ngay đó thì chúng ta phải thực hiện một cuộc đời tri túc thiểu dục.
Các con nhớ chứ, tri túc
thiểu dục, mà đó là những bậc Thánh mới có thể sống được tri túc thiểu dục.
Thầy vào cái nhà nghèo nhất thì Thầy thấy cũng có nồi này, nồi kia đủ thứ, nào
là chén sành, chén đĩa sành, tuy xấu nhưng cũng cả đống. Cho nên vì vậy nó cũng
chưa gọi là tri túc thiểu dục. Cho nên tri túc thiểu dục là chúng ta cứ sống
vài ba cái muỗng dừa bỏ của thiên hạ là thấy nó đủ rồi, không có còn gì hết.
Thầy có nhớ là nghe một câu chuyện như thế này mà không biết có hay không bởi
vì mình không ở xứ người ta.
Người ta nói ở xứ Na uy
á, đâu bên Âu Châu chứ không phải ở đây, mà trên hòn đảo Na uy, cái dân ở đó kỳ
lắm, một khi mà nó đi lấy chồng, nó có chồng đó….(mất tiếng), thấy đúng là tụi
nó cũng thiểu dục tri túc dữ tợn lắm. Thời đại này mà nó sống được như vậy là
cũng quý. Khi mà về nhà chồng nó đem về có mười hai cái muỗng dừa à. Về đó thì
cái lớn thì làm chén, làm tộ rồi đựng canh, mà cái nhỏ vừa vừa thì làm chén ăn
cơm, còn cái dẹt thì nó làm đĩa, còn cái nhỏ nữa nó làm muỗng nó múc. Nó khỏi
cần mua muỗng, mua nĩa gì hết. Cho nên tụi nó quá tiết kiệm. Cho nên đời sống
của tụi nó Thầy thấy, như vậy là vợ chồng nó chỉ mười hai cái muỗng dừa là đủ,
đủ sống. Cho nên nó khỏi cần gì hết, sống nó không cần lu, cần hũ gì hết. Nó
sống ở gần một cái hồ nước, rồi ra đó nó rửa ráy, nó múc cái này kia, nó nấu
nướng này kia, rồi bấy nhiêu đó nó bày ra nó sống. Cho nên trong nhà nó không
ăn trộm, ai lấy cái gì của nó hết, có bấy nhiêu đó thôi, bởi vì cái đồ đó. Mà
cái xứ đó nó dừa dữ lắm,
vậy mà nó làm mấy cái này nó bào cho đen cho tốt rồi bắt đầu nó để nó xài thôi.
Thành ra không có ai lấy của ai nữa hết, cho nên cái xứ đó không có tham lam.
Thầy nghe nói như vậy mà
không biết có không. Nhưng mà cái kiểu sống đó thật là mấy ông thầy chùa của
mình chắc chưa bằng đâu. Tại vì mình còn nhiều quá, lẽ ra thì mình sống như
Phật thì ba y một bát thì hơn nó chứ còn mình sống cái kiểu đó là sống không
nổi. Nhưng Thầy thiết nghĩ rằng, sau này, thì chắc chắn là nếu mà quý thầy mà
sống ba y một bát á thì chắc chắn là chịu không nổi đâu. Nói thì nghe nó hay
vậy chớ thực tế thì nó không được như vậy. Thầy nghĩ như thế này, tại sao? Bây
giờ một bộ đồ như Thầy này, phải hông? Là y trung này, y hạ này, rồi cái y
thượng này, rồi bây giờ Thầy bắt đầu từ Tràng Bàng này Thầy đi thành phố. Sáng
sớm Thầy đi, đi riết cho tới thành phố năm chục cây số, tới dưới rồi mồ hôi, mồ
hám ướt hết cả bộ đồ này hết. Mà bây giờ làm sao, giặt thì chỉ còn nước chun
hang chứ làm sao ở ngoài được, phải không. Mà gặp mà trời mưa mà ướt nhoi thì
làm sao đây? Chỉ có đêm sau là bị cảm lạnh bị chết luôn đó, mà coi chừng bị
bệnh phổi nữa là khác.
Cho nên nói chứ đời sống
của một người cái tu sĩ á, thiểu dục tri túc ít ra thì nó cũng phải có hai cái
bộ đồ ngắn như thế này. Phải không các con? Giữ một cái y thượng thôi, đừng có
nhiều, nhiều nó cực lắm. Vậy thì như thế nào? Khi mà cái bộ đồ mà chúng ta mặc
này đi tới cái chỗ rồi, nó mồ hôi, nó hôi lắm rồi, chúng ta phải giặt hết rồi.
Bây giờ có tắm rửa rồi mình có vấn cái y này lên cũng hôi lắm mà nó cũng rít
rắm, nó không có thể ngủ được đêm đó đâu. Cho nên chúng ta phải lột bỏ hết cái
này giặt đi. Rồi bắt đầu đó, chúng ta mới mặc cái bộ đồ mà chúng ta đem theo,
một cái bộ đồ ngắn vậy thôi, phải không. Cái y hạ và y trung này chúng ta mặc
vào thì đêm đó chúng ta ngủ ngon lắm, bởi vì nó không có dính mồ hôi, nằm nó
mát mẻ. Chứ còn cái bộ đồ dính mồ hôi này, cũng như cái y này, tối mà Thầy đắp
lên thì chắc chắn là Thầy ngồi thuyết giảng thế này mồ hôi không mà tối Thầy
đắp nữa chắc chắn là Thầy thở không được rồi. Mồ hôi của Thầy á chứ đứng nói mồ
hôi của người khác à, mồ hôi người khác chắc là Thầy chắc ngộp thở luôn à chứ
không phải dễ đâu.
Đây là sự thật, cái gì
sự thật là mình nói sự thật, cuộc sống mình như thế nào mình nói thư thế nấy,
đừng có dối, đừng có che đậy nó. Nói tui sống ba y một bát, mình coi chừng mình
nói láo đó. Nhưng mà sự thật ra, trong cái thời đức Phật thì mình không biết
như thế nào nhưng mà thời của mình, theo Thầy kinh nghiệm, thì chắc chắn là
phải hai cái bộ đồ ngắn thì nó tiện nhất. Nó không có cái y lớn này thì cũng
được nhưng mà nó có cái y lớn thì mình đi ra ngoài, còn không có thì mình không
có đi, mình ở trong hang, trong thất của mình thì thôi thì mình mặc đồ ngắn
được. Bởi vì Thầy nhớ lại, cái kinh nghiệm bản thân của Thầy, suốt mười năm mà
trong thất Thầy có hai bộ đồ. Bộ đồ vàng như thế này, bằng vải, mà hai bộ đồ
như thế này. Tại sao mười năm mà Thầy có hai bộ đồ mà Thầy mặc được. Là tại vì
Thầy thay cái bộ đồ này, từ sáng tới chiều thì Thầy tắm, tắm cái Thầy giặt cái bộ
đồ này thì Thầy phơi đêm ra sáng là nó khô rồi. Rồi Thầy mặc cái bộ đồ kia, một
ngày nữa Thầy cứ thay đổi. Còn rách tới đâu thì mẹ Thầy vá tới đó cho Thầy. Cho
nên suốt mười năm, cái bộ đồ của Thầy đắp vá nó dầy vậy này. Từ cái miếng vải
mà ở trong cái bộ đồ Thầy mặc đó thì nó đã mục hết rồi, nó chỉ còn cái miếng vá
thôi. Rồi cái miếng vá kế đó, nó bị rách, mẹ Thầy đắp vá lên. Thay vì bây giờ để mà gỡ miếng vá này đi
thì cái áo nó bị rách lớn quá rồi, cho nên để cái miếng vá này rồi cái miếng vá
này nếu nó bị rách mà rách nhỏ thì mình đắp miếng vá tiếp lên. Rồi cái miếng vá
kế nó mục nữa, mà cứ giặt hoài nó phải mục mà, nó mục thì vá lên, vá lên. Cho
nên cái áo của Thầy nó thành dầy. Mặc nó ấm dữ lắm, nhưng mà nó càng ấm thì nó
lại càng nực chứ không có gì, nhưng mà thôi kệ nó, mình tu hành. Cô Út thì cực
khổ quá, mình không có nên đòi hỏi may thêm nữa, thôi cứ... mẹ Thầy thì già
rồi, đâu có làm gì. Cô út thì buôn bán còn Thầy thì ở trong thất tu. Cho nên mẹ
Thầy cứ ngồi lụm cụm, cứ vá áo cho Thầy thôi. Mà cứ hai cái bộ đồ đó vá hoài.
Bởi vì giặt ra thì dò cái nó rách, nó rách thiệt, bà vô coi thấy nó có lỗ thì
vá, cứ như vậy Thầy mặc. Cho nên trong cái thời gian mà Thầy ra thất, cái khu
đất ở chỗ sát thất của Thầy thời đó nó chưa có trồng tre trúc gì đâu, nó còn
trống lắm, bởi vì hồi đó tranh rồi này kia phá ra. Do đó Thầy mới cuốc, thì
cuốc cho nó Thầy cuốc, Thầy dập nó xuống rồi Thầy trỉa đậu. Thầy trỉa đậu, Thầy
mặc cũng bộ đồ đó chứ Thầy cũng không mặc bộ đồ khác, mặc với bộ đồ đó. Thầy
với chú Út nhỏ nhỏ này này. Hồi đó thì chú theo Thầy chơi chứ còn chú cũng
không làm gì. Bắt chú bỏ hột đậu, Thầy trồng trỉa thôi. Và vì vậy đó thì các
con thấy rằng, chú Chân Tịnh chú mới nghe đồn ở bên Tràng Bàng đây có ông thầy
tu ông cuốc đất, ông trỉa đậu rồi ông cuốc đất chứ không bao giờ bắt trâu bò
cày. Đồn vậy mới qua thăm thử coi ông thầy đó sao. Quả đúng qua thăm Thầy, thấy
nội cái bộ đồ mà Thầy mặc không, Chân Tịnh đảnh lễ Thầy liền à. Chỉ có ông thầy
nào mà mặc bồ độ đến nỗi như vậy đâu. Cho nên Chân Tịnh hồi mà về đây, muốn xin
cái bộ đồ đó mà Thầy nói, thôi không có được, để bậy để bạ chúng cười chết đi,
Thầy nghèo mà còn làm cái chuyện đó nữa. Cho nên sau đó Thầy đem Thầy đốt mấy
cái bộ đồ Thầy hết, Thầy không có để, không có để cho ai hết. Sợ người ta để, người
ta để lại cái kỉ niệm của Thầy hồi còn ở trong thất tu. Thiệt ra nếu mà để lại
thì cái di vật rất quý chứ không phải thường đâu. Nhưng mà Thầy đốt.
Đó, như vậy là Chân Tịnh
theo Thầy, mà theo Thầy nhưng mà phá cái ngũ không được. Chân Tịnh phá cái ngũ
không được, chứ phải phá cái ngũ được thì cũng khá lắm. Cho đến tới cuối cùng
mà độc cư không nổi buộc lòng Thầy phải đuổi đi thôi chứ Thầy không để được thì
các con biết. Thì đó, cho đến hôm nay thì Thầy đem cái giáo án này để dạy cho
các con biết rằng, cái Thập thiện là cái quan trong cho chúng ta cái bước đầu
tiên. Và tất cả mọi cư sĩ đều tu ở trong nhân quả. Như nãy giờ Thầy nói, chúng
ta đang sống trong cái bầu trời nhân quả, mà chúng ta vượt ra được cái bầu trời
nhân quả tức là chúng ta ló được cái đầu lên cái bầu trời rồi. Còn bây giờ cái
đầu chúng ta bị bầu trời chộp, cho nên không có ló. Còn riêng Thầy, các con
chưa thấy cái đầu của Thầy ló ở trên đó. Ngồi đây chứ cái đầu của Thầy ló ở
trên. Cho nên lúc nào bây giờ cái đầu ló ở trên còn cái nhân quả chộp ở dưới
này phải không. Cho nên ai nói gì Thầy cười, không có buồn. Còn các con bị nó
chộp ở trên này, nói cái nó đụng các con, các con méo miệng hết, không có người
nào vui hết. Cho nên làm sao ló cái đầu được lên trên, nghĩa là cái đầu của
mình biểu dài dài ra, ló ở trên, cao ở trên mây xanh, sướng quá rồi.
Cho nên cuộc đời mà nếu mà chúng ta....
(Hết băng 41)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét