Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 25

GIỚI LUẬT – QUY Y TAM BẢO
GIỚI LUẬT
Nghĩa là trong khi Ngài đặt cái Giới luật mà làm thầy chúng ta Ngài phải thấy được cái sự thịnh suy của Phật giáo, cho nên Ngài mới di chúc cho chúng ta Phật giáo còn là Giới luật còn, Phật giáo mất là Giới luật mất. Chúng ta bây giờ thấy Phật giáo thì tu sĩ nhan nhản mà đều phá giới hết thì Phật giáo có còn không? Chắc chắn là lời Phật dạy chúng ta đã chứng minh điều đó rất rõ mà. Mà đức Phật còn nói Giới luật còn là ta còn, mà Giới luật mất là ta mất, nghĩa là Giới luật còn là hiện tiền đức Phật còn ở tại thế mà Giới luật mất là đức Phật đã mất. Mà bây giờ chúng ta thấy đức Phật có còn không? Mất, bởi vì Giới luật đâu còn, đối với tu sĩ bây giờ đâu có người nào mà giữ giới như thời đức Phật đâu cho nên Giới luật mất. Cho nên có một vị Tỳ kheo khi mà ở xa Phật thì lúc bấy giờ ngài muốn đến để mà gần gũi bên Phật, thì đức Phật nghe như vậy mới nhắn một người đến nói với ngài, đến nói với vị Tỳ kheo đó khi mà ở xa Phật, mà giữ gìn Giới luật của Phật nghiêm chỉnh thì như Phật sống ở bên, còn những người sống gần bên ta hàng ngày mà thấy ta, mà Giới luật không nghiêm chỉnh thì cũng như xa ta ngàn dặm, có phải không? Ngay từ cái lúc mà thời Phật còn sống Đức Phật cũng xác định cái điều đó, Phật còn tại thế tức là Giới còn, mà Giới luật mất là Phật mất.
Đó thì như vậy chúng ta đã biết hiện giờ Phật giáo của chúng ta mất hay còn. Chúng ta đều xét qua những lời mà Ngài đã di chúc lại thì chúng ta biết. Mà nếu muốn còn thì chúng ta là những người đệ tử của Phật phải làm sao cho nó còn, thì phải là Giới hạnh, Giới đức và Giới tuệ chúng ta phải nghiêm chỉnh hẳn hòi, thì như vậy là Phật giáo sẽ còn.
Do thấy trước và hiểu biết đó Ngài đã chuẩn bị hoàn chỉnh Giới luật trước khi Ngài nhắm mắt:
 Này các thầy Tỳ kheo hãy lấy Giới luật ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành, Giới luật còn là Phật pháp còn, Giới luật mất là Phật pháp mất.
Ngài di chúc lời này tức là Ngài đã chuẩn bị cho đời sau một ông thầy như đức Phật, như Ngài còn tại thế. Ngài chuẩn bị cho cái người mà thừa kế Ngài như là Ngài chứ không có thua kém Ngài chút nào hết. Cũng như bây giờ số đệ tử nhưng mà đệ tử của Thầy người nào cũng có sở trường của nó làm sao Thầy dám di chúc. Ví dụ đó, thì Thầy phải di chúc cái người nào mà toàn diện chứ, thì cái người toàn diện làm sao có được. Ai cũng có sở trường sở đoản hết, chỉ có duy nhất là đức Phật sở trường tròn đầy, bởi vì đức Phật mới có đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực nó tròn đầy, còn mấy ông kia thì một ông có đại thần lực nhưng mà không có đại oai lực, không có đại minh lực; một ông thì có đại minh lực nhưng không có đại thần lực thì làm sao mà tròn được, thì làm sao mà thành người hướng dẫn chúng ta sau này được. Giới luật còn là Phật còn, Giới luật mất là Phật mất. Cho nên lúc Phật còn tại thế, Phật thường dạy các ông sống gần bên ta mà Giới luật không nghiêm chỉnh thì như sống xa ta ngàn dặm, nếu các ông sống xa ta ngàn dặm mà Giới luật nghiêm túc thì như sống gần bên ta.
Đó cái lời của đức Phật nói trong kinh nó còn rõ ràng như vậy mà. Cho nên Phật còn tại thế tượng trưng Giới luật toàn chân toàn thiện và đức Phật nhập diệt thì Giới luật là ông thầy toàn chân toàn thiện của chúng ta. Hôm nay không phải Thầy ca ngợi điều đó mà chính trong kinh Phật nhắc đi nhắc lại điều này rất là nhiều, vì vậy mà chúng ta là người tu sĩ đạo Phật làm sao chúng ta quên được những lời này, làm sao chúng ta sống mà không giữ gìn Giới hạnh mà gọi là Phật giáo được.
Thế có kẻ ngu si dám đem Giới luật của Phật sửa tới sửa lui, đốt phá lung tung, đốt phá tạng luật của ông Upali kết tập lần đầu tiên tại hang Thất Diệp, bảo rằng kết tập luật không có viết thành văn. Đó là Thầy nhắc lại cái lời ở trong kinh nói rằng trong cái lúc mà kết tập kinh điển lần đầu tiêu, kết tập luật không có viết thành văn, cho nên do đó cái lý luận đó là lý luận phá giới, cái lý luận mà đập phá giới gốc của Phật.
Luật thì phải có một bộ, sao lại có nhiều bộ thế, một ông thầy thì một ông thầy sao bây giờ lại nhiều ông thầy quá vậy, ông thầy nào là chân, ông thầy nào là giả? Nghĩa là nhìn mấy bộ luật chúng ta không biết ông thầy nào là ông thầy mình hết, đông quá chừng đông, cho nên bây giờ luật sao thì có một bộ thôi chứ luật gì mà đủ thứ luật hết….Mà luật thì có bộ nói như này có bộ nói khác chứ đâu phải giống nhau hết đâu, chứ giống thì nó là một bộ rồi. Cho nên nó nhiều bộ tức là nó phải có cái khác ở trong đó rồi chứ không phải là giống hết được. Cho nên bây giờ chúng ta thấy, chúng ta hiện hành bây giờ Phật giáo chúng ta có sáu cái bộ luật chứ không phải là ít, có cái thì giống có cái thì khác nhưng mà toàn những cái bộ này thì đều có những cái dị biệt khác nhau chứ không phải giống hết.
Các thầy Tỳ kheo sợ Giới luật của Phật, chạy theo dục lạc thế gian, tham đắm sắc, danh, lợi, thực, thùy, cho nên mới đặt ra Giới luật mới làm khác đi để chạy theo cái dục lạc của đời, của cuộc đời làm đảo lộn Phật pháp, không biết ông thầy hiện giờ thì người tu sĩ không biết ông thầy Giới luật của mình là ông thầy nào. Nghĩa là bây giờ đứng trước sáu bộ luật này thì chúng ta chẳng biết cái bộ luật nào là ông thầy của mình hết, thì như vậy là mình thấy quá khó khăn chứ đâu phải dễ. Phật giáo chia ra làm 20 bộ phái, mỗi bộ phái có một bộ luật, vậy đạo Phật hiện giờ có 20 ông thầy, vậy bây giờ biết chọn ông thầy nào như lời Phật đã dạy, đã di chúc? Ông thầy được kết tập lần đầu tiên thì bị phế rồi, còn hai chục ông thầy mới này biết ai là ông thầy của mình? Hai mươi bộ luật này có những điểm tương đồng có những điểm khác biệt do thế người sau mới lấy các điểm đồng và dị biệt mà kết tập lại thành sáu bộ luật. Đây quý thầy nghe cái tên của sáu bộ luật đặt ra đây: Một – Thập tụng luật, hai – Tứ phần luật, ba – Tăng kỳ luật, bốn – Ngũ phần luật, năm – Giải thoát giới bổn kinh, sáu – Nhất thiết hữu bộ luật. Từ 20 ông thầy luật này còn lại sáu ông thì thử hỏi biết ai là thầy của chính mình.
Như vừa rồi chúng ta đã học trong giới kinh có phân chia làm ba loại giới, một là Giới hạnh, hai là Giới đức, ba là Giới tuệ, ba giới kinh này gọi chung là Giới - Định - Tuệ, Giới - Định - Tuệ không phải ngoài giáo pháp của Phật, giáo pháp của Phật là pháp thiện, Sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Vậy Giới - Định - Tuệ là pháp thiện của đạo Phật, pháp thiện của đạo Phật là Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ, ba giới này gọi là Giới luật của Phật còn gọi là giáo pháp của Phật, còn gọi là giới bổn, à còn gọi là giáo pháp của Phật. Riêng giới bổn chỉ là những oai nghi tế hạnh ly dục ly ác pháp của phần Giới hạnh trong giới kinh mà thôi. Nghĩa là cái giới bổn mà hiện giờ chia ra thành sáu cái bộ luật này thì nó thuộc về nằm trong giới bổn chứ không phải nằm trong giới kinh, cho nên cái giới bổn này nó chỉ cho chúng ta biết cái oai nghi tế hạnh, oai nghi tế hạnh để giữ gìn ly dục ly ác pháp ở trong cái phần Giới hạnh mà chúng ta học ở trong cái phần giới kinh, thì giới kinh nó chia ra thành ba cái giới rất rõ ràng: Giới hạnh, Giới đức và Giới tuệ. Nhưng mà cái phần giới bổn nó chỉ là cái oai nghi tế hạnh li ti để giúp cho chúng ta ly dục ly ác pháp trong cái phần Giới hạnh chứ nó không được nằm trong cái phần Giới đức, nó không được nằm ở trong phần Giới tuệ, nó chỉ nằm ở trong cái phần Giới hạnh mà thôi, tức là trong giới kinh mà thôi. Cho nên giới bổn dù có thay đổi 100 ngàn bộ thì nó chỉ là một phần nhỏ trong giới kinh mà thôi. Bây giờ có chia ra một ngàn, một trăm, một triệu bộ luật đi nữa chúng ta vẫn xem nó là cái phần nhỏ trong Giới hạnh chứ nó đâu là toàn diện của Giới luật của Phật, cho nên chúng ta đâu có ngán nó, nó chưa đủ sức làm thầy của chúng Tỳ kheo, nghĩa là cái giới bổn chưa có đủ sức làm thầy của chúng ta đâu bởi vì nó chỉ mới Giới hạnh mà thôi cho nên nó đâu có đủ sức làm thầy. Nó chưa đủ 3 cái thần lực của nó mà cho nên nó đâu có làm thầy chúng ta được, chỉ có giới kinh mới chính là thầy của các vị Tỳ kheo sau này.
Đó thì hôm nay Thầy phân cho để thấy giới nào là thầy của chúng ta, chứ không khéo người ta lấy giới bổn ra làm thầy thì chắc chắn là ông thầy này chỉ đem chúng ta đến cái chỗ chết chứ không có còn cái chỗ sống nữa chứ đừng nói tới chuyện mà giải thoát.
Có một bài kinh nói về khi Phật còn tại thế, có người Bà La Môn hỏi đức Phật sau này ai là người thừa kế đức Phật lái con thuyền đạo Phật, thì đức Phật trả lời người thừa kế Phật là người phải có đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực. Nghĩa là ông Phật ông ấy xác định người mà thừa kế ông ấy là phải có những đại oai lực, đại thần lực như vậy, cho nên Thầy có nhắc lại với quý thầy là đại oai lực là như thế nào, đại thần lực là như thế nào, thì Thầy có nhắc đại hạnh lực, đại thần lực và đại huệ lực đó là ứng vào trong cái đại minh lực và cái đại thần lực và cái đại hạnh lực nữa. Vậy đại hạnh lực là gì - là  Giới hạnh; mà đại thần lực là gì - là Giới đức, đại oai lực là gì - là Giới tuệ hay hoặc là đại minh lực là Giới tuệ. Vậy Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ gọi chung là Giới luật của đạo Phật.
Cho nên trong kinh Di Giáo, Phật di chúc: “này các thầy Tỳ kheo khi ta diệt độ các thầy hãy lấy Giới luật của ta mà làm thầy, làm chỗ nương tựa tu hành”. Đó trong cái kinh Di Giáo thì Phật chỉ nói như vậy nhưng mà trong kinh A Hàm hoặc là trong kinh Nguyên Thủy thì lại có nói thêm cái chỗ này thêm, cũng là cái lời di chúc của Phật khi mà sắp sửa nhập Niết Bàn thì Phật bảo hãy lấy Giới luật ta và giáo pháp ta, thành ra cái giáo pháp với Giới luật nó chia làm hai cho nên nó không có đúng đâu. Đó là những cái người sau, người ta lấy cái Giới luật đó để lấy cái tên Giới luật đó làm cái giới bổn chứ sự thật ra trong giáo pháp của Phật thì nó là cái Giới luật, chứ nó đâu có gì khác hơn. Bởi vì trong 37 phẩm trợ đạo là tất cả các Giới hành, nó là cái hành động để chúng ta thực hiện cái giới chứ đâu phải nó là pháp gì, cho nên họ tưởng 37 phẩm trợ đạo là cái giáo pháp còn cái Giới luật là những cái điều mà kê ra cũng như pháp luật đó là Giới luật, cho nên người sau người ta không hiểu. Vậy người ta đem cái giáo pháp của Phật người ta chia ra làm có Giới luật rồi có giáo pháp thành ra hai cái. Cho nên cái lời di chúc đó là họ cũng chỉ thêm vô mà thôi. Cho nên trong kinh Di Giáo thì cái lời này Thầy thấy rất đúng là vì chỉ đức Phật bảo lấy Giới luật mà trong Giới luật đó nó có Giới hành, mà Giới hành tức là 37 phẩm trợ đạo chứ còn gì nữa, đâu có cái gì mà ngoài ra, lấy 37 phẩm trợ đạo mà làm giáo pháp thì nó là cái người không hiểu. Trong cái giới thì nó phải có Giới hành rồi không thể nào mà nói trật được.
Bởi vậy trong giới kinh có đầy đủ pháp hành, pháp hành tức là Giới hành đó, tức là 37 phẩm trợ đạo, chứ không phải 37 phẩm trợ đạo ngoài Giới luật mà có, 37 phẩm trợ đạo là Giới hành của đạo Phật. Cho nên có kinh ghi lời di chúc “hãy lấy Giới luật và giáo pháp của ta làm thầy” - điều này thừa, nghĩa là cái lời nói đó là lời nói thừa không có trọn không có đúng cái nghĩa mà tức là không có hiểu Giới luật của Phật là cái pháp thiện. Cái người mà ghi lại cái lời di giáo đó là…mặc dù là những cái bài kinh đó là những cái bài kinh trong kinh Nguyên Thủy trong bộ kinh Nikaya đó nhưng mà sự thật ra Thầy vẫn thấy nó là sai không đúng, bởi vì cái đó là hiểu không đúng bởi vì giáo pháp thì nó toàn diện trong đó nó có giới, Giới hành, Giới đức và Giới tuệ, Giới hạnh của nó đủ chứ không phải là…Bởi vì đạo Phật đứng trên nhân quả xây dựng thì nó là thiện pháp, mà thiện pháp nó có Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện chứ đâu phải ngoài cái đó ra mà có được.
Giáo pháp của đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả cho nên nó phải toàn là thiện pháp, không phải là ác pháp, mà thiện pháp là Giới luật, trong Giới luật phải có Giới hành, có Giới hành mới gọi là giáo pháp. Bởi vì có cái hành động tu nó mới gọi là giáo pháp, chớ còn nếu mà không có Giới hành thì toàn giới đó tức là cái kỷ luật rồi, mà là cái pháp luật rồi. Nó không có Giới hành tức là không có tu, bắt buộc người ta phải giữ gìn nó thôi chứ nó không có, còn cái này người ta có Giới hành cho nên nó thuộc về pháp rồi, quý thầy thấy rất rõ không?
Cho nên muốn làm cho mình được thiện thì mình phải có sự trau dồi hành động cho nên có sự tu tập, còn cái pháp luật người ta đặt ra người ta có bắt mình phải trao dồi mình như thế nào không, ờ tôi bắt buộc anh không có được ăn trộm này, anh không có được ăn trộm, anh ăn trộm tôi bỏ tù, chứ không có biểu anh phải làm vậy, tập vậy, luyện vậy hoặc trau dồi vậy là không ăn trộm. Còn cái này, cái Phật pháp cái Giới luật của Phật pháp nó có những cái Giới hành, cho nên từ cái chỗ mình không tham lam, không giết hại chúng sanh thì phải tu tập như thế nào, trau dồi như thế nào thì đó nó có cái Giới hành của nó rồi, cho nên nó trau dồi tuần tự từ đó mình trở thành thiện pháp.
Đó quý thầy thấy Phật pháp nó hay ở chỗ đó, Giới luật của Phật nó hay chỗ đó, nó có cái pháp hành chứ nó không khô cằn cỗi như cái pháp luật. Mà người ta đưa ra cái Giới Bổn nó thành ra cái pháp luật cho nên vì vậy mà bắt chúng ta theo cái pháp luật mà tu hành chắc chắn đời sống của chúng ta cũng như là chúng ta gò bó trong cái pháp luật nhà nước nào độc tài, chắc chắn là người dân trong nước đó đều tiêu hết chứ không sống nổi đâu.
Giáo pháp của đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả cho nên nó phải toàn là thiện pháp không phải là ác pháp, mà thiện pháp là Giới luật trong Giới luật phải có Giới hành, có Giới hành mới gọi là giáo pháp, mà giáo pháp thì không phải là giáo điều, mà không phải là giáo điều thì không phải là pháp luật. Pháp luật thì có sự bắt buộc, bắt ép, gò bó trong khuôn khổ kỷ luật, pháp luật thì không có pháp hành, còn ngược lại thì Giới luật của Phật có Giới hành nên một điều giới nào đưa ra làm việc lành, tránh việc ác thì có Giới hành rèn luyện tu tập trau dồi thân tâm con người cho đến khi thuần hóa điều lành đó.
Thí dụ như cái Giới luật đưa ra thì mình có những cái Giới hành mình tu tập rèn luyện theo cái hành động đó, để cho tới chừng mình thuần hóa được cái điều lành đó làm cho thân tâm của mình ở trong cái pháp lành hoàn toàn là không có sai phạm nữa, chứ không phải là nói suông mà bắt trói mình. Vì vậy mà người mà người ta học Giới luật mà người ta có cái Giới hành, người ta thấy được cuộc sống của người ta thoải mái, dễ chịu, nó thanh thản, nó an lạc, nó giải thoát thật sự, cho lên Phật nói thiết thực cụ thể không có thời gian. Đến với đạo Phật thì ngay đó chúng ta đã thấy liền, mà đến với đạo Phật là đến gì, đến với pháp luật mà pháp luật có pháp hành chứ không phải pháp luật thiếu pháp hành.

Thì chúng ta thấy được cái đạo Phật nó hay là hay ở chỗ này, nó đưa con người đến cái thiện, nó phải rèn luyện cái thiện cho con người chứ không phải nói miệng suông hoặc là đưa ra cái giáo điều nào đó bắt ép người ta. Chứ không có bó buộc bắt ép ai hết, cho lên thí dụ như một người mà đi vào cái lộ trình của người tu sĩ ly gia cắt ái mà người ta chưa có đủ cái trình độ đó mà ép người ta vào đó sao được, cho nên người ta vẫn ở trong cái lộ trình của người cư sĩ mà người ta vẫn có những pháp hành thiện của người ta cũng đem lại cái đời sống hạnh phúc an vui cho người ta, cho xã hội, cho đất nước, cho nên nó vẫn là đem lại cái tốt cho mọi người chứ đâu phải chờ cho chúng ta tu hành như cái lộ trình của người tu sĩ mới là giải thoát được đâu.
Nếu người nào biết lấy Giới luật của Phật mà làm thầy tu tập thì thoải mái, dễ chịu, an lạc, yên vui và hạnh phúc. Từng giới một, từng giới luật một hễ tu được giới nào là có sự an lạc của giới nấy, nghĩa là mình chấp nhận cái giới nào là mình  tu, mình trau dồi trong một thời gian thì mình thấy an lạc, cũng như bây giờ mình chấp nhận ăn ngày một bữa, mình chấp nhận rồi mình tu luyện mình, mình tập luyện rồi mình hướng tâm mình nhắc nhở cho đến khi cuối cùng rồi mình thấy thoải mái dễ chịu ăn ngày một bữa. Ở đây không ai bắt ép ai hết à, Giới luật của Phật không buộc ai hết, bây giờ anh chưa ăn một bữa được thì anh nên ở trong cái giới cư sĩ đi, cái lộ trình thứ nhất đi anh ăn ngày ba bữa đi rồi anh sẽ tu những cái, anh trau dồi những cái Giới luật khác trong cái tầm vóc của anh thì anh cũng được giải thoát à, chứ không phải bắt ép anh vô đây ăn ngày một bữa để làm khổ anh.
Cho nên do cái đạo Phật nó vi diệu nó hay như vậy, ở từng cái cấp độ của người muốn giải thoát, cao thì chúng ta phải giải thoát ở cái chỗ cao để mà chúng ta thoát ra các ác pháp và cái người thấp thì cũng có những cái pháp để chúng ta rèn luyện ở trong cái thiện pháp thấp mà cũng đem lại cái sự an vui hạnh phúc cho chúng ta. Chứ đức Phật đâu có bắt ai cũng ăn ngày một bữa đâu, nghĩa là xã hội này đâu có ai cũng ăn ngày một bữa đâu, đâu có bắt buộc điều đó đâu, chỉ có giới tu sĩ chúng ta là ly gia cắt ái thì chúng ta mới ăn ngày một bữa, còn cái giới cư sĩ thì bây giờ đức Phật đâu có khuyên mấy ông một ngày ăn 4-5 bữa đâu nhưng đức Phật khuyên là ăn uống điều độ. Vì vậy mà chúng ta chọn ăn ngày 3 bữa hoặc 2 bữa hoặc 4 bữa, 5 bữa thì phải ăn điều độ thôi, chứ giới cư sĩ không có bắt ăn ngày một bữa, cũng không bắt ép ăn 2 bữa, cũng không bắt ép người ta ăn 3 bữa, tùy người ta có của cải người ta ăn bao nhiêu thì người ta ăn, nhưng mà ăn điều độ, ăn lung tung bữa nay ăn hai bữa, bữa kia ăn một bữa, bữa kia ăn 5 bữa thì nó không có điều độ thì cái thân của họ dễ bị bệnh. Đức Phật khuyên như vậy chứ đâu có bắt người ta ăn ngày một bữa đâu cho nên vì vậy chúng ta thấy cái Giới luật của Phật nó rộng rãi và nó là một cái pháp môn tu hành để đưa chúng ta trong cuộc sống từng cái ăn, ngủ nó cũng có cái sự giải thoát ở trong đó.

Học Phật pháp mà chúng ta hiểu được như vậy thì chúng ta thấy rất là thích thú vì mỗi cái bước đi, mỗi cái giai đoạn của đời người chúng ta đều có pháp hành và cái Giới luật thiện pháp của nó kèm theo cái đời sống của chúng ta, làm cho chúng ta hân hoan an lạc. … hân hoan, luôn luôn vui tươi chẳng biết buồn giận thương ghét ai, chẳng biết lo toan sợ hãi ai. Dù có bất cứ điều gì chỉ có một sự trầm lặng bao la khắp cùng tình thương yêu tất cả muôn loài sống hòa tan cùng vạn hữu.
Sau khi được nghe lời giảng này, quý thầy đã biết Giới luật nào là thầy của quý thầy chứ không phải sáu bộ luật hiện hành của Phật giáo bây giờ mà quý thầy đã học, đã đọc nó, đã hiểu nó. Sáu bộ giới luật không có đủ hạnh lực, thần lực và oai lực thì làm sao mà làm thầy của quý vị được. Những bộ giới luật này nó chỉ là một phần lượm lặt trong Giới hạnh của kinh giới, và viết ra mà lại còn thêm thắt làm lệch lạc oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo.
Cho nên thí dụ như họ viết ra họ thêm thắt, họ bảo rằng mình phải ăn thịt chúng sanh bằng cách không thấy không nghe này kia, rồi họ tự xúm nhau ăn thịt chúng sanh bằng cách không thấy, không nghe, không nghi. Do đó nó mới có những cái điều kiện sai lệch làm cho cái người tu sĩ Phật giáo mà nuôi cái tà mạng bằng cái xương máu của chúng sanh ở trong người của mình. Đó là chạy theo những cái dục lạc bằng cách lấy giới che, che đậy mình, lấy giới đặt ra để che đậy mình tưởng là mình không có phạm giới nhưng chính đó là cái phạm giới rất lớn và rất nặng oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Cho nên bây giờ tu sĩ Phật giáo ngang nhiên ăn thịt chúng sanh như cọp ăn. Thế mà giới hành Tứ vô lượng tâm của các ngài từng học trong giáo lý của nhà Phật mà họ để đâu? Họ ném trong sọt rác để ngang nhiên chạy theo dục lạc thế gian bằng sự thêm bớt Giới Bổn - Phật cho ăn thịt chúng sanh không thấy, không nghe, không nghi để thỏa thích khẩu vị nuôi tà mạng. Những người tu sĩ này mượn giới luật phá hủy đạo Phật giữa ban ngày. Nghĩa là bây giờ họ ngang nhiên họ ăn thịt chứ không có ăn lén đâu. Chẳng có vị tu sĩ nào nhập định được cả và chẳng bao giờ có được Tam minh. Nghĩa là cái giới tu sĩ mà ăn thịt chúng sanh như vậy thử hỏi họ làm sao họ có nhập định được mà làm sao họ có Tam minh được, họ lý luận đời mạt pháp chẳng có người tu chứng quả  A-la-hán.
Đó bắt đầu mấy cái lão này, cái lão tu sĩ này họ nói như thế nào? Họ nói cái đời mạt pháp của mình rồi thì không có người nào chứng quả Alahan hết đâu đừng có mong nhập định, chỉ ngồi đó hưởng lạc một chút đó là may lắm rồi, ngồi mà nó không có vọng tưởng được yên lạc, thích thú đó là đã thiền định của cái thời đại này rồi đó, là phước lắm rồi chớ còn không có tới nữa được đâu.
Không nương vào ông thầy Giới luật chân chính của mình thì tu hành làm sao chứng được. Nghĩa là ông thầy Giới luật của mình không chân chính thì thân tâm mình làm sao thanh tịnh? Mà không thanh tịnh thì làm sao nhập được định, làm sao có được Tam minh? Đó là cái chứng nghiệm cho chúng ta thấy các pháp của đạo Phật nó để chứng minh cho chúng ta đi vào con đường thiền định là phải ly dục ly bất thiện pháp.
Để một lúc nữa Thầy sẽ nhắc lại ly dục ly bất thiện pháp nó có nhiều cấp độ, để quý thầy biết rằng khi mà chúng ta nhập vào bào thai mà cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp nào chúng ta biết chúng ta nhập bào thai? Còn cái chỗ nào chúng ta sẽ không biết nhập vào bào thai Thầy sẽ đọc lại cái bài kinh đó, để cho các thầy thấy rằng đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ nó có nhiều cái giai đoạn ly dục ly bất thiện pháp chứ không phải ly dục ly bất thiện pháp là hoàn toàn chúng ta sạch hết đâu, không phải.
Hầu hết tu sĩ Phật giáo không có thầy dẫn đạo, nghĩa là bây giờ chúng ta không có ông thầy dẫn đạo nên chẳng biết đường tu, tất cả đều tu hành đường lối của đạo Phật theo kiểu tưởng giải của học giải, nghĩa là theo cái tưởng của cái nhà học giả họ tưởng ra thôi, rồi họ soạn kinh họ viết ra cái kiểu này, kiểu kia rồi chúng ta chạy theo đó mà chúng ta tu tập chứ chúng ta chẳng có ông thầy mà dẫn đạo cho chúng ta tu tập. Còn Giới luật là Giới Bổn thì làm sao có Giới hành mà tu? Giới Bổn là một loại pháp luật khô cằn như cây khô không nhựa, đụng tới giới luật vị nào cũng lè lưỡi, người nào cố gắng lắm giữ gìn thì cũng như người tu khổ hạnh của ngoại đạo - cũng chẳng ra gì, cũng chẳng đi tới đâu. Nghĩa là mình có ráng giữ Giới luật cho nghiêm chỉnh cách gì đi nữa mà theo cái Giới Bổn đó thì trở thành một người khổ hạnh, mà khổ hạnh của ngoại đạo chứ chưa phải là khổ hạnh đúng của đạo Phật nữa. Cho nên do đó cái sự tu hành nó chẳng đi tới đâu cuối cùng thì cũng chết quỵ ở trên cái sự khổ hạnh đó mà cũng chẳng ra ngô gì hết, cũng chẳng làm chủ sanh tử gì hết. Bằng chứng như chúng ta đã thấy có một cái số tu sĩ bên Khất Sĩ họ cũng chấp hành Giới luật nghiêm chỉnh, họ đi chân không, đi khất thực đi xin ăn, họ cũng ở trong hang trong núi, mà họ không có biết cái Giới hành cho nên họ không thực hiện được, họ chỉ ôm chặt cái Giới Bổn rồi họ tu tập họ khép mình ở trong những cái khổ hạnh như vậy, cuối cùng họ cũng chết mòn ở trong hang trong hốc chứ chẳng có giải thoát được gì hết.
Bởi vậy Phật mới nói khi mà chúng ta khổ hạnh như con bò thì chúng ta sẽ thành còn bò, mà khổ hạnh giống như con chó thì sẽ thành con chó chứ không thành ông Phật hoặc thành tiên được. Cho nên chúng ta khổ hạnh ăn rau gì nữa, chúng ta ăn rau riết thì cũng thành rau thành cải chứ không thành gì. Đó là những cái điều mà chúng ta không có pháp hành cho nên nó không thành gì hết. Ờ nói bây giờ tôi ăn rau cải là tôi thiện pháp rồi, tôi không có giết hại chúng sanh nhưng cuối cùng thì mình cũng thành rau cải chứ có ra cái gì? Đó là cái hiểu sai Phật pháp, bởi vì Phật nói mình hướng tâm thế nào thì mình sẽ tái sanh về cái hướng đó cho nên những cái tu hành sai là những cái hướng tâm sai, cho nên nói tôi như vậy thì nhiều đời tôi sẽ đạt được...mình hướng chệch, mình hướng phá giới thì làm sao mình hướng đúng giới được, còn mình hướng đúng giới thì nó sẽ đúng giới, cho nên từ ngay bước đầu mình đi đúng là cái lộ trình đó sẽ đúng, mà bước đầu mình đi chệch đường thì cái đường đó nó sẽ dẫn mình đến cái chỗ chệch chứ không thể nào mà đi đúng được.

QUY Y TAM BẢO  
Bây giờ chúng ta trở về quy y Tam Bảo là ba cái giới sống động đầu tiên của Giới luật Phật giáo. Như chúng ta đã được nghe Thầy giảng, thọ quy y Phật, Pháp, Tăng là quay về nương tựa đức Phật, vâng theo lời dạy của Ngài và theo gương hạnh của các bậc Thánh tăng đệ tử của Ngài mà tu tập. Ví như cháu bé còn nhỏ xà vào lòng mẹ của nó, nương tựa mẹ nó, tin cậy mẹ nó vì thế nó có cảm giác an toàn, sự sinh ra của cảm giác an toàn này xuất phát từ sự bảo bọc thương yêu của người mẹ, vì thế mà trở về nương tựa với Phật, Pháp, Tăng cũng là sự bảo bọc thương yêu vững chắc hơn sự bảo bọc thương yêu của người mẹ. Phàm do nơi hành vi hướng về tin cậy đặt trọn lòng tin đáng tin cậy có sự bảo bọc an toàn nhất thì gọi là quy y. Nghĩa là chữ quy y đó là khi mà chúng ta quay về thì tức là phải có sự tin tưởng trong cái sự bảo bọc của cái đó, thì chúng ta mới gọi là quy y.
Ở đời chúng ta cũng từng thấy ở cha mẹ...nghĩa là mình ở đời thì mình sinh ra mình có cha mẹ thì mình nương cậy cha mẹ rồi; học sinh thì tin cậy ở thầy, ở thầy giáo; xí nghiệp thì tin cậy ở dự toán; thuộc hạ thì tin cậy ở trưởng quan.... Có người thì tin cậy ở túc mạng, tin cậy ở vận mạng, người ta tin theo túc mạng thì tin cậy ở vận mạng, người bạo ngược độc tài thì tin theo ở vũ lực, chính khách thì tin cậy vào mưu lược, người tham lam thì tin cậy vào tài sản, v.v.. Ở đây không được gọi là quy y, nghĩa là mình tin cậy vào cái đó thì không được dùng cái danh từ là quy y, vì sự nương tựa này không có bảo đảm vững chắc, nghĩa là mình nương tựa cái hạng người đó không bảo đảm, như nương tựa cha mẹ cũng không có bảo đảm vững chắc đâu. Ví như bị tai nạn nước lụt lớn người ta có thể trèo lên một ngọn cây, trèo lên nóc nhà, chạy nên gò nhỏ nhưng có thể nước và sóng gió to, nước dâng cao làm cho cây ngả, nhà sập, gò nhỏ bị ngập vì thế mà nương tựa như vậy không có vững chắc, nên không thể được gọi là quy y. Nghĩa là bây giờ mình đi nước ngập đi, mình treo nên nóc nhà mình ngồi nhưng mà nước cứ dâng nên thì nóc nhà cũng ngập thì mình cũng tiêu luôn chứ làm sao mình sống được, còn cây thì mình cũng trèo lên mình tránh nước nhưng mà gió nó to quá, nước nó chảy siết, cây nó ngả xuống thì mình cũng nhào xuống nước mình uống nước cũng tiêu luôn, thành ra mình nương tựa nó đỡ chứ sự thật ra nó chưa chắc. Vì vậy cũng như mình nương tựa cha mẹ mình vậy, nương tự như vậy nó đỡ chứ thật sự ra nó không có bảo đảm cho cái đời sống của chúng ta là hết khổ, mà nhiều khi nó còn khổ nhiều hơn nữa. Bởi vì ngồi trên cây mà tránh nước thì trong lòng nó run bần bật chứ, nó tưởng là sắp chết chứ nó đâu có còn sung sướng gì được, cho nên mình nương vào cha mẹ chứ mình thấy trước cái chết, cái bệnh tật của mình, cái đau khổ của mình cha mẹ có đau thế được không? Cho nên nương tựa chỉ an ổn cơm ăn áo mặc ông ta thôi chứ. Ông ta lo cho mình, bà ta lo cho mình đi học vậy thôi chứ thật sự ra sự đau khổ của mình thì ông bà cũng không có gánh cho chúng ta được cái gì hết, cho nên đó không thể gọi là quy y.
Còn ở đây chúng ta quy y ba ngôi Tam bảo này nó gánh hết cho chúng ta tất cả những sự đau khổ hết, từ cái sống chết của chúng ta nó đều gánh hết tức là nó làm hết. Cho nên có nhiều người hiểu lệch lạc lắm mới gọi là Tam bảo gia hộ, đó là hiểu cái lệch lạc, cho nên mỗi việc chúng ta làm gì chúng ta hay nói, tôi làm được cái này cũng nhờ Tam bảo gia hộ chứ không ngờ chính mình làm thiện mà nó được cái đó chứ không phải chính Tam bảo gia hộ. Người ta không hiểu nhân quả cho nên người ta mở miệng ra là nói là chệch nhân quả hết rồi, do vì vậy làm lệch lạc cái thiện pháp của đạo Phật hết đi.
Trong hoàn cảnh ấy, nếu gần đó có một cái trái núi cao, mọi người có thể chạy lên, trèo lên cái núi cao đó, chỉ có những kẻ ngu si thì mới không có trèo trên đó mà thôi, mới bỏ sót cái cơ hội sống sót đó mà thôi chứ không có điên gì mà có cái núi cao mà trèo lên cái cây, trèo lên nóc nhà mà chịu ở trên đó để cho chờ chết đâu, không có đâu. Chúng ta biết được như vậy, nghĩa là ở đây Phật ví dụ như là trong cái cuộc ngập lụt như vậy, thiên tai thủy hoạn như vậy đó mà có cái hòn núi cao, thì trong khi mà nước sắp sửa ngập người ta lo người ta chạy lên cái núi cao chứ không ai dại gì trèo lên nóc nhà ngồi chờ nước ngập cho chết, phải không?
Chúng ta biết là ba ngôi Tam bảo là cái chỗ mà chúng ta nương tựa vững chắc, thì chúng ta phải chạy đến cái chỗ mà ba nơi Tam bảo, chứ bây giờ mình nương cha mẹ mình mai mốt mình đau cha mẹ mình có chịu được không, đâu có thay thế được, mà mình biết mình nương ba ngôi Tam bảo, ba cái Giới hạnh này, ba cái giới thiện này thì nó sẽ giúp cho chúng ta thoát ra khỏi sanh, già, bệnh, chết, đau khổ, thì như vậy chúng ta đã nương tựa vào cái chỗ rất là vững chắc.
Đó như vậy Thầy ví dụ như là một cái...bây giờ giữa một cái cơn mà thủy nạn như vậy đấy thì mọi người sống ở trong cái khu này thì họ phải trèo lên cái núi cao, họ lùa trâu lùa bò lên cái núi cao hết chứ họ đâu có điên gì mà họ trèo lên cái nóc nhà họ ngồi trên đó, phải không? Hoặc họ trèo lên cái cây, họ đâu có điên. Cho nên do chúng ta đâu có phải là người điên, chỉ có người ngu mới trèo lên cái nóc nhà mà ngồi chờ chết chứ còn cái người mà người ta có trí chút không ai dại mà trèo hết. Người ta lùa trâu lùa bò lên trên núi người ta ở, làm sao mà nước ngập lên núi được, phải hông? Các thầy thấy! Mà Tam bảo là cái núi cao để bảo vệ cái sự sống của chúng ta, cho nên chúng ta không có điên đâu và cái người mà hiểu biết được Tam bảo như vậy thì không có bao giờ mà ai không quy y Tam bảo. Còn chúng ta không hiểu cho nên chúng ta thấy Tam bảo thường thôi chứ có cái gì đâu. Mà cái người mà mê tín thì quy y Tam bảo để Tam bảo gia hộ, thì cái đó biến ông Phật thành ông thần rồi, biến Tam bảo thành ba ông thần phù hộ rồi, thành ra cũng là lệch mất đi.
Có nhiều người biến ba Tam bảo này nó thành khoa học mất rồi, bởi vì ông nghiên cứu cái nào, cái tưởng giải của ông, ông nghiên cứu cái nào thì nó ảnh hưởng cái đó rồi ông đem Phật pháp ta ông chen vô đó. Ông muốn làm sao ông làm theo cái kiểu tưởng của ông đó thành ra Phật pháp bây giờ nó xiên xẹo đủ cách hết, làm cho con người ta không biết đường đâu mà tu hết, hồi thì Phật giáo thì như ông thần, hồi thì Phật giáo như con quỷ, hồi thì Phật giáo như khoa học, hồi thì Phật giáo nói như nhà tâm lý, nói cái tâm của mình chia chẻ ra cũng như sợi tóc, thực ra cái chuyện làm (đó) là cái chuyện làm của cái nhà (tâm lý) gợi được cái thị hiếu của con người chứ chẳng đưa con người đến chỗ nào gọi là thiện pháp, là đem lại an lành hạnh phúc cho con người được hết. Bởi vì núi cao đem đến sự bảo bọc an toàn vững chắc hơn những chỗ khác, nó cao chẳng phải như ngọn cây, nóc nhà, gò nhỏ mà có thể sánh với nó được. Người nào nhận thức được thế sự là vô thường, nhận thức được cái thế gian này vô thường, các pháp đều vô thường, tất cả tướng thế gian đều do nhân duyên đối đãi với nhau mà thành, mà khổ, mà vô ngã. Đó, người nào mà nhận được như vậy người ta mới nhào vô ba ngôi Tam bảo này người ta mới nương tựa, cũng như người ta nhận được nước sẽ tràn dâng lên thì người ta mau mau trèo lên núi cao, còn cái người mà không nhận được….
Có thể hiểu rõ ràng sự nương tựa về cha mẹ, thầy giáo, dự toán, trưởng quan, vận mệnh, vũ lực, tài sản v.v... nó chỉ là bảo bọc an ổn tạm thời nhưng rốt cuộc những chỗ đó không bảo bọc an toàn vững chắc tuyệt đối. Cha mẹ sẽ chết và không thay thế sanh lão bệnh tử của mình được, tri thức của thầy giáo sẽ lạc hậu, dự toán sẽ siêu ngạch, trưởng quan sẽ bị điều động đi chỗ khác, vận mệnh dựa vào không chắc, vũ lực, mưu lược cùng tài sản cũng không bảo đảm được gì - hôm nay làm vua, ngày mai thì làm tù nhân, hôm nay thì làm phú ông trăm vạn, ngày mai có thể là kẻ ăn mày đầu đường xó chợ. Tín ngưỡng của các tôn giáo khác có thể sanh lên trời song hẳn do nơi tín ngưỡng được quyết định sanh lên cõi trời, cõi trời ở trong Phật giáo vẫn còn sanh tử luân hồi, thọ mạng của trời tuy dài hơn người thế gian, song cũng có giới hạn, phước trời hưởng hết sau khi chết đọa xuống trần gian, do thế cõi trời chưa phải là chỗ nương tựa bảo bọc vững chắc.
Đó đức Phật ví dụ các tôn giáo khác thì xây cõi cực lạc hoặc thiên đàng hoặc cõi trời thế này thế khác, thì cõi trời vẫn là có tuổi thọ nó dài hơn thế gian chúng ta thôi mà hưởng hết cái phước báu đó rồi thì nó cũng rơi xuống à, nó vẫn còn tái sanh luân hồi, nó đâu có hết được cho nên nó đâu có vững chắc, còn ba ngôi Tam bảo của Phật thì nó vững chắc, nó chấm dứt sinh tử luân hồi, hoàn toàn vĩnh viễn nó không còn có tái sanh luân hồi, nó không còn có khổ đau. Còn bây giờ chúng ta có sanh lên cõi nào nó hết phước rồi cũng phải trở về, bởi vì nó còn nằm ở trong cái phước của nó, phước hữu lậu chứ chưa phải là vô lậu cho nên hoàn toàn nó phải trở về, vì vậy mà đứng ở trên góc độ của Phật giáo chúng ta thấy ba ngôi Tam bảo tức là ba cái giới mà chúng ta nương vào đầu tiên nó tuyệt diệu, nó đưa chúng ta đi đến chỗ chấm dứt sanh tử luân hồi. Từ ba cái giới này mà nó sanh ra bao  nhiêu cái giới khác để mà chúng ta biết mà chúng ta trau dồi, chứ không phải riêng ba giới này mà nó có. Cho nên ở trong kinh, thường thường ở trong kinh thiền, thì các tổ luận nó ba cái giới gốc của nó là tham sân si, không tham không sân không si đó, nhưng mà không phải đâu, ba cái giới gốc đó nó đâu có phải nó sinh ra các giới được do đó nó chính là Phật, Pháp, Tăng nó mới sinh ra, nếu mà không có Phật thì làm sao có giới này. Chúng ta thấy rõ ông Phật ông chế giới chứ đâu phải tham sâu si chế giới. Mà tham sân si nó biết gì nó chế giới, nó là ba cái độc mà, cho nên mấy ông tổ luận sai hết, cho nên Thầy thấy đọc ở trong Sáu cửa vào động Thiếu Thất, Bồ Đề Đạt Ma mà luận đó, luận là tham sân si là ba giới gốc, đó Thầy nói mấy ông tổ này cũng bày đặt ra nữa.
Cho nên khi đọc kinh giới rồi Thầy mới thấy thiệt là sự bịa đặt của họ quá nhiều mà họ làm lệch lạc, cũng như Bồ tát giới, các cư sĩ có thọ Bồ tát giới các thầy biết rồi chưa có thọ tam quy mà vẫn thọ Bồ tát giới được, có phải không? Người chưa thọ tam quy vẫn thọ Bồ tát giới được, bởi vì thọ Tam quy rồi mới thọ Ngũ giới, mới thọ thập giới Sa Di mới lần lượt mới đi tới mà 348 giới Tỳ kheo ni, còn cái này chưa thọ Tam quy vẫn thọ Bồ tát giới được, thì cái đó đọc lại Bồ tát giới Thầy thấy. Cho nên giới Bồ tát giới là giới của các Tổ đặt sau này, cho nên nó ngoài Tam quy ra, Tam quy nó đẻ giới ra chứ. Phật, Pháp, Tăng nó đẻ giới ra chứ, còn đằng này không có Phật, Pháp, Tăng ở đâu trên trời nó đẻ ra? Cho nên chưa có thọ Tam quy mà thọ Bồ tát giới được thì đó là một cái để cho chúng ta biết được cái kẽ hở của các vị tổ làm ra cái này đã là sai rồi, mà đọc vô Bồ tát giới thì rất là cấm không có cho cư sĩ đi đọc Giới luật, thậm chí cũng ngăn cản không có cho đọc kinh sách tiểu thừa nữa là khác.
Cho tất cả những cái mà nó đã làm lệch lạc thế này thế khác, cho nên khi mà nghiên cứu Giới luật rồi mới biết được cái sai của các người xưa, mới biết được các ông tổ mình bày đủ thứ hết để làm cho cái Phật pháp bây giờ nó chới với, nó không biết đường đâu mà đi. Từ cái chỗ sai này chúng ta thấy đến cái chỗ sai khác nếu mà không vạch ra thì không có ai còn biết Phật pháp nó ra làm sao hết. Nghĩa là Thầy không vạch ra thì người ta cũng nói Bồ tát giới là do Phật chế đó, thì mấy ông cũng viết rồi cũng nói do Phật chế, nhưng mà không ngờ cái kẽ hở của mấy ỗng nói chưa có cần thọ Tam quy mà thọ Bồ tát giới vẫn được như thường. Thầy thấy thiệt là cái kẽ hở để chúng ta thấy biết là những cái người mà gian xảo nó phải có cái kẽ hở, bởi vì người dối không thể dấu ai được hết mà cái người thật là bao giờ cũng không có kẽ hở đâu, người thật nói sao nó cũng thật, mà cái người dối rồi, giả rồi thì bao giờ cũng còn cái kẽ hở để chúng ta tìm thấy kẽ hở của người đó ngay. Cho nên ở đây nếu mà một người người ta sáng suốt một chút thì bao nhiêu kẽ hở của các Tổ để lộ ra hết không có che dấu được, bởi vì người gian thì không có che dấu ai được hết nhất là Phật pháp là những cái pháp thiện, pháp chân thật cho nên tất cả những người mà làm gian ở trong đó chúng ta đều vạch mặt được hết, không có cái chỗ nào mà chúng ta không thấy. Chỉ là chúng ta còn phàm phu, do cái tâm ly dục chúng ta chưa hết cho nên chúng ta còn bị mê mờ, còn bị vô minh ở trong cái màn ngũ triền cái nó làm chúng ta mê mờ chúng ta không thấy được, cho nên cứ nghe mấy ông nói sao chúng ta tin vậy chứ chúng ta chưa biết, nhưng mà khi chúng ta quét sạch ngũ triền cái rồi, tham sân si mạn nghi ra rồi, chúng ta nhìn thấy cái miệng của mấy ông chúng ta biết rồi cái miệng của mấy ông như thế nào chúng ta biết hết, chứ không có bao giờ mà chúng ta không rõ đâu.
Cho nên ở đây thì xác định có cõi trời nó cũng không phải cái cõi trời mà có cái chỗ nương tựa vững chắc cho chúng ta, cho nên các tôn giáo khác xây dựng cái thế giới siêu hình của họ mà cõi trời này, cõi trời kia thì nó không phải là chỗ nương tựa, cho nên chúng ta thấy tiên nó cứ bị đọa xuống hoài, nó xuống trần gian của mình hoài, ở trên ấy nhìn xuống đây nó thấy mấy cái ông này nào là có tivi, video rồi coi sướng quá cho nên ở trên nó nhào xuống nó đầu thai xuống dưới thế gian chúng ta. Thậm chí coi chừng Bắc Đẩu, Nam Tào cũng khoái cũng nhào xuống dưới chứ đừng nói….Thật sự mà Thầy nói thật bởi vì ở thế gian bây giờ nó khoa học quá chừng thành ra nó cám dỗ mấy ông tiên ở trên lắc đầu hết: Trời, nó còn hơn mình, nó ngồi đây mà nó nói bên Mỹ nghe được, còn mình phải dùng thiên nhãn mới được, thành ra bây giờ nó hay hơn mình, phải hông, các thầy thấy rất rõ mà, bây giờ mình ngồi đây mình nói chuyện với bên Mỹ được không? Đó, thì có thua mấy ông trời đó đâu, tụi nó còn hay hơn, nó dùng máy móc còn mình phải tu tập thấy mẹ, cực gần chết mới làm được, còn nó bây giờ nó có gì đâu, nó chế ra hàng loạt thằng nào nói chuyện với nhau được hết, còn mình có thằng nói được có thằng nói không được, có thằng thấy được có thằng thấy không được. Đó thí dụ như thiên nhĩ, thiên nhãn hai cái thằng quỷ này nó thấy được, còn mình có luyện cái đó đâu mà thấy được, phải hông, còn tụi nó bây giờ ở đây mà nó nói chuyện thấy được hình ảnh ở bên Mỹ với Pháp ấy. Cho nên thằng ở dưới thế gian bây giờ nó hay hơn, mình xuống dưới chơi với tụi nó ngon không, ở đây cõi trời còn thua, dục lạc ở đây đâu có bằng, nhưng mà sánh với Phật pháp thì tụi nó đâu... bởi vì Phật pháp là cái chỗ mà nó hết dục lạc còn cõi trời nó còn dục lạc mà, nó còn dục lạc tưởng của nó mà, đó thì do đó nó đâu còn vĩnh viễn đâu, cho nên sanh lên cõi trời còn phải vậy, cho nên thường thường những câu chuyện người ta nói tiên bị đọa. Ở trên trời không có nước tắm đi xuống mấy cái dòng suối của mình bây giờ mới có chỗ Suối Tiên rồi đó mới tắm, trời đất ơi cảnh của mình đẹp hơn ở trên đó, phải không? Thầy nói bởi vậy cho nên đất nước của mình cũng có chỗ cho tiên tắm chứ bộ không à? Đó bằng chứng nó cụ thể như vậy chứ không phải là thầy nói thừa đâu, cho nên đó là những cái mà tiên nó còn dục, mà dục tưởng còn chúng ta nó về sắc dục, nó dục thân sắc, dục về cái tướng, tướng dục.
Đó cho nên cảnh trên trời nó không có chỗ nương tựa vững chắc chỉ có ba ngôi Tam bảo là nơi vững chắc nhất để chúng ta tới đó là chấm dứt không còn dục nữa. Cho nên đạo Phật nói ly dục ly bất thiện pháp mà, ly hết. Cho nên nó không còn dục, thì không còn dục chúng ta không còn tái sanh luân hồi chứ không có gì hết.
Chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ quy y nghĩa là Phật giáo là chỗ nương tựa vững chắc, bảo bọc an toàn giải thoát mọi nơi, mọi nỗi đau khổ của kiếp người, nghĩa là chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ quy y, không có bao giờ Cao Đài nó nói quy y Cao Đài chư tôn đâu, các con thấy không, nam mô Cao Đà tiên ông thôi chứ nó đâu có dám nói quy y Tiên ông bao giờ, hoặc là nó có thể nói rằng, Thiên Chúa nói rằng quy y Thiên Chúa bao giờ, phải không, các con thấy đâu có dám dùng chữ quy y đâu, còn mình dùng chữ quy y tức là vững chắc vào đó là chấm dứt sự đau khổ không còn tái sanh luân hồi nữa, còn tụi nó thì nó còn lên còn xuống với thế gian mình đi lên đi xuống, chơi lên chơi xuống với cái cõi này vì nó còn thích, còn Phật giáo thì không còn thích, bị ly dục hết rồi còn gì thích, tiêu hết.
Cho nên cái người nào mà còn dục thì chúng ta ở lộ trình thứ nhất mà tu tập thì nó cũng đem đến hạnh phúc cho mình ở trong cái cảnh, coi như là mình hướng thiện thì tức là mình sẽ sanh lên cõi trời, mà mình có ở trên cõi trời mình xuống thì mình cũng cố gắng mình giữ thiện nữa thì ở cõi thế gian mình cũng vua chúa chứ có thua gì ai, cũng là sung sướng cũng đầy đủ cơm ăn áo mặc, thì cái pháp của Phật cái lộ trình thứ nhất là đem cái cuộc đời chúng ta toàn là những cuộc đời sướng, sướng không chứ không cho cái người khổ. Chúng ta có ác pháp đâu mà chúng ta khổ, mà sinh lên cõi trời chúng ta cũng hưởng sung sướng thôi.
Cho nên cái hướng của Phật là cái lộ trình thứ nhất thì đem lại cái đời người cũng được hưởng hạnh phúc thì nó cũng tương đương với những tôn giáo khác là sinh lên cõi trời rồi trở xuống hưởng cái cõi thế gian chứ có gì đâu. Nhưng mà họ lầm lạc, họ xuống đây họ hưởng họ khoái quá họ làm ác cái tiêu họ luôn, còn chúng ta là biết thiện cho nên chúng ta hưởng nó vừa đủ vì vậy chúng ta không có làm ác cho nên chúng ta lại trở về cõi trời, phải hông, cho nên đường của đạo Phật dạy chúng ta không có bao giờ mà trở về cái cảnh địa ngục, còn thiên hạ không biết hưởng hết cõi trời xuống cái cõi thế gian này thấy máy móc này kia rồi Honda, hoặc xe cộ ngon quá lái chạy bậy bạ cán đụng rầm bể đầu chết cái đi xuống địa ngục luôn. Bởi vì ham dục thì phải địa ngục luôn chứ sao.
Đó thì đó là những cái cảnh cám dỗ của thế gian họ thành dục thành ác cho nên từ đó họ bị rơi địa ngục, còn chúng ta là những người theo Phật pháp ở cái lộ trình thứ nhất thì chúng ta biết thiện pháp cho nên chúng ta không có ham. Cái gì có thì chúng ta xài, không có thì thôi cho nên từ đó chúng ta ở trong thiện pháp thì chúng ta lại sanh lên cõi trời nữa. Còn hết phước cõi trời thì chúng ta trở về cõi thế gian chúng ta cũng giữ thiện pháp mà tu nữa cho nên ở toàn bộ trong cõi thế gian chúng ta cũng hưởng hạnh phúc. Phật dạy đâu có làm cái chuyện đó được cho nên người cư sĩ chúng ta vẫn hoàn toàn thanh tịnh tốt.
Tổng thể Giới luật của Phật giáo không ngoài ba ngôi Tam bảo, đó các con thấy tổng thể mà gồm chung thì Giới luật của Phật giáo đâu có ngoài ba ngôi Tam bảo đâu. Hôm nay Thầy vạch ra cho các thầy thấy rất rõ cho nên cái Giới luật của Phật thì không ngoài ba ngôi Tam bảo, mà cái Giới luật nào đặt ngoài ba ngôi Tam bảo thì coi như là giới của ngoại đạo, cho nên Bồ tát giới Thầy được xem như là ngoại đạo chứ không phải Giới luật của Phật. Bởi vì chưa thọ Tam quy mà dám thọ Bồ tát giới thì Bồ tát giới nó ở ngoài rồi chứ đâu phải ở trong Tam quy mà ra, phải thấy được cái chỗ đó. Trên thực tế lễ quy y trước tiên phải bắt đầu từ quy y Tam bảo, nghĩa là cái khuynh hướng mà chúng ta theo đạo Phật thì bắt đầu là quy y Tam bảo chứ không thể nào mà thọ Tam quy chứ không thể nào mà thọ Ngũ giới trước. Chưa thọ Tam quy mà thọ Ngũ giới thì chệch đường rồi, bởi vì nó có từng cấp bậc của nó mà, từ thế nào thế nào. Bởi vì bảy thứ chúng ở trong đạo Phật, có bảy thứ chúng chứ không phải là ba chúng hay là bốn chúng đâu, bảy loại đệ tử của Phật ở trong đó gọi là bảy chúng đó. Thì bẩy loại chúng nó phân ở trong Giới luật của Phật ra chứ đâu phải ngoài cái bẩy loại chúng đó. Ví dụ như Tỳ kheo phải giới nào, Sa Di giới nào, Thức Xoa nó ở chỗ nào và cái cư sĩ nó ở cái giới nào, cho nên nó phải nằm ở trong cái giới đó mà người ta phân ra bẩy cái chúng của Phật. Chúng ta thấy rõ mà, đâu có phải là, nó có từng phần nói rất rõ mà, do cái Giới luật đó, mà do cái thiện pháp đó và tốc độ tu tập cái thiện pháp đó thì cái người đó nó phải ở cái cấp độ đó.
Như vậy là Thầy giảng quý thầy đã hiểu được cái Phật pháp nó là cái chỗ đó đó chứ không phải là cái chỗ nào khác, như một người thọ Ngũ giới thì không thể nào tu tập ở trong Ngũ giới mà nó nhiều bằng cái người mà thọ 250 giới được hoặc là bằng một chú Sa Di mười giới được, mình có Ngũ giới còn người ta tu tập tới mười giới lận, thành ra người ta phải hơn mình rồi, tức là người ta đi gần về phía giải thoát hơn mình chứ không phải là hơn ở trong cái giai cấp, mà đi gần về con đường giải thoát hơn.
Trên thực tế khuynh hướng của quy y trước tiên là phải bắt đầu từ quy y Tam bảo ở ngoài thân, nghĩa là mình bắt đầu làm cái lễ đó, làm cái lễ quy y Tam bảo thì nó ở bên ngoài, có nghĩa là hình thức, cách thức tổ chức lễ quy y, nghĩa là nó ngoài thân của mình á. Nghĩa là mình phải tổ chức như bữa đó phải bông hoa hay là hương đăng trà quả này kia tổ chức cho trang nghiêm cái buổi lễ đó thì nó mới có cái ý nghĩa của cái buổi quy y. Chớ còn mình trơ chẽn để cái bàn Phật như vậy không có bình hoa, không có gì hết chẳng thèm đốt hương nữa lại nói bậy bạ, lạy vài ba lạy rồi nói tôi quy y Phật, Pháp, Tăng đó là không có đúng đắn.
Cho nên trước khi ngày xưa, Thầy nhắc lại các vị ngoại đạo cũng như là các vị cư sĩ khi đến nghe Phật thuyết pháp xong rồi các vị đó mà muốn làm đệ tử Phật thì các ngài nói lên một cái lời nói. Nghĩa là từ lâu tới giờ nghe được cái pháp của Phật dạy rồi cái tâm lúc nào cũng thấy nó quá đúng, rất là tuyệt cho nên các ngài đứng trước Phật cho con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin tôn giả Gotama chấp nhận cho con là Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di.
Thì các thầy thấy cái lời nói đó là quy y đó, tức là quỳ xuống đứng lên trước đức Phật và gọi tôn giả Gotama chớ không phải gọi đức Phật là Phật. Nhưng mà chính đức Phật hồi đó đâu có ba ngôi Tam bảo đâu, đâu có Phật, Pháp, Tăng đâu mà chỉ có mình đức Phật à, mà trong đức Phật đã đủ ba ngôi Tam bảo bởi vì nhất thể Tam bảo mà, có một mà nó là ba trong đó. Phật là, cái hình sắc của Phật là Phật - một phải hông, mà cái lời nói của Phật là Pháp, mà cái hành động sống mà không có tranh luận, hòa hợp thì đó là Tăng. Một ông Phật là đủ ba cái Phật, pháp, tăng ở trong đó chứ đâu có phải thiếu. Cho nên đứng trước Gotama là Gotama nhưng mà Phật, Pháp, Tăng nhất thể là phải có một cái hình ảnh siêu việt của pháp giới của nó, của Giới luật thanh tịnh trong đó. Cho nên vì vậy mà do đó đứng trước tôn giả Gotama xin quy y Phật, Pháp, Tăng chứ không phải quy y tôn giả Gotama, các thầy phải hiểu chỗ đó, cho nên đọc kinh nguyên thủy các Thầy thấy tuyệt quá, là quy y Tam bảo chứ không phải quy y Phật, Pháp, Tăng chứ không phải quy y riêng có ông Gotama này. Còn ông Gotama chỉ là đức Phật Thích Ca thôi chứ gì nhưng chính đức Phật Thích Ca là Gotama, mà Gotama chỉ là một cái tên để đứng ra một con người thôi chứ chưa phải, chỉ là chứng minh cho cái vị cư sĩ đó mà quyết quy y Tam bảo, đó các thầy thấy.
Thầy giải thích như vậy là quý thầy thấy hồi xưa đơn giản lắm không có làm lễ gì hết, mà khi nghe một bài thuyết pháp rồi nó long trọng lắm, vô cùng lắm ngồi mà trang nghiêm nghe thuyết pháp mà không có hề nhúc nhích, không có hề ngủ ngục trong đó, nghe nó thích thú làm sao. Như nó là một cái trận mưa, mưa pháp nó làm cho toàn cả vạn vật tươi mát hết, cho nên tâm hồn của các vị nó tươi mát lên hết vì vậy mà khi nghe cái bài pháp rồi thì ngài long trọng quỳ xuống, trước mặt tôn giả Gotama mà xin quy y Phật, Pháp, Tăng. Cái lời nói mà nên như vậy là lời nói tự thâm tâm của mình thấy đúng là cái chân lý để đem được cho mình đến chỗ giải thoát cho nên mới đứng ra phát nguyện cái lời nguyện lớn.
Cho nên bây giờ giới mà dạy về giới đàn tăng, cách thức mà để quy y thì họ không có nói hết đầy đủ nhưng mà họ cũng bắt chước theo kiểu đó là bắt đầu dạy cho cái người quy y Tam bảo là phải nói lên Tam quy, rồi tam tiết rồi tam thệ đó. Thiệt ra thì cái chuyện mà tam thệ Thầy thấy...nghĩa là nó, sau này họ đặt ra chứ thật ra đã quy y Tam bảo là mình đã tin tưởng Phật pháp rồi thì mới quy y, mà còn phải thệ, thệ tức là không tin, bắt buộc người ta thề, thề quy y Phật rồi không có quy y tiên thần quỷ gì nữa hết, đó phải không, thề mình quy y pháp rồi thì không có đọc kinh sách của ngoại đạo nữa, phải không? Đó là những cái thề, nhưng mà ở trong cái chỗ quy y đó Thầy thấy chỗ thề nó không đúng cái tính cách của đạo Phật, vì đạo Phật không có bắt buộc ai thề, thấy nó đúng, thấy nó đem lại sự giải thoát cho chính mình, thấy nó đoạn dứt được sự đau khổ của đời người, thì mình tin tưởng mình theo nó là mình Tam quy, mình nói lên cái lời nói tha thiết từ thâm tâm của mình, mình nương vào đó để thực hiện những cái nó đem lại cái sự giải thoát cho mình.
Đó là cái đúng, chứ còn cái mà Tam quy rồi tam kết rồi, để kết cho người ta, để người ta sợ người ta đừng có đi qua tôn giáo khác đó, kéo cho người ta dính vô rồi bắt buộc người ta thề nữa, cho nên hầu hết các tôn giáo khác phải đưa tay lên thề. Phật giáo mình khôn hơn bắt buộc ông phải nói ra không quy y thiên thần quỷ vật nữa, thì cũng là cái hình thức thề thôi. Cho nên mấy ông thầy sau này họ không hiểu được cái lý giải thoát của đạo Phật, lý Giới luật của đạo Phật, lý thiện pháp của đạo Phật cho nên nó bày ra những điều này. Chứ ngày xưa ông Phật ông ấy, Thầy thấy người ta đến người ta quy y Tam bảo nghe cái dễ dàng, chỉ phát ra cái lời Tam quy thôi, chỉ nói lên thôi chứ còn không thấy ông Phật kết nữa, ông muốn vậy thì tôi chấp nhận cho ông thôi, nếu mà ông ráng ông tu được thì giải thoát cho ông, còn ông không ráng thì ông chịu chứ tôi, tự ông làm chứ tôi đâu có làm dùm ông được, tôi đâu có cứu ông được, cho nên tôi đâu có kiết, có trói ông trong này làm gì, nếu ông thấy được thì ông ráng, ông tu được thì giải thoát cho ông, còn tôi trói vô đây mà ông tu không được thì tôi cực khổ với ông hoài tôi chịu không được, phải không. Cho nên ông Phật hông có kết mà mình sau này mình kết, tức là mình kết cho ông dính vô đó.
Từ hôm nay, chúng ta bắt đầu quay về Tam bảo, tức là quay về thiện pháp, chỉ có thiện pháp của Phật mới là chỗ an toàn bảo bọc vững chắc cho chúng ta.
Tam bảo là gì? Ở đây Thầy sẽ..Tại sao gọi là Phật, Pháp, Tăng là Bảo, đó là những cái mà để trả lời cho chúng ta biết cái chỗ. Đây là điều rất quan trọng, một người muốn tin Phật trước tiên cần phải quy y Tam bảo, nhưng trước khi quy y cần phải hiểu rõ, cần phải hiểu rõ Tam bảo bằng không chẳng hiểu chỗ hay đẹp của Tam bảo thì không được gọi là chân chánh quy y. Nghĩa là mình chưa có hiểu nó mà mình quy y Tam bảo thì nó không có được gọi là chân chánh trong quy y Tam bảo. Cũng như thí dụ như bây giờ mình chưa nghe một cái bài pháp, chưa có hiểu cái bài pháp như thế nào rồi vội mình quy y thì cái đó là cái sai. Cho nên hầu hết những người mà xuất gia theo Phật cũng như là những người mà quy y làm cư sĩ đệ tử Phật đều là những người được nghe pháp rồi sau cái bài pháp đó mới xin quy y, xin thọ quy y, đó thì nó mới rõ ràng và xin xuất gia. Cũng như một ngoại đạo được nghe Phật thuyết giảng xong rồi trong thâm tâm ông ấy nó thanh tịnh liền tức khắc, nó thấy đúng rất đúng rồi, nó không còn thấy một cái nẻo nào khác hơn là cái nẻo của đức Phật giảng đây cho nên từ đó xin đức Phật xuất gia. Mà vị ngoại đạo đó xuất gia thì đức Phật nói à bây giờ phải 4 tháng chúng tăng mới xem xét coi như có thể những cái tà kiến mà từ đâu chấp ở trong các pháp của các ông coi các ông có bỏ không. Nếu bỏ thì chúng tôi mới chấp nhận mà nếu không bỏ thì thôi, thì cái vị ngoại đạo nói 4 năm chúng tôi cũng chịu nữa đừng nói chi là ba, bốn tháng.
Đó thì ở trong kinh nó hẳn hòi những cái bài kinh nó còn rất rõ ràng, cho nên sau khi được nghe pháp rồi thì mới có quy y, mới có xin xuất gia chứ còn chưa nghe pháp mà xuất gia thì chắc chắn đến đức Phật không cho đâu. Không bao giờ mà đức Phật cho một cái người mà chưa biết pháp Phật như thế nào, còn mình thấy người ta tập trung vô đông đông đến nghe thuyết giảng gì đó rồi cái ùn nhau xin quy y, quy y hết chứ chẳng hiểu Phật pháp là cái chỗ nào thiệt, chỗ nào khác chẳng biết hết, thấy người nào bu theo cái chỗ đó đông đảo thì mình vô đó mà làm theo, nghĩa là hướng theo đó thì cái đó là cái không đúng của Phật pháp.
Cũng như chúng ta muốn thi vào trường đại học để cầu học nếu chẳng biết tên của trường đại học ấy và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười. Mình quy y Tam bảo mà mình chẳng biết Tam bảo ra sao hết thì cũng như là mình muốn ghi tên vô trường đại học đó mà chẳng biết trường đại học đó dạy luật hay dạy cái gì, mình chả biết, hoặc là dạy kiến trúc hoặc là dạy gì không biết. Thì như vậy mình ghi tên làm sao mình biết đâu mình học, cho nên mình phải rõ, rõ rồi mình mới ghi tên vô. Đó ở đây Thầy đem một cái ví dụ nó cụ thể như vậy để chúng ta biết. Và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười, đáng buồn cười cho cái người đó. Nếu mà muốn vào đại học đó mà chẳng biết như vậy thì chẳng qua mình thấy quá là ngu si.
Hầu hết chúng ta phải xác định hầu hết ngày nay đệ tử của Tam bảo, lúc mà thọ quy y chưa hẳn đã hiểu qua đại ý của Tam bảo, nghĩa là bây giờ hầu hết là một cái số người mà đệ tử của Phật mà họ quy y, họ chưa có thấu hiểu được cái Tam bảo. Như nãy giờ Thầy dạy hầu hết là quý thầy chưa có hiểu Tam bảo, tưởng là Phật, Pháp, Tăng là ông Phật này, pháp của Phật rồi tăng chứ đâu hiểu nó là Giới luật, phải hông? Hầu hết là bây giờ Thầy vạch ra thì mới thấy nó là Giới luật, còn hồi nào tới giờ quý thầy tưởng là ông Phật, rồi chúng tăng rồi pháp của Phật dạy thôi chứ các thầy có hiểu đó là Giới luật không? Đó là những cái mà quý thầy và một số nhiều người hiện bây giờ gọi là tín đồ của Phật giáo họ chưa biết là ba cái này là Giới luật của Phật, có hông, Thầy nói như vậy có phải xét không?
Thậm chí như bây giờ chúng ta là những người tu sĩ đi, thọ Tỳ kheo rồi mà chúng ta đã biết ba cái đó là Giới luật chưa. Nếu mà Thầy không nói ra thì quý thầy nghĩ đó là ba ngôi Tam bảo, là cái nơi mà mình đã quy y là Phật, Pháp, Tăng mà thôi, là vì thấy ông Phật, thấy lời của Phật dạy, thấy chư tăng mà thôi chứ còn không có thấy. Thậm chí có nhiều người lại còn không hiểu nữa là chư tăng hiện giờ là mình quy y theo các tăng đó thì còn lệch nữa. Cái lỗi là ở các thầy truyền thọ quy y chưa chắc ắt hẳn đã khai ngộ rõ ràng về đại ý của Tam bảo. Nghĩa là cái lỗi thứ nhất là cái người mà truyền cái Tam quy cho họ đó, truyền cho họ thọ Tam quy họ mà không có khai ngộ cho người ta hiểu cái này. Họ cứ dựa vào lối kinh mà các Tổ nói giống như ông thần ngồi đó để chứng minh cho chúng ta để thọ quy y thôi chứ không có rõ ràng cái gì được hết.
Nói ra là một điều xấu hổ của Phật giáo, bây giờ hầu hết là quý thầy đều dựa vào giới đàn tăng mà làm lễ quy y và giải thích theo trong đó khiến cho người Phật tử hiểu một cách lờ mờ, hiểu thì phải hiểu cho rõ ràng còn không hiểu thì thôi, mà hiểu lờ mờ lờ mờ làm cho người ta chẳng biết gì hết cho nên càng ngày người ta quy y Phật pháp mà người ta biến ông Phật thành ông thần hết ráo à. Cho nên vì vậy mà thậm chí có những bậc tôn túc của chúng ta còn nói Tam bảo gia hộ nữa, thì đủ biết rằng từ ông thầy lớn đến người Phật tử mà quy y Tam bảo cũng vẫn thấy là Tam bảo gia hộ thì hông phải là ba cái ngôi này là thần sao?
Đó là những cái chúng ta thấy họ hiểu lệch lạc Phật pháp như vậy thì làm sao mà con đường của đạo Phật tu tới đâu. Hiểu không đúng làm sao tu cho đúng, hiểu đúng nó mới tu đúng chớ, còn hiểu không đúng làm sao tu cho đúng được. Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng bởi vì từ Phật, Pháp, Tăng là ba giới thiện cao tuyệt nên thường sinh ra công đức vô lượng phước báu, phát huy diệu dụng vô tận, hưởng thọ vô cùng, lấy đó chẳng cạn, dùng đó chẳng hết, vô cực vô hạn, vô bến vô bờ. Thế gian cho vàng bạc châu báu, hột xoàn là có giá trị quý báu nhất, công dụng của nó rất lớn cho nhu cầu vật chất thế gian vì thế gọi là báu. Tức là thế gian cho vàng bạc châu báu là nó quý báu, nhưng mà ngược lại thì phước báu công đức diệu dụng của Phật, Pháp, Tăng tức là diệu dụng của ba cái giới này thì nó diệu dụng vô cùng tận, thì thông cả thế gian và xuất thế gian. Nghĩa là từ cái chỗ Phật, Pháp, Tăng này nó cả cái lộ trình thứ nhất và cả cái lộ trình thứ hai cho nên nó thông cả thế gian và xuất thế gian, thế gian là giới cư sĩ đó còn xuất thế gian là giới tu sĩ đó. Tức là từ ở trong ba cái giới này mà nó lưu xuất ra thế gian và xuất thế gian, phước báu vô lượng vô biên, vàng bạc của báu chỉ là một phước báu nhỏ của vật chất thế gian chẳng nhằm nhò gì với Tam bảo. Phước báu rộng lớn phủ trùm cả thế gian, xuất thế gian vì thế mới đáng gọi là Bảo, chữ Bảo ở đây đáng gọi là như vậy đó, chứ còn gọi là Bảo như cái kia thì bảo có chút xíu à.
Như Thầy đã nói ở trên, Tam bảo là pháp môn thiện nên khi đã quy y và nương pháp này thì phải được sự giáo hóa của nó khiến cho người sống bình an, an vui hạnh phúc ở nhân gian và làm cho con người ở nhân gian lìa khổ được vui, vì thế Tam bảo là báu vật quý nhất của loài người cho nên Tam bảo còn vượt hơn sự quý báu của các thứ quý báu tột đỉnh.
Đến đây Thầy xin dừng lại ở chỗ này để rồi chúng ta tiếp tục những cái bài bổ túc thêm cái phần…
Trước khi mà đi sâu vào Giới luật thì Thầy xin nhắc lại lời di chúc của Phật để bổ túc thêm cái phần giảng nãy giờ đó, để chúng ta thấy những lời di chúc của Phật để chúng ta thấy rõ. Bởi vì hồi nãy Thầy có nói là di chúc của Phật rất nhiều nhưng mà nó chưa đủ đâu cho nên Thầy bổ túc thêm phần này và bổ túc thêm cái phần nhập thai về cái vấn đề mà ly dục ly bất thiện pháp để cho các thầy thấy thấy được cái phần này thêm nữa. Bởi vì nếu mà không có bổ túc ngay chỗ này sau này chúng ta bỏ qua chỗ này thì làm cho quý thầy chưa thấy được chỗ ly dục ly bất thiện pháp của Phật là nó tuyệt diệu như thế nào. Cho nên trước khi đi sâu vào Giới luật thì Thầy xin nhắc lại những lời di chúc của đức Phật, đây là lời di chúc của Phật đây:
“Này các thầy Tỳ Kheo, các thầy hãy sống tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa vào một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa không nương tựa vào một ai khác.”
 Lời nhắc nhủ thứ hai của Phật:
“Này các thầy Tỳ kheo các thầy hãy lấy mình làm hòn đảo, làm chỗ ở vững chắc rồi các thầy hãy lấy Giới luật của ta làm rào tường, bao quanh bảo vệ. Hãy lấy Giới luật của ta làm khuôn phép khép mình trong khung vàng thước ngọc này, hãy lấy Giới luật của ta làm kỷ luật cho chính mình không hề vi phạm, tái phạm. Hãy lấy Giới luật của ta làm thầy chỉ đạo tu tập, đừng nương tựa vào ai, đừng lấy ai làm thầy, làm tổ của mình, mà phải chính mình. Lấy Giới luật của ta làm thầy, làm tổ cho chính mình.”
Đó là những cái lời của Phật mà Thầy thấy ở trong kinh ghi chép, Thầy đem ra đây để mà ghi lại cho nó rõ ràng. Hồi nãy Thầy chỉ trích ra một phần nhỏ để chứng minh cho cái chỗ mà thọ Tam quy đó, để thấy cái Giới luật của Phật ba ngôi Tam bảo nó quý báu như thế nào và Giới luật của Phật mà Phật đã chỉ định cho cái người mà làm thầy cho chúng ta sau này, nó như thế nào đó. Bây giờ thì qua cái lời dạy này nó rất là đầy đủ và cặn kẽ, quý thầy phải hiểu đó là những lời cuối cùng khi mà đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài rất là lo cho chúng ta đời sau không có ông thầy mà nhắc đi nhắc lại những cái lời này để chúng ta nhớ mãi mà không quên để lấy cái ông thầy đúng cái ông thầy của chúng ta. Nhưng mà vì người sau họ làm lệch lạc mất đi. Chúng ta thấy giới bổn tức là Giới luật, mà thấy pháp mà Phật dạy tu hành là Phật, cho nên đó là những cái họ làm cho lệch, rồi bây giờ người ta bị lệch rồi người ta không biết Giới luật là những giới nào, mà giới pháp của Phật, giáo pháp của Phật là cái nào họ chẳng biết, cho nên bây giờ Thầy hợp lại để chúng ta thấy Giới luật là giáo pháp của Phật. Mà Giới luật thì nó có Giới hành cho nên nó không phải là rời ra gọi là giáo pháp mà là Giới hành, bởi vì Giới hành là cái hành động giới để chúng ta đạt được những cái giới mà đã nêu lên, để chúng ta đạt được những cái hạnh và cái đức, cái tuệ của cái Giới luật.
Thì hôm nay qua những cái lời di chúc của Phật như vậy, quý thầy đã nắm rõ và vững vàng trong các lời di chúc này nó nằm ở trong kinh Di Giáo hoặc là ở trong kinh Du Hành hoặc là kinh Niết Bàn. Những cái lời này nó còn nằm ở trong những cái bản kinh đó.
Bây giờ Thầy nhắc đến cái chỗ mà vì cái vấn đề tu tập giáo pháp thiện này là cái mục đích nó ly cái tâm ham muốn của chúng ta ra, chúng ta thấy nó lìa cái tâm ham muốn của mình ra, mà nó lìa các cái ác pháp ra, bởi vì pháp của Phật là thiện thì các ác pháp nó không được xâm nhập vào cho nên do cái nguyên nhân cái lòng ham muốn nó mới sinh ra ác pháp, mà cái lòng ham muốn không có thì ác pháp nó không có, cho nên phải ly dục, ly dục được thì ác pháp nó không còn có nữa, nó toàn thiện pháp, mà toàn thiện pháp thì nó là Phật, Pháp, Tăng.
Đó chúng ta trở về cái bản gốc của nó là Phật, Pháp, Tăng cho nên vì vậy mà chúng ta lấy cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp này chúng ta mới biết được cái chỗ tái sanh luân hồi. Bởi vì mình không ly dục ly ác pháp thì nó luôn luôn tái sanh luôn hồi à, nó không làm sao mà nó thoát khỏi được, mà mình ly dục ly bất thiện pháp thì nó mới chấm dứt được cái tái sanh luân hồi. Nhưng bây giờ như thế nào để chúng ta biết nó có bốn cách nhập thai, nghĩa là chúng ta sanh ra nó có bốn cách nhập thai chứ không phải một cách, bởi vậy cho nên phân tích ra để chúng ta thấy rõ nè.
Một, người phàm phu nhập thai thì không biết mình nhập vào bụng mẹ, không biết mình trụ ở trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ, đó là loại nhập thai thứ nhất. Đó cũng như bây giờ quý thầy biết quý thầy vô bụng mẹ quý thầy đâu có biết, mình vô mình cũng hông biết rồi mình nằm trong đó mình cũng chẳng biết, rồi mình đi ra mình cũng chẳng biết, họ đẻ ra thì họ đẻ còn mình chẳng biết gì hết, rồi bắt đầu tới chừng biết được thì mình khóc thét lên thì chắc chắn có thể nó ngộp thở làm sao nó chịu không nổi mình la lên cho thở cho được chứ còn hồi đó chắc chưa biết gì hết. Đó, lúc đó là lúc mê muội ngu si không có tỉnh, cho nên vì vậy mình ly được cái phần nào thì mình tỉnh cái phần đấy.
Đây bây giờ đức Phật nói cái phần thứ hai để cho người mà biết như thế nào gọi là như thế nào, lại nữa, có người tu chánh niệm tỉnh giác định, đó bây giờ chúng ta biết cái tu chánh niệm tỉnh giác định là tỉnh thức chứ gì, đó quý thầy thấy. Họ có đủ sức thức tỉnh khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ, có sức tỉnh rồi bắt đầu chết đi biết mình nhập thai vào bụng mẹ. Thì cũng như mấy ông Lạt Ma, quý thầy nghe nói mấy ông mà chết đi mấy ông biết sanh vào nước này nước kia. Mấy đứa nhỏ mới sanh ra mà biết, đó là mới có tỉnh thức thôi, mới có tỉnh giác định thôi chứ mấy ông ấy có cái gì hay ho đâu để chứng minh cho chúng ta biết cái điều đó phải không. Họ có đủ sức tỉnh thức khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ nhưng không biết mình an trú trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ, đó là loại nhập thai thứ hai. Cho nên cái sức tỉnh thức đó nó làm cho mình cũng ly bớt dục rồi bởi vì người ta chửi mình cũng bớt giận, còn cái người mà chưa có tỉnh thức người ta chửi mình mình ăn thua đủ mình đâu có nhịn ai. Mình tỉnh thức thì mình biết nhịn rồi tức là mình có nhẫn rồi, tức là mình có ly rồi đó, ly bớt được tâm sân si phiền não của mình rồi, đó là ly một phần nhỏ của ly dục ly bất thiện pháp đó, cho nên nó mới có sự tỉnh đây, đó là loại thứ hai.
Loại thứ ba, người tu tập định vô lậu tâm tỉnh thức, tâm tỉnh thức rất cao và ngũ triền cái xả ly nên khi chết biết mình nhập thai vào bụng mẹ, khi mình chết rồi mình biết mình nhập vào chỗ nào. Đó là bắt đầu ông này đã được một phần tỉnh thức cao hơn cho nên mới xả được ngũ triền cái, lậu hoặc nó đã bớt. Người này tu cái định vô lậu hồi nãy cái người tu cái định tỉnh giác định, chánh niệm tỉnh giác định đó, còn bây giờ cái ông này hơn chút là ông tu cái định vô lậu cho nên cái tâm nhờ cái tỉnh giác định đó mà chánh niệm tỉnh giác định đó ông mới xả được cái lậu hoặc của ông ấy cho nên ngũ triền cái ông xả ly. Cho nên khi chết ông ấy nhập thai vào bụng mẹ ông biết, biết rất rõ, an trú trong bụng mẹ ông cũng biết nữa, nhưng không biết mình ra khỏi bụng mẹ. Khi mình sanh ra thì chắc bộ hồi đó quay đầu, điên đầu hết biết rồi, còn ông nằm ở trong ấy thì ông biết nhưng mà khi ông quay đầu để sanh ông ra đó, còn nếu mà không quay đầu thì đẻ ngược thì sao, còn khổ nữa. Cho nên khi mà quay đầu ra dốc ngược cái đầu ông ra đó ông điên cái đầu giờ ông hết biết, ông mê cũng như người chết mê man không biết gì nữa, thì chắc là lúc sanh ra chắc cũng mê man thì cái ông này mới có xả được cái triền cái chút ít cho nên vì vậy mà ông còn mê chứ chưa có biết hoàn toàn. Như vậy là ông mới xả ly ly dục ly bất thiện pháp ít ít thôi chứ chưa phải được nhiều cho nên vì vậy đó mà nó còn cái chỗ mà mê muội nó chưa có hết.
Thứ tư, có người ly dục ly bất thiện pháp khi thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ, biết mình an trú trong bụng mẹ và biết mình ra khỏi bụng mẹ, đó là nhập thai thứ tư. Chỉ có ly dục ly bất thiện pháp không thì vô bụng mẹ an trú trong đó biết thì như vậy rõ ràng chúng ta đi vào con đường Tứ thiền chứ gì? Cho nên chúng ta muốn tái sanh khó không, quý thầy thấy không, bởi vì đầu tiên mà chúng ta đi vào Tứ thiền thì phải ly dục ly bất thiện pháp mới nhập Sơ thiền, đó phải không? Nhập Sơ thiền từ đó con đường chúng ta đi là hoàn toàn đi tới Tứ thiền là hoàn toàn là ly dục ly bất thiện pháp hết, toàn thiện sạch bóng cho nên cái người này phải nói bắt đầu từ cái Sơ thiền mà họ đi vào, họ đi vào cho nên vì vậy họ muốn thoát sanh chứ gì? Dễ quá, cái chuyện đó dễ quá, cho nên muốn làm chủ sanh tử nó quá dễ rồi đâu còn khó nữa, chỉ điều khiển nào đó. Ở trong đó mình dùng cái thiên nhãn minh của mình nhìn chứ gì chứ gì, coi cái nhà nào mà có duyên phước với mình thì mình đến mình độ cái gia đình đó luôn cả cha mẹ trong đó luôn hết, anh em dòng họ đó hết thì mình nhào vô đó bắt đầu mình tái sanh, vô đó mình nhập bụng người ta thì mình đi chứ ai mà...nghiệp ở đâu mà lôi mình, phải hông, mình ly hết dục rồi thì đâu có cái nghiệp nào mà lôi mình được, đâu có ác pháp nào lôi mình đâu, cho nên tự mình đi. Cho nên ở đây Phật nói có người ly dục ly bất thiện pháp khi mà thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ. Biết mình ở đây Thầy nói biết chứ không phải đâu, mình nhập thai chứ không phải biết đâu, mình tự tại mình ở trong bụng mình nằm đó mình muốn nó ba năm là ba năm, mình muốn nó hai năm là hai năm, mình muốn một ngày nó ra nó cũng ra, phải không? Đó là cái tự tại của mình mà cho nên đâu phải là cái quyền lực của mình mình muốn điều khiển như thế nào, cho nên toàn bộ là khi sanh ra thì mình cũng biết mà khi nhập vào thì mình cũng biết, ở trong đó mình cũng biết rất tỉnh táo, bởi cái sự tỉnh táo quá cao. Cho nên chúng ta mới thấy Tứ thiền mà chúng ta ngồi đây mà như ngủ gục thì làm sao gọi Tứ thiền. Cho nên cái người mà nhập Tứ thiền là người ta hoàn toàn không có ngủ, ngày đêm người ta không ngủ, người ta nằm đặt niệm trước mặt người ta tỉnh thức. Mà người ta ngủ, ngủ mà không mê cho nên luôn luôn lúc nào cũng biết. Vì vậy mà khi nhập vào Tứ thiền rất là tỉnh, trời sét không nghe mà rất là tỉnh hẳn hoi đàng hoàng mà muốn nghe thì nghe mà không muốn nghe thì không nghe, đó là cái chỗ siêu việt của đạo Phật là như vậy.
Cho nên khi mà chúng ta tu hành mà chúng ta được đến cái chỗ này thì cái sự tự tại sinh tử chúng ta rất dễ. Và vì vậy chúng ta đọc qua bốn cái nơi mà đi tái sanh này chúng ta thấy rõ từ cái Tam bảo này mà nó lưu xuất ra cái thiện pháp, cho nên chúng ta từ ở trong ba cái pháp thiện này mà chúng ta ly dục, ly dục tức là chúng ta đi gần đến những cái thiện pháp càng ngày càng xa ác pháp rồi cho nên cái tâm dục mà càng ly thì cái ác pháp nó càng xa và đến khi mà toàn thiện thì tức là ly dục ly bất thiện pháp, cho nên tâm thanh tịnh từ đó chúng ta có phải ức chế tâm đâu, mà chúng ta đi vào Tứ thiền một cách rất là tự tại, vậy là chúng ta rất rõ ràng. Cũng như bây giờ quý thầy ngồi đây mà quý thầy hít thở với cái hơi thở bình thường của quý thầy mà bắt buộc cho nó đừng có nghe đừng có biết hơi thở để mà nhập Sơ thiền thì quý thầy có làm được không, đâu có được. Bởi vì tâm quý thầy còn dục này tâm quý thầy còn ác pháp này, làm sao mà thanh tịnh được cho nên hễ ngồi đây mà không vọng tưởng thì không biết hơi thở, nó không rời ra mà thở nhẹ nữa thì thở không được bởi vì thở có 3 giây mà làm sao thở nhẹ nữa được chứ không phải thở 10 giây 20 giây thì mình thở mình hông thấy hơn thở được, còn đằng này thở ra vô ra vô liên tục mà biểu nó đừng nghe làm sao nó đừng nghe vì vậy mà người ta nhập Sơ thiền người ta hông nghe.
Đó thì quý Thầy thấy cái phương cách và cái sự tu tập của đạo Phật nó hay là hay ở cái chỗ này, cho nên chúng ta tu sai là sai mà tu đúng là đúng à. Cái người tu sai là tu sai biết liền mà cái người tu đúng thì cũng biết liền, cho nên hiện giờ ví dụ như, bây giờ ví dụ như Thầy nói thí dụ như bây giờ ở đây như thầy Thiện Thuận này, thầy Minh Tông này mặc dù là Thầy biết rằng cái Sơ thiền chưa nhập được nhưng mà Thầy bảo rằng các ngài đang tập cái sức tỉnh thức đó, nghĩa là tập sao cho đừng ngủ, phải hông, mà khi không có ngủ thì si hết, mà si hết thì ngũ triền cái ly dục ly bất thiện pháp sạch thì tức là nhập Sơ thiền được, mà nhập Sơ thiền được thì Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền quý thầy làm cái rẹt, phải hông? Cho nên chúng ta thấy coi vậy mà quý thầy đang phá cái si, đang tập cho mình tỉnh thức đó, hàng ngày các thầy đang nỗ lực để tu tập cái gì, phải hông? Các thầy phải hiểu chỗ đó, còn quý thầy bây giờ chưa chắc đã làm được như Minh Tông như Thiện Thuận đâu, phải hông? Vì mình chưa có đủ cái sức của mình để mình tập cái tỉnh thức đó được, mình nằm xuống mình hít thở vào ba bốn hơi thở thì nó đi tút lút rồi, mất tiêu còn người ta còn được một giờ, hai giờ người ta làm còn được 6-7 tiếng đồng hồ người ta nằm đó người ta biết hơi thở ra vô thì đó là sự tỉnh thức của người ta cho nên người ta phá được cái chiêm bao, mà phá được cái chiêm bao tức là người ta ly được 18 cái loại tưởng của người ta rồi chứ còn không khéo nó cứ lọt trong chiêm bao không, mà bây giờ người ta đã bị những cái trạng thái đó dẫn tới dẫn lui người ta vô cùng tận chứ đâu có phải, nhưng mà người ta đang rèn luyện để phá cái si, mà tham sân si, cái si nó rất quan trọng, mà si không có thì tham nó không có và sân nó hết cho nên ngũ triền cái nó quét ra hết. Các thầy phải hiểu chỗ đó, đó là cái mấu chốt đi vào để người ta ly dục ly bất thiện pháp.
Cho nên vì vậy nghe thì nói các thầy này chưa có ly dục ly bất thiện pháp, chưa có ly. Sự thật bây giờ họ chưa có ly bởi vì họ còn đang ở trong cái sức tỉnh chưa đủ, chứ mà họ tập riết một thời gian nữa thì họ đủ. Đó thì như vậy quý thầy thấy cái chỗ mà tu tập của đạo Phật nó quá rõ ràng và cụ thể chứ nó không phải mơ hồ đâu. Mà cái người tu nào chỗ nào đúng chỗ nào sai Thầy biết hết, cho nên Thầy xác định bây giờ như Minh Tông, như Thiện Thuận chưa nhập được Sơ thiền bởi vì các ngài thường là tu tập hơi thở từ hồi nào tới giờ chứ chưa có biết định vô lậu hoặc cái định chánh niệm tỉnh thức này. Nhưng mà chính cái chánh niệm tỉnh giác này nó giúp cho chúng ta cái sự tỉnh thức, nó làm cho chúng ta nằm ngủ mà nó không có bị mê tức là phá si mê chứ gì? Đó quý thầy thấy rõ không, mà bây giờ những người này họ đang tập để họ phá cái ngủ của họ, tức là họ phá cái si, họ phá niệm si được thì minh chứ gì do đó lậu hoặc tham sân si họ sẽ quét sạch hết. Hễ nó có cái đó thì nó hết, nó tỉnh rồi thì cái đó nó phải ra thôi, nó phải ly thôi chứ nó không còn ở trong tâm chúng ta được. Cho nên từ đó thì bây giờ chúng ta thấy nó cụ thể rõ ràng của đạo Phật chứ nó đâu có lỗi thời. Quý thầy tu nó đâu có mất đi chỗ nào hết, cũng như quý thầy tập luyện hơi thở nó đâu có mất đi chỗ nào đâu, nhưng mà phải biết cái chỗ nào mà chúng ta đang đi để mà phá cho được chứ không khéo rồi chúng ta không hiểu chúng ta tu riết rồi nó cũng lệch mất đi, đó những điều mà Thầy nói.
Ở đây hôm nay Thầy có thêm một cái đoạn này để chúng ta thấy được cái lộ trình của kinh nghiệm của các bậc Thánh tăng ngày xưa, từ các cái vị Thánh tăng từ ông A-Nan cho đến ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên mỗi vị đều có kinh nghiệm mà hôm nay Thầy trích ra một phần kinh nghiệm của ông A-Nan nói trước, bởi ông A-Nan là người đa văn mà ông chưa chứng đạo cho nên phải thấy cái chỗ tu của ông trước để mà lấy kinh nghiệm của ông, phải hông, rồi sau đó mình mới lấy kinh nghiệm của những bậc mà người ta đã tu xong, tu chứng quả A-la-hán mình mới được, mới tới, chứ còn mình lấy cái ông cao quá mình đem lại của mình rồi mình nhìn lại mình còn xa quá làm sao mình với cho được tới những cái nghiệm của ông này. Đó cho nên vì vậy mà Thầy biết cách sắp xếp cho từng bậc Thánh tăng đó cái người nào mà tu ở giai đoạn nào để cho nó phù hợp với mình.
Thì bắt đầu chúng ta sẽ bắt đầu từ các vị Thánh tăng nhất là ông A-Nan, ông này cuối cùng đức Phật chết rồi ông mới chứng đạo lận, cho nên ông ấy chẳng biết cái thứ gì mà nói về kinh nghiệm chứng đạo trước được mà ông chỉ biết nói cái kinh nghiệm của ông trong khi theo Phật mà thôi, vậy thì đầu tiên chúng ta theo Phật là phải như thế nào, phải giống ông A-Nan chứ sao, phải hông? Chứ đâu thể nào giống ông Mục Kiền Liên được.
Vậy thì bây giờ đây là cái câu chuyện ở trong rừng Gosinga. Đây là cái bài kinh trong bộ kinh trung bộ tập 1 trang 463 bài kinh số 32. Hôm nay tất cả những bài kinh mà Thầy bổ túc thêm cho cái giáo án này Thầy đều nói trang nói họ nói tên cho đầy đủ để sau khi đó quý thầy trích ra đọc cái bài kinh đó cho nó cụ thể và rõ ràng, phải hông? Cho nên khỏi cần phải đi tìm kiếm cho nó nhiều, còn Thầy giảng mà như trong đó Thầy không có nói kinh nào kinh nào dù đó hoàn toàn là những bài kinh của Phật hết chứ không phải là của Thầy nói ra, nhưng mà vì không có chỉ chỗ ở bài kinh nào, cuốn kinh nào thì các thầy đi tìm ra những cái chỗ đó thì quá khó, cho nên ở đây Thầy muốn vạch ra cái chỗ này để sau này quý thầy đi tìm lại những cái bài kinh đó. Bài kinh này nói lên những kinh nghiệm của các vị đại đệ tử của đức Phật. Xin quý thầy lắng nghe để rút tỉa kinh nghiệm của các ngài rồi tu tập cho chính mình.
Bây giờ tôn giả Xá Lợi Phất nói, này hiền giả A-Nan, ông hỏi ông A-Nan đó. Cái khu rừng Gosinga đêm nay trăng rằm sáng tỏ tuyệt đẹp, cây Ta-la trổ bông cùng khắp, như hương trời bay tỏa khắp nơi, này hiền giả A-Nan, hạng Tỳ kheo làm chói sáng khu rừng Gosinga này như thế nào?
Bây giờ cái ông Xá Lợi Phất ông cũng chơi cắc cớ là trong cái đêm đó trăng sáng mấy ông ngồi mà đem những cái chuyện đạo để mà họp nhau bàn bạc kinh nghiệm để mà tu tập đó, thì lúc bấy giờ ông Xá Lợi Phất mới hỏi ông A-Nan trước, vậy thì ông nghĩ như thế nào trong cái khu rừng mà đẹp như thế này, trăng sáng như thế này này, hương của bông cây Ta-la nó bay khắp cả phương trời chúng ta thấy ngào ngạt mùi hương, vậy thì người tu sĩ chúng ta làm sao cho cái khu rừng Gosinga này nó lại sáng chói lên nữa, nó đẹp lên nữa, cái sức tu hành của chúng ta làm sao cho nó đẹp hơn nữa. Thì bây giờ ông A-Nan ông đã trở lời.
Bây giờ quý thầy lắng nghe những cái kinh nghiệm mà đức Phật khéo sắp xếp cái bài kinh này cho hợp đường lối tu tập của đạo Phật bắt đầu phải tu cái gì trước, đó thì ông A-Nan trả lời tức là lấy kinh nghiệm. Chúng ta phải hiểu cái ý đó, vì có hiểu được như vậy chúng ta mới lắng nghe mới rút tỉa cái kinh nghiệm của ông A-Nan rồi đến những cái bậc kế đó, những cái bậc tu gần gần ông A-Nan đó, rồi những cái bậc tu xa hơn, những cái kinh nghiệm rất hay, những bài kinh này Thầy đọc Thầy thấy ông Phật cũng khéo sắp xếp những bài kinh này để mà chỉ cho chúng ta từ cái thấp cho đến cái cao, trong cái quá trình tu tập theo cái đạo Phật này.
Bắt đầu phải tu cái gì, đây ông A-Nan trả lời, ở đây này hiền giả Xá Lợi Phất, Tỳ kheo nghe nhiều, ông A-Nan bắt đầu ông nói. Bởi vì ông ấy là người nghe nhiều thành ra ông lấy kinh nghiệm của ông ấy, ông nghe nhiều ông nhắc chúng ta chứ gì. Tỳ kheo nghe nhiều giữ gìn những điều đã được nghe, nghĩa phải nhớ giữ gìn những cái điều mà Phật nói, nghe hết đừng có bỏ cái nào hết, ông A-Nan theo kinh nghiệm của ông ấy mà, bảo là mình phải nghe cho nhiều, Phật nói gì mình cũng nghe, đừng có không nghe, đừng có thiếu, đừng có bỏ mà nghe cho nhiều và giữ gìn những gì mình đã được nghe, chứ đừng có nghe rồi lỗ tai bên đây chui qua bên kia mất đó cho nên cái đó là cái không nên, tích trữ lại những điều đã được nghe.
Đó ông A-Nan đầu tiên ông khuyên mình đó, tức là ông ấy lấy kinh nghiệm của ông nói ra mà, nói ra như vậy thì chúng ta biết là muốn làm cho cái rừng Gosinga này nó sáng chói lên thì trước tiên chúng ta là vị Tỳ kheo phải nghe nhiều và giữ gìn những cái điều mà đã được nghe và tích tụ lại những cái điều đó, điều được nghe đó. Vậy ở đây ông A-Nan muốn bảo chúng ta nghe cái gì mà phải nghe nhiều, giữ những điều gì đã được nghe, tích tụ những điều gì đã được nghe, vậy nghe cái gì đây? Đó mình đặt ra câu hỏi ông ấy bảo mình nghe, mình phải giữ gìn mình nghe cái gì đây? Qúy thầy nghe ông A-Nan nói tiếp, những pháp...đó bây giờ ông A-Nan nói đây, đây là những cái bài kinh mà chứ đâu có phải, bởi vì ông bảo mình nghe nhiều thì nghe cái gì đây? Không lẽ mình nghe nào là Tứ thiền, nào là Tứ niệm xứ hoặc này kia, lung tung đủ thứ thì nghe cái đó có đúng không, cho nên ông bảo nghe cái kiểu mà ông bảo nghe đây là nghe cái gì, vì vậy đó cho nên mình phải biết nghe những cái pháp, chứ nếu mà không biết nghe thì biết cái gì đây, cho nên ông A-Nan ông nói tiếp. Những pháp Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện - đó ông xác định cho mình nghe, nghe cái pháp gì, nghe pháp Sơ thiện, nghe cho kỹ nghe cho rõ ràng, rồi nghe cái pháp trung thiện, nghe cho kỹ nghe cho rõ ràng và hậu thiện cũng phải nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Nghe rồi thì phải giữ gìn, tích tụ, những cái điều nghe đó đừng có để quên. Đó thì ông biểu như vậy đó, văn nghĩa phải đầy đủ, nghĩa là nghe phải văn phải nghĩa phải đầy đủ, phạm hạnh phải được nói lên hoàn toàn thanh tịnh. Nghĩa là khi nghe rồi những cái phạm hạnh đó thì mình phải được nghe mà được nói lên những cái phạm hạnh đó được thanh tịnh như thế nào, làm sao cho nó được thanh tịnh ở trong những cái pháp này? Những cái pháp ấy quý vị phải được nghe nhiều, giữ gìn, giữ gìn lấy được lặp đi lặp lại nhiều lần lớn tiếng, ở trong này ông A-Nan bảo mình lặp đi lặp lại lớn tiếng, được ý tứ, duy trì, được tri kiến khéo quan sát. Nghĩa là nghe những cái pháp đó mình phải lặp đi lặp lại mà lặp lớn tiếng nữa, rồi phải ý tứ duy trì những cái tri kiến đó, những cái sự hiểu biết đó, rồi cũng phải khéo quan sát nó nữa. Vị ấy nói pháp cho bốn hội chúng, nghĩa là khi mà mình hiểu biết rồi như vậy đó thì mình đem ra mình lặp lại cho bốn hội chúng người ta nghe văn cú, chiêm dung lưu loát với mục đích khiến người hiểu biết đoạn trừ mọi tùy miên, à cái mục đích của ông đó khi mình nghe mình hiểu biết vậy rồi thì mình làm sao giúp cho người ta đoạn trừ mọi cái tùy miên. Như Thầy đã dạy cho quý thầy có bẩy cái tùy miên đó mà. Phải hông chứ không phải đây thùy miên đâu nghe, bẩy tùy miên đó chứ không phải là một, do vì vậy cái mục đích của ông A-Nan ở đây nghe nhiều hiểu nhiều ở trong cái pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện tức là pháp thiện của Phật toàn thiện đó, lấy cái pháp thiện đó mà làm sao đoạn dứt bẩy cái tùy miên.
Đó là cái mục đích của ông A-Nan chứ ông không có nói thiền nói đạo gì hết, nghĩa là lấy cái pháp thiện đó mà đoạn dứt tùy miên, làm cho cái tâm mình nó đừng miên man ở trong đó, chứ đừng có nối tiếp. Ví dụ bây giờ mình ham ngủ tức là mình thùy miên rồi đó, phải hông, mình vọng tưởng gọi là trạo cử tùy miên đó, tùy miên nó liên tục nghĩ lăng xăng cái này cái kia, phải dứt cái đó đi; mà bây giờ sân tùy miên, sân mà nó cứ kéo dài ngày này qua ngày khác nó tùy miên đó, còn ham muốn cái gì đó không chịu dứt nó ra thì nó kéo làm sao cho đến khi mình mua sắm được cái đó gọi là tùy miên, nó lôi mình hoài đó, gọi là tùy miên. Chẳng hạn thèm cái đó cái bánh hay cái trái gì chưa ăn được mà cứ nhớ hoài đó gọi là tham tùy miên đó, đó nó kéo dài mình hoài đó, mình nghi người nào mà người ta ăn trộm hoài thì gọi là nghi tùy miên; còn cái ngã của mình ai đụng tới nò sừng ra đó, thì đó là ngã tùy miên làm cho bự ra đó, nó lôi mình hoài mà mình không chịu chấm dứt. Cho nên bây giờ mình học Sơ thiện, hậu thiện, trung thiện này mục đích của mình là để đoạn dứt những cái tùy miên này, đoạn dứt nó có hết không? Nó chưa có hết, ông A-Nan thì ông nói đoạn dứt như vậy là ngay lúc mình giận mình biết bây giờ nó tùy miên cái giận này, bây giờ đừng có giận nữa nè, hông có giận nữa nè, giận là nó tùy miên cho nên nó làm liên tục cái sự giận của mình ngày này qua ngày khác, cái mặt nó buồn buồn hoài là nó tùy miên ở trong đó chứ gì. Cho nên bây giờ vui lên không có được giận nữa, giận như vậy là tùy miên đó, phải đoạn dứt nó đi thì như vậy nó có hết giận không, chưa. Cái ông A-Nan nói cái kinh nghiệm của ông ấy, bây giờ mới có dứt sơ sơ, dứt tùy miên sơ sơ thôi. Đó quý thầy thấy ông A-Nan ông dạy chúng ta cách tu đơn giản không, đó đâu có khó gì, giận thôi bây giờ đừng giận nữa, giận khổ chứ làm gì, mình nói vậy nó cũng bớt giận chút chút, tức là nó bớt tùy miên chút đó đó là cái lối của ông A-Nan dạy. Như vậy nó cũng làm sáng chói được cái khu rừng Gosinga này, phải hông các con thấy nó bớt được cái đó nó làm sáng chói chứ gì tức là có giải thoát trong đó rồi.
Đến đây Thầy dừng lại để quý thầy suy ngẫm, đó bây giờ mình suy ngẫm cái giai đoạn đầu đi rồi ngày mai này mình sẽ học thêm được của cái người khác nữa, phải hông. Bắt đầu để mình suy ngẫm chứ, còn nếu mà Thầy đưa ra một lố kinh nghiệm bắt đầu quý thầy hông biết kinh nghiệm nào hết, bắt đầu mình dứt sơ sơ cho nó bớt tùy miên chút đi, đó là cái đầu tiên, mà cái đó phải nghe nhiều phải tích tụ cái sự nghe ở trong các pháp, pháp thiện, sơ thiện, hậu thiện, trung thiện.
Đó thì như vậy chúng ta thấy cái kết quả của sự tu tập chưa? Mà bây giờ Thầy nói nhiều quá tức là quý thầy sẽ mất đi và bây giờ tiếp tục là quý thầy, nếu mà quý thầy không có hỏi gì thì Thầy tiếp tục ở trong cái bài giảng, mà nếu quý thầy có hỏi thì chúng ta ngưng lại đây mấy phút để mà thưa hỏi những cái điều kinh nghiệm tu tập, bây giờ chấm dứt chút đi.
À, theo Thầy thiết nghĩ quý thầy nên viết ra, ví dụ như muốn hỏi Thầy kinh nghiệm tu hành nào đó để cho nó có lợi ích chung về sau đó thì quý thầy viết trong cái tờ giấy hỏi câu hỏi con bữa nay hay ngày mai, ngày mốt, hôm qua hôm kia gì đó con tu tập cái trường hợp con thấy vậy có đúng hay sai, hoặc con hiểu qua cái bài Thầy giảng vừa rồi đó con hiểu cái đó nó như thế nào thế nào có đúng hay là sai, vì vậy mà do đó nó làm sáng tỏ thêm cái giáo án của chúng ta hơn và cũng là lúc chúng ta đang có những cái phút mà gần bên Thầy để thưa hỏi những cái kinh nghiệm tu tập. Cho nên do đó mà ghi lại những cái lúc mà mình tập ở trong hơi thở ổn định hay hoặc là nhiếp tâm ở trong hơi thở để cho mình giúp cái tỉnh thức của mình, để cho nó phá được cái buồn ngủ, để cho nó phá được cái si mê, hoặc là tu những cái định vô lậu đặt cái niệm mà cái pháp hướng, để mà dùng cái pháp hướng để mà quét sạch những cái lậu hoặc của chúng ta, thì có nhiều người đặt sai mà cũng có nhiều người đúng. Những cái đặt sai đặt đúng này được Thầy minh xác lại để mà chỉ định cho nó đúng sai rồi cũng rút tỉa từ kinh nghiệm đó, quý thầy dễ dàng nhận ra được.
Đó quý thầy có thể lấy một cái tờ giấy hoặc là ghi lại trong cái tập giấy của mình, cũng là lưu lại những cái kỷ niệm tu hành của mình chứ gì. Do đó, quý thầy cứ để lại tập giấy sau cái buổi giảng này, quý thầy có hỏi gì đó thì quý thầy cứ để cái tập giấy lên đây thì Thầy sẽ lật ra cái trang đó Thầy sẽ thấy hỏi thưa gì thì Thầy sẽ trả lời, do đó chúng ta lại được thu vào băng và đồng thời cũng là cái kinh nghiệm sống để cho quý thầy tu tập, và cũng là cho người sau, nó có lợi ích cho mình và cho người sau.
Đó thì đến đây hôm nay Thầy sẽ thuyết giảng luôn, là vì nó chưa có chuẩn bị trong cái phần này, cho nên tiếp tục Thầy sẽ giảng cho quý thầy về cái phần, để mà hiểu rõ về cái phần Tam bảo hơn, để tiếp tục phần quy y Tam bảo.
Đến đây quý thầy đã hiểu rõ Tam bảo là quý báu như thế nào rồi, bây giờ chúng ta kê ra chủng loại Tam bảo, mình đã hiểu rõ Tam bảo ở cái phần đó nhưng mà chưa biết là cái chủng loại Tam bảo như thế nào nữa. Bởi vậy giảng thì phải giảng cho sạch chứ giảng không sạch hiểu lờ mờ thì sao, làm ông thầy mà giảng không hết như thế này thì thôi chẳng thà đừng có làm thầy, mà làm thầy thì phải làm cho chọn cái bổn phận của mình làm sao cho người ta hiểu cho hết cái Phật pháp. Cho nên đến đây thì quý thầy đã hiểu rõ Tam bảo là quý báu, mới có hiểu rõ nó là quý báu thôi chứ còn chưa có biết nó cái chủng loại nào Tam bảo được, cho nên ở đây tiếp tục Thầy sẽ giảng cho quý thầy hiểu rõ cái chủng loại của Tam bảo.
Xưa nay có nhiều cấp phân biệt từ ở trên đại thể mà nói, chẳng ngoài do sự bất đồng của sự tướng và lý thể, nay Thầy làm lại. Nghĩa là trong sự bất đồng của sự tướng và lý thể của nó do cái chủng loại của Tam bảo, cho nên vì thế mà Thầy phải làm lại cho nó rõ ràng ra để cho chúng ta thấy được cái chủng loại Tam bảo nào cho nó cụ thể hơn, cho các thầy sẽ nhận ra được, chớ còn nếu mà nói mà không rõ làm cho quý thầy chưa thấy cái sự tướng của Tam bảo và lý thể của Tam bảo như thế nào.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét