Mặt A
GIỚI HÀNH ( TIẾP)
...Giới hẳn
hoi, đàng hoàng mà sống ở trong dục lạc còn hơn ở người người thế gian thì đâu có trắng bạch như vỏ
óc được thì làm sao mà có giải thoát.
Đó là vị cư sỹ
này đã xác định cho chúng ta thấy rằng: con đường của đạo Phật phải khác không
thể nào giống con đường của thế gian được. Thế mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng
ra đời thì quý vị làm sao giải thoát được?
Sau khi được
cha mẹ cho đi tu và được Phật chấp nhận xuất gia, chẳng bao lâu Tôn giả chứng
quả A-la-hán. Chứng quả xong Tôn giả xin Phật trở về thăm cha mẹ, khi về đến
nhà Tôn giả không được sự tiếp đãi mà còn nhận những lời sỉ nhục, tôn giả chỉ
nhận được bát cháo thiu của người đầy tớ, nhờ thế mà phụ thân Tôn giả mới đến gặp
Tôn giả mời ngài về nhà.
-- Này con thân yêu Ratthapala, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm
qua không? Con phải về nhà cửa của con đi.
Khi mà cái người
con đi tu rồi thì khi về gặp cha mẹ người đó có mừng rỡ không? Họ rất thản
nhiên, qua cái hình ảnh của một cái vị cư sĩ này chúng ta thấy này, lâu ngày ba
năm sau theo Phật, cho nên lúc bấy giờ tu hành cho đến ba năm sau vị này tu chứng
quả A-la-hán rồi mới xin Phật , Phật thấy rằng đúng là cho về được, cho về
thăm. Nhưng mà vị này về thăm thì từ khi mà xin đi tu thì gia đình không có
cho, cho nên ông này nằm vạ đòi thế này thế khác, cuối cùng thì cha mẹ bằng
lòng cho đi là vì thương đứa con một của mình mà thôi chứ không muốn cho nó đi
tu, cho nên khi mà về thấy ông này ở ngoài cửa thập thò đó, đi ngang qua cái cửa
mà để khất thực xin đó, thì ổng ở trong nhà ổng chửi như thế này:
“Cũng ba cái thằng đầu trọc này nè mà nó làm cho con tao ba
năm rồi mà không có thấy nó về”.
Ông chửi như vậy
đó. Cho nên đó là ông nói ông về nhà ông là ông bị sỉ nhục là chỗ đó, bị chửi
ba cái thằng đầu trọc đó, do đó vì vậy mà ông bị sỉ nhục đó. Vì vậy đó, sau khi
đó thì ông đi qua thì có cái đứa đầy tớ trong cái nhà của cha ổng đó mới đem
bát cháo thiu mà đem đổ đi, ăn không hết đổ đi thì ông mới kêu cái người đầy tớ
đó: “Bà chị ơi ! bà đem đổ cái này vào
trong bát tôi đi”, thì cái bà này bà thấy cái vị này này thôi bây giờ trút
trong đó đi cái đi về, nhưng mà bà này đến gặp cái vị tu sĩ này thì mới nhận ra
là ông chủ nhỏ của mình, cho nên bà ta mới đổ bát cháo vào rồi mới chạy về báo
cho ở gia đình hay. Nhưng mà không ngờ khi chạy về báo thì ông ở đây ổng ăn cái
bát cháo thiu rồi, cho nên ông cha mới mời , gọi đứa con về, nhưng mà đến mời về
thì ông này ông đã ăn xong rồi cho nên ông cha mới hỏi này:
- “Này con thân yêu, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm qua
không? Con phải về nhà cửa của con đi”.
- “Thưa gia chủ - ông ta không còn gọi cha
mình là cha nữa mà ông gọi là thưa gia chủ, coi như là cái người bố thí thôi,
coi như cái người cư sĩ thôi, “Thưa gia
chủ thôi vừa rồi. Hôm nay tôi đã ăn xong rồi”. Nghĩa là bây giờ có mời gì
ông cũng chẳng có thèm trở về đó nữa.
- “Vậy này con thân yêu hãy nhận lời ngày mai
đến dùng cơm”, Tôn giả im lặng nhận lời.
Người cha về đến
nhà lấy vàng bạc châu báu chất thành đống gọi các người vợ cũ của Tôn giả trang
điểm làm cho thật đẹp để mà quyến rũ cho ông ta ở lại, thấy của cải, vàng bạc,
thấy vợ đẹp thì ông ta chắc chắn là không có đi nữa. Đúng giờ thọ trai, Tôn giả
đến nhà của phụ thân ngồi xuống nơi chỗ đã soạn sẵn. Rồi người cha của Tôn giả
trình bày đống vàng và của báu:
- “Này con đây là tiền của cha mẹ, đây là tiền của của bố,
đây là tiền của của ông bà tổ tiên, tất cả tiền bạc này là tiền bạc của con.
Cha mẹ chỉ vì có mình con mà thôi, nay con đi tu tiền bạc này bỏ cho ai? Con
hãy về mà thọ hưởng tài vật và làm việc phúc đức bố thí cho người khác đi”.
Ông cha ông dụ
người con như vậy, thì Tôn giả trả lời:
- “Thưa gia chủ, nếu gia chủ làm theo lời nói của tôi, gia
chủ hãy đem vàng bạc châu báu này cho vào các cỗ xe, chở ra sông Hằng mà đem đổ
xuống dưới đi”. Đó, ông bảo ông cha biểu đem đổ hết của cải này đi. “Vì sao vậy? Này gia chủ vì do của báu này
mà làm sầu, bi, ưu, khổ sẽ đến với gia chủ”.
Lúc bấy này những
người vợ cũ của Tôn giả người thì ôm chân kẻ thì nắm tay Tôn giả mà nói:
- “Vì thiên nữ nào mà phu quân sống phạm hạnh, hãy bảo cho
chúng em biết”,
- “Này các bà chị (ông gọi vợ ông bằng bà chị) không phải vì
thiên nữ nào mà chúng tôi sống phạm hạnh”.
Mấy người vợ
nghe ông nói tôi không phải vì thiên nữ nào mà tôi sống đời sống phạm hạnh này
đâu. Đó, ông trả lời như vậy đó, thì mấy người vợ ông kêu:
- “Trời đất ơi, phu quân đối với chúng
em gọi chúng em là bà chị, còn cái chỗ nào để nói nữa”.
Tôn giả nói với
phụ thân:
- “Thưa gia chủ, nếu gia chủ muốn bố thí đồ ăn thì hãy bố
thí đi chớ có làm phiền chúng tôi nữa”.
Sau khi thọ thực
xong tôn giả nói kệ rồi ra đi.
Đó thì các con
thấy cái tình cảm gia đình của người ta không còn cái riêng tư nhỏ hẹp nữa, mà
cái lòng Từ của người ta đối xử với mọi người bình đẳng như nhau, đó mới chân
thật là giải thoát. Còn bây giờ chúng ta lâu lâu ba năm mà về gia đình mừng rỡ
chạy ra nắm chân nắm tay rồi an ủi thế này thế khác, điều đó làm chúng ta càng
dính mắc ở trong cái sợi dây, cái mạng lưới của tình cảm thương ghét làm chúng
ta khó mà giải thoát được. Cho nên khi mà người mà theo đức Phật tu hành rồi
thì khi người đó mà đạt quả A-la-hán rồi thì Đức Phật mới cho về nhà chứ không
cho về nhà bậy, mà cái người nào lén về nhà là bị cám dỗ hết.
Cho nên sự thật
ra khi mà đi tu rồi theo một vị thầy mà thật sự ra thì đời nay rất khó, rất
khó. Theo Thầy rồi mà Thầy không bao giờ muốn cho họ rời khỏi Thầy, Thầy muốn
làm sao họ sống một bên Thầy, độc cư với Thầy. Sống cho đến khi mà tu chứng rồi
thì chừng đó Thầy mới cho ra, còn chưa chứng mà Thầy cho ra trong cái khi mà
đang cố gắng để tu tập, cái tâm nó còn yếu khi ra cái tình cảm ở ngoài đời nó
cám dỗ và những vật chất ngoài đời nó cám dỗ vô cùng lận. Cho nên khi mà tu
hành rồi thì chúng ta biết được từng cái giai đoạn bắt đầu vô và đến cái khi đạt
được thì chúng ta mới rời khỏi Thầy. Nếu không mà rời ngang rời ngửa đi chơi chỗ
này chỗ kia rồi thì cái người tu sĩ đó kể là hư rồi, không bao giờ mà còn tu được
nữa hết.Thật sự là nó khó như vậy chứ không phải là cái chuyện đơn giản đâu.
Cho nên chúng
ta nghĩ rằng chúng ta vào tu rồi mà chúng ta còn đi chơi chỗ này chỗ kia thì
cái người đó hết tu rồi. Muốn vào tu thì phải chọn một bậc thầy xong rồi, giới
hạnh nghiêm túc rồi, đến đó thấy có pháp hành, có lý pháp, có cái hành pháp hẳn
hòi bắt đầu chúng ta chấp nhận khép mình ở trong khuôn khổ, theo với Thầy tận
cùng năm năm mười năm, chừng nào xong rồi Thầy cho phép thì chúng ta mới rời khỏi
Thầy. Còn đằng này chưa gì trong vòng chừng nửa năm hoặc là một năm xin thầy đi
chơi một vòng hoặc là về thăm cha mẹ ...thì chết hết. Thầy thấy rất là khó.
Cho nên ở đây
Thầy nhắc lại cho quý thầy đến những cái giới hạnh này là những điều mà Thầy dặn
bảo rất là kỹ lưỡng. Khi mà không có Thầy thì phải lấy những cái giới luật, những
cái giới mà Thầy đã giảng làm cái điều kiện mà trói chặt mình, ở trong cái khu
vực nào là quyết chết ở trong khu vực đó, năm năm mười năm đạt được thì mới rời
khỏi cái khu vực đó, mà không đạt được thì nhất định thì không ra khỏi khu vực
đó. Tạo thành một cái giới đàn, giới tràng cho nó vững chắc như vậy thì may ra
chúng ta mới có tu hành tới nơi tới chốn.
Bởi vì mười năm
mà Thầy quyết định ở trong am thất, thậm chí như ở trong khoảng thời gian thì
các con biết là cái thời gian năm 71 mà Thầy về ẩn bóng mà Thầy tu, thì năm 75 chiến tranh nó
tàn khốc chứ đâu phải, khắp đất nước chúng ta mà, nhất là miền Nam, bom đạn như
thế này mà Thầy quyết định là không rời thất, Thầy ngồi đó mà bom đạn nó ào ào,
máy bay trực thăng nó bắn rốc két, các thầy nghĩ nghĩa là người nào cũng phải
chui vào hầm trốn hết à, mà Thầy thì ngồi thiền sừng sững, chết bỏ nhất định là
chết bỏ. Đó, như vậy là chúng ta mới thấy được cái gan dạ của cái người tu
hành, chứ còn nếu không chúng ta phải rời thất mà bỏ chạy chứ còn không làm sao
hết. Cho nên tất cả xóm người ta đều tản cư hết riêng Thầy ngồi trong thất Thầy
tu. Cho nên lúc bây giờ đó quân đội quốc gia tấn công vô nó thấy Thầy nó hoảng
hồn hết, nói “ Thầy không nằm xuống, máy
bay như vậy, súng đạn như vậy mà Thầy ngồi đó à?”. Quý thầy không thấy là
ngồi trong góc có tượng Phật, tượng Phật của Thầy ở đằng trước đó, ở trong thất
Thầy Thầy để tượng Phật lớn như vậy đó, Thầy ngồi dưới tượng Phật Thầy nói chết
là chết dưới tượng Phật, cái tượng Phật nát thì Thầy nát, còn tượng Phật không
nát thì Thầy không nát. Mà nó bắn xung quanh tất cả những cái nhà xung quanh,
Thầy nói nhà gần gần vậy, cũng như mấy cái thất này cái nhà đó cháy, lửa cháy
phừng phừng hết mà cái nhà Thầy ngồi không có cháy. Nên các con biết mà trực
thăng bắn rốc-két xuống, bởi vì xung quanh hàng rào vậy mà Cách mạng họ đào hầm
đào hố nó nằm dưới nó mục kích iđó mà nó bắn quân đội của quốc gia kia mà.
Thành ra hai bên nó chiến đấu dữ lắm, thành ra do đó mà Thầy cứ nằm đó, cả gia
đình mẹ Thầy, em Thầy cũng chạy trốn hết à, đâu có dám ở đó nữa, chạy ra cái
vùng mà không có giặc. Còn khi mà nghe đào hầm rồi thì họ rút đi hết, dân rút
đi hết. Chỉ còn Thầy nói: Bây giờ mình đã hô nhập thất rồi là quyết định mình
chết bỏ chứ không có đi, bỏ thất là không được nên nhất định Thầy ngồi Thầy chết,
mà không chết đâu các con. Thầy biết chết là chết rồi chứ không phải không đâu
bởi bom đạn như vậy mà, Thầy nói nhà cửa người ta cháy sạch, thậm chí như nhà
Thầy có cái mái, nó bắn như thế nào mà cả cái mái bay luôn ra ngoài đó mà sao
nó không cháy nhà chứ cháy nhà là Thầy cũng chết luôn.
Thầy nói cái
oai lực của cái người tu thực sự là cái giới hạnh thật là vĩ đại, cho nên mỗi một
người đệ tử mà rời khỏi Thầy, Thầy nói giới hạnh là sẽ cứu các thầy, chính Thầy
biết rằng cái giới hạnh cứu Thầy ở trong những cái trận chiến như vậy đó. Cho
nên thay vì mấy người lính mà họ tấn công vô được rồi đó, bắt đầu xe tăng thiết
giáp nó vô tấn công được thì những cái thằng lính vô họ than “Trời sao ông thầy ông ngồi tu ngu quá trời
vậy? Chết mà còn không sợ”. Thầy nói chết ở đâu mà chết, tôi ngồi đây chết
gì, mà nó không bắt Thầy nó không có
gì hết, rồi nó đi ngang thôi nó bỏ Thầy ở đó luôn.
Thì các con thấy cái giới luật rất... Thầy nói cái oai lực của giới luật nó
kinh khủng lắm chứ không phải thường đâu. Thầy chỉ nghĩ là mình giới luật thì
mình không chết không sợ gì hết, cọp không sợ, súng đạn cũng không, cuối cùng
Thầy đạt được kết quả.
Đó thì trên cái
bước đường tu hành Thầy nhắc các con khi rời xa khỏi Thầy thì ăn phải đúng
cách, oai nghi tế hạnh phải đúng, đi phải nhìn xuống đất thì những cái oai nghi
tế hạnh đó không ai làm, đừng có nói rằng tôi phải sống vì cái ông thầy này, họ
ăn như vậy tôi phải theo họ ăn như vậy tức là mình bị phá giới. Mặc họ, họ giết
chúng ta giết, nhất định là chúng ta ăn một bữa, họ thù chúng ta thù kệ họ,
nhưng sau này họ trở thành đệ tử của mình, chứ còn mình theo họ tức là ma đã dẫn
mình rồi, mình tùy theo họ, sợ họ có quyền có thế họ hại mình chứ gì. Do đó
mình ăn ba bữa theo họ họ mời mình ăn thêm cái gì đó, uống nước gì đó, thì
mình cũng tùy cho nó vui lòng nhau đó, gọi là tùy thuận đó, kiểu đó
kiểu phá giới của mình. Và vì vậy mình mất giới rồi, thì những người khác họ
coi rẻ mình lắm. Và từ đó họ không phục mình nữa, còn mình hẳn hòi giữ gìn
giới hạnh đàng hoàng, ăn đúng không phi thời. Giới hạnh của mình đi ra nhìn xuống
đất, ai nói gì thì mặc họ, ai nói mình làm bộ làm dáng làm gì. Kệ. Mình
chẳng cần thiết.
Thôi đến đây
thì quý thầy sẽ nghỉ ăn cơm.
PHẬT TỬ THƯA HỎI
Giờ thầy sẽ trả
lời, ở đây thì cô An Tịnh có hỏi Thầy trong sự tu tập, qua cái sự thưa hỏi
trong tập nhật ký thời khóa, Thầy thấy có những cái điều kiện rất đáng lưu ý, ở
đây Thầy xin đọc lại một đoạn này:
“Bạch Thầy còn
về Định niệm hơi thở, Thầy dạy con tập xuất nhập theo hơi thở, con tu tập đầu
tiên con thở bình thường là 30 hơi thở, sau con tác ý Hãy thở nhẹ và chậm từ 10 đến 15 phút thì con lại tác ý thở lại
bình thường 20 hơi thở rồi xả ra thư giãn, một lúc sau con đứng dậy đi kinh
hành và cứ như thế con tu tập hơi thở rất chậm, nhẹ và có sự an ổn thân tâm. Về
xuất nhập với hơi thở con cũng đã thuần thục. Như vậy con tu tập có đúng không
thưa thầy? Bạch Thầy! Còn về Định niệm hơi thở con cứ tiếp tục thở hơi thở chậm
nhẹ 5 giây, mãi đến khi không tầm không tứ để tự các hành nó ngưng hay con còn
phải làm gì nữa xin thầy dạy cho con để con tiếp tục tu tập?”
Ở đây về cái phần
mà cô An Tịnh hỏi thì tập mà xuất nhập theo cái hơi thở mà con trình ở đây là rất
đúng, là vì chúng ta vào thì chúng ta thở hơi thở bình thường. Vì cái hơi thở
mà từ lâu chúng ta tập như hằng ngày chúng ta sống đó là chúng ta vào cái hơi
thở bình thường. Rồi bắt đầu từ cái hơi thở bình thường đó chúng ta mới điều
khiển, chúng ta mới hướng tâm nhắc hơi thở chậm và nhẹ thì bắt đầu nó thở chậm
và nhẹ xuống và chúng ta ở trong cái hơi thở chậm và nhẹ đó khoảng độ 10 đến 15
phút.
Ví dụ như bây
giờ con cho vào tu 15 phút thì khi bắt đầu mà vào tu thì con sẽ tu khoảng thời
gian đầu là 30 hơi thở bình thường, hoặc là có thể con tu 5 phút hơi thở bình
thường. Rồi bắt đầu từ cái hơi thở bình thường đó con mới hướng tâm nhắc nó hơi
thở chậm và nhẹ, thì trong cái thời gian mà hơi thở chậm và nhẹ cho đến cái mức
độ nào đó thì con thấy nó không còn cái sức mà có thể chậm và nhẹ nữa được, thì
con sẽ ở tại cái dạng chậm nhẹ của hơi thở đó thì lúc bấy giờ nó sẽ kéo dài.
Trước kia mình thở hơi thở bình thường là 5 phút, bây giờ có thể là 10phút hay
15 phút của hơi thở chậm nhẹ.
Đó là cái thời
gian mà có thể quy định cho con tu trong thời gian đó và sau cái thời gian mà
thở chậm nhẹ như vậy đó thì bắt đầu con sẽ trở ra cái hơi thở bình thường thì
khoảng độ 5 phút rồi mới xả nghỉ. Thì cộng lại như bây giờ là nếu mà cái hơi thở
bình thường lúc đầu vào 5 phút rồi xả ra cũng trở về cái hơi thở bình thường là
5 phút, tức là 10 phút hơi thở bình thường, kế đó khoảng thời gian ở trong hơi
thở chậm và nhẹ nó khoảng 10 hoặc là 15 phút, thì như vậy tổng cộng là 20 phút
hoặc là 25 phút, nhưng mà cái khoảng thời gian của hơi thở chậm và nhẹ đó thì
10 hoặc 15 phút, thì quyết định chọn lấy 10 hay 15 phút cái nào cho ra chứ
không thể bữa nay 10 phút, lát nữa 15 phút hoặc là hôm nay 10 phút nhày mai 15
phút là không được, mà phải chọn lấy bây giờ 10 phút là 10 phút còn cái kia vô
5 phút rồi xả ra 5 phút, rồi xả ra đi kinh hành. Còn ở trong hơi thở chậm và nhẹ
đó 10 phút thì cứ tu tập 10 phút để rồi trong cái khoảng thời gian 10 phút đó
chúng ta nghiệm xét xem cái thời gian 10 phút đó chúng ta có hoàn toàn diệt tầm
tứ được hay không, còn có vọng tưởng còn tác ý hay không. Nếu mà nó không có một
niệm vọng tưởng nào hết, hoàn toàn không có ở trong 10 phút cái hơi thở chậm và
nhẹ đó thì lúc bấy giờ chúng ta có thể tăng lên.
Ví dụ như cái
thời gian dài tăng lên đặng cho đến khi chúng ta dùng pháp hướng để cho nó tịnh
chỉ cái hơi thở nó chậm và nhẹ nữa, đi tới nữa chứ không thể ở đó mà nó ngưng
các hành hết được đâu, nó chưa đâu. Cái chỗ mà nó chậm nhẹ ở cái chỗ mới mình từ
cái hơi thở bình thường mà đi đến cái chỗ mà hơi thở chậm nhẹ khoảng 10 phút
thì nó chưa ngưng đâu. Vì vậy mà chúng ta không thể hướng tâm cho nó ngưng được
mà chúng ta còn phải tiếp tục cho nó xem tầm tứ có hết không, nếu cái tầm tứ nó
hết thì bắt đầu chúng ta ở trong cái khoảng 10 phút đó, chúng ta có thể tăng
lên 5 phút nữa hoặc là tăng lên 10 phút nữa. Nghĩa là bây giờ chúng ta chọn lấy
30 phút, đầu là 5 phút sau xả ra cũng trở về 5 phút hơi thở bình thường thì đoạn
giữa nó phải có khoảng thời gian là 20 phút, bây giờ mới có 10 phút à. Con hiểu
không? Bây giờ chúng ta có lấy thời gian là 20 phút, trong 20 phút này chúng ta
nằm ở trên cái dạng này để mà chúng ta có thể điều khiển cái hơi thở bằng cái
pháp hướng cho nó chậm và nhẹ hay hoặc là nó ngưng. Hay hoặc là chúng ta dụng
cái này để mà chúng ta tu tập, để chúng ta tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ mà
chúng ta không còn mộng mị chiêm bao để chúng ta xả 18 loại tưởng, các con hiểu
không?
Bây giờ từ cái
chỗ hơi thở bình thường, chúng ta lấy cái căn bản của hơi thở bình thường chúng
ta cho rằng 5 phút đầu và 5 phút sau chúng ta thấy rằng mình thở hơi thở bình
thường không có một cái tầm, tứ thì nó có nhưng mà tầm bây giờ nó không có tức
là vọng tưởng nó không có xen vào trong đó được, 5 phút hơi thở bình thường. Và
cái khoảng mà hơi thở chậm và nhẹ đó 10 phút hoặc là 20 phút, các con lưu ý phần
này, trong khoảng này cái thời gian này 10 phút hay 20 phút thì khoảng này là
nó đủ cái thời gian để mà chúng ta hướng tâm nằm trên cái sự yên lặng không tầm
tứ này, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nó tịnh chỉ hoặc là nó chậm và nhẹ nữa,
hơi thở chậm và nhẹ để từ đó chúng ta sai bảo, điều khiển cho cái hơi thở nó đi
dần. Nhưng mà khi đó chúng ta phải nằm ở trên cái hơi thở này và cái sự yên lặng
của cái hơi thở này để mà chúng ta dùng cái pháp hướng để cho nó chậm và nhẹ nữa
đặng chúng ta phá toàn bộ 18 cái loại tưởng.
Vì vậy mà lúc bấy
giờ chúng ta tập khi nằm ngủ thì chúng ta tập tỉnh thức ở trong khi ngủ để cho
luôn luôn lúc nào chúng ta cũng không có ngủ, vì vậy mà không ngủ tức là không
mộng mị, mà không mộng mị tức là chúng ta đã xả các trạng thái tưởng. Cho nên
khi mà chúng ta hướng tâm để cho các hành ngưng, hơi thở ngưng để nhập Tứ thiền
thì đương nhiên là chúng ta hết mộng hết chiêm bao. Chứ còn chiêm bao tức là
còn trạng thái tưởng thì chúng ta không có thể nào mà hướng tâm để ngưng các
hành và hơi thở được đâu. Bởi vì cái người nằm ngủ mà còn chiêm bao tức là chưa
tỉnh thức, mà nằm ngủ không chiêm bao tức là người đó ngủ mà không ngủ đó tức
là tỉnh thức, mà tỉnh thức được rồi thì mới xả được hỷ, mà xả được hỷ mới chỉ
nhập được Tam thiền thôi. Và nhờ xả hết mộng rồi thì đương nhiên cái trường hợp
đó tương đương với Tam thiền và vì vậy mà từ chỗ Tam thiền đó chúng ta nương
vào hơi thở này mà chúng ta hướng nó cho nên đến khi đó cái hơi thở nó ngưng
nghỉ, các hành ở trong thân và hơi thở nó ngưng nghỉ thì chúng ta nhập Tứ thiền,
các con hiểu không?
Nhưng mà chúng
ta chỉ có 20 phút thôi, từ 5 phút hơi thở đầu bình thường và xả ra thì 5 hơi thở
xả ra thì có 10 phút rồi, hơi thở bình thường tức là cái hơi thở của Sơ thiền.
Và đồng thời khi mà cái hơi thở bình thường hiện giờ là chậm nhẹ là cái khoảng
đó là khoảng hơi thở của Nhị thiền, các con hiểu chưa?
Vì vậy mà cái
khoảng hơi thở Nhị thiền chậm nhẹ trong cái khoảng này thì chúng ta lại tịnh chỉ
các mộng tưởng, tức là chúng ta không còn cái chiêm bao nữa, luôn luôn lúc nào
chúng ta cũng tỉnh thức khi chúng ta nằm như thế này mà chúng ta vẫn biết hơi
thở ra vào, thân của chúng ta không còn nghe thấy âm thanh gì hết hoàn toàn
không ngủ mà chúng ta rất tỉnh. Thì lúc bấy giờ chúng ta đã biết được rằng
chúng ta đã ly hỷ hết rồi, mà ly hỷ hết thì chúng ta tương đương, mặc dù cái
hơi thở chậm nhẹ này không phải là cần phải chậm nhẹ nữa, cũng như bây giờ cái
hơi thở của con chậm nhẹ khoảng độ 5 giây hoặc là 6 giây, phải hông? mà cái độ
nhẹ của nó gần như con không cảm giác hơi thở nó được, nhưng con vẫn biết hơi
thở chứ không phải không biết. Do đó thì có thể con phá được cái mộng cái chiêm
bao thì lúc bấy giờ cái hỷ của con sẽ xả được, mà con xả được thì lúc bây giờ ở
cái trạng thái khoảng độ 20 phút đó đó con có thể hướng tâm nó tịnh chỉ các
hành, nó tịnh chỉ hơi thở nó ngưng thì con sẽ nhập được Tứ thiền. Nên đâu có cần
con phải nhập Nhị thiền hay Tam thiền làm gì, nhưng mà ở cái dạng đó con vẫn biết
được con sẽ xả được cái hỷ hoặc là con diệt tầm tứ, con diệt tầm tứ là con ở
trong hơi thở đó con thấy trong khoảng hơi thở đó con thấy hoàn toàn là không
có tác ý này, không có tầm không có vọng tưởng này, nó chỉ có 10 phút thôi hoặc
20 phút thôi đâu có gì nhiều đâu. Cho nên do đó mà con sẽ tiền tới cái chỗ mà
có thể làm chủ được sự sống chết rất là dễ dàng.
Nhưng dù sao Thầy
cũng nhắc lại là chúng ta phải cố gắng tu tập cái Định Vô lậu, cái định Chánh
niệm tỉnh thức, tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ nữa. Những cái phần này là phần
rất quan trọng để chúng ta xả cho hết những cái hỷ đó là 18 loại hỷ, mà 18 loại
hỷ thì chúng ta mới vượt qua được Tam thiền, chúng ta mới nhập Tam thiền, chúng
ta mới vượt qua nó chúng ta nhập Tứ thiền, còn chiêm bao còn mộng mị thì không
thể nào mà nhập Tứ thiền được.
Thì hôm nay Thầy
trả lời cho con, nhớ kỹ chưa? Về tập như vậy chứ đâu có tăng thêm làm gì, tăng
thêm rồi vọng tưởng tùm lum hết, tầm tứ không, tăng thêm cho nó mất công phải
không?
Rồi bắt đầu hỏi
lại, nghĩa là trong khi mà con dùng cái pháp hướng thì nó là tác ý ra thì nó
chưa phải là đúng với cái chỗ mà diệt tầm tứ, cho nên trong khi con thử trong
cái thời gian mà thử để xem có thể đi tới cái chỗ dạng nào ở trong bốn cái mức
thiền định này, xem thử xem mình có ở trong hơi thở này mình có phải là nhập được
Sơ thiền hay không? Bởi vì Sơ thiền thì diệt tầm tứ mà giờ con cứ nằm đó con
tác ý hoài à thì tầm nó không có mà cứ tác ý hoài thì như vậy là con chỉ ở
trong cái dạng của Sơ thiền chứ đâu phải là Nhị thiền được.
Cho nên bây giờ
con về cái hơi thở bình thường con thở, rồi bắt đầu trong vòng 5 phút con mới
hướng tâm con nhắc cái hơi thở chậm và nhẹ thì đó là cái hướng tâm tức là con
còn tác ý đó. Cho nên lúc bây giờ đó con mới thử mình không tác ý thử xem cái trạng thái yên lặng này nó như thế
nào. Do đó con thấy rõ ràng là cái tâm của con biết cái hơi thở ra và hơi thở
vào nhưng mà con không khởi nghĩ một cái gì hết mà không tác ý ra. Thì khoảng độ
10 phút hay là 20 phút con thấy hoàn toàn là không có gì hết tức là không có
pháp hướng chứ gì, như vậy là con đã đạt được cái Nhị thiền rồi. Nếu mà con cứ
tác ý hoài thì tức là dù cái hơi thở chậm của con đi nữa nó không có hơi thở
bình thường nhưng vẫn còn tác ý đó thì nó có một cái định là Vô tầm mà hữu tứ.
Thầy có dạy rồi mà, có cái định nó không có tầm nhưng nó còn tứ tức là dùng cái
pháp hướng mà tác ý ra đó là nó không tầm nhưng nó có tứ tức nó chưa phải là Nhị
thiền vì Nhị thiền tầm tứ nó phải diệt. Cho nên mình muốn thử coi coi cái tâm của
mình có còn tầm tứ không, thì do đó mình mới xả cái pháp hướng đi, mình mới xem
xét suốt cái thời gian 5 phút 10 phút 20 phút đó mình thấy hoàn toàn không có
thì như vậy là mình biết rằng cái giai đoạn của cái Nhị thiền mình có thể đạt
được rồi. Chứ mình không cần nhập nó ở trong đó đâu, mình chỉ còn nương cái đối
tượng của hơi thở mà, chứ phải chi mình xả hơi thở sao mình nhập Nhị thiền,
nhưng mà mình thấy rằng không có tác ý không có tầm ở trong đó không có tứ ở
trong đó thì mình biết rằng mình đã nhập Nhị thiền. Mặc dù là còn cái đối tượng
của hơi thở tức là còn nhất niệm nhưng mình vẫn biết được cái tâm của mình. Do
vì vậy đó thì mình không có cần mà nhập Nhị thiền, nhưng mình biết là ở cái trạng
thái thanh tịnh yên lặng không tầm tứ này là cái trạng thái của Nhị thiền, vì vậy
mà lấy cái trạng thái đó, để nằm đó để mà hướng tâm để phá đi cái...làm cho cái
tâm của mình nó tĩnh để mà nó phá các loại tưởng nó làm cho chúng ta không có
chiêm bao nữa, hết sạch chiêm bao, cho nên khi ngủ nó như thức nó không còn ngủ
nữa. Do vì vậy đó mà chúng ta mới tiến tới nhập Tam thiền mới được. Cho nên vì
vậy mà Tam thiền thì không có cần mà phải coi còn vọng tưởng hay tầm tứ nữa. Vì
Tam thiền hoàn toàn là nó không có tứ không có tầm, phải hông? Nhưng mà trong
lúc này trên con đường đi thì chúng ta phải dùng pháp hướng cho nên nó phải có
tứ, nhưng mà chúng ta muốn bỏ hồi nào thì nó cũng dễ dàng thôi, bởi vì mình hướng
tâm mình làm chủ mình hướng mà, chứ có phải từ đâu mà nó tự tác ý ra đâu, con
hiểu chưa?
Cho nên bây giờ
mình biết được thì mình hướng tâm mình nhắc để giúp cho cái tâm của mình nó tỉnh
thức để cho nó ngủ mà nó tỉnh, nó không có bị mê nó không bị chiêm bao. Do nó hết
sạch chiêm bao rồi ngày này qua ngày khác nó nằm ngủ mà không có chiêm bao nữa
thì biết là nó đã ly tất cả các hỷ hết rồi, mà ly các hỷ thì tương đương là
chúng ta đã nhập Tam thiền, hiểu chưa? Chứ bây giờ cái Nhị thiền thì con phải
coi tầm và tứ, con phải biết là không tầm không tứ thì nó mới nhập Nhị thiền mà
đến cái trạng thái của Tam thiền thì con thấy rằng ngày này qua ngày khác con nằm
ngủ mà con không có thấy chiêm bao thì con biết rằng con đã nhập Tam thiền. Phải
không? Bây giờ các con bình thường này các con cứ nằm ngủ mà các con không bị
chiêm bao thì các con đã nhập Tam thiền rồi đó, mặc dù các con không nhập Tam
thiền nhưng mà cái trạng thái con người các con không chiêm bao là trạng thái của
Tam thiền, các con hiểu chưa? Rồi bây giờ đó, các con biết là mình đã ở trong
cái Tam thiền rồi thì bắt đầu các con sẽ tiếp tục để mình tịnh chỉ các hành hơi
thở cho nó ngưng để cho mình nhập Tứ thiền, các con hiểu chưa?
Cho nên bởi vì
vậy các con mới tu tập, bây giờ con ở trong 10 phút này, các con thấy còn có tứ
hay còn tầm thì nó chưa xong cho nên là tăng lên là con chết rồi đó. Tăng lên
là không làm chủ nổi đâu. Cho nên ở cái thời gian ngắn này mình tập rồi mình
xét xem có được không, được thì mình mới tăng lên cho đúng 20 phút thôi không
được tăng nhiều, tăng lên 1 giờ 2 giờ làm gì, chỉ giữ chỗ này mà tu cho sạch
như co Út bảo là tu làm sao cho nó đừng có vọng tưởng đừng có tầm tứ mình mới
tăng, chứ vội tăng quá rồi cái bắt đầu nó tầm tứ nó tác động ở trong đó tùm lum
ra thì con tu con dậm chân tại chỗ mất đi. Thay vì cái thời gian bây giờ ở đó
con cho cái tập nhật ký thời khóa con ghi là 10phút đến 15 phút phải không?
Nhưng bây giờ Thầy lấy cho con là 10 phút thôi, sau khi 10 phút con xác nghiệm
được thì con tăng lên 20 phút là căng chứ không được tăng thêm nữa, và ở trong
20 phút này đủ sức có thể mà chúng ta phá được cái mộng tưởng cái chiêm bao, mà
phá được mộng tưởng thì tiếp tục chúng ta mới phá được các hành, cho hơi thở nó
ngưng. Nó phải đi lần lượt chứ còn chiêm bao mà con đòi mà phá các hành thì
cũng không được đâu, Tam thiền chưa được mà đòi Tứ thiền thì sao được, nhảy lớp
đâu có được, nhảy lớp học không nổi đâu! Hiểu chưa?
Rồi giờ các con
còn hỏi gì nữa không?
Mấy con nghe
đây, bởi vì không có thể nào mà các con cứ nương vào cái hơi thở để hít vào thở
ra mà gọi là ngủ mà nó hết chiêm bao đâu, không phải đâu. Các con lưu ý cái phần
này. Cái phần mà ngủ không chiêm bao đó là do các con tu cái định
Chánh niệm tỉnh thức, hằng ngày các con đi kinh hành hoặc làm công chuyện gì đó thì các
con luôn luôn giữ cái tâm mình tỉnh thức ở trong các hành động của mình, đó là
cái thứ nhất. Cái thứ hai là các con tu cái Định
Sáng suốt hay cái Định chói sáng đó, cái định đó nó làm cho các con giữ được
cái tâm thanh thản, cái tâm vô sự, nó làm cho các con luôn luôn lúc nào cũng tỉnh
thức ở trong đó. Đó là cái thứ nhất là Định Chánh niệm tỉnh thức rồi chứ gì,
cái thứ hai là cái Định Sáng suốt nó làm cho các con luôn luôn giữ được cái tâm
thanh thản của mình liên tục, tức là phải tỉnh nó mới liên tục được. Đó là hai
cái định và cái cuối cùng thì các con lại dùng cái hơi thở trước cái giờ đi ngủ,
ví dụ bây giờ 10 giờ các con đi ngủ thì các con phải dành nó ra 5 phút đầu tiên
để mà tập luyện cái tâm của các con. Bây giờ các con đặt cái niệm hơi thở trước
mặt này, các con nằm xuống vầy các con đặt cái niệm hơi thở các con nhắc cái
tâm, ám thị cái tâm các con trước này, bây giờ cái tâm chưa phải là lúc đi ngủ
mặc dù là 10 giờ đi ngủ, nhưng trước khi đi ngủ phải có 5 phút tỉnh thức ở
trong giấc ngủ, con nằm xuống bắt đầu hít thở 5 phút, cái tâm phải biết hơi thở
ra tôi biết tôi thở ra, hơi thở vào tôi biết tôi thở vô và con nhắc nó như vậy
cho đến khi đúng 5 phút rồi con mới xả ra con không nhắc nữa. Bây giờ cái thân
và cái tâm ngủ đi, không có được nương hơi thở nữa phải hít thở 5 phút hơi thở
rồi ngủ, bắt đầu con hít hơi thở 1 hơi thở 2, hơi thở thứ 3 thứ 4 con thở nhẹ dần
dần rồi con ngủ.
Đó là con tập
con làm chủ cái ngủ và đồng thời con tập con tỉnh thức ở trong giấc ngủ, rồi lần
lượt con tăng dần lên, tăng dần lên, con bảo
bây giờ cái thân này này nằm ngủ thì cái tâm phải biết cái hơi thở ra vô chứ
không được ngủ, con nhắc vậy con biết
cái hơi thở ra vô, mà cái thân thì nó cứ ngáy khò khò nó ngủ. Như vậy là con đã
không…, Bởi vì cái tâm mà nó tỉnh thức ở trong đó thì nó không có chiêm bao, mà
cái thân này nó ngủ thì đâu có chiêm bao được các con hiểu chưa? Cái thân này
nó ngủ thì tại sao con biết là nó ngủ, tại vì cái thân nó ngủ nó không nghe tiếng
động, mà cái tâm thì nó
chuyên nhất ở trong hơi thở, cho nên mình nằm đây
mình ngủ…, ông Phật ông nằm đây ông ngủ suốt đêm, ông nói ông ngủ mà ông không
có ngủ, ông tỉnh ở trong cái hơi thở của ổng, cho nên ông thức dậy thì ông ngồi
thiền mà không thì ông đi kinh hành. Còn mình nằm xuống cái thì quên mất, quên
mất hơi cái chiêm bao rồi thấy tùm lum đủ thứ hết. Chợt giật mình thức dậy thì
mới biết nó là chiêm bao, nhưng mà hầu hết là chúng ta phải tập nó mới được.
Thì như nãy thầy
nói là tập Chánh niệm tỉnh thức, thứ hai là Định Sáng suốt, thứ ba là tập cho
nó ngủ mà tỉnh thức ở trong đó, có 3 cái điều kiện tập. Chứ không phải bậy giờ
cứ tập hơi thở không như các con Định niệm hơi thở rồi như vậy nó tỉnh thức là
không được đâu, như vậy là nó thiếu chứ không đủ đâu, nhớ chưa?
Nhớ thì mỗi đêm
vậy trước khi ngủ phải dành ra cho nó 5 phút để cho nó tập ngủ trong tỉnh thức
cái đã, bắt đầu là cái thân này nằm ngủ đi, mà cái tâm thì nó biết hơi thở nha,
5 phút à mà sau 5 phút rồi ta cho luôn cả thân và tâm ngủ luôn, cho quên luôn,
cứ như vậy tập riết nó rồi lần lượt tăng
dần tăng dần lên. Tới khi đó cho bây giờ cái thân bắt đầu ngủ đi, ngủ tới 2 giờ
rồi thức dậy nha, còn cái tâm thì phải biết cái hơi thở, cho đến chừng 2 giờ
thì ta dậy thì dậy đi không có ngủ nữa. Đó là mình tự tập luyện để mình sai nó
mà. Vì vậy cho nên bây giờ mình dùng cái pháp hướng, tại sao con bây giờ con nằm
xuống con dễ ngủ lắm, từ hồi 7 giờ cho đến
10h mình đã tu tập mình đi kinh hành mình đã mỏi mệt rồi nên nằm xuống nó dễ
ngủ. Do vì vậy đó cho nên khi mà nằm xuống thì mình phải hướng hơi thở ra tôi biết tôi thở ra, hơi thở vô
tôi biết tôi thở vô, mình nhắc nó như vậy rồi chừng thở 2-3 hơi thở cái
mình nhắc nó nữa. Chứ không nhắc nữa nó ngủ luôn à nó không biết hơi thở ra vô
nữa, nó đi theo hơi thở rồi nó đi luôn nó không cần biết gì nữa, cho nên phải
nhớ nhắc cho đến khi đúng 5 phút rồi mới bắt đầu mới nhắc thôi bây giờ cái thân
và cái tâm ngủ đi cho phép ngủ đi, chứ giờ tao không bắt mày tập trung trong
hơi thở nữa, do đó cho nó thở chừng 5 - 3 hơi thở cái nó ngủ, mà ngủ rất ngon
không hề chiêm bao nữa đâu. Đó thì tập như vậy thì các con sẽ làm chủ được cái
ngủ, nhớ chưa?
Bởi vì trong
cái Định Vô lậu nó không phải là cái Định Sáng suốt mà nó cũng không phải là định
Chánh niệm tỉnh thức, cái định Chánh niệm tỉnh thức với cái Định Sáng suốt thì
nó trợ giúp cho cái Định Vô lậu để nó phóng ra cái tri kiến mà nó phá cái lậu
hoặc, nó làm cho cái tâm chúng ta không còn tham sân si nữa, nó không còn ngũ
triền cái, nó không còn thất kiết sử nữa, cho nên cái tâm được an ổn trước mọi
cái ác pháp mà nó không bị lôi cuốn nó bị làm say đắm. Cho nên do vì vậy mà cái
Định Vô lậu nó không phải, cái Định Vô lậu là cái định quét sạch cái tâm phiền
não, cái tâm đau khổ của chúng ta. Còn cái Định Sáng suốt, cái Định Chánh niệm
tỉnh giác định và cái tập ngủ tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ đó là để chúng ta
có cái sức tỉnh thức để mà chúng ta phóng ra những cái tri kiến giải thoát của
chúng ta để phá đi cái lậu hoặc. Cho nên mấy cái định này nó chỉ trợ giúp cho
cái Định Vô lậu chứ không phải là cái Định Vô lậu trợ giúp cho cái này, con hiểu
chưa?
Còn cái Định Vô
lậu thì nó trợ giúp cho cái Định hiện tại an lạc trú các con hiểu chứ? Bởi vì
cái Định Vô lậu nó quét sạch lậu hoặc, nó làm cho cái tâm chúng ta ly dục ly ác
pháp, phải không, nên nó mới nhập được Sơ thiền, vì vậy cái Định Vô lậu thì nó
trợ giúp cho chúng ta nhập cái Định hiện tại an lạc trú, tức là nhập bốn thiền,
từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Mà cái Định Chánh niệm tỉnh thức và Định Sáng suốt với
cái tập mà tỉnh thức ở trong giấc ngủ ấy thì nó chỉ trợ giúp cho cái Định Vô lậu,
các con hiểu chưa? Chứ nó không có trợ giúp cho cái Định mà hiện tại an lạc trú
mà nó trợ giúp cho cái Định Vô lậu là để quét sạch cái lậu hoặc làm cho cái tâm ly dục ly ác pháp đạt được để mà đi
vào trong cái định hiện tại an lạc trú, các con nhớ không?
Và khi mà tại
sao chúng ta lại tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ? Là vì chúng ta tập cái tỉnh thức
ở trong giấc ngủ để chúng ta biết được lúc bấy giờ chúng ta tu tập cái Định hiện
tại an lạc trú đó nó ở trong cái Tam thiền hay là ở trong cái dạng nào đây để
chúng ta đi tới cái mà chúng ta tịnh chỉ các hành để mà chúng ta nhập Tứ thiền?
Chúng ta thấy không còn mộng, mà không còn mộng thì chúng ta mới biết rằng mình
đã hết chiêm bao, do đó mình mới biết rằng các loại tưởng mình đã vượt qua được
rồi, còn mình còn chiêm bao tức là mình còn tưởng, còn mộng tưởng là còn chiêm
bao, mà còn chiêm bao tức là còn dục tưởng nó chưa sạch. Cho nên chúng ta biết
là còn chiêm bao là chúng ta chưa nhập Tam thiền, mà bây giờ tỉnh thức suốt đêm
vậy con nằm mà con thấy cái thân ngủ mà nó ngáy khò khò nó không hay biết cái
gì hết mà cái tâm con luôn luôn biết hơi thở ra vô, thì như vậy là con biết con
hết chiêm bao rồi, mà con hết chiêm bao rồi thì như vậy là con biết là con đã ở
trong cái trạng thái của một người nhập Tam thiền. Vì vậy bây giờ con mới biết
mình ở Tam thiền rồi mình đi tới nữa là mình phải nhập Tứ thiền chứ, không lẽ
bây giờ mình chưa biết mình ở Tam thiền thì sao mình nhập Tứ thiền được phải
không? Mình biết mình được ở Tam thiền rồi thì bắt đầu mình mới hướng tâm mình
nhắc cái hơi thở cho nó ngưng, các hành ở trong thân phải ngưng thì lúc bây giờ
nó mới ngưng để chúng ta nhập Tứ thiền. Còn giờ con còn chiêm bao con bảo nó
ngưng thì làm sao nó ngưng, con còn một cấp bậc quá xa thì làm sao nó nhảy tới
nó ngưng hơi thở được, phải không? Cho nên vì vậy mà mình tập cái ngủ mà tỉnh
thức đó để cho mình xác định được các mức của mình có hết cái tưởng hay không,
có xả hết cái hỷ, các loại hỷ của tưởng hay không. Mà nếu mình xả được hỷ rồi
thì tức là mình đã nhập Tam thiền, mình nhập được Tam thiền thì mình bước tới nữa
là Tứ thiền, các con hiểu chưa?
Nó cụ thể nó rõ
ràng chứ đâu phải là mơ hồ đâu, cái nào nó ra cái nấy, còn bây giờ các con biết
làm sao mà mình nhập được Tam thiền, mình biết làm sao mình đang ở chỗ cái mức
nào để mình nhập Tam thiền đây? Thì ít ra mình phải nhập Nhị thiền, mà khi
trong cái thời gian mà 10 phút này con dùng hơi thở chậm nhẹ hơn hơi thở bình
thường rồi, thì biết là hơi thở chậm nhẹ này thì nó phải ở trong Nhị thiền chứ
gì, mà bây giờ có biết hết tầm tứ chưa? mà nó chưa hết tầm tứ tức là chưa Nhị
thiền. Cho nên bây giờ hết tầm tứ mà bây giờ con cứ tác ý hoài nó không có tầm
mà tác ý hoài nó còn tứ thì nó đâu là Nhị thiền nên con phải xả cái tác ý ra,
phải không? Con xả cái tác ý ra thì bắt đầu con thấy luôn luôn liên tục với cái
tâm của con với cái hơi thở ra vô nằm trên cái tụ điểm im phăng phắc không có một
tầm tứ nào hết, mặc dù biết nó còn hơi thở nhưng vẫn biết nó là Nhị thiền, diệt
tầm tứ rồi.
Vì vậy cho nên
bây giờ con mới tập đến tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ, còn nếu mà Nhị thiền
chưa được con tập tỉnh thức trong giấc ngủ thì tập sao nổi, con hiểu chưa?
Làm sao mà con
tỉnh thức nổi ở trong giấc ngủ, bởi Nhị thiền là tầm tứ chưa diệt mà bây giờ
con tập Tam thiền là tập sao được, làm sao ly được cái giấc mộng của con được.
Cho nên phải biết cái trình độ của mình ở chỗ mức độ nào để tập cho nó tới.
Cũng như bây giờ con học lớp 1 được rồi conmới lên lớp 2, còn đằng này lớp 1
con chưa xong mà con nhảy lên lớp 2 con tập thì chuyện đó đâu có được, hiểu
chưa?
Cho nên khi đó
chỉ ở trong vòng 10 phút 20 phút là chúng ta đã xét chúng ta được ở cái định
nào và bây giờ chúng ta tiến tới để tu tập cái định nào. Cũng như bây giờ muốn
nhập Tam thiền thì phải tu tập trong cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ, thân ngủ
mà tâm nó vẫn biết vẫn tỉnh táo thì biết rằng chúng ta sẽ nhập Tam thiền được.
Còn bây giờ chúng ta ở trong cái dạng của Sơ thiền mà chúng ta biết được cái
tâm chúng ta có được ở Nhị thiền hay không là chúng ta phải xem coi thử coi là
nó còn tác ý hay không, phải không? Cho nên cái tầm nó không còn tứ không còn
thì biết là nó ở trong cái Nhị thiền, thì bây giờ chúng ta đi tới Tam thiền.
Còn giờ ở trong cái dạng của Sơ thiền mà tầm tứ nó còn hay hoặc là tứ còn mà tầm
hết, thì đây là nó còn ở trong cái định vô tầm mà hữu tứ, thì như vậy là
chưa được, chưa phải Nhị thiền cho nên còn ở Sơ thiền. Vì vậy mà cố gắng phải
ly dục ly bất thiện pháp nữa, phải tu tập cái Định Vô lậu để quét sạch cái này
ra hết thì tức là mới trọn vẹn được cái chỗ ly dục ly bất thiện pháp, để cho
mình có Sơ thiền. Mà khi Sơ thiền được rồi thì cái Nhị thiền mới được, các con
hiểu chưa? Chứ bây giờ các con chưa ly này mà các con vội cho nó diêt tầm tứ để
mà nhào vô Nhị thiền thì không bao giờ được hết, nó vẫn còn vọng tưởng lai rai,
chưa hết đâu. Đó các con hiểu chỗ đó không? Đó là cái chắc chắn là con đường tu
tập thực sự suy xét chắc chắn là phải như vậy.
Thường thường
là các con tu cái định mà để phá cái si là cái Định Chánh niệm tỉnh giác định,
tu ở trong các hành động cho nên cái buồn ngủ ns sẽ không đến với các con được,
phần nhiều mà các con thấy rằng khi mình nằm xuống cái mình ngủ, hoặc là mình
ngồi ghế chơi mình giữ tâm thanh thản hơi nó lặng ngủ đó là cái niệm si nó vẫn
còn chứ chưa hết đâu. Cho nên vì vậy đó mà thường xuyên cái người mới tu thì
thường chúng ta nên đi kinh hành, đi kinh hành để tập cái tỉnh thức ở trong cái
hành động hằng ngày, hoặc làm công việc gì mọi ngày, chúng ta làm cái gì chúng
ta liên tục ở trong cái hành động, vì cái hành động đó nó sẽ phá cái si. Và
không phải là cái niệm si nó phá…, phần nhiều là chúng ta ngồi không hay nó hay
có cái buồn ngủ mà chúng ta làm công việc nó ít có buồn ngủ. Do đó chúng ta nên
làm công việc mà chúng ta tập tỉnh thức ở trong công việc đó cho nên cái niệm
si lần lượt nó sẽ không còn có nữa, cái niệm buồn ngủ nó không còn có nữa.
Đây là mới cái
giai đoạn phá hôn trầm triền miên thôi, tức là cái người mới tu là phải phá cái
đó, thì cái giờ giấc của cái người tu đó phải nghiêm chỉnh chứ không thể nào là
giờ mình buồn ngủ mình ngủ giờ này thì mình nói để cho khỏe rồi mình tu, như vậy
là không được, tu như vậy là sai. Bây giờ thí dụ như các con mới tu từ 7 giờ
cho đến 9 giờ thì phải đúng 9 giờ mới được đi ngủ rồi 2 giờ dậy cho đến 5 giờ
sáng đi ngủ, giờ nào nó phải ra giờ nấy chứ không có được mà giờ này trước giờ
kia sao bữa nay thì ngủ trước, bữa mai thì ngủ trễ thì không có được! Giờ giấc
phải nghiêm chỉnh để làm gì? Để cho cái mặt mà buồn ngủ nó lòi ra, cái mặt mà
nó ngu si mới lòi ra, và lòi ra thì chúng ta mới tập đi kinh hành, trong khi ban đêm chúng ta cũng phải đi nữa, đi chừng nào mà
hết cái giờ đó rồi chúng ta mới vô ngủ và đồng thời khi vô ngủ thì nó không được
ngủ đâu, nó nằm đó thôi chứ không ngủ đâu. Vì vậy mà chúng ta phải tập để hướng
tâm để dạy cho nó ngủ, nó ngủ cho đúng giờ đúng khắc, một thời gian sau nó mới
đúng giờ đúng khắc được. Ví dụ như dậy nó dậy mà ngủ thì nó ngủ. Còn mới đầu nó
ngủ trật giờ trật khắc hết, nó không đúng, cho nên nếu một người tu đúng thì giờ
khắc người ta ngủ rất đúng không có sai nữa, còn cái người mà tu từ lâu đến giờ
mà không có giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh thì bây giờ vẫn còn ngủ lộn xộn nữa
chưa đúng giờ đâu.
Đó bây giờ cái
người hiện giờ trong Tu viện chúng ta đó mà giờ giấc mà ngủ đúng hết, đúng nhất,
giờ nào ra giờ nấy đúng hết thì chỉ có Mật Hạnh thôi. Chứ còn có nhiều người ngủ
trước ngủ sau. Thay vì bây giờ còn có 10 phút nữa thì nó buồn ngủ rồi, thôi gần
10 giờ rồi thôi bây giờ đi ngủ trước chút không sao đâu. Như vậy cũng sai nữa,
bởi vì giờ giấc nghiêm chỉnh, kim chỉ đúng 10 giờ hẳn hòi là đi ngủ, chứ còn 3
phút chưa đúng là vẫn phải đi kinh hành chứ không thể bây giờ buồn ngủ quá rồi
thôi có 3 phút chắc không sao đâu vào ngủ, cũng không được, phải cương quyết và
nghị lực như vậy đó thì chúng ta mới có thể làm chủ được cái ngủ cái si mê của
chúng ta.
Cho nên Thầy
nói bây giờ ví dụ như muốn ngủ hồi nào đúng giờ là ngủ mà không đúng giờ là
không ngủ, thì cái người đó đã luyện tập trong một thời gian rất là thuần thục
ít ra phải 2-3 năm mới được như vậy, không tầm thường đâu, cho nên các con thấy
không phải đơn giản đâu, cái sự gì cũng phải luyện tập nó mới thành cái chủ động
hết, còn không luyện tập thì không chủ động. Thầy biết ở trong chúng người nào
ra sao Thầy biết hết, người nào mà luyện được cái gì thì họ luyện tập cái đó, họ
đạt được cái đó họ rất mừng cái đó. Nhưng mà cái phần khác họ còn thiếu khuyết
chứ chưa phải là thành tựu, như vậy chúng ta cái phần nào mà còn thiếu khuyết
thì chúng ta bổ túc thêm cho chúng ta toàn diện được làm chủ hết thì cái đó là
cái tốt của chúng ta. Cho nên được cái phần nào thì chúng ta tu, còn mấy con mà
tu cứ lừng chừng giờ giấc không nghiêm chỉnh rồi thì sau này nó sẽ không nghiêm
chỉnh được, khó lắm chứ không phải dễ đâu, coi vậy chứ giờ giấc rất khó.
Thầy nói như thế
này này: cái tâm chúng ta khôn lắm, tới cái giờ mà nó thức dậy cái chuông để đầu
giường của mình nó nghe reo thì nó vẫn bóp cái chuông đồng hồ cho nó tắt đi để
cho nó ngủ thêm chứ chưa chắc là nó đã thức dậy đâu, nó chưa chịu đâu, nó khó lắm
chứ không phải dễ, cho nên chúng ta phải hàng phục nó dữ lắm. Sau khi giờ giấc
nghiêm chỉnh rồi thì cái sự tập luyện để phá cái buồn ngủ đó thì chúng ta phải
tập trên cái Chánh niệm tỉnh giác, chúng ta tập rất nhiều, siêng năng hằng ngày
chúng ta tập để mà phá. Cũng như bây giờ thay vì cái giờ trưa này chúng ta quyết
định không ngủ, thì chúng ta phải làm cái công việc gì chứ chúng ta ngồi bậy bạ
hơi là nó ngủ đó, không có thể nằm mà nói mình thức được đâu. Có bữa thì thức
có bữa nó ngủ, nó không chủ động được cho nên chúng ta nhất quyết phải tập là
phải tập. Bây giờ nói trưa không ngủ thì hoàn hoàn là trưa nào chúng ta cũng phải
tìm mọi cách chúng ta đi kinh hành hoặc là làm cái gì đó rồi chúng ta tu tập
cái Chánh niệm tỉnh thức ở trong đó, lần lượt chúng ta phá cái hôn trầm mới sạch,
cái thùy miên hôn trầm mới sạch, và khi sạch rồi thì nó không có tái diễn nữa.
Chứ không phải cột chân cột cẳng treo giò chúng ta lên để cho nó đừng ngủ,
không phải đâu, đừng có làm cái chuyện là chuyện sai không có đúng, mà nên nỗ lực tu tập ở trong cái Chánh niệm
tỉnh thức thì mới phá được cái hôn trầm. Và khi phá được hôn trầm rồi thì nó sẽ được tỉnh thức, nhưng
cái thời gian mà chúng ta còn ngủ chứ chưa phải hết ngủ, cái tâm chúng ta còn
mê chứ chưa hết mê vì nó còn 18 cái loại tưởng cho nên chúng ta phải tập, tập
cho cái tâm nó tỉnh thức, ở trong khi cái thân nó ngủ mà nó vẫn thức liên tục ở
trong cái hơi thở mà nó không có mê mờ nữa cho nên nó mới là nhập tới Tam thiền
mới được.
(Tu sinh hỏi
không nghe rõ).
À, nó còn cái mờ
mờ của con thì không được, nghĩa là con nằm ở trên cái ghế này mà con thấy mờ mờ,
mặc dù nó chưa thật là nó đi vào trong cái hôn trầm, hoặc là cái thùy miên
nhưng mà nó còn lờ mờ là.. (đoạn này Tu
sinh hỏi không nghe rõ).
À cái đó thì
con nuôi nó đó, kêu là kiểu nuôi đó, không có được mà nuôi cái kiểu đó. Bởi vì
thí dụ như bây giờ vừa nhắc nó tỉnh một chút rồi bắt đầu nó mơ mơ trở lại rồi
nhắc nó nữa, cái đó không được, cái đó là nuôi cái lười biếng, chứ không phải
là gì. Bắt đầu
từ đó phải đứng dậy khỏi ghế liền tức khắc, thấy nó có mơ mơ, mình ngồi mà nó rất tỉnh thì ngồi, mà nó
có mơ mơ mà nhắc nó tỉnh chút rồi mơ mơ lại thì không có được đâu. Cái này đó
là mình nuôi lớn cái… thay vì ngủ thì nó chưa hẳn ngủ mà lại sinh ra cái lười
biếng đó, cái mơ mơ là cái lười biếng. Cho nên lúc bây giờ cứ đi kinh hành, đi kinh hành cho thật tỉnh,
tỉnh thì tỉnh mà không tỉnh thì thôi chứ không được mà lúc tỉnh lúc mê, thành ra con tập cái kiểu đó nó trở vào một cái trạng thái gọi là hôn tịch, hôn tịch tức là nó mê mờ rồi
nó tỉnh, rồi nó tỉnh rồi nó mê, có lúc nó tỉnh có lúc nó mê. Cái đó là không được. Tập như vậy là bị lọt vào trong
cái vô kí hôn trầm, nó không đúng rồi.
Cho nên phải
phá bỏ cái đó liền, phải đi kinh hành. Thứ nhất là chúng ta phải đi kinh hành,
đi kinh hành cho đến khi mà ngồi lại, bây giờ 30 phút ngồi lại mà chúng ta giữ
cái tâm thanh thản liên tục mà nó tỉnh táo nó không có bị mơ mơ chút nào hết
thì nó mới được, còn nó mơ là không được, nó mơ là lát hơi nữa là nó lặn xuống
nó chiêm bao liền, không có được.
Cho nên những cái
đó là coi chừng tưởng là mình có thể giữ nó tỉnh, nhưng mà cuối cùng con tu
không bao giờ tỉnh được. Thời gian hoài mà không tỉnh đâu, thay vì cứ đi kinh hành cho nó
thật tỉnh đi, 30 phút con đi kinh hành cứ thế nó tỉnh, mà bây giờ vô tới hết 30
phút rồi vô nằm ngủ thì cứ ngủ.
Mặt B
À, cái đó là
con dùng cái định thì nó không buồn ngủ là phải rồi, con ngồi chơi mà nó buồn
ngủ là cái giờ đó chưa phải ngủ, mà con ngồi chỉ là xả nghỉ thì cái đó là phải
đi kinh hành thôi, ngồi mà lơ mơ lơ mơ thì đó không phải là tỉnh đâu. Tức là phải
biết cái đó là cái sai không đúng thì phải bỏ cái đó đừng có tu cái đó, tưởng
là mình ngồi chơi mình giữ nó vậy nó có lơ ma lơ mơ như vậy, không phải đâu. Từ
cái định Hiện tại an lạc trú con ngồi vô rất tỉnh không có lơ mơ này, đến cái định
Vô lậu con ngồi đặt niệm con quán xét cái lậu hoặc nó cũng không có lờ mờ này,
mà bây giờ xả ra nghỉ giờ này chưa phải giờ ngủ, xả ra nghỉ mà không chịu tỉnh
thì tức là phải đi kinh hành thôi chứ không nói chuyện ngồi đó mà mơ mơ được.
Đó là phải dẹp
thôi, chứ không khéo ngồi đây nó sinh lười biếng đó, mà nó sinh ra lờ mờ lờ mờ
nữa, cái tâm không tỉnh. Cho nên nhiều khi chúng ta lại phí bỏ cái thời gian đáng quý này,
các con lưu ý.
Thay vì trong cái thời gian kia chúng ta các định thì thấy nó tỉnh mà đến cái thời gian xả nghỉ lại không tỉnh, cho
nên lúc bấy giờ chúng ta lại dùng cái định Chánh niệm tỉnh giác định chúng ta
đi kinh hành, chúng ta phải quán sát ở dưới chân của mình để cho cái thời gian
suốt 3 tiếng đồng hồ chúng ta tu tập trong một buổi hay hoặc là trong một đêm
mà chúng ta tu thì luôn liên tục trong cái thời gian đó chúng ta không mất cái
sức tỉnh của chúng ta. Bởi cái tỉnh là đầu tiên, tỉnh giác là đầu tiên mà. Còn
cái định gì thì kệ chúng ta không biết nhưng mà còn cái sức tỉnh chúng ta phải
đạt được, suốt 3 tiếng chúng ta phải tỉnh, không được mờ mờ, không được mê mê,
không được lơ mơ trong đó. Thì như vậy cái kết quả của chúng ta sẽ vĩ đại sau này.
Còn bây giờ mấy
con nghe trong cái định Vô lậu đó thì khi đặt cái niệm gì khi mà khoanh chân ngồi
kiết già, cho nên ở đây là trong cái thời của đức Phật bảo chúng ta khi mà tu một
cái thiền định nào đó thì chúng ta phải chuyên nhất một cái nơi nó phải thanh tịnh,
tức là chúng ta phải chọn một cái nơi để chúng ta ngồi yên lặng thì bắt đầu mấy
con đã có một cái thất yên tịnh rồi thì bắt đầu mấy con phải ngồi kiết già, rồi
mới đặt cái niệm đó ở trước mặt của mình rồi các con trạch pháp ra những cái
câu mà để mình quán xét xem nó Vô lậu để xả danh, xả lợi, xả thương, xả ghét, xả
phiền não đau khổ tất cả mọi cái đều xả ra hết. Do đó mình suy tư mình
quán xét tất cả các… để xả cho sạch như
vậy vốn cho mục đích lậu hoặc nó hết tức là chúng ta ly dục ly ác pháp,
các con hiểu không?
Và cái điều kiện
mà con trình bày cho Thầy thấy thì về trạch pháp cũng như về cái điều kiện con
tu thì đúng chứ không có sai, nhưng mà có cái điều kiện là thời gian tu của
pháp định này cho đến cái pháp định khác nó phải cho nó rõ ràng ra. Ví dụ như
con tu cái định Vô lậu xong rồi con phải xả nghỉ một thời gian kế đó con mới tu
tập cái định Chánh niệm tỉnh thức. Trừ ra khi nào chúng ta đang bị hôn trầm
đang bị buồn ngủ thì chúng ta phải tu tập cái định Chánh niệm tỉnh giác định
liên tục không được rời cái định Chánh niệm tỉnh giác. Còn tất cả các định khác
như định Hiện tại an lạc trú về hơi thở, cũng như định Vô lậu, hoặc là Định
Sáng suốt giữ tâm thanh thản tâm vô sự thì những cái định đó thì chúng ta tu có
cái thời gian nhất định trong mấy phút hay là bao nhiêu giây đó rồi chúng ta xả
nghỉ. Bởi vì khi chúng ta tập trung mà chúng ta gom tâm tu như vậy thì nó rất mệt
cho nên phải nghỉ nó cách ra. Chứ còn con tu cái định này vừa rồi bắt đầu con tu cái Chánh niệm tỉnh
thức định con đi kinh hành rồi quán xét nữa thì nó lộn xộn lắm á, con phải phân
biệt cho rõ, vừa đi mà vừa suy nghĩ thì nó lại trật cái pháp môn rồi. Thường thường chúng ta hay đi chúng
ta cũng suy nghĩ lắm chứ đâu phải không, cho nên mói mình suy nghĩ như vậy mình
tu cái Định Vô lậu trong khi đi nó cũng phóng ra những cái tri kiến suy nghĩ lắm,
nhưng chúng ta tu như vậy nó không có đúng cách. Bởi vì cái định Chánh niệm tỉnh
thức nó buộc chúng ta phải tỉnh thức ở trong cái hành động chứ không có ở trong
cái quán được chỉ có Định mà Vô lậu thì mới dùng cái pháp quán mà thôi, pháp
quán và pháp hướng. Còn cái kia nó tỉnh thức ở trong cái hành động rồi nó dùng cái pháp
hướng chứ không dùng pháp quán.
Cho nên nó có
sai một chút là các con phải thấy được cái chỗ mình tu ở thời gian nào, cái định
nào nó ra cái định ấy, bây giờ con ngồi Hiện tại an lạc trú này con nhiếp tâm
trong hơi thở thì con phải khéo léo ở trong cái hơi thở cho nó một cách rất là
rõ ràng và cụ thể ở trong cái hơi thở của mình, biết từng chút của nó.
Cho nên trong
kinh điển của Phật thì có dạy trong cái bài lát nữa các con sẽ nghe, Thầy có
phân biệt nó có 4 cái định mà chúng ta khi tu một cái định nào đó thì chúng ta
phải rõ ràng cái định đó. Thầy có giảng cái đó để rồi bây giờ giảng lại thì nó
thu vào trong băng lại bị lầm đi, lát nữa các con sẽ nghe.
Bây giờ như vậy
là con trạch pháp ra những cái câu mà định Vô lậu như vậy là đúng rồi, nhưng
cái thời gian mà phân định để tu các cái định thì phải khéo léo hơn một chút định
nào nó ra định ấy, hiểu chưa? Thì như vậy là nó đúng cách rồi và mỗi lần mà con
tu như vậy là con thấy cái tâm con càng ngày càng có giải thoát, con càng thấy
càng ngày càng xả ra, phải không? Vì vậy mà từ hôm mà Thầy giảng cái giáo án
này hầu hết là các con đã hiểu được cái định Vô lậu, các con mà tu tập siêng
năng mà tu cái định Vô lậu mà quán xét đúng trạch pháp ra thì các con xả tâm rất
nhiều, làm cho các con không còn thấy có cái mạng lưới mà ràng buộc của thế
gian, của những người thân của mình hoặc là tiền tài danh lợi của thế gian nó
trói buộc các con như hồi trước được nữa đâu, nó giảm bớt rất nhiều. Đó là cái
sự giải thoát mà các con phải chứng nghiệm tự bản thân của các con.
Hôm trước Thầy
có dạy các con thế nào là một pháp,
nhưng hôm nay thì Thầy nhắc lại về cái vấn đề này để cho các con biết thế nào
là một pháp.
Cái pháp mà đầu
tiên chúng ta biết rằng đó là thứ nhất
là ăn, thứ hai là hành. Nghe nhắc đến ăn thì ai cũng ngạc nhiên hết, pháp gì kỳ
cục mà chỉ có dạy ăn không à rồi dạy hành thôi không à.
Tất cả ở đây
các con để ý:
A - Tất cả các loài hữu tình do các món ăn mà được
an trú, cái con vật nào mình là mọi người, người nào cũng phải ăn uống mới
có thể an trú mới sống được chứ còn không ăn uống thì chắc chắn là không thể
nào mà sống nổi đâu phải không? Cho nên ăn là một cái pháp mà rất là quan trọng
chứ không phải là không quan trọng đâu.
B - Tất cả các
loài hữu tình do các hành mà an trú, có con vật nào mà không có hoạt động đâu,
cái thân nó cũng rung động nó cũng hô hấp, tim cũng đập hết, không có con vật
nào mà không có rung động và cái thân của chúng ta nhúc nhích đi tới đi lui rồi
này kia đều là động hết.
Cho nên phải
nhìn chung là các loài hữu tình thì từ cái ăn từ cái hành mà nó là loài động vật.
Như vậy thì chúng ta biết là hai cái pháp này nó rất là quan trọng. Vậy thì bây
giờ chúng ta hành như thế nào để mà được giải thoát? Bởi vì chúng ta biết vì
hành mà các loài hữu tình nó có hành, mà vì ăn mà các loài hữu tình phải ăn,
cho nên ăn như thế nào để mà được giải thoát và ăn như thế nào mà không giải
thoát. Đó, bây giờ chúng ta ăn mà chúng ta còn thèm ăn thì có giải thoát không?
Đâu có thể giải thoát. Ăn mà không thèm, ăn chỉ coi như là thứ thuốc, ăn để sống
thôi đó thì cái đó mới giải thoát.
Cho nên ở đây
có một pháp rất là quan trọng cho nên chúng ta thấy về cái ăn rất là quan trọng.
Vì vậy hàng ngày chúng ta ăn có một bữa mà không thèm ăn, ăn để sống cho nên
chúng ta thấy cái ăn đối với cái loài hữu tình con vật cho đến con người hiện
giờ trên thế gian này người ta quá chú trọng đến cái ăn, cho nên người ta tranh
với nhau vì cái ăn. Còn chúng ta là người tu sĩ chúng ta dẹp phắt đi cái ăn, ăn
chỉ để sống chứ không có còn quan trọng nữa. Đó là cái thứ nhứt mà chúng ta phải
tu tập, phải hiểu biết mà tu tập.
Cái thứ hai về
hành thì chúng ta phải biết là hành nó có 3 chỗ hành: thân hành, ý hành, khẩu
hành, nhưng mà thân hành như thế nào mà để đem lại sự giải thoát? Đời người ta
hành không có giải thoát đâu, người ta đánh lộn nhau vỡ đầu chảy máu thì làm
sao gọi là giải thoát. Cho nên ở
đây chúng ta hành như thế nào để mà giải thoát? Hành tức là chúng ta có 3 chỗ
hành, cái thân của chúng ta đừng có làm khổ mình khổ người, cái hành động đừng
có làm khổ mình khổ người gọi là hành. Cái miệng chúng ta hành thì đừng có nói
lời nói mà làm khổ mình khổ người đó là hành. Cái ý chúng ta khởi nghĩ thì đừng
có khởi nghĩ cái hành động của ý làm khổ mình khổ người. Thì như vậy chúng ta
phải biết cái hành nó quan trọng đến mức nào, cái ăn chỉ có một mà hành tới ba
chỗ lận.
Đó thì chúng ta biết có một
pháp rất là quan trọng đó là pháp ăn và pháp hành. Vậy từ đây về sau ta phải cẩn
thận trong những cái hành, trong những cái ăn uống.
Thì đó là
những cái pháp mà Thầy nhắc nhở cho các con thấy.
HAI PHÁP
Và đồng thời
trong những bài trước Thầy dạy có 2 pháp. Vậy thì 2 pháp như thế nào
đây?
1.
Danh và sắc.
Những
cái pháp này theo Thầy thiết nghĩ các con phải hiểu: Danh là cái gì?
Sắc là cái gì? Mà ở trong Thập nhị nhân duyên đó, Phật có dạy: Danh
sắc tức là cái bào thai của con người, tức là thân và tâm của chúng
ta. Sắc là cái thân mà danh là cái
tâm của chúng ta. Cho nên do có danh sắc mà có sự đau khổ cho chúng ta.
Vì vậy chúng ta phải hiểu danh sắc nó có phải là bản ngã của chúng
ta không? Có phải là cái vật thường còn không? Hay là vô thường? Có
phải là thứ không khổ không? Cho nên chúng ta phải hiểu hai cái pháp
này: cái danh và cái sắc.
Cái
thứ 2 là,
2.
Vô minh và Hữu.
Vô
minh là như thế nào? Vô minh là mê mờ, không thấy mà trong Thập nhị nhân
duyên chúng ta thấy có cái duyên Vô minh và có cái duyên Hữu. Do Vô minh mới sinh Hành, Hành mới sinh
Thức, Thức mới sinh Danh Sắc. Chúng ta thấy rõ không, mà có Hữu
thì nó mới có Sanh, có Hữu nó mới có Thủ, có Thủ mới có Sanh, có
Sanh nó mới có Bệnh tử ưu bi.
Do
đó ở đây thì đức Phật ghép hai cái danh từ Vô minh và Hữu. Vì Vô minh
như thế nào? Muốn mà phá từ Vô minh này thì chúng ta phải tìm hiểu
những gì mà chúng ta chưa hiểu. Chúng ta phải thông hiểu những gì chúng
ta chưa thông hiểu. Và khi mà chúng ta thông hiểu, chúng ta phá vỡ cái
Vô minh liền. Cũng như bây giờ Phật nói: Thân thọ tâm pháp của
chúng ta là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Bây giờ chúng ta
tìm hiểu coi nó vô thường chỗ nào? Nó khổ chỗ nào? Nó vô ngã chỗ
nào? Phải không? Do chúng ta hiểu như vậy thì chúng ta sẽ không còn Vô
minh. Mà không còn Vô minh thì tức là Minh chứ gì? Và khi mà Vô minh nó
hết rồi thì cái Hữu có không? Hễ cái Vô minh nó hết rồi, nó Minh rồi
thì cái Hữu nó không có nữa đâu. Cho nên nhà cửa của cải tài sản
chúng ta đều bỏ sạch hết. Mà cái Vô minh có thì cái Hữu nó có. Bởi
vì cái Vô minh nó lầm chấp. Cái bàn này là thật này, cái thân này
là thật này. Cái thân này là ngã này, cái tâm này là ngã này. Cho
nên nó chấp cái này, cho nên vật nào cũng có hết, nó có tùm lum ra
hết. Cho nên nó mới Hữu. Vì vậy mà Phật ghép hai cái danh từ này
lại để chỉ cho Vô minh và Hữu. Hễ
có Vô minh thì phải có Hữu. Mà không có Vô minh thì không có Hữu.
Minh thì chúng ta xả hết, xả hết trắng bạch như vỏ ốc, như một đời
sống xuất gia ba y, một bát. Đó thì các con thấy cái chỗ mà Phật ghép
từ cái danh từ như vậy để mà chúng ta phá vỡ nó.
Cái
thứ 3,
3.
Hữu kiến và Vô hữu kiến.
Ở
đây đức Phật dạy Hữu kiến tức là có cái kiến, tức là có cái sự suy
nghĩ, có cái sự hiểu biết. Mà có cái sự hiểu biết tức là chúng ta
có cái Sở tri chấp. Chúng ta chấp cái kiến đó, chấp cái đó. Như bây
giờ từ tới giờ nghe người ta nói: Ờ bây giờ có Phật tánh, ở trong thân
của chúng ta có Phật tánh, vậy thì ngộ cái Phật tánh đó mà chúng ta
ngộ là chúng ta làm Phật, cho nên người ta nói kiến tánh thành Phật.
Do đó mình cũng chấp kiến tánh thành Phật. Vì vậy người ta chỉ cái
tánh đó là như thế nào, bây giờ mình nhận ra cái tánh đó. Nhưng mà
nhận ra cái tánh đó thành Phật rồi nhưng mà cuối cùng thì cái tâm
tham sân si chúng ta vẫn còn. Vì vậy mà chúng ta nói: Ủa sao ông Phật
bây giờ mình nhận ra rồi mà ông còn tham sân si như vậy? Ai chửi ông
cũng giận dữ vậy. Như vậy là ông Phật này thiệt hay giả đây? Cho nên
từ đó có cái sự suy nghĩ phá cái Vô minh này đi thì cái kiến chấp
đó, cái Hữu kiến đó chúng ta bị bẻ gãy đi. Còn nếu mà chúng ta không
có sự suy nghĩ, chúng ta cứ ngỡ rằng ở trong thân của chúng ta là có
Phật tánh nè, cái vật này là thường hằng này, nó thường lạc ngã
tịnh nè, nó ở trong đó nó thanh tịnh nó thường an lạc ở trong đó, thì
do đó chúng ta sẽ bị cái chấp kiến đó và nó làm cho chúng ta mê mờ
mà không thấy đó là cái chấp ngã, chấp kiến của chúng ta. Từ đó
chúng ta chết điêu chết đứng ở trong đó mà tưởng là mình sẽ đạt
được cái đó là mình giải thoát nhưng cuối cùng lại không giải thoát.
Ở đây phải thấy rằng, cái Hữu kiến này rất là nguy hiểm.
Vô
hữu kiến. Mà khi đã hiểu ra như vậy thì chúng ta xả bỏ đi, thì chúng
ta hoàn toàn là không có gì hết. Bởi vậy đến với đạo Phật chúng ta
thấy cái gì cũng bỏ hết cho nên chúng ta đâu có gì đâu. Thậm chí như
nói Niết Bàn đức Phật cũng nói đâu có cái gì mà Niết Bàn. À bây
giờ chúng ta chỉ biết rằng: cái thân
của chúng ta, cái đời nay của chúng ta, bây giờ chúng ta làm chủ được
như vậy thì chúng ta biết rằng chúng ta chỉ có một kiếp này thôi và
kiếp sau chúng ta không có nữa, nghĩa là không tái sanh nữa thôi. Chúng ta chỉ biết như vậy thôi, chứ chúng
ta không thấy có Niết Bàn hoặc là có Phật tánh hoặc là có cái gì
nữa hết. Bởi vì còn có một cái gì đó tức là còn có cái chấp
kiến, tức là còn cái Hữu kiến.
Cho
nên ở đây hai pháp ở chỗ này: Hữu
kiến và Vô hữu kiến. Nếu mà có Hữu kiến thì không thể nào mà
Vô hữu kiến được. Mà Vô hữu kiến tức là Hữu kiến không có, đó phải
hiểu. Cho nên phá cái này thì cái kia nó sẽ đạt mà phá cái kia thì
cái nọ nó sẽ có. Một cái người mà có kiến chấp rồi thì làm sao
gọi là Vô hữu kiến được, các con hiểu điều đó. Cho nên ở đây thì
chúng ta phải hiểu hầu hết là các con mang đầy ắp trong đầu mình
những cái kiến chấp kinh sách này, kinh sách kia, cho nên tất cả những
cái này là cái khó phá nhất, khó phá lắm. Nếu mà không có những
cái sự đập phá của Thầy thì chắc chắn các con còn đầy ắp bao nhiêu
là cái kiến chấp chứ không phải là không.
À
các con nghe từ hồi nào tới giờ, Thầy không có dám động chạm ai hết,
nhưng bây giờ Thầy thành lập cái Giáo án xây dựng lại con đường của
đạo Phật, đập phá tất cả những cái đó xuống hết thì bắt đầu mới
phá được cái kiến chấp của các con. Chứ còn nếu mà Thầy không đập
thì cái kiến chấp của con chưa đâu, các con còn nói Phật tánh rõ
ràng lắm, còn nói kinh này kinh kia dữ lắm chứ chưa phải đâu, còn
nói trí Bát nhã là vô ngại rồi tất cả những cái Bát nhã đó nó sẽ phá đi cái
tất cả những cái điên đảo, mộng tưởng, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu
cách Niết Bàn. Nó phá đi tất cả mọi cái, thành tựu được một cái
giả thoát hoàn toàn là cái trí tuệ Bát nhã. Nhưng mà các con cứ
kiến chấp những cái đó, nhưng mà cái đó nó cao vời vời, mà sự thật
đó cao vời vời của cái tưởng chứ không phải là cái cao gì hết. Cho
nên không được cái phá thì các con sẽ ở trong cái Hữu kiến chớ không
bao giờ mà Vô hữu kiến được.
4. Vô tàm và Vô quý
Ở
đây thì chúng ta cái phần thứ tư này, thì Phật dạy tới nó có hai cái
pháp, tức là Vô tàm và Vô quý. Cái người mà không biết xấu hổ và
không biết sợ hãi thì cái người đó không thể nào mà theo con đường
của đạo Phật mà tu được. Cho nên muốn mà tu cho có tầm và uý, tức
là có xấu hổ và có sợ hãi thì chúng ta mới răn chừa những điều ác
mà chúng ta mới ngăn chặn nó được. Còn nếu mà làm điều ác mà chúng
ta không thấy sợ hãi, tội lỗi mà không thấy nó xấu hổ thì chúng ta
cứ mãi làm mà chúng ta không có lo, không có gì hết. Thì do đó cái
Vô tàm – vô quý này là cái tâm của phàm phu, là cái tâm của con người
ác, họ không có biết xấu hổ, họ không có biết sợ hãi những tội
lỗi của họ do nhân quả đưa đến cho họ gánh vác.
5.
Tàm và quý.
Thứ
5 là Tàm và quý. Tàm nghĩa là xấu hổ, quý là sợ hãi. Nghĩa là
cái người mà có xấu hổ có sợ hãi thì con đường của đạo Phật dễ
dàng tu tập, mà thường thường là người ta nói xấu hổ, nói sợ hãi.
Nhưng sự thật ra, thì mới đầu chúng ta chưa biết thì chúng ta còn sợ
nhưng mà sau đã quen rồi thì chúng ta không sợ. Cũng như bây giờ, thí
dụ như các con ở đâu xa lạ mới đến cái Tu viện này, nghe nói kỷ
luật như vậy thì mới đầu các con còn khúm núm, còn giữ gìn giữ
lắm, nhưng mà sau thời gian ở lâu quen rồi thì các con không có thấy
sợ nữa và từ đó các con cũng không sợ hãi kỷ luật ở đây nữa. Nghe
nói vậy chứ còn bây giờ thật sự ra các con muốn nói chuyện nhau là
các con cứ lén nhau nói chuyện, thì như vậy là cái độc cư ở đây đặt
ra thành vấn đề là các con không còn sợ hãi, và các con cũng không
biết rằng cái đó là cái xấu hổ của mình khi mình tiếp duyên, mình
nói chuyện lén lút như vậy đó là mình không còn xấu hổ. Như vậy là
cái Tàm quý của các con chưa có. Cho nên ở đây mình muốn được Tàm
quý là mình phải có sự tu tập và rèn luyện nó mới có Tàm quý,
chứ không phải khi không mà người ta có Tàm quý. Đó, đó là cái chỗ
mà nói đến cái chỗ mà tu tập để chúng ta giữ gìn những cái giới
luật, cái kỷ luật cho được thì chúng ta phải tập Tàm và quý.
6. Ác ngôn và ác hữu.
Ác
ngôn là cái lời nói dữ, cái lời nói ác, cái lời nói mà người ta
đau khổ. Còn ác hữu là cái người bạn ác, cái người mà xúi chúng ta
nói lời nói ác, cái người mà xúi chúng ta làm hành động ác, cái
người mà xúi chúng ta nói lời ác hoặc là ý nghĩ ác, đó là người
ác hữu, người bạn ác.
7. Thiện ngôn và thiện hữu.
Cái
lời nói lành, cái lời nói mà làm cho người ta không khổ, mình không
khổ thì đó là thiện ngôn. Và Thiện hữu là cái người bạn lành. Cho
nên ở đây chúng ta ở gần cái người bạn lành thì chúng ta sẽ có những
lời nói tốt, cái lời nói lành, cái lời nói không có hung dữ. Còn
nếu mà chúng ta ở gần những cái người bạn ác thì chúng ta sẽ có
những cái lời ác ngôn, có những lời nói hung dữ, có những lời nói
ác không có những cái lời nói thiện được. Đó là hai cái pháp nó
đối chiếu với nhau để chúng ta chọn lấy một trong những cái pháp
này.
8. Nhập tội thiện xảo và xuất
tội thiện xảo.
Đó
bây giờ nhập tội thiện xảo, nghĩa là cái người mà muốn làm cái
tội thì họ cũng khéo léo họ làm để mà họ tránh cho người ta chỉ
trích họ bằng cách này, bằng cách kia. Cho nên khi mà họ làm cái
tội gọi là nhập tội thiện xảo. Khi mà họ... ở trong này Phật dạy
xuất tội thiện xảo, khi mà chúng ta làm một cái điều gì thì làm
cái điều đó, thí dụ như bây giờ chúng ta làm một cái điều ác thì
chúng ta cũng rất khéo léo làm cái việc ác, chứ không phải chúng ta
vụng về đâu. Còn bây giờ mà chúng ta làm một cái điều mà không có
điều ác thì chúng ta cũng phải khéo léo mới không có làm cái điều ác, có điều thiện mới
được, thì cái điều ác cũng phải có sự khéo léo mà làm. Thí dụ như
bây giờ chúng ta muốn lấy của người ta, ít ra chúng ta cũng phải nghĩ
cách này cách kia, chứ không khéo đâu phải dễ đâu, cho nên đó là một
cái điều ác. Hoặc là chúng ta muốn nói sao cho người khác tin rằng
chúng ta cho người đó, nói xấu người đó mà cho người khác tin thì
chúng ta cũng phải thiện xảo để nói làm sao cho người ta tin rằng cái
người đó xấu như vậy, cho nên nó cũng là cái thiện xảo để làm cái
điều ác. Còn bây giờ trong cái thiện xảo để mà chúng ta làm cái điều
thiện, muốn làm cái điều thiện thì chúng ta cũng phải có một cái
thiện xảo để mà làm cái điều thiện, chứ không phải là thiếu cái
thiện xảo mà làm cái điều thiện được. Cho nên muốn tâm mình được ly dục,
ly bất thiện pháp thì nó phải có cái thiện xảo, nó mới có ly, mà
không có thiện xảo thì không có ly. Cho nên ở đây muốn làm cái tội
thì chúng ta cũng có những cái khéo mà làm cái tội kêu là gian hùng.
Còn bây giờ mà muốn không có tội thì tức là chúng ta cũng phải khéo
mà sử dụng, trau dồi cái tâm của mình để cho nó không có tội.
Đó là những cái thiện pháp và
ác pháp mà trong đó nó đều là có sự thiện xảo ở trong đó.
9. Giới thiện xảo và tác ý thiện xảo.
Ở đây chúng ta
thấy sử dụng cái giới hành. Khi mà sử dụng cái giới hành tức là
cái pháp nào đó để tu cho chúng ta được giải thoát ở trong cái pháp
thiện thì chúng ta cũng phải khéo léo chứ không phải là vụng về mà
chúng ta tu tập được. Cũng như bây giờ chúng ta dùng cái pháp hướng mà
cái pháp hướng đó lúc bấy giờ chúng ta hướng như thế nào để cho nó
đúng, để mà cho nó được hiệu quả. Hầu hết là chúng ta không khéo léo
cho nên chúng ta dùng pháp hướng mà không có hiệu quả. Cũng như bây
giờ thí dụ như cô Huệ Ân bị nhức cái đầu này, cô khéo léo như thế
nào đó, cô nhắc cái nó hết nhức đầu. Còn mình cũng nghe nói vậy,
tại sao mình cũng đau cái tay mình cũng nhắc hoài mà nó không hết?
Tức là không khéo léo, không thiện xảo đó, tức là không hiệu quả
đó. Đó như vậy đó. Cho nên ở đây Phật nói tác ý thiện xảo, khi tác
ý cái điều gì ra thì nó phải khéo léo tác ý cho đúng cách. Cũng
như tên thằng A mà mình gọi nó thằng B thì thằng A nó đâu có biết
nó đâu là thằng
B cho nên nó
làm sao nó nghe được? Đó là mình không thiện xảo, không khéo tác ý.
Đó thì trong
cái vấn đề mà tu tập tới đây là những cái điều kiện mà chúng ta sắp
sửa vào trong cái pháp hành, vào trong cái giới hành. Cho nên chúng ta
phải tập những cái thiện xảo cho đúng cách. Cũng như bây giờ hồi nãy
là cô Diệu Hảo trình bày cho Thầy thấy thì cái thiện xảo của cô
Diệu Hảo thì thiếu thiện xảo. Nhưng mà cái trình bày về pháp tu thì
rất đúng, không có sai nhưng mà cái thiện xảo để cho trong cái thời gian mà
hành trì thì thiếu thiện xảo. Đó phải nhận ra cái chỗ đó, chứ nếu
mà không nhận ra cái chỗ thiện xảo thì tức là chúng ta sẽ tu tập lu
bù. Cũng như cô Minh Cảnh mà trình bày cho Thầy tu cái định, tu ngồi
giữ cái tâm thanh thản để cho phá cái tâm hôn trầm của mình thì cái
đó là không có thiện xảo rồi, cho nên vì vậy mà nó đưa dần đi đến
cái chỗ nó tỉnh tỉnh mê mê, nó không có...bởi vì cứ ngồi nghỉ, thôi thì
bây giờ mình ngồi nghỉ mình giữ được mức nào hay mức nấy, không ngờ
cứ lát chợt nó tỉnh rồi lát nó mê xuống rồi lát nó chợt tỉnh, như
vậy là sai. Bởi vì cái thời gian này là cái thời gian chúng ta phải
tỉnh táo hoàn toàn xả nghỉ cũng như lúc mà chúng ta đang ở trong cái
định Hiện tại an lạc trú hay Vô lậu. Nó phải tỉnh như vậy, tỉnh như
trong lúc chúng ta quán xét mà bây giờ ngồi không có quán không có gì
hết mà vẫn phải tỉnh như vậy thì như vậy mới đúng. Mà muốn được vậy
thì làm sao bây giờ? Không thể ngồi không vậy được? Cho nên phải đi
kinh hành. Vì vậy mà chúng ta phải nương vào cái hành động Chánh
niệm tỉnh thức, nó mới có sự tỉnh được như vậy. Sau khi nó tỉnh
đến cái mức độ nó rồi thì bắt đầu chúng ta ngồi xả ra, nó tỉnh
rất tỉnh, nó khỏi cần phải trong cái hành động thì biết lúc bấy
giờ là chúng ta mới nên ngồi. Còn bây giờ mà muốn ngồi nghỉ thì cái
điều đó là cái điều chết chứ không phải điều sống, vì vậy mà
thiếu thiện xảo.
10. Xứ thiện
xảo, duyên khởi thiện xảo.
Xứ thiện xảo
là như thế nào? Xứ thiện xảo là cái gì đây? À chúng ta thấy nè. Bây
giờ chúng ta tu Tứ Niệm Xứ nè, thì cái Xứ thiện xảo là cái thân
chúng ta đang tu nè. Lấy cái thân mà tu nè, thì vậy giờ thân hành, hoặc
là thân hành nội hoặc là thân hành ngoại, hay là đang ở trong cái nhân
tướng hành, hay hoặc là cái đặc tướng hành. Cái nhân tưướng hành cũng
là cái thân. Bây giờ ở trên thân quán thân nè mà quán cái hành tướng
hoặc là quán nhân tướng hoặc là quán cái đặc tướng nè. Nếu mà
quán cái đặc tướng nè thì cái xứ, cái thân của chúng ta là cái xứ
mà phải thiện xảo ở trên cái đặc tướng của nó, mà bây giờ quán về
cái hành tướng của nó thì ở trên cái thân của chúng ta là cái xứ
nè thì phải thiện xảo ở trên cái hành tướng của nó chứ không phải
ở trên nhân tướng của nó được hoặc là ở trên đặc tướng của nó
được. Các con hiểu điều đó.
Cho nên ở đây
chúng ta phải phân tích cho rõ ràng để khi mà chúng ta tu cái định nào
thì nó phải ra cái định nấy. Nếu mà bây giờ ở trên hành tướng mà
nơi cái thân của chúng ta, tức là cái thân chúng ta đang đi, đang hành.
Cho nên vì vậy mà chúng ta tu ở trên hành tướng đó, cho nên trên thân
quán ngoại thân là do cái hành động ngoại tu trên cái hành động. Còn
bây giờ trên thân quán nhân tướng của cái thân thì cái thân có hành
không? Thì nhân tướng tức là nó nằm cái cục thịt nó nằm như vậy
rồi quán như thế nào đây? Quán bất tịnh hay quán như thế nào để cho nó
ly tham, ly sân, ly si ra, thì đó là tu về nhân tướng. Cho nên mỗi một
cái mà Tứ niệm xứ, Thầy nói nó rất là nhiều cái chuyện mà chúng ta
cần phải tu, tu ở trong cái hành tướng, tu ở trong nhân tướng, tu ở
trong cái đặc tướng của nó. Nó rất khó chứ không phải dễ. Nhưng mà
chúng ta biết được thì chúng ta mới có thiện xảo ở trong cái chỗ đó
mà chúng ta rõ được từng chút chúng ta tu, thấy được kết quả rất lớn
cho chúng ta. Như vậy gọi là Xứ thiện xảo. Lấy cái thân của chúng ta
mà ngay hành tướng, đặc tướng, nhân tướng mà chúng ta tu tập thì cái
đó gọi là thiện xảo.
Duyên khởi thiện xảo. Bây giờ chúng ta dùng một cái pháp để mà tác ý ra
để khởi ra một cái gì đó, để làm cho chúng ta tự chủ được cái điều
kiện đó, gọi là duyên khởi thiện xảo. Nghĩa là như cái lý tác ý
nào đó thì chúng ta khởi ra cái đó để mà thiện xảo, để làm cho
chúng ta đạt được cái kết quả đó. Như bây giờ chúng ta bảo hơi thở
phải ngưng nhưng mà lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta bây giờ trên nhân
tướng hoặc trên hành tướng nè, nếu là trên nhân tướng hoặc đặc tướng
thì chúng ta nằm ở trên cái đặc tướng của nó là bây giờ nó ở trong
cái trạng thái gì? Cái trạng thái gì chúng ta mới khởi sự thiện xảo
cho nó ngưng cái hơi thở thì nó mới ngưng. Mà bây giờ chúng ta không
nắm cái đặc tướng nó, không nắm được cái nhân tướng nó hoặc không
nắm được cái hành tướng nó mà bảo nó ngưng thì nó không ngưng, các
con phải hiểu được điều đó.
Cho nên đến
cái lý hành rồi thì cái giới hành, cái pháp hành rồi nó phải nắm
từng chút rất là tỷ mỉ để mà chúng ta tiến bước ở trên con đường tu
tập, cho nên chúng ta ra lệnh là nó ngưng liền là tại vì chúng ta nắm
biết được cái trạng thái đó là bảo nó sẽ ngưng. Bây giờ mình không
nằm ở trên trạng thái đó trong cái nhân tướng hoặc cái đặc tướng hay
cái hành tướng đó, mình không nằm được ở đó mà mình bảo cứ ngưng
ngưng làm sao nó ngưng, các con hiểu được không? Mình phải biết được
cái trạng thái chỗ đó bảo nó ngưng là nó ngưng, mà cái chỗ này
mình chưa có nằm được, mình chưa có bám được cái tụ điểm này mà
mình bảo ngưng ngưng làm sao được? Cho nên các con tu, bảo đừng có nghe
đừng có nghe, cái lỗ tai các con nó đang chạy ngoài chợ mà bảo nó
đừng có nghe thì nó ở ngoài chợ làm sao nó nghe nó đâu ở đây, cho nên
khi đó các con phải biết rằng cái lỗ tai nó đang ở chỗ này nè. Cho
nên bắt đầu nó ở chỗ cái điểm này nè thì các con bảo nó đừng có nghe
thì nó không nghe. Còn bây giờ nó đi chợ ngoài kia nó chưa có về mà
bảo nó đừng có nghe thì nó cứ nghe ngoài kia, ba cái thằng hát Sơn
Đông ngoài kia đánh trống nó mê ngoài kia nó đâu có về, nó cứ nghe
trống ở ngoài thôi, thì do đó kêu sao được, con hiểu điều đó không? Cho
nên nó đi chợ ngoài đó rồi thì bây giờ ở đây có réo nó nó cũng đâu
có nghe. Đó vì vậy nói sao cái lỗ tai cứ nghe hoài, không có hết
nghe, tại vì nó đang đi nghe trống Sơn Đông ở ngoài.
Đó Thầy nói
như vậy để chúng ta biết được cái con đường tu phải thiện xảo, vì vậy
mới vô chỗ này các con thấy hai pháp mà cứ thiện xảo, thiện xảo
không. Mà trong cái thiện xảo của đạo Phật không phải tự nhiên mà
vào định được mà cả một cái vấn đề khi nằm tại tụ điểm nào đó, khi
nằm ở trên trạng thái tâm nào đó là biết cái đó nó thuộc về đặc
tướng, nhân tướng, hành tướng của nó như thế nào, chừng đó chúng ta ra
lệnh là nó ngưng. Nó phải đúng của nó chứ còn các con chưa biết
đúng, các con cứ bảo đi, bảo tới già, tới râu mọc như vậy nó cũng
không ngưng chứ đừng nói, bảo hết hơi nó cũng không thèm ngưng.
Đó, nói như
vậy thì các con sẽ lần lượt các con tu tập tới cái khi mà Thầy dạy 4
cái định ở trong băng Thầy đã dạy rồi, thì phải nắm cho vững cái đó
rồi các con mới biết được.
12. Chơn trực và tàm quý.
Chơn trực tức
là thẳng thắn, phải nhìn cho thật thẳng ở trong những cái điều kiện
tu tập của mình, bây giờ cái thiện là thiện mà cái ác là ác, chứ
không có được nói: Ờ cái này vừa thiện vừa ác đâu, không phải đâu,
theo kiểu mà lý luận của Bát nhã: sắc tức thị không, không tức thị
sắc, không có kiểu đó được đâu. Cái kiểu đó là kiểu gạt kêu là
người ta đó thì không có được, mà cái kiểu này nó thiện là thiện
nó ác là ác, chứ không phải là nói là sát sanh là bồ đề đó đâu,
không được đâu, hay là phóng sanh là giải thoát mà sát sanh là bồ đề
thì cái chuyện đó là cái chuyện lý luận của họ, chứ còn ở đây
không có được. Ở đây cái gì thẳng thắn là phải nói thẳng, đây là pháp
ác là ác, đây là pháp thiện là thiện, chứ không phải nói: sắc tức
thị không, không tức thị sắc, thì không có vậy được.
Tàm quý
nghĩa là thẳng thắn thì cái mà ác thì chúng ta phải xấu hổ, mà cái
thiện thì chúng ta vui mừng chúng ta không xấu hổ ở trong cái việc làm
của chúng ta, không có sợ hãi những cái lỗi lầm đó.
13. Kham nhẫn và nhu hòa.
Khi mà chúng
ta tu tập cái kham nhẫn, nhẫn nhục được mọi mặt thì chúng ta phải
tập được cái tâm trạng của chúng ta phải nhu hòa đối với mọi trường
hợp, mọi hoàn cảnh. Thì hai cái pháp này nó phải ghép chung lại.
Nhẫn nhục mà trong lòng cứ hậm hực hậm hực hoài thì cái nhẫn nhục
đó không phải là nhẫn nhục đâu, mà cái nhẫn nhục đó chỉ nén tâm mà
chịu đựng. Còn cái nhẫn nhục mà thực sự mà kham nhẫn thì chúng ta
phải có mặt nhu hòa, phải có cái lời nói nhu hòa, phải có những cử
chỉ nhu hòa, chứ không phải là ở ngoài làm cái vẻ nhẫn nhục mà bên
trong tức tối muốn đập người ta thì không thể được.
14. lời nói nhu thuận và tiếp đón thân tình.
Nghĩa là khi mà
kham nhẫn được và nhu hòa được rồi thì cái lời nói phải tỏ ra rất là nhu thuần
chứ không thể nào mà nói cộc cằn, mà nói giật một giật hai, nói như là chấm muối
ớt trong đầu người ta thì không có được, mà phải nói nhỏ nhẹ, ôn tồn, nhã nhặn,
mà thấy người ta còn giận hờn còn đau khổ thì mình phải dùng cái lời nói còn nhỏ
nhẹ hơn nữa và mình tiếp đón họ rất là thân tình chứ không có những đối đãi một
cách gay gắt, khó khăn, khó chịu. Cho nên một người tu theo đạo Phật là phải tập
hết sức lực tập chứ không phải là nói đơn giản được.
15. Vô hại và Từ ái.
Nghĩa là luôn
luôn lúc nào cũng không có làm hại ai hết, nghĩa là không làm khổ một người nào
hết. Luôn luôn lúc nào cũng bao giờ có thương yêu họ, từ ái là thương yêu họ
không bao giờ mà bỏ một người nào hết, dù người đó là người thù, người đó là
người có thể làm cho chúng ta khổ đau, và có thể giết chúng ta nhưng chúng ta vẫn
từ ái với họ cũng không làm hại họ tức là Vô hại và Từ ái.
16. Thất niệm và Bất chánh tri.
Thất niệm là mất
cái niệm, tức là không còn cái niệm chân chính nữa cho nên từ đó cái tri kiến
cái hiểu biết chân chánh của chúng ta nó không còn có nữa, cho nên chúng ta
luôn luôn đừng bao giờ giữ thất niệm. Chẳng hạn bây giờ chúng ta đặt cái niệm,
cái niệm đó nó phải quán cho tận cùng rốt ráo rồi thì chúng ta mới mất niệm.
Cũng như bây giờ mình đặt cái niệm hơi thở mà một lúc có vọng tưởng vào thì
mình có thất niệm không? Cái đó là thất niệm rồi đó. Một lúc có cái hôn trầm
xen vào thì lúc bấy giờ nó thất niệm rồi đó, bởi vì nó quên mất đi rồi thì đó
thất niệm. Thì như vậy là không còn cái chánh tri kiến nữa, cho nên Bất chánh
tri rồi, nó không còn sáng suốt nữa, nó mờ mịt rồi. Vì vậy cho nên lúc bây giờ
cái người tu luôn luôn không được thất niệm, phải ở trong Chánh niệm.
17. Chánh niệm tỉnh giác.
Vì vậy mà luôn
luôn lúc nào chúng ta cũng phải giữ tâm tỉnh giác để lúc nào cái Chánh niệm
của chúng ta cũng phải hiện tiền. không được mất cái Chánh niệm.
18. Các căn không được chế ngự và ăn uống không được tiết độ.
Ở đây một cái
người tu hành mà các căn không chế ngự, mà ăn uống không tiết độ thì không bao
giờ mà thực hiện con đường của Đạo Phật được. Nghĩa là các căn chúng ta phải chế
ngự nó, con mắt thấy vật gì thì phải chế ngự cho nó đừng có nhìn nhiều. Chẳng hạn
bây giờ chế ngự nó là khi chúng ta đi trên con đường này chúng ta nhìn xuống tức
là chúng ta chế ngự đôi mắt của chúng ta không có cho nó nhìn qua nhìn lại, cho
nên nó không thấy vật gì xung quanh tức là gọi là chế ngự. Còn chúng ta mà nhìn
ngó bên này bên kia bên nọ rồi rảo cái lỗ tai nghe người ta ca hát nữa thì cái
đó là không có đúng cách. Cho nên đó là phải, cái người mà không chế ngự thì về
cái ăn uống họ thì không bao giờ tiết độ, còn cái người màchế ngự được các căn
thì cái ăn uống sẽ tiết độ. Thí dụ như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa tức là
chúng ta có chế ngự cái thân và tâm của chúng ta trong cái ham muốn của chúng
ta, do đó chúng ta mới ăn uống ngày một bữa mới được gọi là có chế ngự. Còn nếu
không chế ngự thì bây giờ chúng ta sẽ ăn lén, mặc dù trưa chúng ta ăn nhưng mà
chiều hay tối chúng ta sẽ ăn lén cái này hoặc uống sữa cái kia. Điều đó là
chúng ta chưa có tiết độ đúng cách thức ăn uống, cho nên nếu chế ngự được thì
do đó chúng ta sẽ ăn một ngày một bữa mà không bao giờ ăn phi thời. Đó thì ở
đây Phật dạy rất rõ ràng để chúng ta biết rằng sự chế ngự nó kèm theo cái sự tiết
độ ở trong ăn uống của chúng ta.
19. Các căn được chế ngự và ăn uống thì được tiết độ.
Nghĩa là sáu
căn của chúng ta được chế ngự thì ăn uống sẽ tiết độ nó sẽ không phạm phải những
cái giới cấm.
20. Tư duy lực và tu tập lực.
Bây giờ các con
đem một cái niệm, trạch pháp ra một cái niệm rồi các con suy tư - gọi là tư duy
đó, thì cái sự tư duy trong một lần nó chưa có lực đâu, tư duy hai lần ba lần
năm lần mười lần một trăm lần thì nó sẽ trở thành cái lực của tư duy. Khi mà
các con đặt quán cái thân bất tịnh, quán cái thân vô thường thì ngay đó cái luồng
tri kiến giải thoát nó phóng ra liền rất mạnh, nó làm cho cái lực của các con
thấy tất cả những cái lậu hoặc quét sạch ra rất là mạnh. Do một thời gian tu tập
hoặc là 6 tháng, 1 năm thì cái lực nó sẽ thực hiện rất là mạnh. Do đó nói rằng
tư duy lực, cái lực suy tư của chúng ta nó sẽ trở thành một cái lực, nếu mà người
nào mà siêng năng thìnó mới có cái lực đó, còn người nào mà không siêng năng
thì nó không có cái lực đó đâu. Đó là cái thứ nhứt.
Hằng ngày chúng
ta tu tập đều là chúng ta tư duy ở trên cái định Vô lậu, thì do đó nó sẽ trở
thành một cái lực mà tới cái ngày nào đó chúng ta thấy cái lực rất rõ ràng. Khi
có một cái gì mà đến đối tượng nó thì tâm chúng ta giải thoát hoàn toàn không
còn tham sân si ở trong cái đối tượng đó nữa thì mới biết đó là cái lực tư duy
của chúng ta, mà cái lực tư duy của chúng ta là cái gì? Là cái pháp quán, pháp
quán tức là cái định Vô lậu. Bởi vì khi đặt cái niệm trước mặt của chúng ta để
quán xét thì đó là chúng ta phải tư duy rồi.
Cho nên ở đây
thì Phật gọi là tư duy lực và tu tập lực, nghĩa là do cái sự tu tập như vậy đó
nó mới tao thành một cái lực mà cái lực này gọi là tư duy lực. Có những cái tên
như vậy để chúng ta biết rằng bây giờ chúng ta ngồi chúng ta thấy chưaó gì hết,
nhưng mà một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy nó đã thấm nhuần cái lý của nó chân
thật, vô thường, khổ, không, vô ngã thì chúng ta biết được là bây giờ mình
không giận ai nữa hết, ai chửi gì mình không giận, biết được tư duy lực nó đã
có rồi, nó đã có ở trong cái pháp quán rồi. Đó, niệm lực và định lực thì niệm lực
ở đây thì như Thầy đã nói khi mà chúng ta tạo thành một cái tụ điểm để cho cái
tâm của chúng ta nằm yên ở trên đó, từ cái trạng thái yên lặng đó nó đi đến cái
trạng thái vắng lặng vì vậy mà chúng ta
vào định nó mới được gọi là có cái niệm lực. Khi mà có cái niêm lực rồi thì lúc
bấy giờ chúng ta nằm yên ở trên một cái niệm đó thì cái niệm đó nó phi mất đi
nó chỉ còn có trạng thái của định gọi là định lực. Lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần
ra lệnh hướng tâm nhắc một cái thì cái sức định lực đó nó vi diệu vô cùng, nó làm
cho chúng ta muốn nhập định bao lâu thì nó sẽ nhập định bấy lâu.
Cũng như bây giờ
Thầy có một cái niệm lực của Thầy tức là cái tụ điểm, bắt đầu Thầy nằm ở trên
cái tụ điểm, Thầy năm chặt ở trên cái tụ điểm của Thầy, sáu căn Thầy khép chặt
nó, Thầy mới ra lệnh rằng bây giờ phải nhập Tứ thiền 7 ngày đêm, đúng 3 giờ hôm
nay ngày thứ 7 là xuất định. Thầy ra lệnh như vậy, bắt đầu từ đó cái hơi thở Thầy
nó chuyển động rồi đếnnó ngưng, Thầy nhập vào Tứ thiền 7 ngày đêm, bắt đầu tới
3 giờ chiều ngày thứ 7 đó nó mới xuất định. Thì các con thấy đó là cái định lực,
cái sức định lực mà Thầy đã ra lệnh nó làm theo nó không cãi lời Thầy.
Còn cái chỗ mà
thầy nằm yên lặng để cho nó tạo thành một cái lực thì đó là cái niệm lực, các
con hiểu chưa? Có hiểu như vậy thì cái mà Thầy dạy nó không có đi đến cái chỗ
mà các con bị lầm lạc, cho nên các con tu sơ sơ mà không thấy cái niệm lực là
cái quan trọng mà dường như Thầy đã nói với các con nhiều lần: nếu mà chúng ta
có một cái điểm tựa thì chúng ta sẽ bẩy vũ trụ, và cái niệm lực mà chúng ta có
đó đó là chúng ta sẽ bẩy được cái vũ trụ. Và đức Phật đã xác định cái niệm lực
là cái gì? Là Tứ niệm xứ. Bốn cái chỗ mà chúng ta tu tập trở thành một cái niệm
lực đó là thân thọ tâm pháp của chúng ta. Mình phải xác định cho được cái chỗ
mà đức Phật đã dạy, chứ không phải là niệm lực không có, nó có! Nó có là nó tạo
thành một cái tụ điểm từ nơi thân của chúng ta mà chúng ta có được một cái định
lực vi diệu để có thể bẩy được cả cái vũ trụ này, làm chủ được sự sống chết của
chúng ta là bẩy được cái vũ trụ đó.
22. Chỉ và quán, ở đây chỉ và quán Thầy đã giảng rồi!
23. Chỉ tướng và tinh cần tướng.
Chỉ tướng
tức là cái trạng thái ngưng, cái trạng thái ngưng chỉ là nó ngưng
mà, cái trạng thái ngưng. Nếu mà chúng ta không thấy được cái tướng
ngưng này, cũng như bây giờ bảo hơi thở ngưng mà chúng ta không có nhận
ra hơi thở ngưng thì tức là sai. Chúng ta phải thấy được rõ cái trạng
thái lúc bấy giờ nó ngưng là
như thế nào. Cũng như bây giờ nói ngôn ngữ tịnh chỉ thì cái ngôn ngữ
lời nói chúng ta hoàn toàn không có nói nữa, miệng chúng ta không còn
lép nhép nữa, thì như vậy mới gọi là chỉ tướng của cái ngôn ngữ.
Còn bây giờ nói: Tầm tứ tịnh chỉ, tức là cái chỉ tướng của tầm
tứ, tức là bây giờ không có tác ý ra mà không có khởi một cái niệm
gì ra, thì đó mới gọi là tịnh chỉ tầm tứ, tức là chỉ tướng của
nó. Và trong lúc mà cái tướng chỉ nó được như vậy đó thì tinh cần
tướng. Nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta luôn liên tục nó ở
trong cái chỗ trạng thái đó liên tục, cho nên nó rất là siêng năng ở
trong đó gọi là tinh cần tướng, cái tướng siêng năng tức là nó luôn
luôn liên tục nó ở trong đó, cho nên gọi là tinh cần tướng.
24. Tinh cần và không dao động.
Nghĩa là khi
mà có một sự tinh cần ở trong một cái tướng chỉ như vậy thì cái
tâm chúng ta bao giờ chúng ta cũng phải nhận ra là nó không bao giờ nó
có một cái dao động nào ở trong đó hết, nghĩa là không thấy nó có hỷ
lạc, khinh an nó làm cho chúng ta thích thú dao động bằng cách này,
bằng cách kia. Hoặc có cái thọ làm chúng ta dao động cái này đau cái
kia nhức, không phải, không có đâu vì nếu mà có thì nó không phải là
chỗ tinh cần nữa mà là cái chỗ sai rồi, nó không có tướng tịnh chỉ
nữa đâu, đó là cái trật rồi. Cho nên ở đây những cái lời dạy này,
các con để ý lưu ý mà nghe, mà nhận xét qua cái chỗ tu hành. Bởi
vì ở đây là cái trạng thái tâm của các con mà chứ đâu phải của
Thầy. Thầy chỉ nói ra để các con nhận xét được cái chỗ đó mà các
con đi cho nó đúng, chứ còn ai mà đi cho mình được, bởi vì chỗ này
là chỗ độc bộ, độc hành để đi đến cái chỗ làm chủ sanh tử của
mình thì mình phải hiểu và mình phải đi cho nó đúng cách, chớ còn
sai một chút các con sẽ đi không tới đâu.
25. Giới thành tựu và kiến thành tựu.
Ở đây chữ
Kiến ở đây là Tuệ đó, chứ không phải kiến là kiến chấp đâu. Giới
thành tựu là khi mà cái giới luật, tức là những cái điều giới mà
Phật dạy cho chúng ta nó đem đến sự giải thoát cho chúng ta, như bây
giờ không sát sanh nè, không làm điều ác nè, không nói láo nè, không
vọng ngữ nè, không tà dâm nè, không dâm dục nè. Tất cả những cái
này nó mà thành tựu được thì ngay đó là cái trí tuệ chúng ta phải
có sự hiểu biết, chớ không phải là nó không ngơ đâu, nó có cái sự
hiểu biết. Bởi vì Giới ở đâu thì Trí tuệ ở đó. Mà Giới thanh tịnh
thì Trí tuệ thanh tịnh. Mà Trí tuệ thanh tịnh là Giới nó thanh tịnh.
Trước kia Thầy có dạy cho các con rồi mà, giới thiệu về giới Thầy
đã nói cái đó rất nhiều rồi mà. Cho nên ở đây nhắc lại chữ kiến
thanh tịnh tức là Trí tuệ thanh tịnh, chớ không phải, kiến thành tựu
giới thành tựu thì kiến thành tựu tức là Trí tuệ thành tựu chứ
không phải như hồi nãy chỗ kiến là kiến chấp, kiến giải đâu, không
phải, chỗ kiến này tức là cái Trí tuệ.
26. Giới suy khuyết và kiến suy khuyết.
Nghĩa là khi
mà cái Giới chúng ta đã phạm thì cái Trí tuệ chúng ta nó không sáng
suốt nữa rồi, nó lại thiếu cái Trí tuệ rồi. Cho nên ở đây Giới mà
không đúng thì trí tuệ người đó không có, mà người đó có trí tuệ
thì luôn luôn bao giờ cũng sống đúng Giới hạnh. Bây giờ nhìn các
thầy của chúng ta, nhìn các Hòa thượng của chúng ta hỏi họ có trí tuệ
không? Họ thuyết giảng cho chúng ta thấy ai cũng ngon hết mà nhìn thấy
họ ăn uống phi thời, họ sống cách bừa bãi như vậy, phá giới luật
như vậy, thử hỏi họ là con người có Trí tuệ không? Bởi vì Trí tuệ
là phải nằm ở trong cái Giới luật, làm cho họ được giải thoát, làm
cho họ ly dục ly ác pháp. Còn đằng này họ đâu có ly dục, mà họ
không ly dục thì tức là cái sự hiểu biết của họ là cái tri thức
tầm thường của thế gian, cái tri thức đó gọi là Vô minh, chạy theo
cái sự tham đắm của thế gian, ham ăn, ham ngủ, ham nhà cao cửa tốt, ham
đồ đạc cho nhiều thì đó là những cái người không phải là Trí tuệ
của Giới luật mà Giới luật ở đâu thì Trí tuệ ở đó. Cho nên Trí
tuệ ở đâu thì sự giải thoát ở đó và Giới luật phải nghiêm chỉnh ở
đó. Cho nên chúng ta dễ nhận xét qua cái người tu rất là rõ ràng là
vì Giới thanh tịnh, Giới thanh tịnh thì Kiến phải thanh tịnh. Đó, mà
Giới suy khuyết thì Kiến nó sẽ suy khuyết, tức là giới suy khuyết
thì Trí tuệ suy khuyết, mà Giới thanh tịnh thì Kiến thanh tịnh hay
là trí tuệ thanh tịnh. Kiến thanh tịnh thì tinh cần, tri kiến thanh
tịnh. Nghĩa là cái Giới mà thanh tịnh thì cái trí thanh tịnh, mà
cái trí thanh tịnh thì ở đó có cái sự siêng năng tu tập của chúng ta
càng lúc càng siêng năng. Còn nếu mà cái kiến mà cái Trí tuệ không
thanh tịnh thì cái sự tinh tấn nó không bao giờ có tinh tấn nữa. Chúng
ta chỉ tu xìu xìu chơi chơi cho qua ngày vậy thôi để hướng dục lạc chứ
còn không có cái sự thanh tịnh nữa.
29. Dao động đối với các pháp bị dao động và tinh
cần của người bị dao động.
Nghĩa là cái
người mà tâm bị dao động rồi, bị phạm giới rồi thì luôn luôn lúc
nào họ cũng sống ở trong những cái phạm giới và cái tâm luôn luôn dao
động. Coi vậy chứ các bậc tôn túc Hòa thượng chúng ta luôn luôn lúc
nào mấy ông cũng sợ hùm họp hết. Nghĩa là thấy một người mà tu tập
giới hạnh, ăn ngày một bữa là họ đã lo trong bụng họ lắm rồi. Mặc
dù là họ tìm cách họ nói này nói kia, họ ngăn cản chứ sự thật ra
họ rất lo sợ cái người mà giới hạnh đúng, họ rất sợ. Bởi vì họ
là người cũng biết được đọc kinh sách, họ cũng hiểu được kinh sách
của Phật dạy như thế nào, không có ăn uống phi thời, mà thấy quý
thầy mà ăn uống đúng pháp không phi thời mà họ phi thời là họ thấy
xấu hổ rồi. Mặc dù là họ không nói ra nhưng mà họ thấy họ cũng
gượng gạo đối với cái người mà giữ gìn giới hạnh. Cho nên ở đây khi
mà tâm họ dao động thì cái sự tinh cần của họ cũng luôn luôn bị dao
động theo đó hết.
Cho nên hiện
bây giờ dù họ có làm cái hàng giáo phẩm gì đi nữa, tâm họ vẫn luôn
luôn nơm nớp sợ hãi. Nghe ở đâu có những bậc chơn tu là họ quá sợ.
Cho nên họ tuy rằng họ không có làm được một cái gì hại ai nhưng họ
vẫn lo sợ nơm nớp ở trong lòng của họ. Vì họ biết rằng cái mà họ
đang sống đây nó chưa phải là đúng, cho nên họ phải sợ, mặc dù họ là
những bậc có thể nói rằng là bậc tôn túc rất lớn nhưng mà họ luôn
luôn nơm nớp lo sợ.
Còn chúng ta
là những người chúng nhỏ thôi, giới luật chúng ta nghiêm túc chúng ta
chẳng hề sợ ai hết, chẳng sợ người nào hết. Nghĩa là không sợ ông
lớn, mà cũng không sợ ông nhỏ vì Giới luật là sự hộ trì. Lát nữa
các con nghe băng Thầy thuật lại, khi mà Thầy giữ gìn giới luật
nghiêm chỉnh, Thầy chẳng hề sợ bom đạn. Nghĩa là tất cả những cái
thất của ThầyThầy ngồi trong khi đó bom đạn nó vây xung quanh vậy:
pháo nè, máy bay nè, bắn, bỏ bom, đủ thứ hết... nhà cửa là xung
quanh cháy hết, Thầy ngồi đây, chốc ngốc Thầy ngồi Thầy tu chốc ngốc
Thầy không sợ gì hết. Đó thì các con thấy giới luật nó hộ trì như
vậy, cho nên mỗi người mà đi ra khỏi đây Thầy nhắc nhủ họ là phải
giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh, có giới hạnh mới bảo trì hỗ trợ
họ trên bước đường đi mà được an ổn. Đó là những điều mà Thầy đã
chứng nghiệm được giới luật của Phật, nó nghiêm chỉnh. Người mà giữ
gìn Giới luật nó sẽ có sự hộ trì rất là lớn.
30. Không tri túc với các pháp thiện và không thối
thất trong sự tinh cần.
Ba mươi này, không tri túc với các pháp
thiện nghĩa là mình đừng có hiểu, mình đừng có biết đủ với các
pháp thiện mà các pháp thiện cứ càng ngày mình càng tu nhiều là
càng tốt chứ đừng có: ờ tui làm bố thí vậy thôi, tui giữ vậy là
đủ rồi, thôi tui không có giữ thiện nữa, nhiêu đây là đủ rồi. Đừng
có tự mãn ở trong cái hành động thiện của chúng ta bây giờ đủ đâu,
nó còn phải thiện nữa, thiện cho đến khi nào mà chúng ta giải thoát.
Ở cái câu 10 này, chúng ta đừng có tri túc ở trong các pháp thiện mà
chúng ta hiện làm được, mà chúng ta phải làm nhiều các pháp thiện
nữa để cho đến khi giải thoát hoàn toàn. Và cũng đừng có thối thất
ở trong cái sự tinh cần đối với các pháp thiện. Nghĩa là chúng ta
phải siêng năng thực hành tăng trưởng các pháp thiện, càng ngày càng
lớn lên. Mà các pháp thiện đây là gì? Là giới luật của Phật đó,
chúng ta phải thường siêng năng, tinh cần nó để mà tu tập.
31. Minh và giải thoát.
Minh tức là thấu
rõ được cái lý chơn của Pháp, giải thoát của Phật. Cho nên vì vậy
có Minh là có giải thoát.
32. Tận trí và Vô sinh trí.
Hễ Lậu tận
trí mà có thì cái vô sinh trí nó phải có. Đó là cái điều hiển
nhiên không thể nào mà chối cãi được.
(Hết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét