Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 14

TỨ CHÁNH CẦN
Bây giờ chúng ta tiếp tục học Tứ chánh cần. Tứ chánh cần là bốn pháp dùng để trau dồi dứt trừ các ác pháp. Vậy Tứ chánh cần là gì? Tứ chánh cần là bốn pháp siêng năng, cần mẫn, tinh tấn, hợp với đạo lý nhân quả để giúp cho con người thoát ra khỏi cảnh khổ, bất hạnh của cuộc đời; để giúp cho con người thoát kiếp trầm luân khổ ải; để giúp cho con người mọi hành động không làm khổ mình khổ người và để giúp cho mọi người trau dồi rèn luyện thân tâm đạo đức nhân quả.
Như vậy Tứ chánh cần chúng ta phải hiểu bốn cái pháp chuyên cần này để giúp cho chúng ta thoát cuộc đời bất hạnh, để giúp cho chúng ta không làm khổ mình khổ, người và để giúp cho mọi người trau dồi thân tâm đạo đức của chúng ta trong nhân quả. Thì chúng ta phải biết cái pháp này nó trau dồi đạo đức nhân quả như thế nào? Bởi vì dạy về nhân quả mà không dạy về Tứ chánh cần thì chắc chắn là người ta chưa biết pháp hành, cho nên người ta nói nhân quả suông mà không có hành nhân quả. Còn ở đây chúng ta chưa có dạy về nhân quả nhưng trước đây Thầy có giới thiệu chúng ta biết nghiệp. Nghiệp là cái nhân quả của nó đem đến cho chúng ta, từ cái nhân đến cái quả, chuyển kiếp rồi nó thành những cái nghiệp lôi cuốn chúng ta trong vòng sanh tử luân hồi. Thì cái nhân quả là như vậy. Nhưng dạy về nhân quả, đạo đức nhân quả thì nó phải có một cái giáo án riêng của nó. Cái đạo đức này, vì nó là cái đạo đức rồi thì nó phải có tuần tự từ thấp đến cao, cách thức tu học như thế nào của nhân quả. Vì vậy có dịp Thầy sẽ soạn giáo án đạo đức nhân quả giúp cho mọi người có đường lối trau dồi, học tập đạo đức nhân quả để đem lại sự an lành, thanh bình cho con người trên thế gian này. Nhưng bây giờ thì chúng ta không có thời gian để mà viết thành cái giáo án của đạo đức nhân quả.
Tứ chánh cần chia làm bốn vai trò để trau dồi các hành trong thân. Nghĩa là nó có bốn phận sự để mà trau dồi các hành, nó trau dồi các hành động, không phải là trau dồi cái trừu tượng như chúng ta trau dồi Tứ vô lượng tâm đâu, mà nó trau dồi các hành động trong thân của nó. Cái hành động trong thân của nó như thế nào thì chúng ta sẽ lần lượt, Thầy sẽ giải bày để chúng ta thấy được các hành động trong thân của chúng ta.
Một: siêng năng cần mẫn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh. Ở đây là cái lý thôi, nói cái lý là ngăn ngừa; rồi cần mẫn ngăn ngừa như thế nào thì chắc chắn đó là danh từ rỗng, không đúng nhưng phải nói cho quý thầy biết, để cho quý thầy có những cái lý; mà phải nói cho hiểu để biết ngăn ngừa. Sau đó chúng ta hành thì chúng ta mới biết biến ra các hành động ngăn ngừa như thế nào và phòng ngừa nó như thế nào.
Hai: phải siêng năng cần mẫn dứt trừ những điều ác đã phát sanh. Dứt trừ đây chỉ nói danh từ suông, đó là cái lý nói dứt trừ, chứ dứt trừ phải bằng cái hành động, phải bằng cách tập luyện như thế nào để dứt trừ các pháp ác. Đó là cách thức đoạn dứt nó chứ không thể nói dứt trừ suông mà nó dứt các pháp ác được. Cho nên hầu hết chúng ta phải giải cái lý của pháp rồi mới giải cái hành của pháp, rồi mới thấy cái chỗ hiểu nó, rồi mới cái chỗ hành nó như thế nào cho đúng.
Ba: là siêng năng cần mẫn trau dồi những điều lành chưa phát sanh. Bây giờ nói đến mình phải trau dồi những điều lành chứ còn khi không nó làm sao có trong tâm mình điều lành được. Cho nên phải trau dồi những điều lành đó. Cho nên những điều lành đó, chưa phát sanh thì phải trau dồi nó. Trau dồi nó một thời gian thì tất cả những pháp lành nó phát sanh ra.
Khi mà trau dồi một thời gian nó phát sanh ra thì đến giai đoạn thứ tư thì phải siêng năng cần mẫn tiếp tục trau dồi những điều lành đã phát sanh. Bây giờ trau dồi nó đã lớn rồi, nó đã khởi ra rồi thì bắt đầu mình phải trau dồi cho nó lớn mạnh lên để giúp cho người, để giúp cho mình, làm cho mình vui, làm cho người khác vui.
Trên bước đường tu học nó phải đi từng bước, từ cái hiểu cái lý cho đến cái hành của cái lý. Từ hiểu cái lý pháp cho đến cái hành của pháp. Thầy dạy đâu thì nó có những bước căn bản như vậy. Chứ không phải dạy chung chung được, lý với hành nó phải song song như vậy chúng ta hiểu mới rõ.
Bây giờ Thầy xin ôn lại những điều lành Thầy đã dạy quý thầy ở lộ trình thứ nhất.
Bây giờ ôn lại để chúng ta thấy mình đã học những cái pháp lành nào, những điều lành nào để cho mình biết.
Thứ nhất, như mình biết như là mười điều lành, mười điều lành tức là thập thiện đó, quý thầy đã học rồi phải không. Rồi bốn tâm vô lượng, quý thầy đã học rồi. Rồi mười điều lành bây giờ chúng ta mới đem áp dụng vô cái Tứ chánh cần này đó. Còn bốn Tâm vô lượng mình đã trau dồi bằng cái pháp hướng để làm cho tâm từ bi hỷ xả của mình nó rộng lớn hơn. Thì cái hành của Tứ vô lượng tâm rồi.
Bây giờ mới nhắc lại mười cái điều lành này. Hồi trước Thầy chỉ giảng cái lý của Mười điều lành này chứ chưa có dạy quý thầy hành mười cái điều lành này. Bây giờ nói tới đây thì quý thầy mới hành mười cái điều lành này, nó mới hiểu biết rằng khi dạy thập thiện tức là để chúng ta biết mười điều lành và mười điều ác. Và khi biết rồi, bây giờ tới Tứ chánh cần mới đem nó áp dụng vào Tứ chánh cần để chúng ta thực hiện mười điều lành mười điều ác. Bởi vì trong Tứ chánh cần Phật dạy các pháp ác chưa sanh thì không cho nó sanh, đã sanh thì đoạn dứt. Còn các pháp thiện chưa sanh thì phải cho khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Cho nên chúng ta biết được cái đó vì vậy mà chúng ta dạy các pháp ác như thế nào, các pháp thiện như thế nào để chúng ta hiểu để mà chúng ta áp dụng vào Tứ chánh cần cho đúng đắn.
Qua mười điều lành và bốn tâm vô lượng quý thầy đã quan niệm rõ nét về điều dữ và điều lành trong đạo Phật rất cụ thể. Mỗi khi ai đã học xong những điều Thầy đã dạy ở trên mà không hiểu được điều lành, điều dữ thì người đó quá là si mê. Nghĩa là Thầy dạy rồi mà không hiểu được thì thật là si mê. Nếu Thầy dạy điều lành, điều dữ mà người nào không hiểu thật rõ thì thật đáng thương cho người đó, người đó là kẻ si mê tận cùng. Nghĩa là Thầy dạy như vậy chắc chắn là Thầy tin một người mà bây giờ ngu si như thế nào mà dạy xong rồi chắc chắn là quý thầy cũng phải thấy rõ những điều mà Thầy dạy chứ không phải là không thấy rõ. Bởi vậy, trước khi làm một điều lành, tránh một điều dữ chúng ta phải hiểu rõ thế nào là lành, thế nào là dữ.
Những điều dữ là những điều có thể làm tổn hại cho mình, cho người trong hiện tại cũng như mai sau. Đó thì quý thầy thấy những điều lành điều dữ như thế nào. Điều lành là làm cho mình vui, làm cho lợi người; điều dữ thì làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ. Thì đó là những đặc tánh của điều dữ và điều lành. So sánh ta thấy rất rõ và nhận định chính xác không lầm. Nếu ta so sánh giữa mười điều dữ và mười điều lành, đối chiếu nhau thì ai ai cũng rõ. Bây giờ mình để cái điều dữ trước và điều lành sau thì chúng ta thấy.
Một là sát sanh. Sát sanh thì người đó phải cầm dao, cầm gậy đánh cho chết người hoặc làm hại con vật này; không sát sanh là không giết hại, không làm đau khổ, không làm chết chóc chúng sanh. Đó là lành đúng không? Bởi vì lành là không làm khổ ai hết thì đó gọi là lành.
Điều dữ đây, thứ hai là trộm cắp. Trộm cắp là lấy của người ta không cho, làm cho người ta mất của người ta buồn rầu, người ta khổ sở; thì cái đó có khổ không - đó là ác. Cho nên mình thấy rõ pháp ác mà, đâu có gì là không ác. Còn mình không trộm cắp, tức là không lấy của người thì người ta đâu có mất của mà người ta khổ. Do đó mình thấy không có khổ, vì vậy đối chiếu lại thì ta thấy trộm cắp là pháp ác, mà không trộm cắp là lành.
Bây giờ đến ba là tà dâm. Cái người mà tà dâm, có vợ con rồi mà lại nhà người ta dê vợ người ta, hoặc làm thế này thế khác làm cho gia đình người ta tan nát. Gia đình tan nát như vậy có khổ không. Đó là pháp ác, là pháp làm cho đau khổ mình, đau khổ người. Còn không tà dâm thì gia đình hạnh phúc yên vui, nhà người ta có tan nát cửa không. Đó là mình vui thì người khác cũng vui. Do đó không tà dâm là pháp thiện, mà tà dâm là pháp ác.
Bốn là nói dối, nói không thật. Mà nói không thật là tức gạt người ta chứ gì. Ví dụ con người ta không có té giếng chết, mình chạy về mình nói: con bà đi ra coi trâu ngoài ruộng nó té giếng chết, nó lọt giếng chết rồi, làm cho bà ta sợ hãi, khóc lóc chạy ra coi con mình có chết không, ai dè thấy nó ngồi trên bờ ruộng. Do đó nói láo như vậy làm cho người ta khổ. Như vậy có ác không? Cho nên cái nói láo như vây làm cho người ta khổ, là pháp ác. Còn mình không có nói dối, gạt ai hết thì có ác không. Không có gạt làm cho ai khổ sở hết thì cái đó là cái pháp lành. Cho nên chúng ta phải nhớ so sánh để chúng ta biết để chúng ta giữ cái nào mà dứt cái nào.
Năm là nói thêu dệt. Nói thêu dệt là nói là nói cái này cái kia làm cho người ta thù hằn nhau, người ta giận với nhau, người ta ghét nhau thì cái đó là pháp ác hay pháp thiện? Vì người ta có giận hờn ghét nhau, do đó là pháp ác, làm cho người ta đau khổ, người ta tức giận - đó là pháp ác. Còn mình không nói thêu dệt thì đâu có làm ai khổ. Mình không có nói xấu người khác thì không có làm ai khổ. Cho nên do vì vậy đó mà đó là pháp thiện.
Sáu là nói lời phù phiếm, nói lời phù phiếm là mình nói cái này cái kia nó không đúng cách. Nó làm cho người ta nghe chuyện này rồi dính mắc vào chuyện kia, đi làm chứng làm trái này kia, làm cho người ta phải mất thì giờ, làm cho người ta tổn phí những cái công sức để mà ngồi nghe những cái chuyện tào lao không có đúng. Đó là cái pháp ác. Còn mình không nói lời phù phiếm thì có phải người ta không mất thì giờ không, người ta không có ngồi nghe cái chuyện tào lao, cho nên người ta không có hao tổn tinh thần, cũng như hao tổn thời gian của người ta. Như vậy là thiện pháp.
Bảy: nói lời hung dữ. Nói lời hung dữ là mình chửi mắng, mình rủa người ta, mình nạt nộ thì làm cho người ta giận tức, làm cho người ta đau khổ thì đó là pháp ác phải không. Do vì vậy đó là pháp ác. Còn chúng ta không nói lời hung dữ thì đâu có làm ai khổ sở, cho nên đó là pháp thiện.
Tám là tham lam. Tham lam là ham muốn cái này cái kia, sanh ra những cái đạt được thì mình mừng vui một chút, còn không đạt được thì nó khổ sở nó lo toan đủ thứ hết trong đầu của mình. Do đó tham muốn cái này cái kia làm cho chúng ta phải lo lắng. Như vậy sự lo lắng ở trong tâm của mình, đó là pháp ác. Còn người không tham lam, không ham muốn thì họ có an ổn không. Họ thanh thản, họ an vui cho nên cái pháp đó là cái pháp thiện.
Chín là sân. Quý thầy thấy người sân có giận dữ không? Giận dữ thì tức tối, mặt đỏ, tay chân múa may. Do như vậy mà người sân là người quá khổ. Sân là khổ như vậy đó là pháp ác. Còn cái người không sân thì có khổ không? Không có khổ, không có giận dữ, không có múa me, không có chửi mắng, không có la lớn thì cái người đó là người không khổ. Còn cái người kia, người sân là người trong pháp ác cho nên khổ.
Si là ngu si, không thấy. Thấy ai uống rượu thì mình vô cùng uống rượu, người ta giết gà thì mình cũng a tùng vô giết gà ăn thịt hoặc làm những cái việc trộm cướp theo những cái điều mà người ta không có thấy tội lỗi cho nên do những si mê đó mà nó đưa con người ta đến những khổ đau liên tục. Chúng ta phải biết đó là các pháp ác. Người không si là người thấy điều đúng, điều sai để chúng ta tránh mà không tạo cho chúng ta khổ và khổ cho người khác khổ, người đó là người không si. Không si là pháp thiện.
Do bảng so sánh mười pháp này để cho quý thầy thấy rõ mà nhận định điều ác mà mình cần phải dứt bỏ, điều lành mình cần tăng trưởng và nuôi lớn. Như vậy chúng ta sẽ nuôi lớn mười điều thiện mà không không này. Không làm mười điều lành- không làm cái này thì trong khi lần lượt chúng ta phải tu tập, trau dồi như thế nào để chúng ta thực hiện được, tăng trưởng được mười pháp lành, mà đoạn dứt được mười pháp ác này, đó là điều quan trọng. Chứ không thể nói rồi chúng ta dứt được liền đâu, rất là khó chứ không phải dễ. Tuy là nói như vậy, so sánh như vậy để chúng ta hiểu nhưng đến khi thực hành tu tập là một điều mà chúng ta phải rèn luyện, dứt bỏ, trau dồi, phải quyết tâm chúng ta mới dứt được, chứ không phải muốn dứt là chúng ta dứt ngay liền được đâu, nó thật là khó chứ không phải dễ. Vì vậy giáo án này Thầy phải ghi lại cho nó được đầy đủ các pháp hành để chúng ta thực hành để dứt các pháp ác, để tăng trưởng các pháp lành để làm cho chúng ta càng ngày càng tiến bước trên con đường giải thoát.
Như vậy ở đây những điều lành khởi sự bắt đầu để cho người mới tu mà thực hành dứt bỏ mười điều ác, tăng trưởng nuôi lớn mười điều lành. Nhưng nói đến mười điều lành của đạo Phật mà không dạy con người trau dồi mốn tâm vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả cao quý tuyệt đỉnh lành trong các pháp. Nếu mà nói về pháp ác, pháp lành mà không dạy người ta trau dồi tâm từ bi hỷ xả. Như Thầy, tại sao Thầy không dạy các thầy tu Tứ chánh cần trước; dạy Thập thiện rồi lẽ ra phải dạy Tứ chánh cần trước, tại sao lại không dạy Tứ chánh cần mà lại dạy Tứ vô lượng tâm? Tại vì muốn dứt trừ các pháp ác phải có tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả thì nó mới dứt trừ được. Mà dứt trừ được thì phải nuôi lớn những tâm nào, trau dồi những tâm nào để mới tăng trưởng các pháp lành. Nếu mà không tăng trưởng các pháp lành thì làm sao các pháp lành khởi sự ra được. Đó là những điều quan trọng, phải biết sắp xếp pháp nào tu trước pháp nào tu sau mà Thầy từng nhắc đi nhắc lại trên con đường xây dựng giáo án này.
Bởi vậy, Tứ vô lượng tâm là pháp lành cao nhất của đạo Phật mà cũng là bài học vỡ lòng tuyệt thiện pháp cho tất cả loài người. Mình phải hiểu muốn dứt trừ các pháp ác thì phải học Tứ vô lượng tâm, phải tu tập Tứ vô lượng tâm. Là bài học vỡ lòng đầu tiên mà cũng là tuyệt đỉnh của thiện pháp cho tất cả con người ở trên thế gian này nếu muốn đi vào con đường của đạo Phật. Nếu ai chưa học pháp vỡ lòng này thì khó có thể vứt bỏ mười điều ác. Nghĩa là chúng ta nói như vậy nhưng chúng ta chưa trau dồi được tâm từ bi hỷ xả thì chắc chắn mười điều ác này chúng ta khó vứt bỏ.
Nhờ có trau dồi Tứ vô lượng tâm ta mới có thể mà thương yêu tất cả chúng sanh, nhờ đó ta mới dứt trừ tận gốc của ác pháp. Nếu ta xây dựng giáo án tu tập theo đạo Phật mà đặt sai vị trí pháp tu thì cũng như người viết giáo trình học tập văn hóa thay vì lớp một đem đặt thành lớp hai. Vậy thì học sinh mới vào phải học lớp hai làm sao chúng học được. Chưa biết A, B, C mà đã đọc chữ thì học như vậy có được hay không, và tu như vậy có được hay không? Cho nên người viết giáo trình phải là người am hiểu, có nhiều kinh nghiệm trong ngành giáo dục. Cũng vậy, nếu người soạn giáo án của đạo Phật mà không có thực hành, không có kinh nghiệm thì giáo án ấy không thể áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ được, vì không đem lại kết quả thiết thực cụ thể.
Vì thế đạo Phật bây giờ không có một giáo án tu tập, nên đời sống tu sĩ ương ương gàn gàn, đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Bởi vậy, sắp xếp lại những pháp môn tu hành của đạo Phật từ thấp đến cao, từ dễ đến khó là một công trình phải được xem là khó khăn nhất. Nếu sai đi, chỉ cần một chút cũng làm mất thời gian của người tu rất lớn và cũng phí bỏ cuộc đời tu hành của họ, chẳng có ích gì cho chính bản thân họ mà còn lại làm cho người khác đau khổ, tốn công tốn của, tiêu phí bao nhiêu mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ mà chẳng ra ma nào cả. Cho nên quý thầy thấy trên bước đường tu tập từ ngày thầy biết đạo tới giờ vì không có giáo án thiết thực cụ thể từ bước thấp đến bước cao nên nhìn chung các thầy, huynh đệ cùng nhau chẳng ai ra nào cả, đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Dở chết dở sống trên chiếc áo tu sĩ, cười thì cũng cười chẳng được mà khóc thì khóc cũng chẳng xong, cho nên cuộc đời tu hành lỡ dở.
Ở đây quý thầy phải hiểu những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ và lúc nào cũng phải đúng với chơn lý của đạo Phật. Nghĩa là nói về pháp thiện chúng ta phải hiểu là nó luôn luôn phải hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái; nó phải có thêm trí tuệ mà phải đúng với chơn lý của đạo Phật.
Cho nên khi Thầy dạy Tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả thì Thầy thấy hầu hết có một số sai lạc rất lớn, họ sai lạc rất lớn, cỏ họ cũng không dám nhổ, đi cũng không dám đạp. Đó là cái sai lạc rất lớn thứ nhất, cái sai lạc thứ hai là họ đem cơm đem thực phẩm họ họ đem cho kiến cho này kia ăn. Họ sai lạc, nhiều cái sai lạc lắm, họ không có biết một cái gì bởi vì trí tuệ của con người sao mà nó mờ mịt, nó ngu tới mức độ Thầy không có tưởng được. Mà cái người không được nghe, được học mà lại hiểu được Thầy. Đó là cô Út. Cái môi trường của mình đâu phải du tăng khất sĩ thế mà họ làm như họ là du tăng khất sĩ. Họ tưởng tượng ra họ như Phật rồi nên từ đó họ không dám đạp cỏ, không dám nhổ cỏ. Mai mốt cái thất của họ như là cái đống rác.
Bởi vậy cho nên khi chúng ta chưa phải là du tăng khất sĩ thì chúng ta từ từ tập, thân chúng ta đâu phải một ngày nó từ liền, hay nó bi liền được. Mà nó cả một quá trình tu tập, cả một thời gian dài. Chừng nào chúng ta biết chúng ta có buông xả được không? Bây giờ nhìn trong thất chúng ta còn bao nhiều đồ chúng ta có dám quăng ném ra không. Thế mà chúng ta muốn làm ông Phật liền à. Đó là chúng ta muốn làm ông Phật ngay liền, thiệt là cái tâm tưởng tượng. Thế thì chúng ta phải hiểu được hiện tại chúng ta sống trong chiếc áo này phải làm cái gì, tu tập từ bi hỷ xả như thế nào cho nó phù hợp, cho nó đúng. Chứ bây giờ chúng ta ngay liền muốn không có đạp cỏ, không có giết cỏ, không có làm gì hết mà còn lấy cơm thiên hạ cho kiến đồ ăn nữa thì thử nghĩ quý thầy như thế nào. Ông Phật nói ổng nói ăn còn dư ổng bỏ ra đất trắng. Thực ra, chắc chắn là ông Phật nghĩ của đàn na thí chủ, mà mồ hôi nước mắt chưa chắc ổng xin thừa để bỏ đâu. Còn một chút còn ráng ăn hết chứ chưa chắc bỏ đâu. Còn chúng ta nghe nói vậy, ăn thấy hơi no no bụng mà cái đó bộ không ngon thôi đem bỏ đi, phí của đàn na thí chủ. Chứ không phải quý vị tưởng cái đó là quý vị bố thí cho chúng sanh đâu. Bởi vì chúng sanh nó có cái nghiệp riêng của nó, nó phải chịu khổ chịu sở là do cái nghiệp của nó. Chứ đâu cần phải chúng ta bố thí. Cho nên khi bố thí là làm cho chúng sanh mang thêm nghiệp nữa. Cho nên ông Ca Diếp nói: “Nếu bà cúng dường cho tôi thì bà sanh vào cái sự đầy đủ hơn mà tôi bố thí cho bà thì bà càng khổ sở hơn”. Cho nên chúng ta nhận của bố thí là chúng ta lại nghèo khổ hơn. Mà người đời tưởng là bố thí được cái an lạc có một chút thôi mà tiếp tục đó là sự nghèo khổ, tiếp tục khổ hơn nữa. Vì mình thọ của người ta, cho nên do vì vậy mà không thấy được. Mình đem mình cho con kiến ăn, con kiến nó còn khổ hơn nữa; nó lại sanh những con khác vật nhỏ hơn nữa, đói khổ hơn nữa. Chớ đâu phải mình làm như vậy là mình làm nó no đâu. Nó no có một chút đó mà nó nợ của người ta biết bao nhiêu. Quý thầy tưởng làm điều đó là quý thầy từ bi nhưng không ngờ quý thầy lại giết nó thêm một kiếp khác nữa.
Hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng tu Tứ vô lượng tâm như thế nào đúng như thế nào sai. Tưởng là giảng như vậy quý thầy đã hiểu cái vai trò, cái hiện tại, cái thân phận của mình là như thế nào. Mình có thành Phật được chưa. Bởi vậy, lời nói là một lẽ mà hiểu đạo lại là một lý. Không thể nào mà hiểu sai như vậy được. Nếu không có Thầy nhắc đi nhắc lại thì chắc quý thầy đã lầm lạc trong cái sự hiểu biết này.
Thầy xin nhắc lại, ở đây quý thầy phải hiểu, những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ, bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ. Quý thầy nhớ đầy đủ trí tuệ, từ bi bác ái phải đầy đủ trí tuệ. Và lúc nào cũng phải đúng với chơn lý của đạo Phật. Phải áp dụng đúng chân lý của Đạo Phật, nghĩa là đúng không gian, thời gian, đúng thời điểm phải ứng dụng là ứng dụng cái gì cái gì, chứ quý vị ứng dụng cách đó là quý vị ứng dụng sai, không có đúng cách. Cho nên làm sao mà đạt được cái đạo giải thoát này. Nó khéo léo, nó thiện xảo mà áp dụng pháp đó, và đời sống của mình đúng lúc đó đúng thời điểm đó thì mới có kết quả. Nếu không đúng chân lý của Đạo Phật thì xem như đó là điều ác đó. Đó, giống như quý thầy đem cơm đem này kia bỏ cho kiến, không dám đạp lên cây cỏ, không dám quét, đi lúm túm lúm túm làm như người cúm vậy. Thì như vậy đó đã là cái sai của quý thầy rồi. Cái tu đó là cái tu sai rồi, chứ đâu phải là cái tu đúng. Cho nên đó là thiếu trí tuệ, đó không đúng chân lý của Đạo Phật, đó là cái sai. Thì được xem đó là những hành động ác, làm cho người ta thêm khổ nữa, làm cho người ta chuyển kiếp thêm cái nợ nần của người ta nữa.
Vì đạo Phật là đạo từ bi, thiếu từ bi là ác pháp. Mà từ bi đúng cách nó mới đúng, còn từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy hiểu chỗ đó, nếu mà quý thầy thực hiện từ bi mà từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy cứ đem cơm đem gạo cho người khác tức là quý thầy làm cho người ta đói khổ hơn chứ chưa hẳn đã hết. Vì đó là cái nợ mà.
Như chúng ta đã được biết, có ba nơi hành động xuất phát thiện hay ác, tức là xuất phát pháp thiện. Như Thầy đã nói có ba nơi hành động trong thân chúng ta mà nó xuất phát pháp thiện hay pháp ác ở đó, để chúng ta biết nó để chúng ta trau dồi những hành động đó chứ. Còn nếu mà không biết thì chúng ta sao trau dồi nó được, cũng như tu tập trong hành động đó. Nó không phải thường. Như ở đây Thầy đã nói nó có ba nơi, ba nơi đó ở đâu, ba nơi đó ở chỗ nào?
-       Một là ý hành, ý hành là cái ý mình suy nghĩ ở trong đầu của mình.
-       Hai là khẩu hành, hai là cái miệng mình hay nói lép nhép, đó là khẩu hành.
-       Ba là thân hành, thân hành là đi đứng nắm, bắt, nằm, ngồi. Đó là ba chỗ để lưu xuất thiện pháp, ác pháp ở chỗ đó.
Như vậy chúng ta phải biết ba cái chỗ mà nó xuất phát đó.
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, ý hành là nơi trung tâm xuất phát điều lành, điều dữ. Đó là trung tâm nó xuất phát, sai khiến cái miệng, sai khiến cái thân của chúng ta làm nhưng ý hành là trung tâm xuất phát, nó điều khiển, nó chỉ huy. Nói cho đúng ý hành là bộ chỉ huy các pháp ác cũng như các pháp thiện. Khi còn vô minh thì nó chỉ huy làm các điều ác. Khi mình vô minh, mê mờ thì nó chỉ huy thì mình cứ cho là tốt, là đẹp, là hỷ lạc, khả ái, khả hỷ, khả lạc là thích, là thú cho nên làm những điều ác mà không thấy, cho nên cái điều đó gọi là vô minh. Khi vô minh thì ý hành nó chỉ huy các thầy làm các điều ác mà các thầy không hay biết gì hết. Khi nó đã minh tức là nó đã hiểu rõ rồi thì nó chỉ huy làm các điều lành. Cũng như bây giờ chúng ta hiểu Tứ vô lượng tâm, chúng ta hiểu mười điều ác, mười điều lành, đó là chúng ta minh rồi đó. Phải hiểu chữ minh và vô minh. Minh là mình đã hiểu rõ cái nào ác, cái nào lành, cái nào đúng, cái nào sai mình phải hiểu rõ - đó là minh.
Bây giờ ý hành của chúng ta bắt đầu điều khiển để làm các điều lành mà vì mình đã minh rồi thì mình làm các điều lành là đúng lành, nó không có sai. Còn khi mình chưa có minh nên mình làm các điều ác mà mình cứ tưởng đó là lành. Cũng như mình ăn trộm ăn cắp về có tiền có của nuôi con mình tưởng là lành, vợ con mình được êm ấm. Không ngờ người ta mất của thì người ta khổ. Mình cứ ngỡ tưởng là lành không ngờ đó là điều ác, thì đó là vô minh. Còn cái minh là mình không làm khổ mình khổ người. Đó là pháp thiện.
Vì thế chúng ta bắt buộc bộ chỉ huy phải tập huấn mười điều dữ, mười điều lành. Nghĩa là bắt buộc nó phải học tập. Bắt ý thức của chúng ta phải học tập cho nó biết cái nào là lành, cái nào là dữ. Vậy đó, phải bắt buộc, phải tập huấn nó, cho nó học tập cho nó biết rõ. Còn nếu không bắt ý hành chúng ta cho nó học tập thì nó chỉ huy tầm bậy, chỉ huy sai, nó đưa đến chúng ta nhiều điều đau khổ. Và còn phải huấn luyện quân đội, trau dồi Tứ vô lượng tâm để áp dụng chiến đấu với mặt trận lành và dữ. Bây giờ mình phải trau dồi được cái tâm của mình nữa, ý thức của mình bây giờ đã minh rồi, đã hiểu rồi nhưng bây giờ phải huấn luyện bốn cái tâm vô lượng của chúng ta. Chứ nếu không huấn luyện trau dồi bốn cái tâm vô lượng của chúng ta thì chúng ta lấy đâu mà chiến đấu với mặt trận lành dữ này được? Chúng ta thấy cả một mặt trận mà để chúng ta mở màn cho một cuộc chiến trận đánh cái mặt trận lành dữ ở trong cuộc đời của chúng ta, để chúng ta trở thành những con người chiến thắng.
Bây giờ chúng ta cũng cần phải biết nội dung của Tứ chánh cần. Nghĩa là hồi nãy tới giờ mình đã học biết nó như vậy rồi nhưng cũng phải xem xét nội dung Tứ chánh cần nó như thế nào, để giải rõ ra. Nãy thì đại khái cho chúng ta biết là có bốn phần, nhưng chưa giải rõ ra. Còn bây giờ chúng ta phải giải rõ ra nội dung Tứ chánh cần cho nó rõ. Hồi nãy thì khái lược bốn nội dung đó.
Một: siêng năng cần mẫn ngăn ngừa điều ác chưa phát sanh, đại khái nó như vậy. Bây giờ mình giải thích ra cho rõ cái đại khái đó như thế nào. Nơi ý hành lúc khởi ác, lúc không khởi ác. Nơi ý hành của chúng ta lúc thì nghĩ ác, lúc thì không nghĩ ác - ta biết làm sao ngăn cho được? Mà trong kinh dạy ngăn ngừa các điều ác. Hầu hết các kinh sách giảng đến đây không thấy pháp hành - chỉ nói ngăn ngừa, ráng giữ gìn. Ngăn ngừa và ráng giữ gìn thì tâm không hình sắc lại không có dây dàm làm sao mà nắm giữ nó được. Cho nên lời nói ngăn ngừa và ráng giữ gìn là lời nói suông. Muốn ngăn ngừa và giữ gìn không có ý hành ác pháp thì phải áp dụng tu tập trau dồi tâm bằng pháp, tu bằng tâm pháp. Bằng hai pháp, nghĩa là khi chúng ta muốn trau dồi bằng phần ngăn ngừa và giữ gìn này thì chúng ta phải, bởi vì ngăn ngừa và giữ gìn thì chúng ta phải trau dồi bằng hai cái pháp: một là tùy pháp, hai là hướng pháp.
Mình phải vạch ra cho nó rõ để mình biết các pháp hành như thế nào thì mình mới hành, chứ bây giờ nói hướng pháp không thì quý thầy cũng không biết. Mà nói tùy pháp không thì mấy thầy cũng không biết. Mà tùy pháp không thì không đủ, mà hướng pháp không cũng không đủ. Cho nên ở đây chúng ta phải câu hữu lại hai cái pháp này để mà chúng ta tu tập, để trau dồi, để mà đoạn dứt cái pháp ác mà tăng trưởng cái pháp lành.
Tùy pháp là như thế nào, mà hướng pháp như thế nào? Tùy pháp là pháp tu tập như thế nào, mà hướng pháp tu tập như thế nào, để nói rõ cho chúng ta hiểu pháp tùy, pháp hướng thế nào.
Tùy pháp là phải nương theo cái pháp mà đức Phật đã chỉ dạy. Bây giờ có cái pháp sẵn mình phải tùy theo, bây giờ chưa pháp thì làm sao mà tùy. Các thầy phải hiểu chỗ đó. Thì như vậy chúng ta đã được Phật dạy những pháp nào thì chúng ta phải tùy theo cái pháp đó, tức là theo cái pháp đó, mà nương theo cái pháp đó mà chúng ta tu tập hằng ngày trau dồi mình theo cái pháp đó thì đó là có cái pháp để chúng ta trau. Để hằng ngày theo cái lý đó mà trau dồi các hành thân, khẩu, ý của mình để ngăn chặn các pháp ác không cho sanh. Ví dụ Phật dạy pháp Tứ vô lượng tâm mà Thầy vừa dạy đã học và đã trau dồi tâm mình để tâm của quý vị phát sanh lòng từ bi hỷ xả. Khi tâm này đã phát sanh thì tâm của quý vị không còn khởi ác pháp. Nghĩa là khi mà quý vị đã tu tập bốn Tứ vô lượng tâm này thì các ác pháp không còn khởi sanh ở trong đó nữa. Cái hành động hằng ngày mà quý vị trau dồi tâm từ bi hỷ xả là hành động ngăn ngừa giữ gìn các pháp ác. Cái hành động mà mình trau dồi tâm thương yêu của mình đó, cái tâm buông xả của mình đó, tâm vui theo đó thì đó là hành động ngăn ác. Bởi vì mình có thương yêu mình mới làm cho người ta không đau khổ, cho nên đó là hành động ngăn ác, mình biết đó là ngăn ngừa. Mà ở đây nói ngăn ngừa mà nói danh từ suông thì chúng ta biết cái gì mà ngăn ngừa. Mà chúng ta không trau dồi tâm từ bi hỷ xả thì làm sao chúng ta ngăn ngừa được. Quý thầy thấy rõ không, bởi vì thấy rõ như vậy mới biết đó là cái pháp ngăn ngừa. Tức là quý vị vứt bỏ ác pháp hay nói một cách khác là đoạn dứt các pháp ác nơi tâm của quý vị. Nghĩa là tâm từ bi hỷ xả của quý vị có rồi tức là mình đoạn dứt các pháp ác. Đó là đoạn dứt nó đó.
Bởi vậy Phật dạy các pháp ác cần phải vứt bỏ, đoạn trừ. Ở đây lộ trình của người cư sĩ, người tu sĩ cần phải trau dồi tâm mình trong pháp môn Tứ vô lượng tâm thì đó là pháp dứt ác tăng trưởng pháp lành. Chớ không phải Tứ chánh cần. Nghĩa là bắt đầu chúng ta trau dồi Tứ vô lượng tâm của mình đó là mình đã ngăn ngừa cái tâm ác của mình đó. Tức là không có cho nó phát sanh ra thì đó là Tứ vô lượng tâm. Còn Tứ chánh cần là chúng ta dùng nó để mà đoạn dứt. Nhưng trong Tứ chánh cần nó còn có pháp ngăn ngừa chứ không phải chỉ riêng có Tứ vô lượng tâm mới có pháp ngăn ngừa mà thôi.
Đến đây Thầy sẽ giảng thêm điều mà quý thầy cần phải rõ về Tứ chánh cần và Tứ vô lượng tâm. Chứ nếu mà không giảng chỗ này thì quý thầy tưởng cái góc độ tu Tứ vô lượng tâm nó không ăn nhập gì với Tứ chánh cần. Nó không phải đâu. Tứ vô lượng tâm là pháp ngăn ngừa các pháp ác. Chúng ta phải hiểu như vậy mới đúng. Và Tứ chánh cần nó có cái pháp ngăn ngừa riêng của nó nữa. Chứ không phải Tứ chánh cần nó không có pháp ngăn ngừa đâu. Có pháp ngăn ngừa và nó có pháp đoạn dứt của nó nữa. Thì ở đây chúng ta thấy đức Phật nhắm cho chúng ta đi trên con đường thiện cho nên hoàn toàn chúng ta dứt ác để tâm chúng ta tịnh. Do vậy mà chúng ta chỉ mà chúng ta làm chủ luân hồi chứ không phải là chúng ta ức chế tâm. Chúng ta phải hiểu đường lối của đạo Phật. Ngồi đó mà tu ức chế tâm là tu điên, tu sai, tu không đúng. Nếu ngồi nhiều mà không chịu đi kinh hành là tu điên tu khùng.
Đến đây quý thầy thấy rõ Tứ vô lượng tâm và Tứ chánh cần là như hai anh em song thai, là như hai cánh tay mặt và tay trái. Nếu thiếu một tay thì không làm nên việc được. Có pháp Tứ vô lượng tâm mà không có pháp Tứ chánh cần thì tuyệt nhiên ta tu hành còn thiếu lớn, còn khiếm khuyết rất lớn. Cho nên Thầy xếp hai cái pháp môn này nó đứng gần bên nhau để chúng ta thực hiện được cái pháp thiện. Còn nếu chúng ta xếp nó vào các pháp khác thì nó không thể đúng được.
Tứ chánh cần là bốn pháp bắt buộc chúng ta phải tu hành, phải siêng năng cần mẫn; luôn luôn tu tập không được bỏ qua cho nên gọi nó là chánh cần - tức là siêng năng trong chánh pháp thiện, diệt trừ tà pháp ác. Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta - khi mà tu Tứ chánh cần nó còn siêng năng hơn Tứ vô lượng tâm nữa. Nghĩa là nó cần - tức là Chánh tinh tấn đó. Bởi vậy khi mà đức Phật nói tấn lực, tức là nói Tứ chánh cần - đó là tấn lực. Cho nên nói về pháp mà siêng năng nhất trong các pháp của Phật thì phải nói là Tứ chánh cần là siêng năng nhất. Mà siêng năng nó mới trừ được cái ác, dứt được cái ác, nó mới tăng trưởng được cái thiện. Còn nếu không siêng năng thì nó không dứt trừ được ác, không tăng trưởng được thiện. Vì vậy cuộc đời ta tu chỉ hoài công mà thôi. Cho nên pháp này là cái pháp Chánh tinh tấn, ở trong cái nẻo mà Bát chánh đạo thì Chánh tinh tấn nó nằm trong Tứ chánh cần này. Nếu mà người siêng năng hằng ngày mà tu luyện mình để dứt ác mà tăng trưởng thiện thì người này gọi là Chánh tinh tấn. Chứ không phải người này chánh tinh tấn là ngồi thiền nhiều, nhiếp tâm nhiều hoặc ngồi nhập định nhiều là chánh tinh tấn đâu. Chánh tinh tấn là dứt ác mà tăng trưởng thiện, đó là chánh tinh tấn.
Cho nên ở đây Thầy giảng pháp này nó có leo qua những pháp khác để chúng ta hiểu được Phật pháp. Cái đúng cái sai của nó chứ không khéo chúng ta không biết ở chỗ nào.
Tứ chánh cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ vô lượng tâm. Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rằng Tứ chánh cần có cái pháp tu riêng của nó, chứ không phải là chỉ có ở trong cái pháp Tứ vô lượng tâm đâu, nó có sự riêng của nó.
Đến đây bây giờ nó gần hết giờ rồi, chúng ta nghỉ.
Trước khi mà nghe Thầy giảng tiếp tục giáo án, cái phần Thầy nhắc nhở quý thầy hôm nay để cho quý thầy áp dụng cho đúng giới luật. Nhiều khi mới đầu chúng ta nghe giới luật chúng ta thích lắm, nhưng khi chúng ta áp dụng có một vài ba ngày, hoặc trong một tuần hay một tháng thì lần lượt cái tâm phàm phu chúng ta nó sống theo thói quen nó vui. Do đó trình tự đó nó tìm mọi cách, nó có cơ hội. Vì trong sống chung nhau nên có những cơ hội để chúng ta phạm phải những lỗi lầm ở trong giới luật. Tuy rằng những lỗi lầm đó nó nhỏ nhặt nhưng nó sẽ dẫn đi đến những lỗi lầm lớn. Cho nên ở đây qua hạnh độc cư mà xét qua quý thầy thì từ cái duyên nó nhỏ nhỏ như mình dọn cơm, như vậy nó sẽ có cái duyên để mà tập hợp, rồi từ cái duyên đó chúng ta sanh ra nói chuyện. Rồi từ nói chuyện nhỏ ít (mới đầu chỉ vài ba tiếng nói thôi) nhưng sau đó nó lại quen đi, nó bắt đầu tiếp tục làm cho cái nơi mà chúng ta tu hành nó bất an, nó động.
Cho nên đức Phật ngày xưa Ngài thích trầm lặng, Ngài sống trong trầm lặng, Ngài đi kinh hành ở trong trầm lặng, Ngài ca ngợi sự trầm lặng. Còn chúng ta thì không như vậy, thói quen của chúng ta ngoài đời là thích vui. Cho nên khi hở ra một chút là quên đi, tức là thiếu cái sức tỉnh thức. Do tu mà cái Chánh niệm tỉnh thức nó không có cho nên sức tỉnh nó không có. Cho nên cái tâm chúng ta nó dễ buông lung theo cái thói quen. Từng đó có cái duyên nhỏ nhỏ rồi chúng ta bắt đầu đến cái duyên lớn rồi đến cái hạnh độc cư nó bị tan nát, hư hoại. Từ đó chúng ta không sống trầm lặng được nữa. Vì vậy mà chúng ta thường cảnh giác như Thầy đã nhắc như thầy Minh Tông ở đây, thầy thấy ai gần rề rề là thầy lo đi tránh chỗ khác. Thầy biết cái duyên đó nó sẽ tạo ra cái phạm lỗi. Cho nên Phật dạy chúng ta phải sợ hãi trước các lỗi nhỏ mà nó không bước đến các lỗi lớn. Còn chúng ta không sợ hãi nó thì từ đó cái lỗi nhỏ chúng ta xem thường thì chúng ta sẽ phạm phải những giới luật khó hơn. Và đồng thời con đường tu chúng ta nó sẽ mất đi phạm hạnh, nó không đúng cái người tu sĩ.
Vì vậy cho nên Thầy nhắc nhở, cái duyên như buổi trưa mà đi ăn cơm. Ai có nhiệm vụ mà dọn cơm thì hai ba thầy, hay năm ba thầy đến dọn cơm xong. Nếu mà dọn cơm sớm quá thì chúng ta để ở dưới đất, mùa này mưa thì đất không có bụi, nhưng lỡ mùa nắng thì bụi, gió thoáng qua thì làm thực phẩm dơ bẩn đi, đó là cái mình phải thấy. Khi mà dọn xong rồi khoảng độ năm phút là mình đánh kiểng, thì cái thời gian nó ngắn. Vả lại dọn quá lâu thì chó, hoặc mèo, hoặc con vật rủi chạy ngang nó làm bẩn thực phẩm của chúng ta. Đó là những cái mà chúng ta phải cảnh giác, chúng ta phải thấy.Và đồng thời khi mà dọn lâu thì mình phải ngồi chờ, trong khi ngồi chờ mà cô đơn thì không chịu được thì thành ra những chuyện mà nói chuyện với nhau. Đó mình phải đề phòng và ngừa.
Còn quý thầy không có nhiệm vụ thì mình cứ ở thất mình tu, khi nghe kiểng đổ thì mình lần lượt mình đến thì nó cũng không sao. Khi đến trước Thầy thì mình chào Thầy, mà đến sau mà chưa có chào Thầy đồng một lượt thì khi Thầy vào đứng thì mình cũng xá Thầy, có gì đâu mà phải vội vàng. Cho nên chúng ta phải thấy được cái điều nghiêm chỉnh một chút để chúng ta tránh những lỗi nhỏ. Mà Thầy đã nói rằng bí quyết của thiền định tức là độc cư. Muốn được cái tâm vô lậu, muốn đạt được sức thiền định làm chủ sự sống chết này, mà nếu không sống thầm lặng, không sống độc cư thì khó mà đi đến cái chỗ thành tựu được. Vì vậy mà quý thầy cần phải nhớ kỹ những lời Thầy dạy, bởi vì còn Thầy Thầy nhắc nhở, không còn Thầy thì từ cái thói quen của chúng ta lần lượt nó sẽ quen đi rồi nó buông lung theo, nó làm cho chúng ta phạm những giới nhỏ, rồi từ đó những giới lớn chúng ta cũng không có giữ gìn được.
Cho nên ở đây trước khi giảng tiếp cái bài này, Thầy cũng nhắc nhở quý thầy cố gắng thực hành để mà tập trong có mấy tháng chứ không lâu. Còn sống bên thầy thì cố gắng giữ gìn độc cư cho trọn vẹn. Bởi vì kỷ luật của Tu viện, cái giới độc cư nó là cái giới nòng cốt của Tu viện. Ăn ngủ độc cư đó là cái giới nòng cốt. Cho nên cố gắng giữ gìn, lấy kinh nghiệm đó mà về sau này chúng ta nỗ lực thực hiện cho được tốt. Vì vậy mà quý thầy phải ráng cố gắng hơn thực hiện lời Thầy dạy khi còn Thầy hiện tiền trước mặt. Còn sau khi thầy đã ẩn bóng rồi thì chắc chắn không có ai, lấy ai mà nhắc nhở. Chỉ khi các thầy đã có quyết tâm, sống độc cư đúng cách, tu hành khi gặp khó khăn, có tâm tha thiết thành khẩn cầu Thầy hộ trì thì lúc bấy giờ Thầy cảm thông được điều đó. Còn nếu quý thầy phạm giới mà kêu thầy hộ trì thì chắc chắn là Thầy không hộ trì được. Vì giới thanh tịnh làm cho tâm thanh tịnh nó mới cảm ứng được Thầy. Còn nếu mà thân huệ mạng của quý thầy mà không thanh tịnh thì không làm sao cảm ứng với chư Phật được, làm sao cảm ứng với Thầy được, làm sao mà Thầy đến hộ trì các thầy được. Bởi vì nó còn có uế trược, nó còn có ham vui theo dục lạc thế gian thì làm sao Thầy cảm thông được. Thầy cảm thông với những người tâm thanh tịnh, giới luật thanh tịnh không phạm phải thì mới cảm thông được. Và sự cảm thông đó mới giúp đỡ quý thầy trên con đường tu tập còn nhiều gian nan và khó khăn.
Cho nên quý thầy càng giữ giới luật thanh tịnh bao nhiêu thì quý thầy càng xa thầy bao nhiêu Thầy lại gần quý thầy bấy nhiêu. Vì giới hạnh thanh tịnh là bậc thầy của quý thầy và Thầy cũng ở trong cái thanh tịnh đó cho nên dễ cảm thông. Còn nếu quý thầy phạm phải những giới luật nhỏ nhặt, mà phạm phải là tâm chúng ta đi theo con đường của dục giới, của cái tâm ham muốn rồi, của cái vui theo dục lạc thế gian rồi. Vì vậy tâm không thanh tịnh thì làm sao những chư Phật, vị Bồ tát, bậc Alahán và các bậc giới luật nghiêm túc làm sao họ cảm thông với quý thầy được. Cho nên ở đây quý thầy, giờ quý thầy phải giữ hạnh thanh tịnh trong hạnh độc cư. Để làm gì, để cho lỗi nhỏ lỗi lớn chúng ta không còn tiếp duyên ra ngoài. Vì tiếp duyên ra ngoài thì sẽ còn các lỗi nhỏ, lỗi lớn mà khó có thể giúp cho quý thầy đạt được con đường của đạo Phật.
Đó là những lời Thầy nhắc nhở, quý thầy cảnh giác từng phút từng giây trong khi còn Thầy nhắc nhở. Nếu mà Thầy không nhắc nhở thì còn ai nhắc nhở cho quý thầy nữa. Mọi người người ta đang sống vui theo cái dục lạc thế gian thì người ta thích nói chuyện, người ta thích bàn bạc cái này, thích làm cái kia. Còn mình, ở đây tu hành thanh tịnh thì không thích làm gì hết, chỉ biết tu mà thôi, chỉ thích tu mà thôi. Suốt ngày tập tỉnh thức để cho chúng ta có tỉnh thức để chúng ta thấy những cái lỗi nhỏ mà chúng ta sợ hãi.
Do cái chỗ này mà Thầy xét qua cái sự tu tập của quý thầy là cái Chánh niệm tỉnh thức của quý thầy quá kém. Quý thầy cứ nghĩ rằng mình đi một vòng hai vòng xung quanh cái Tu viện mình trên cái lộ hành thiền mà không thấy có niệm vọng tưởng nào, luôn luôn liên tục biết bước chân mình đi kinh hành, hoặc hành động làm hằng ngày quý thầy tưởng nó là tỉnh thức rồi. Chưa đâu, khi nào quý thầy tỉnh thức đến độ quý thầy không nhắc nó mà quý thầy ngồi với một tâm thanh thản, nó không có một niệm gì ở trong đó hết mà suốt ngày này qua ngày khác thì sức tỉnh thức của quý thầy... lúc bây giờ quý thầy mới ở trong Sơ thiền. Nếu quý thầy chưa được như vậy thì quý thầy phải dùng độc cư để mà cách ly, để tạo cho mình có những cái sức tỉnh thức trong cái định, Chánh niệm tỉnh giác định. Chứ quý thầy nói chuyện, quý thầy lại làm mất cái sức tỉnh thức của mình rồi. Quý thầy đã tập trung nhau mà nói chuyện thì quá là tai hại cho quý thầy. Tại sao vậy? Tại vì quý thầy nghĩ rằng ở Tu viện chúng ta phải tạo cho quý thầy có những cái nơi để mà sinh hoạt riêng như phòng vệ sinh hoặc là tắm rửa, hoặc là rửa bát rửa chén riêng. Tại sao vậy? Tại vì muốn cho quý thầy sống độc cư, sống trọn vẹn trong sự tu tập của quý thầy để quý thầy cách ly những thói quen của mình còn đang mang nặng trong tâm tư của mình. Do vì vậy mà quý thầy phải cảnh giác rất nhiều. Khi ăn cơm xong thì ai mang bát về sân, về thất của mình rửa. Tự tại, ung dung, cô độc một cuộc đời tu hành, sống biết một mình mình mà thôi, thầm lặng trong cuộc sống một mình, an vui trong cuộc sống một mình. Chừng nào cái tâm của quý vị mà quay được vào trong mà sống thầm lặng thì lúc bây giờ quý vị mới hưởng được cái Chánh niệm tỉnh thức, sức tỉnh thức của quý vị rất cao rồi. Còn bây giờ quý vị còn thấy vui ra ngoài, còn thấy thích cái điều này, còn suy luận cái điều kia để mà thưa hỏi Thầy điều này thế kia thì chắc chắn là quý thầy chưa tỉnh thức đâu. Người tỉnh thức người ta gặp khó khăn người ta mới thưa hỏi, không bao giờ người ta đem cái chuyện tào lao mà người ta thưa hỏi. Còn hầu như quý thầy có nhiều chuyện quý thầy thưa hỏi tào lao. Còn ngoài ra như Chánh Đức là vì trách nhiệm của nó phải thu những lời của Thầy nên phải trực tiếp đến hỏi cái này cái kia. Đó là cái vấn đề công cụ, cái việc làm. Vả lại thì nó cũng chưa đủ cái duyên, vì gia duyên còn rất nhiều nên chỉ làm công việc Phật sự để giúp cho cái giáo án thành tựu mà thôi. Còn quý thầy đừng thấy nó như vậy mà mượn cớ đó. Quý thầy đến đây là quý thầy chuyên tu, không có nhiệm vụ gì hết, còn nó có nhiệm vụ khác, nó phải làm cho trọn. Ví dụ như quý thầy nhờ sang băng thì nó giúp cho quý thầy có những lời dạy của Thầy, cho nên nó phải bận rộn, nó không tu như quý thầy được. Còn quý thầy tới hỏi rồi thôi, đó là biết tu. Quý thầy phải cảnh giác từng chút từng chút như vậy, mình mới cách ly được những tạp khí, cái thói quen của mình. Từng đã sống ở trong cuộc đời nhiều năm chứ không phải một hai năm đâu. Không phải nhiều năm mà còn nhiều kiếp.
Đến đây Thầy nhắc nhở quý thầy như vậy và chúng ta cũng không có thời giờ nhiều để chúng ta tiếp tục bài giảng để thu ngắn thời gian. Thầy sẽ tranh thủ rút ngắn thời gian để cho nó còn một tháng mấy nữa cho hết cái giáo án này, còn dài lắm.
Để tiếp tục buổi học hôm nay, thầy xin nhắc lại mục đích tu hành của đạo Phật từ lâu Thầy đã giảng dạy.
Này quý thầy, mục đích tu hành của đạo Phật không phải làm Phật, Tổ, Bồ tát, Alahán, không phải làm Viện trưởng, Viện chủ, Tăng thống, Phó tăng thống hoặc bất cứ một hàng giáo phẩm nào. Cũng không phải vì lợi ích cho ai, cũng không phải vì lợi dưỡng, không phải vì lợi ích thành tựu Giới đức, mà cũng không phải lợi ích thành tựu Thiền định, mà cũng không phải thành tựu tri kiến tri kiến giải thoát, mà cũng không phải thành tựu lợi ích Tam minh, mà cũng không phải vì sanh tử luân hồi thoát kiếp đau khổ này. Này quý thầy, mà chính tâm giải thoát bất động trước các ác pháp chính là mục đích phạm hạnh của đạo Phật, là mục đích cuối cùng của phạm hạnh.
Thì hôm nay Thầy xác định tất cả những điều mà chúng ta tu tập để chúng ta đạt được tâm bất động giải thoát của chúng ta trước các pháp, trước thọ. Đó là phạm hạnh của đạo Phật. Chứ không phải phạm hạnh là cái đạo Phật giữ gìn giới luật, đạt được cái giới luật, đắc được cái giới luật là phạm hạnh, không phải. Phạm hạnh của đạo Phật tức là cái mục đích của nó để đạt được cái tâm giải thoát bất động trước các pháp, trước các thọ của quý vị, đó là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh. Quý vị nhớ điều này để chúng ta xác định được cái mục đích của chúng ta đến.
Nhiều thầy cứ nghĩ rằng chúng ta phải tu thiền định, nhập Bốn thiền, thực hiện Tam minh đó là cái mãn nguyện của mình rồi, không phải đâu. Cái mục tiêu cuối cùng chúng ta phải thấy tâm bất động của chúng ta. Hiểu được như vậy chúng ta biết rằng con đường từ Tứ thiền để làm chủ sống chết cho đến chấm dứt luân hồi sanh tử này thì nó chỉ là quãng đường chúng ta đi để thực hiện cái tâm giải thoát bất động, chứ không phải nó là mục đích để chúng ta đạt nó. Do đó chúng ta không phải lấy cái thiền định làm mục đích, cũng không phải lấy tri kiến giải thoát mà làm mục đích, mà chỉ lấy cái tâm giải thoát bất động của chúng ta. Mà chỉ lấy tâm giải thoát bất động của chúng ta đó là cái mục đích chính của phạm hạnh của đạo Phật, là mục tiêu cuối cùng của đạo Phật. Chứ không phải chúng ta tu để thấy một cảnh giới nào đó, hoặc có Phật tánh, có cái gì đó để mà chúng ta thường lạc ngã tịnh ở trong đó mãi mãi. Không có, mục đích đó không có. Mục đích có tức là còn, còn có kiến chấp, còn bị cái thân kiến - đó là cái sai.
Bài học vừa rồi Thầy nhắc lại đó thì trong chánh pháp thiện nó diệt trừ tà pháp ác.
Tứ chánh cần có pháp tu riêng, cái này chắc có lẽ đã học rồi nhưng Thầy nhắc lại. Tứ chánh cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ vô lượng. Nghĩa là pháp Tứ chánh cần nó có sự tu riêng của nó. Cách thức nó trau dồi cái tâm nó, trau dồi các thiện pháp riêng. Mà trau dứt đoạn các pháp ác riêng. Chứ nó không phải như Tứ vô lượng tâm.
Tứ chánh cần lấy mười điều ác và mười điều thiện mà tu tập theo tùy pháp thập thiện và tùy pháp thập ác. Rồi dùng pháp hướng như truyền lệnh để cho tâm mình không sanh ác pháp và dứt bỏ ác pháp, sanh khởi pháp lành, tăng trưởng pháp lành. Người tu sĩ phải nhận rõ theo pháp mà trạch ra thành câu hướng tâm Như lý tác ý để đoạn dứt tâm sanh khởi ác pháp.
Thì quý thầy nhớ trong vấn đề tu tập về cái pháp này thì chúng ta phải theo cái pháp tùy và pháp hướng mà áp dụng vào cái Tứ chánh cần này thì chúng ta có cái pháp đoạn dứt và cái pháp trau dồi để cho các thiện pháp sanh khởi. Trước khi đến phần thực hành thì bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ của Phật để nhớ mà tu tập. Đây là bài kệ, quý thầy nhớ kĩ bài kệ này:
Mười pháp cần dứt bỏ
Mười pháp cần tăng trưởng
Siêng tu tập như thế
Sống yên vui hạnh phúc
Được gọi bậc hiền nhân
Nghĩa là chúng ta biết mà dứt bỏ mười cái pháp ác và tăng trưởng mười các pháp lành bằng cách theo cái pháp hướng và cái pháp tùy mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ được gọi là bậc hiền nhân. Như vậy chỉ cần tu Tứ chánh cần là chúng ta đã được giải thoát, đã được là bậc hiền chứ không xa lạ nữa. Không cần tu nhiều, chỉ cần tu bao nhiêu đó cũng là thấy an vui hạnh phúc của đời sống này rồi. Vậy thì qua pháp hành như thế nào, bây giờ quý vị phải trạch pháp câu này.
Câu này câu thứ nhất, đây cái câu mà Pháp ra đây, tức là cái câu ta chọn làm pháp hướng:
Giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh là pháp ác, chúng ta phải đoạn dứt, đoạn trừ. Phải đoạn trừ tận gốc cái tâm khả hỷ khả ái này.
Tức là cái tâm thích thú mà giết hại chúng sanh, cái tâm thích thú mà ăn thịt chúng sanh đó. Thì câu này có nghĩa là chúng ta phải đoạn trừ, đoạn dứt nó, không được thích thú ăn thịt chúng sanh, giết hại chúng sanh. Hằng ngày chúng ta đều nương vào câu này mà tu tập nhắc cái tâm để chúng ta dứt bỏ không còn thích ăn thịt chúng sanh, mà không còn thích giết hại chúng sanh. Có thích giết hại chúng sanh chúng ta mới giết được chứ không phải là miễn cưỡng mà giết đâu. Cho nên người ta cầm con gà, cắt cổ con gà. Một cách an nhiên mà người ta lấy con dao người ta cắt một cách rất tự nhiên. Một con vật mà la hét, con cá giẫy dụa mà họ vẫn thản nhiên đập thêm mấy cái nữa. Họ đập trong sự sung sướng chứ không phải là trong sự không sung sướng nên đó Phật gọi là khả ái, khả hỷ đó. Hành động rất là đau đớn thế mà họ rất sung sướng, cho nên chúng ta dùng pháp hướng để nhắc cái tâm của mình để đoạn dứt. Đó là cái câu pháp hướng của mình để đoạn dứt cái tâm ác.
Câu thứ hai: “Chúng sanh có mạng sống như ta nên cũng sợ đau sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta và không được…”. Ở đây đến chỗ “như con ta” thì đó là cái câu để mà trau dồi cái thiện pháp. Quý thầy nhớ một cái câu thì vứt bỏ, một cái câu thì trau dồi nó tăng trưởng thiện pháp. Hai cái câu song song, chúng ta trạch pháp hai cái câu song song trong một cái điều ác để cho thực hiện được điều lành.
Bởi vì không giết hại chúng sanh đó là điều thiện, mà thương yêu chúng sanh chúng ta mới làm điều thiện được; mà không yêu chúng sanh thì chúng ta không làm điều thiện được. Do đó chúng ta trau dồi cái tâm chúng ta thương yêu tức là trau dồi tăng trưởng thiện pháp. Chứ không phải thiện pháp chưa sanh rồi chúng ta cho nó sanh hoặc chúng ta cho nó tăng trưởng. Nói như vậy là cái danh từ suông, nên ở đây chúng ta phải nhắc cái tâm của mình như thầy nói câu thứ hai:
Chúng sanh có mạng sống như ta nên cũng sợ đau, sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta vậy.
 Đó là câu đó để chúng ta nhắc nhở trau dồi cái tình thương yêu của chúng ta. Cái sự chết và cái sự đau khổ thân ta ta cũng biết sợ và chúng sanh cũng như vậy, để chúng ta giao cảm được nỗi khổ đau đó chung nhau. Như vậy để chúng ta không nỡ giết chúng sanh, ta cũng không nỡ ăn thịt chúng sanh. Đó là cái câu thứ hai.
Câu trước là câu dứt bỏ,câu trước là dùng mệnh lệnh. Câu sau là trau dồi thân của mình, không có dùng mệnh lệnh. Các thầy thấy chỗ nào mà chúng ta cần nhấn mạnh thì cái chỗ đó là dứt, bắt buộc phải dứt. Còn chỗ nào chúng ta chưa dùng cái hướng lệnh thì chúng ta xoa dịu, nhắc nhở êm ái để làm cho tâm chúng ta. Cũng như chúng ta muốn dụ dỗ một con vật để mình rèn luyện nó, như con ngựa, con bò, con trâu mình muốn nó kéo cày mình phải dụ dỗ nó chứ mình la hét đánh đập nó thì chắc chắn mình gắt óc mình cày không được đâu. Cho nên bằng cách là mình cho cỏ cho này kia nó ăn. Các thầy thấy nhà mà họ xiếc cọp, voi hay một con vật gì họ cũng cho nó ăn rồi lần lượt dụ dỗ nó rồi họ dạy nó múa, nó làm gì cũng được hết.
Thì tâm của chúng ta cũng vậy, vốn nó tích lũy những cái ác. Cho nên bây giờ chúng ta dụ dỗ để cho nó nhẹ nhàng, nó nghe được rồi từ đó nó sửa lần sửa lần nó thấm nhuần được lòng thương yêu chứ không được nạt nộ nó. Cho nên câu thứ nhất là nạt nộ, bắt buộc, ra lệnh. Câu thứ hai thì xoa dịu, êm ái, nhẹ nhàng làm cho tâm chúng ta được nhẹ lại để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái lòng từ bi của chúng ta.
Đó thì những câu như vậy quý thầy phải hiểu được lúc nào thì dùng nó. Khi mà ra lệnh rồi thì bây giờ phải xoa dịu nó, chứ không quý thầy cứ ra lệnh không thì chừng đó nó sẽ như thế nào. Nó cứng đầu, nó chống lại, nó không có chịu phục tùng đâu. Cho nên cũng là vừa vứt bỏ, và cũng vừa xoa dịu an ủi nó để cho nó thấu đạt được lòng thương yêu của nó. Câu thứ nhất là dùng để đoạn trừ dứt bỏ pháp ác, câu thứ hai dùng để trau dồi tâm ngăn ngừa pháp ác, tức là phóng khởi pháp thiện. Khi tâm chưa phóng khởi tưởng điều ác thì ta phải hằng ngày trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót. Nghĩa là cái tâm của mình nó chưa phát ra những cái điều ác, nó đang sống yên lành thì chúng ta phải tu tập. Nhưng mà khi mà nó có những điều ác, nó có những hành động ác rồi thì chúng ta phải truyền lệnh ngăn dứt nó liền. Đó là chúng ta dùng pháp dứt để dứt để ngăn dứt mà có sự kiện xảy ra. Cho nên phải biết áp dụng, Thầy nói phải biết áp dụng pháp hướng.
Như khi bây giờ mình có một sự việc gì đó, thấy con rắn mình đập, mình đã giết một con rắn rồi đó. Thì lúc bấy giờ cái sự giết đó mình phải dùng pháp hướng ra lệnh: từ nay về sau phải chấm dứt. Đó là dùng pháp hướng đúng, đúng chỗ, đúng thời điểm. Còn bây giờ mình chưa có giết gì hết mình bảo nó: “đừng giết, đừng giết, dứt đi” thì cái đó là cái sai, truyền lệnh sai. Bây giờ mình chưa có làm gì đau khổ chúng sanh hết thì mình dùng pháp thương yêu chúng sanh mình nhắc nhở, mình trau dồi lòng thương của mình để cho mai mốt nó gặp con vật dữ nó không có giết. Đó là chúng ta phải áp dụng đúng. Chứ không lúc nào cũng ra lệnh, lúc nào chúng ta cũng hét hò trong tâm của chúng ta. Thì cái đó là chúng ta làm cho nó rối loạn, không biết cái nào mà làm hết. Nó có làm ác đâu mà răn nó giữ vậy. Các thầy phải hiểu. Cho nên sự tu tập khó là ở chỗ chúng ta biết áp dụng. Mà nếu không khéo áp dụng thì nó không hiệu quả, không kết quả cho quý thầy. Thì nói sao mà pháp không có vi diệu. Nó không có vi diệu là do chính chỗ áp dụng sai.
Cho nên gần Thầy, các thầy mà sai thì có Thầy sửa, Thầy biết. Còn không gần Thầy là một điều rất là khó, vì áp dụng pháp hướng và pháp tùy này mà không đúng cách thì nó trở thành sai mất đi, nó không đơn giản được.
Khi tâm chưa phóng khởi tưởng điều ác thì ta phải hằng trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót chúng sanh để triển khai lòng từ bi của ta thì mới mong nó không sanh khởi ác pháp. Pháp hướng để trau dồi lòng thương xót ví như sợi dây mũi buộc con trâu, nhờ nó mà nó mà tâm không khởi ác pháp. Nghĩa là cái pháp hướng là như chúng ta cột cái sợi dây nó đó, chúng ta muốn lôi ở đâu thì nó cũng theo hết, còn pháp dứt thì nó khác. Pháp dứt khi mà nó đã thuần thục rồi thì chúng ta dứt. Còn bây giờ nó chưa thuần thục, nhưng khi nó làm điều ác là chúng ta phải dứt, phải la hét nó. Như bây giờ con chó mình nuôi nó chưa thuần thục mà nó hay đi bắt gà người ta, thì bắt đầu mình la hét nó, mình chặn nó trước đi, sau đó mình tìm cách mình dụ dỗ nó để cho nó thuần hóa trong thiện pháp, nó không có bắt gà người ta nữa, thì như vậy đó là mình biết nuôi chó, mình biết dạy chó.
Nó là một phương pháp ngừa bệnh. Cái pháp mà chúng ta trau dồi cái tâm mình như vậy, đó là trau dồi cái tâm từ bi thương yêu chúng sanh như vậy, đó là cái pháp ngừa bệnh. Còn cái pháp dứt bỏ là cái pháp hướng để đoạn dứt tận gốc bằng sức lực tinh thần, làm cho nó không còn ác pháp trong tâm ta nữa.
Đó thì phải song hành 2 cái, bởi vì trong Tứ chánh cần thì quý thấy đã thấy đức Phật dạy: các pháp ác chưa sanh - không cho sanh, đã sanh thì phải đoạn dứt, mà các pháp thiện chưa sanh - phải khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Rõ ràng bốn chánh cần này liên tục chúng ta phải có sự song hành, chứ không thể nào mà không có sự song hành được. Chớ không phải làm cho dứt các pháp ác rồi mới tăng trưởng pháp lành, thì đó là quý thầy nghĩ sai. Vừa là dứt pháp ác, thì phải vừa là phải thể hiện sanh các pháp thiện liền tức khắc. Bởi vì không giết hại chúng sanh thì tức là thiện rồi, thì ngay đó đã khởi thiện rồi, cho nên từ đó chúng ta càng trau dồi thiện, tức là làm cho nó tăng trưởng lên, tức là không làm ác nữa.
2. Trộm cắp, cướp giật, lấy của không cho là một điều cực ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly, xa lánh vĩnh viễn. Cái câu này là cũng là cái câu để dứt trừ đó, nghĩa là khi nào nghe nói dứt trừ, đoạn bỏ, viễn ly, xa lánh vĩnh viễn thì đó là câu hướng để mà tu tập dứt trừ, đoạn dứt cái tâm ác của chúng ta. Câu này chưa được đầy đủ, quý thầy nên thêm câu dưới đây:
Trộm cắp, cướp giật lấy của không cho dưới mọi hình thức nào cũng đều là một tội lỗi cực ác, phải dứt trừ, từ giã, xa lìa, từ bỏ, viễn ly, đoạn tận.
Bởi vì chúng ta nói câu trên nó chưa được đầy đủ nhưng nó ngắn gọn hơn để chúng ta ra lệnh nhanh chóng khi chúng ta đã thông suốt. Câu dưới mặc dù là trộm cắp lấy của không cho nó nhiều hình thức lắm: ăn lo hối lộ hoặc thế này thế khác, biển thủ. Đó là những tội trộm cắp chứ không phải là không trộm cắp. Nó có nhiều hình thức lắm, lường gạt người ta lấy cũng là nằm trong tội trộm cắp cướp giật. Cho nên ở câu thứ hai nó trọn vẹn đầy đủ để nhắc nhở chúng ta không có làm những điều như vậy. Điều đó là điều ác, điều không có tốt cho nên phải viễn ly đoạn tận nó đi, từ giã, từ bỏ đi, dứt trừ đi. Đó là những câu đoạn dứt nó. Thế cho nên nghe nói mình dứt ác, các pháp ác đã sanh thì dứt liền. Thật sự ra trong khi đó mình không trau dồi mình thì khi cơn sân thì quý thầy có dứt được nó không. Đâu có dễ gì dứt được, nó làm cho chúng ta điên khùng trong tâm rồi còn đâu mà biết, đâu còn sáng suốt nữa mà dứt. Cho nên bây giờ chúng ta chuẩn bị cho mình những tư tưởng, những sự dứt bỏ bằng chúng ta thấu được những cái lý của pháp ác. Vì vậy mà chúng ta thấu được những cái lý của pháp ác đó. Nhờ pháp hướng nó nhắc đi nhắc lại, nó làm cho chúng ta thấu được cái lý của pháp ác và đồng thời chúng ta còn tu tập pháp quán để suy xét những tâm niệm giận của chúng sanh như thế nào nó bừng bốc như lửa, như thế nào nó làm cho con người giận, sân đó nó phải như thế nào. Vì vậy tất cả những cái tu học chúng ta phải có quán nè, rồi có hướng nè, rồi có tùy nè nó mới đúng. Cho nên cái định Vô lậu nó kèm theo cái định Chánh niệm tỉnh thức. Vì vậy luôn luôn lúc nào nó cũng dùng pháp hướng, pháp tùy, nó không có xa lìa các hành động tu tập này.
Cho nên khi mà chúng ta chưa rõ cái pháp ác như thế nào thì chúng ta đặt cái niệm pháp ác đó. Như bây giờ chúng ta đặt cái niệm ăn trộm, ăn cắp đó trước mặt rồi chúng ta dùng tri kiến phóng ra rồi chúng ta quan sát, chúng ta theo dõi chúng ta xem xét. Trong khi xem xét chúng ta mới thật hiểu đó là cái pháp ác làm cho người ta đau khổ, làm cho người ta mất của, làm cho người ta tự tử, làm cho người ta chết dở sống dở ở trong cuộc đời khi người ta bị mất của. Khi mà quán sát được như vậy thì chúng ta thấy nó là cực ác. Mà cực ác thì chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy mà chúng ta mạnh mẽ mà đoạn dứt nó, không làm cái điều đó nữa.
Bởi vì cái Định vô lậu là để chúng ta nhìn thấu suốt các pháp mà quán. Định vô lậu là định dùng quán chớ không phải là dùng hướng. Thì như vậy chúng ta cần phải biết lúc nào dùng pháp hướng, khi nào dùng pháp tùy, khi nào dùng pháp quán thì như vậy mới có hiệu quả trên bước đường tu tập. Chớ không phải muốn tu như thế nào là cái tâm tham sân si của chúng ta nó hết được liền đâu, không phải dễ đâu. Hoặc là các pháp ác mà chúng ta dứt được liền đâu, không phải nói đơn giản được mà cả một công trình tu tập.
Đây là những câu pháp hướng tâm, nhắc tâm Như lý tác ý dẫn tâm vào đạo Giải thoát ác pháp, quý vị phải biết trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp thì phải tâm chuyên nhất cảnh.
Nghĩa là như thế nào?
Thầy xin nhắc lại để quý thầy nhớ chớ không được đụng đâu ngồi đó. Nghĩa là mình muốn tâm chuyên mà nhất cảnh đó thì không được đụng đâu ngồi đó mà mình dùng Pháp Tùy, Pháp Hướng, pháp này kia lộn xộn. Muốn tu một cái pháp nào đó phải nghiêm chỉnh, phải tìm một cái nơi ngồi cho nghiêm chỉnh. Bởi vì Pháp không phải là đồ chơi, không phải là đụng đâu mình cũng có mà thể làm đó được mà đây là những pháp để cứu mình ra khỏi những pháp ác, cứu mình khỏi những đau khổ cuộc đời cho nên phải xem nó là những vật quý báu. Phải nghiêm chỉnh trước khi dùng một câu nào hướng, sự quán xét nào cũng phải nghiêm chỉnh mà quán xét thì nó mới có kết quả. Còn nếu mà chúng ta đụng đâu ngồi đó thì ngồi chơi chút chúng ta cũng ngồi đó mà quán xét cái này, quán xét cái kia, làm như là sanh vọng tưởng nghĩ ngợi chuyện làm ăn vậy. Thì cái chuyện đó không phải là cái người tu. Người tu là trước khi chúng ta khởi muốn một cái gì đó chúng ta chủ động điều khiển, ngồi xếp bằng lưng ngay thẳng đàng hoàng nơi cảnh yên tịnh chớ không được mà ngồi chỗ giữa chợ, ngồi chỗ đó suy nghĩ như tìm công ăn hoặc là tìm cách mưu mô kế này kế kia để lường gạt người để lấy của. thì điều đó không được.
Ở đây là chỗ giải quyết cái tâm giải thoát, làm cho chúng ta xa lìa các pháp ác thì phải tìm nơi yên tĩnh tịch mịch, rồi ngồi kiết già lưng thẳng, hít thở 10 hơi bình thường. Nghĩa là mình hít thở hơi bình thường, không được thở chậm mà cũng không được thở nhanh. Mà thở bình thường cho tâm gom lại, cho tâm gom lại theo hơi thở bình thường và tâm chuyên nhất trong hơi thở.
Bây giờ tâm nó đã bám chặt trong hơi thở chuyên nhất rồi, bởi vì tâm chuyên. Thì quý vị đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp. Trong khi tu tập quý vị không nên để mất niệm (thất niệm). Cái niệm đặt đó thì quý vị không được quên, một lát quý vị nhớ hơi thở, một lát quý vị nhớ chuyện khác, một lát quý vị không nhớ thì tức là quý vị bị thất niệm. Cho nên Phật dạy thất niệm là không đạt được kết quả gì hết. Vì mất niệm tức là thất niệm mà thất niệm thì tâm mê, dao động thì sự tu không có kết quả.
Cho nên khi đặt cái niệm là phải tập trung trên cái niệm đó. Hồi nãy là mình tập trung trong hơi thở để mình gom cái tâm của mình lại. Khi mình đặt được cái niệm trước mặt rồi, thì cái niệm đó mình nhìn chăm chăm để mà quán xét cái niệm đó, suy tư cái niệm đó, tìm ra cái niệm đó để rồi chúng ta mới thấu suốt cái niệm đó. Có tu như vậy kết quả mới đến với quý vị vĩ đại, lậu hoặc của quý vị mới quét sạch. Còn quý vị tu mà không nghiêm chỉnh thì ngàn đời quý vị cũng chẳng đạt được cái đạo này đâu.
Câu này quý thầy dùng nó làm niệm, khi niệm hướng vừa dứt thì quý thầy tiếp một niệm nữa nhưng phải có một khoảng cách. Nghĩa là cái niệm đặt rồi quý vị quán xét rồi, nhất là vô lậu khi niệm được quán xét thông suốt rồi thì quý vị xả nghỉ không được tiếp tục cái niệm nữa. Nhưng về cái pháp hướng thì cái niệm này quý vị đặt cái niệm đó để quý vị trạch câu đó ra, quý vị hướng tâm, nhắc cái tâm mình rồi, câu này xong rồi thì cần có một khoảng thời gian xả nghỉ rồi quý vị mới đặt câu khác thay vào đó để quý vị trau dồi cái tâm của mình, lòng thương yêu của mình hay là dứt bỏ mạnh hơn nữa. Thì nó cũng phải có một khoảng cách chớ không phải câu này rồi đọc câu khác, đọc câu khác nữa. Quý vị liên tục như vậy thì một người huấn luyện voi, bò trâu mà làm vậy thì con voi, bò trâu nó cũng điên đầu, nó cũng không biết đâu mà làm nữa. Phải tập thuần thục cái này rồi để một chút cho cái tâm nó yên tịnh trở lại rồi mới đặt câu khác.
Đó, hôm nay Thầy dạy như vậy các thầy mới biết cách làm, biết cách tu chứ không khéo các thầy tu điên, tu khùng nữa. Bởi vậy không có kinh nghiệm tu thì làm sao hướng dẫn người ta tu hành được. Mà không hướng dẫn người ta tu được thì Phật pháp mai một, không còn ở trong thế gian này nữa.
 Thì quý thầy tiếp một niệm nữa nhưng phải có khoảng cách, một khoảng cách giữ tâm yên lặng theo hơi thở ra, hơi thở vào.
Quý vị nhớ ông Phật dạy rất kỹ chỗ này. Bởi vì người ta không nghiên cứu được cái giáo pháp của đức Phật. Khi muốn tu Định vô lậu, cũng như định Chánh niệm tỉnh thức, cũng như tất cả mọi thứ định để cho tâm gom lại, Phật nói định niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý là như thế nào?
Bây giờ quý vị đi kinh hành mà để tâm gom vô tập trung thì hơi thở là đối tượng trước mặt quý vị tập trung rất dễ. Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Nhắc như vậy, hướng tâm như vậy làm tâm của quý vị gom vô hơi thở. Bây giờ quý vị nói: Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Rồi quý vị bước đi, tâm quý vị tập trung vô bước đi đó liền, nó rời hơi thở nó tập trung vô đó. Đi một lát nữa rồi quý vị tác ý: hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Tức là quý vị gom lại thân quý vị.Vì hơi thở đó nằm trong thân quý vị, do quý vị gom vào thân nó.
Rồi quý vị nhắc: đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Thì ngay đó nó tập trung vô hành động thân của quý vị. Như vậy sức tỉnh thức của quý vị càng ngày càng rõ ra.
Bởi vì Thầy dạy quý vị có cái tụ điểm, các vị phải hiểu, mà có cái tụ điểm lúc nào tâm nó cũng gom nằm đó để nó quan sát tất cả các hành động chớ không phải nó nằm dưới chân của quý vị. Mà nó nằm dưới chân của quý vị thì nó bị thất niệm, cho nên tỉnh giác của quý vị chỉ tỉnh giác mơ hồ chớ chưa phải là tỉnh giác. Vì vậy nhìn qua trong một tháng nay, cái sự sống của quý vị thiếu tỉnh giác cho nên phá Độc cư. Đó quý vị thấy rõ. Cho nên cái sự tu của quý vị có kết quả hay không, là một người thiện hữu tri thức người ta có kinh nghiệm, người ta biết được quý vị tu đúng, tu sai.
Đó lời đức Phật dạy vậy cho nên khi chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định chúng ta phải dùng hơi thở mà đi tới, không bao giờ lìa xa hơi thở, vì hơi thở là tụ điểm của chúng ta.
Đó là những cái Thầy đã hiểu biết được Phật và hiểu biết được qua kinh nghiệm tu hành của mình đã làm được những gì, đã thành tựu được những gì.
Khoảng cách giữa tâm im lặng giữa hơi thở ra, hơi thở vào quý vị nhớ phải nhắc tâm không để cho tạp niệm xen vào. Nhờ có nương bám chặt hơi thở thì lúc bấy giờ tạp niệm mới không xen. Do đó hơi thở ra tôi biết hơi thở ra, hơi thở vào tôi biết hơi thở vào.
Khoảng độ 10 hơi thở thì quý vị lại nhắc câu này để trau dồi lòng thương yêu của quý vị, để ngăn ngừa lòng tham lam của quý vị. Quý vị trạch câu này ra để dùng pháp hướng nhắc tâm, như lý tác ý:
Của cải tài sản của ta ta mất ta còn buồn khổ, có thể ta đi đến chết quyên sinh tự tử, lẽ nào ta lấy của người bằng mọi hình thức cho được.
Đó là cái câu này để cho chúng ta tu tập, trau dồi cái tâm chúng ta biết thương cái người mất của, làm cho chúng ta không còn bao giờ nỡ tâm lấy của người nữa. Đó là trau dồi cái tâm của mình, biết nỗi khổ của người khác, là cái người mất của cũng như mình mất của.
Đó là như vậy, mà sự thực hành thì phải như lời Thầy dạy vừa nãy thì quý vị mới có kết quả. Cái câu trước là dứt đoạn, câu này là trau dồi tâm biết thương người, vì thương người không lấy của người. Do vì vậy mà chúng ta phải có khoảng cách câu trên với câu dưới 10 hơi thở. Và 10 hơi thở đó gom tâm làm sức tỉnh thức, làm tụ điểm để chúng ta hướng câu kế trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta đối với muôn người. Vì vậy mà chúng ta không lấy của không cho. Các thầy thấy Thầy dạy có cách thức, có hẳn hòi, có pháp hành rõ ràng, nhưng quý thầy tu sai là quý thầy chịu trách nhiệm chứ thầy không chịu trách nhiệm ở sự tu sai đó. Thầy dạy quý thầy làm đúng thì quý thầy có kết quả mà không đúng thì quý thầy phải chịu lấy.
Câu 3: Tà dâm là một thứ sắc dục không chơn chánh, làm tan cửa nát nhà người và cả mình. Làm đau khổ gia đình mình và gia đình người. Ta phải chấm dứt thói sắc dục bất chánh này, ta ly khai từ bỏ xa lánh, viễn ly vĩnh viễn.
Đó là câu đoạn dứt tâm ưa sắc dục, ưa đi ve vợ người khác, ưa đi làm những chuyện đồi bại phá gia cang người khác. Thì đó là hành động tội ác cực lớn chứ không phải là nhỏ đâu. Làm tan nhà nát cửa người cho nên chúng ta lấy câu này mà nhắc tâm hằng ngày để trau dồi cái tâm mình dứt đoạn không có được cho nó phạm vào tội ác này.
Đây là một câu trạch pháp để dùng hướng tâm đoạn dứt pháp ác, trừ tà dâm thói xấu. Quý vị nào có căn bệnh này thì phải ngày đêm chuyên cần tu tập pháp hướng. Bởi vì có nhiều người mang tật này dữ lắm, còn có nhiều người người ta không có, còn có nhiều người mang tật này rất nặng. Thấy vợ con người ta là thích tới. Đó là những hạng người chuyên môn tà dâm. Cái tâm rất là tệ bạc.
Tà dâm là một tánh rất xấu làm cho con người mất thể diện, thọ tiếng xấu bạc tình bạc nghĩa, muôn đời ta phải dứt bỏ như dứt bỏ một vật thối tha bẩn thỉu nhất.
Đó là câu dứt nữa đó, câu pháp hướng này là câu dứt nữa chớ không phải là câu trau dồi. Cho nên ở đây chúng ta phải nhận ra những câu pháp hướng, trạch pháp ra câu nào cho đúng nghĩa của nó. Và đồng thời trong một thời gian mà tu 2 câu này thì chúng ta cũng phải có một thời gian cách nó ra để tập trung gom tâm lại rồi dùng lực tinh thần của chúng ta mà ra lệnh để cho nó dứt bỏ thì sau này tâm chúng ta nó mạnh dạn, nó xa lìa các pháp ác, nó không còn làm cái đó nữa. Bởi vì thói quen chúng ta mà tà dâm như vậy thì nó có thói quen thích thú của nó, nó có khả hỷ khả lạc nó làm cho chúng ta thích cho nên nó sai khiến chúng ta vì vậy mà chúng ta không dằn được nó, mà không dằn được nó thì chúng ta phạm phải tội ác rất lớn là phá gia cang gia đình của kẻ khác. Cho nên hàng ngày chúng ta tập luyện như vậy, 2 câu, câu trước và câu sau này chúng ta thường phải nhắc nhở khi chúng ta có tật xấu đó.
Tiếp tục quý thầy dùng câu thứ 2 này làm pháp hướng để răn nhắc tâm ḿnh thường xuyên xa lìa tánh xấu ác đó:
Đời người thường ao ước được hạnh phúc cuộc sống lứa đôi, bên nhau trung thành mãi mãi. Chẳng bạc tình bạc nghĩa vậy ta hãy biết thương người, mong cầu đem lại hạnh phúc cho người. Thì tánh tà dâm là một tánh xấu đem lại ta khổ người khổ, gia đình tan nát. Biết thương mình thương người ta hãy dứt trừ tánh xấu này.
Đây là câu pháp hướng gợi lòng thương yêu của người, của mình mà không làm hại gia đình mình, không làm hại gia đình người. Đó là câu pháp hướng trau dồi tâm chúng ta thương yêu mình, thương người đó để không làm cho gia đình tan nát. Đây là câu trạch pháp để hướng tâm nuôi lớn lòng thương yêu với sự an vui hạnh phúc của mọi người, nghĩa là của mình của người ở trong đó nữa, cho nên nhắc cái tâm của mình thường xuyên, dùng câu này nhắc. Khi mà dùng 2 câu trạch pháp trên để đoạn dứt tâm tà dâm thì chúng ta phải dùng câu dưới này để cho an ủi, chúng ta thấu suốt được lòng thương yêu chúng ta đối với sự làm tan nát đôi bên cả gia đình. Đó thì sự tu tập phải trau dồi, phải rèn luyện như vậy gọi là dứt ác mà tăng trưởng thiện.
Câu 4: Người có chánh hạnh (bây giờ về phần 4, tức là về phần ngôn ngữ rồi đó) ngôn ngữ không bao giờ nói chuyện không thật, luôn luôn nói những điều chơn thật không nói láo. Về cái ngôn ngữ, mà cái chánh hạnh ngôn ngữ thì không bao giờ người ta đặt láo nói chuyện không thật, nói lúc nào cũng luôn luôn chân thật.
Nói láo là một lời nói dối gạt người, làm cho người tin theo phải khổ sở, nó là một pháp ác.
Mà nói láo là một pháp ác bởi vì con người ta không chết mà nói chết, con người ta không té sông mà nói té sông. Đó là một điều kiện làm cho người ta khổ sở. Những điều mà nói như vậy điều đó là không đúng. Cho nên trong thời đức Phật ngài La Hầu La mới đến tu thì ông cũng có tật hay nói láo. Do đó có những người đến thăm Phật hỏi đức Phật có trong tịnh xá không? Thì đức Phật có trong đó ông nói không có, họ bỏ đi về. Còn khi nào mà đức Phật không có, ông nói có ở trong đó đó, có ở trong tịnh xá, họ vô tìm không thấy ông Phật đâu hết. Cho nên người ta mới nói với Phật là có chú sa di đó chú hay vọng ngữ quá, chú nói láo dữ lắm. Do đó mà Phật mới dạy cho La Hầu La bằng những đức hạnh như thế nào. Thì có dịp Thầy sẽ thuật lại những cái chuyện đức Phật giáo dục cho đứa con của mình, đứa con một của mình qua những pháp ác mà chú này đã phạm phải trong tuổi còn thơ ấu.
Bây giờ chúng ta trạch pháp ra về cái phần mà nói láo đây:
Nói láo là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly.
Đó là tác ý ngắn đó, ngay đó chúng ta nhấn liền: đó là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ từ bỏ viễn ly.
Câu 2: Nói láo là một tánh xấu ác, ác pháp, làm ta mất uy tín với mọi người. Vậy nay ta hãy từ bỏ, xa lánh pháp này.
Đó, khi mà người ta biết mình nói láo rồi thì sau này mình nói không ai tin mình hết. Cho nên câu thứ 2 nó lại dài hơn để chúng ta thấy rõ sự nói láo là nguy hại cho chính mình.
Câu 3: Ta là người tu tập tứ vô lượng tâm, tâm thương yêu rộng lớn đối với muôn loài, ta nỡ nào dối gạt chúng sanh. Ta phải từ bỏ, xa lánh nói láo để thực hiện lòng thương yêu rộng lớn.
Mình lấy cái lòng từ bi vô lượng của mình đó mà mình áp dụng để xoa dịu cái tâm của mình đừng có nói láo vì nói láo như vậy không đúng cách làm cho người khác khổ. Do đó mà chúng ta trau dồi lòng thương yêu của chúng ta.
Nói láo là không thương chúng sanh và không thương mình, ta phải chấm dứt, đoạn dứt tánh xấu ác này.
Đó là một câu để chúng ta dùng pháp hướng.
Câu 5: Thương người không được nói láo, vì nói láo là không thương người.
Đó là cái câu thứ 5.
Câu thứ 6: Nói láo là một tánh xấu cực ác, ta phải chấm dứt ngay.
Đó cái câu đó cũng là câu ngắn gọn để chúng ta ra lệnh chấm dứt nó đó. Quý thầy là đệ tử của Phật phải tu tập chánh hạnh ngôn ngữ, phải rèn luyện chánh hạnh ngôn ngữ dù bất cứ trong trường hợp nào. Dù chết nát thây các thầy cũng không được nói lời thiếu chân thật. Đó thì cái phần này khi mà chúng ta đã nhận mình là đệ tử của Phật, do đó chúng ta không được nói thiếu lời chân thật. Dù lúc bấy giờ người ta bắt buộc mình phải nói lời dối, mà họ giết mình thì mình thà chết không được nói dối, không được nói láo. Đó là người tu sĩ đạo Phật như vậy.
Cho nên xưa đức Phật có một thời tu tập ở trong núi, có một nhà vua đi săn nai, đuổi con nai, con nai chạy ngang qua chỗ đức Phật rồi chui dưới chỗ tảng đá chỗ đức Phật, mà nằm, mà trốn đó.
Nhà vua chạy đến hỏi ông có thấy con nai của tôi ở đây không thì ông Phật làm thinh.
Nếu mà nói con nai chạy luôn thì là nói vọng ngữ, mà nói con nai chui xuống cục đá của mình, là nói thật thì không vọng ngữ thì ông vua sẽ bắt con vật mà giết đi, thì mình mang cái tội chỉ cho người ta giết chúng sanh, cho nên mang cái tội sát sanh. Cho nên ông Phật ông ngồi tu ông không dám nói gì hết, ông làm thinh. Bởi vì 2 giới này, 2 pháp ác này nó kèm theo một trường hợp, cho nên ông Phật chỉ làm thinh mà chịu. Nhà vua xẻo tai, cắt 2 lỗ tai ông cũng chẳng nói, móc 2 con mắt cũng chẳng nói, chặt tay cũng chẳng nói. Cho nên cuối cùng thì ông thành tựu chỗ giữ gìn giới luật nghiêm túc. Thì các con thấy trong giới luật mà người tu hành người ta giữ có cái nói láo và sát sanh không mà người ta chịu chết đó. Đó thì sự tu tập của chúng ta là đệ tử của Phật hoàn toàn là chúng ta phải giống như Phật. Sau khi dạy Tứ bất hoại tịnh thì thân của Phật như thế nào, ý của Phật như thế nào thì chúng ta phải sống như vậy mới chính là Tứ bất hoại tịnh pháp. Bây giờ chưa tới Thầy chưa giảng dạy, chứ giảng dạy thì những câu chuyện này được nhắc đi nhắc lại cho quý thầy để rèn luyện mình sống đúng như Phật, tức là niệm Phật đó.
Hằng ngày phải rèn luyện, phải siêng năng theo pháp Tứ chánh cần mà tu tập. Nghĩa là phải siêng năng vì cái pháp này là pháp siêng năng, mà siêng năng thì mới dứt ác, mới tăng thiện được. Còn nếu không siêng năng chưa chắc gì chúng ta đã dứt ác được. Vì vốn cái tâm của chúng ta là cái tâm tích lũy, tâm tích trữ những pháp ác nhiều đời nhiều kiếp nên mới có thọ thân này, nếu mà nó đã tích thiện thì nó đâu có thọ thân này, nó phải thọ cái hóa thân. Nghĩa là nó sẽ biến hóa ra cái thân, chứ không phải nó còn cái thân mà sanh chỗ bẩn thỉu, thân mà sanh chỗ dục. Cho nên chúng ta ở đây là do chỗ thai sanh, vì cái tâm của chúng ta nó có những ác pháp cho nên nó mới sanh ở trong thai sanh. Còn những người mà thiện pháp, như Phật ví dụ, những người mà cõi trời thì họ là hóa sanh, họ không có thai sanh. Cho nên có người hỏi Thầy có hóa sanh hay không? Thật sự có hóa sanh. Bởi vì các thầy cứ nghĩ cái người mà tu tập như chúng ta mà khi thân định trên tâm, tâm định trên thân rồi, nhập được Tứ thiền rồi thì người ta ra lệnh thì cái thân này nó sẽ biến muôn ngàn cái thân, thì không phải là hóa thân sao. Ngồi đầy cái rừng này, ngồi đầy cái khu đất này, hàng trăm hàng vạn ông thầy như Thầy giống y mặt nào cũng giống y hết, mà bây giờ Thầy muốn cái thân này...tức là Dục như ý túc mà, muốn cái thân này lớn bằng cả nửa bầu trời này, nó tự nhiên sẽ lớn như vậy đó. Thì các thầy nghĩ có phải hóa không? Nếu không hóa làm sao làm được cái chuyện đó. Cái thân bây lớn đây mà hóa đứng nửa cái bầu trời này thì quý thầy nghĩ như thế nào? Cái chân nó thò xuống là kể như trái đất này nhẹp đi. Thì đó không phải là hóa sao? Vậy cho nên nó có thế giới hóa thân chứ đâu phải không có thế giới hóa thân. Cho nên Phật nói là cõi trời. Khi chúng ta hướng tâm về thiện thì chúng ta sẽ sanh vào hóa thân, mà chúng ta về dục thì chúng ta phải sanh về thai sanh. Đó thì các thầy phải thấy được 4 cái sanh của con người. Cho nên các thầy nghĩ rằng khi chúng ta hoàn toàn dứt dục, không còn tình dục thì chắc chắn con người trên thế gian này không có. Đâu không có, chúng ta hóa sanh mà, như bây giờ Thầy muốn có 100 người ngồi trong khu đất này, Thầy chỉ cần nhập cái định đúng nó thầy câu hữu thì ngay đó nó ngồi 100 người chứ đâu phải một người. Quý thầy ngạc nhiên, quý thầy chưa đến chỗ này quý thầy chưa thấy. Khi nào ở đây có chúng tới đó rồi thì quý thầy trực tiếp thấy, còn bây giờ đem ra biểu diễn coi như làm xiếc cho quý thầy coi thì cái chuyện đó là chuyện mê hoặc, chuyện làm cho người ta không đi vào cái chánh của Phật pháp.
Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp Tứ chánh cần mà quý thầy dứt ác.
Nghĩa là tùy theo, nương theo Tứ chánh cần đó. Nghĩa là cái pháp tùy, tùy là như thế nào? Bởi vì nương theo pháp đó mà dứt được các ác pháp, tăng trưởng các thiện pháp. Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp tứ chánh cần mà quý thầy dứt ác, làm thiện. Đó là con đường đạo đức nhơn quả chơn chánh của đạo Phật. Đó thì con đường đạo đức chơn chánh của đạo Phật thì nó chỉ có Tứ chánh cần là nó giúp cho quý thầy thực hiện được nhơn quả chân chánh của nó, nghĩa là đem lại những quả thiện, nhân thiện. Mà chính đức Phật đã xây dựng đạo pháp của mình, giáo lý của mình trên con đường của nhân quả, trên cái nền tảng của đạo đức nhân quả.
Quý thầy phải lấy những câu trên mà thầy đã trạch ra pháp để quý thầy dùng nó hướng tâm NHƯ LÝ TÁC Ý. Hằng ngày phải siêng năng tinh tấn đặt niệm trước mặt, đừng để thất niệm, chuyên cần tu tập, như vậy tâm quý vị thanh tịnh. Quý vị sẽ chỉ được các hành trong thân, nhập chánh định, dẫn tâm đến Tam minh, quý vị thành tựu đạo giải thoát.
Nghĩa là chỉ cần tu Tứ chánh cần, thực hiện được trí tuệ, thực hiện được các pháp thiện thì tâm quý vị nó sẽ thanh tịnh. Mà khi thanh tịnh đó thì quý vị mới chỉ được các hành ở trong thân của quý vị. Mà chỉ được các hành trong thân thì quý vị thân tâm mới nhập định được, mà nhập định được thì quý vị mới hướng tâm đến Tam minh, quý vị mới thành tựu được đạo giải thoát vô lậu.
Nó không đơn giản, mà chỉ bắt đầu vô từng pháp đã có những hiệu quả của nó, cho nên chúng ta càng đi sâu thì chúng ta thấy pháp này nó bổ túc cho pháp kia. Nhưng mục đích của nó là nhắm vào dứt ác mà tùng thiện, tăng trưởng thiện để thực hiện được cái tâm thanh tịnh không còn một chút ác pháp trong đó. Do vì vậy đó mà nó mới tịnh, mới chỉ được các hành, làm chủ được sự sống chết ở trong thân của chúng ta.
5. Quý thầy là những người tu sĩ đạo Phật, quý thầy phải giữ gìn chánh hạnh trong ngôn ngữ, quý thầy không được nói xấu ác, không được đặt điều ra nói xấu hoặc vu khống cho người.
Đó thì cái phần nói về ác xấu đó, nói về chánh hạnh của ngôn ngữ thì nó có 4 cái phần, những cái phần trước thì quý thầy đã học rồi, bây giờ tới cái phần mà mình nói xấu người khác. Mà cái người trau luyện giữ gìn chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói xấu ai, người ta làm xấu thì người ta xấu, không được đặt điều ra nói xấu người khác hoặc là vu khống người khác, người ta không làm việc đó mình nói người ta làm. Ví dụ người ta không ăn trộm mình nói người ta ăn trộm, người ta không lấy của mình mình nói người ta lấy của mình, thì điều đó là đặt ra mình vu khống, vu oan người ta. Thì cái đó người mà trau dồi chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói những điều đó. Đây là pháp ác thứ 5 quý thầy cần phải tu tập trau dồi tâm mình để đoạn dứt, từ bỏ, để được xa lánh tánh ác này. Có nhiều người họ lấy sự mà nói xấu người hoặc đặt điều ra nói xấu người họ thích lắm, họ làm cái đó họ thấy thích thú lắm, cho nên họ thường hay đem chuyện người này nói chuyện người kia, nói xấu người ta, thì cái tánh đó là cái xấu ác, ngôn ngữ đó không phải là chánh hạnh trong ngôn ngữ, mà đó là những ngôn ngữ tệ bại, những ngôn ngữ không có ra gì.
Đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác, làm cho người khác đau khổ, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly tật xấu ác này.
Đây là câu hướng đây, đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác làm cho người khác đau khổ ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly tật xấu ác pháp này.
Câu 2: Đặt điều ra nói xấu người là một pháp ác, là một tánh xấu tệ của ta, ta phải dứt trừ, ta phải từ bỏ như bệnh cùi.
Đó là câu thứ 2 của pháp hướng
Câu thứ 3: Nói lời vu khống oan ức khiến người ta tức tối sanh ra tự tử, quyên sinh hoặc oan ức tù tội tử hình đó là một pháp ác, một pháp cực ác, ta phải từ bỏ, dứt bỏ vĩnh viễn.
Đó là câu 3.
Câu 4: Ta là tu sĩ đạo từ bi, thương khắp chúng sinh nỡ nào đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết để cho người khổ sở như vậy, là ta làm mất từ bi nên ta phải dứt bỏ tật xấu ác này vĩnh viễn.
Đó là những điều kiện mà ta cần phải dùng pháp hướng này để trau dồi và để dứt bỏ tâm chúng ta trong những ngôn ngữ thiếu chánh hạnh.
Câu 6: Ta là người trau dồi lòng thương khắp chúng sanh nỡ nào ta đặt điều nói xấu người, nói xấu người là một điều cực ác như vậy, ta không còn là con người biết thương chúng sanh. Vậy từ đây ta phải bỏ tật xấu này.
Đó là một câu để chúng ta ngăn ngừa cái ngôn ngữ không được chánh hạnh.
Vu khống, nói oan ức cho người là một hành động tà ngôn hạnh, giết người bằng gươm miệng rất là ác độc.
Đó mình vu khống người ta, là mình giết người ta bằng cái lưỡi gươm miệng của mình, cho nên mình phải dứt bỏ.
Người tu sĩ đạo từ bi thương khắp chúng sanh ta phải dứt trừ vĩnh viễn tà hạnh ngôn ngữ này để thực hiện lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu.
Đó thì câu này là câu trau dồi tâm thương yêu của chúng ta. Ở đây quý thầy nhớ kỹ lấy những câu trạch pháp này làm pháp hướng như lý tác ý để thường xuyên dứt bỏ và trau dồi lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn, phải nghiêm chỉnh tu tập đừng để thất niệm, có như vậy quý thầy mới chứng được đạo quả bồ đề.
Thì đến phần này chúng ta dứt được 4 cái khẩu nghiệp mà nó không chánh hạnh, cho nên phải cố gắng mà trau dồi. Người ta tai họa mà xảy ra đều do cái miệng lưỡi của chúng ta mà ra. Cho nên hầu như quý thầy không thấy hạnh độc cư, vì hạnh độc cư nó giúp cho quý thầy ngăn chặn được 4 điều xấu ác của cái miệng chúng ta. Người làm thinh thì không bao giờ xảy ra 4 cái ác khẩu này, mà người hay nói chuyện thì luôn luôn xảy ra 4 ác khẩu này. Nghĩa là nói nặng nói nhẹ người, từ người này, từ người kia, thì đó là những ác khẩu chứ không phải những thiện khẩu. Vì thiện khẩu thì thương yêu nhau làm sao có từ giã nhau, làm sao có từ khước nhau, đó là những điều ác khẩu. Cho nên ở đây những người dùng ác khẩu thì chúng ta biết là những người nhiều chuyện, hay nói chuyện, mà người không dùng ác khẩu thì là người không nói chuyện, mà không nói chuyện tức là độc cư. Dù các thầy có nói lời lành đi nữa, nhưng lời lành đó chưa hẳn đã là lành vì trong đó có hàm ý những gì cá nhân của mình trong đó, mà có những lời nói có cá nhân trong đó chắc là không phải lành.
Quán xét cho cùng chúng ta thấy lời nói là một tai hại rất lớn cho loài người, nếu mọi người không nói thì chắc chắn là cảnh giới ở thế gian này có thể gọi là thiên đàng. Lời nói là để biểu diễn ý nghĩ của chúng ta, nhưng ý nghĩ sao lại là thương, là tốt mà lời nói để mọi người hiểu ý ta mà lại làm cho đau khổ thì đó là cảnh giới thế gian này trở thành địa ngục.
7. Lời nói hung ác là lời nói dữ tợn làm cho người ta khiếp sợ, chửi rủa, mạ nhục, lời nói nạt nộ làm cho người ta khiếp đảm, hăm dọa, đe dọa nói chung là lời nói hung dữ. Làm cho chúng sanh sợ hãi đó là lời nói tội rất ác lớn khiến cho ta sợ hãi bất an, vì thế chúng ta là những người tu sĩ đạo Phật luôn luôn phải giúp chúng sanh đừng sợ hãi. Phải cho họ những lời nói, những hành động yêu quý khiến cho họ không sợ và được an ổn vui mừng. Muốn được ban vui cứu khổ phò nguy cho chúng sinh thì ta phải luôn luôn tu tập dứt bỏ lời nói hung dữ.
Lời nói hung dữ là lời nói cực ác làm cho chúng sinh sợ hãi, ta hãy mạnh dạn quyết tâm từ bỏ xa lìa đoạn dứt lời nói hung dữ.
Đó là câu hướng tâm thứ nhất.
Câu hướng tâm thứ 2:
Từ đây về sau ta không được to tiếng, lớn tiếng bất kỳ với ai vì to tiếng lớn tiếng là lời nói hung dữ. Ta phải dứt bỏ và từ giã nó để chúng sinh không còn sợ hãi nữa.
Đó là câu 2.
Câu 3: Ta là người tu sĩ đạo Phật phải biết thương người, cớ sao ta lại dùng lời nói hung dữ để làm cho mọi người sợ hãi, từ đây thương người ta không được nói lời hung dữ nữa.
Đó là câu 3.
Câu 4: Tâm ta luôn luôn thương khắp chúng sinh, ban rải lòng từ khắp cùng, không làm cho chúng sinh sợ hãi. Vậy ta phải luôn luôn có những lời nói ôn tồn, nhã nhặn, từ hòa, sáng suốt, đúng thời.
Đó là câu 4.
Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách. Đến đây thì Thầy nói cho quý thầy thấy, bây giờ mình đặt ra rất nhiều nhưng mình phải lựa câu nào cho hợp với mình, rồi tùy cái sức khỏe của mình, chứ không phải điên khùng mình thấy câu nào cũng ngồi liên tục mà trau dồi, mà hướng tâm mà nhắc thế này thế khác đâu. Ngồi riết cơ thể của quý thầy mỏi mệt, rồi quý thầy đâm ra ác pháp ở trong đó chứ không phải là thiện pháp nữa. Cho nên chúng ta lượng cái sức của mình, mỗi ngày chúng ta dùng một câu hoặc 2 câu cũng đủ lắm rồi, đâu cần phải tu cho nhiều. Tu mà vừa sức với nó chúng ta mới thấy có sự an lạc, tu quá điên đầu, muốn tu cho mau thành Phật thì cái chuyện đó là chuyện sai. Chúng ta trau dồi đâu có nghĩa là trong một bữa. Muốn huấn luyện một con vật chúng ta cũng phải từ từ, 5 tháng, 3 tháng nó sẽ trở thành thuần thục, chớ chúng ta vội vàng nghe như vậy rồi ngồi li bì rồi quán li bì, rồi ngồi li bì mà hướng lu bù, tu không biết cơ thể mình ra sao, không biết sức khỏe mình ra sao. Tu riết chán nản, hết muốn tu nữa. Đó là cái sai, cái không đúng, cho nên Thầy thường nhắc nhở là mình phải tùy theo sức, nghĩa là mỗi ngày mình chia ra mình tu 1 lần, 2 lần là đủ lắm rồi. Để cho mình được xả nghỉ, tâm hồn mình được thanh thản, tâm mình nó có sức gom lại. Còn mình tu vừa gom đó bây giờ gom nữa, gom riết, cái đầu óc nó đen tối, cái đầu óc nó rối loạn không còn bình tĩnh sáng suốt, nó mệt nhọc, nằm đâu thì nó muốn ngủ đó rồi. Thì bây giờ nó từ cái sai này nó dẫn đi đến cái sai khác, cuối cùng thì quý thầy chẳng thấy đạo, mà thấy mình gần như muốn điên. Nói thì nhiều nhưng mà chọn ra những câu đúng để chúng ta tùy theo căn cơ của mình mà lấy những câu pháp hướng đó mà tu tập cho chín chắn và nó phải hợp thời, hợp lý, hợp sức khỏe. Những điều này Thầy chú ý quý thầy rất nhiều. Quý thầy có nhớ kỹ như vậy thì quý thầy trau dồi, tu tập thì nó mới có kết quả lớn.
Đây thầy nhắc lại: Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách thì kết quả đến với quý vị rõ ràng. Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn, nghĩa là hàng ngày mình cứ dùng pháp hướng mình tu tập đó, hiệu quả của nó rất lớn. Pháp hướng là pháp dùng tinh thần để mà điều khiển, quý thầy lưu ý cái phần đó. Còn bây giờ quý thầy mà vận dụng tập trung là quý thầy dùng cái sức tập trung, mặc dù nó có tinh thần tập trung thật nhưng mà nó ức chế. Mà quý thầy còn phải dùng cơ để mà thở cách này cách khác đó là sự ức chế, nó không phải đâu. Còn vô pháp hướng chúng ta dùng tinh thần chúng ta hét lên một tiếng rồi chúng ta thản nhiên như thường, cho nên nó không có kéo dài cái sự tập trung, cho nên nó không ức chế ai hết. Mà cái sức tinh thần ra lệnh nó mạnh hơn cái sức ức chế của chúng ta nhiều. Cái sức tập trung của chúng ta càng ngày nó làm cho cơ thể chúng ta mất đi sức khỏe và nó không đạt đến cái độ cao cũng như cái sức tinh thần của chúng ta. Cho nên khi mà pháp hướng quý vị mà tu tập như vậy sau này nó, pháp hướng nó rất là hiệu quả, mà nó rất hiệu quả thì tới chừng quý thầy muốn nhập định thì chỉ cần ra lệnh là nó nhập định, bảo nó các hành phải ngưng, hơi thở phải ngưng là nó ngưng liền, thì quý thầy sẽ nhập được tứ thiền liền. Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn, về sau quý thầy chỉ cần hướng tâm là quý thầy đã nhập định Tứ thiền tức khắc, không phải chờ đợi lâu dài. Cho nên quý thầy nghe ở trong kinh điển Phật dạy, có nhiều người họ tu quét sạch cái vô lậu mà họ dùng pháp hướng, pháp tùy thôi, chỉ có pháp ví dụ như trên thân quán thân họ thôi, rồi họ dùng pháp hướng như vậy, cuối cùng họ nương theo pháp tùy của TỨ NIỆM XỨ hoặc là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, họ dùng như vậy cho nên cái pháp hướng nó hiệu quả, đến khi vô Tứ thiền họ chỉ ra lệnh là nhập Tứ thiền. Cho nên trong vòng tuần lễ hoặc là nửa tháng là họ đã nhập Tứ thiền. Mình thấy trời ơi sao mình tu lâu quá, mà Tứ thiền vất vả vô cùng, mà sao quý tỳ kheo trong thời đức Phật sao họ tu dễ vậy. Đó là tại vì mình tu không đúng cách, chớ không phải là nó khó. Tại vì pháp hướng là pháp truyền lệnh của tinh thần rất mạnh, còn pháp mình đang tu đây là mình ức chế tâm của mình để vào 4 thiền cho nên nó rất khó khăn, đâu phải dễ.
Để làm sáng tỏ sự trau dồi tu tập các hành động thân tâm của quý vị đi về hướng thiện pháp thì quý vị cần phải lưu ý bài kệ này để quý vị thực hiện Từ vô lượng tâm và Tứ chánh cần cho được viên mãn. Đây bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ này để quý thầy biết được cái Tứ chánh cần với cái Từ vô lượng tâm, hai cái nó kết hợp để nó thành ra một bài kệ mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập các thiện pháp:
Từ tình thương ta được sinh ra
Do tình thương ta được nuôi lớn
Có tình thương ta sống chan hòa
Nhờ tình thương chúng ta giải thoát
Từ tình thương ta được sinh ra. Đó quý thầy thấy không, nếu cha mẹ mà không thương nhau làm sao mình có mình đây. Cho nên từ cái tình thương cha mẹ mới sinh mình ra.
Do tình thương ta được nuôi lớn. Nếu mà cha mẹ sinh con ra mà không thương thì quăng nó ngoài đồng chứ làm gì mà nuôi, ôm ẵm nó còn bé bỏng như vậy quá là cực khổ chứ phải đâu mà. Bây giờ cứ thử hỏi quý thầy ẵm con người ta mà nuôi đi, nếu mà không thương quý thầy ôm ẵm nổi không? Rất là vất vả cực khổ cho nên do tình thương mà ta được nuôi lớn.
Có tình thương ta sống chan hòa. Quý thầy thấy rõ, nếu mà chúng ta không có tình thương thì chúng ta chưa sống với vạn hữu đâu, cho nên từ bi hỉ xả đó là cái tình thương của chúng ta để sống chan hòa với vạn hữu. Cho nên chúng ta phải tập luyện nó chứ không thể nào nó có được tình thương đó được.
Nhờ tình thương chúng ta giải thoát. Vì chúng ta thực tập như vậy đó, do đó tình thương chúng ta đối với các pháp chúng ta được giải thoát không còn bị chướng tâm, không có bị chướng ngại nữa.
Đó thì trong một cái tình thương, trong tình thương đó mà chúng ta ở đây có một bài kệ: Từ - Do - Có - Nhờ. Bốn cái chữ Từ - Do - Có - Nhờ mà chúng ta được giải thoát. Nếu chúng ta thiếu thì chúng ta không giải thoát. Không có từ tình thương cha mẹ sinh ra thì ta có con người đâu mà tu tập, phải không? Cho nên Phật gọi người sinh mình ra gọi là đại bố thí. Bây giờ do tình thương ta mới được nuôi lớn. Nếu mà không có tình thương của cha mẹ thì làm sao mà nuôi lớn. Do đó:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Có ơn nào bằng ơn sinh thành dưỡng dục đâu. Cho nên đó là cái lớn, cái đại bố thí của chúng ta.
Rồi bây giờ chúng ta muốn được cái sự an ổn, cái sự hạnh phúc, sự an vui sự giải thoát nơi tâm hồn của mình thì mình phải tu tập rèn luyện tình thương đó thì mình mới sống hòa tan được trong vạn hữu, trong mọi người. Còn bây giờ quý thầy đâu có thương, quý thầy thương quý thầy á nên động ai quý thầy cũng xạc hết à, cũng mắng, cũng chửi người ta được hết, thì như vậy là có hòa chan sự sống với ai được không? Cho nên chúng ta phải tu tập Tứ vô lượng tâm. Mà tu tập Tứ vô lượng tâm mà không có dứt bỏ các pháp ác thì không thể có được Tứ vô lượng tâm, cho nên phải có Tứ chánh cần. Các thầy thấy 2 câu dưới chúng ta thấy con đường tu chúng ta rất rõ. Rồi nhờ tình thương chúng ta mới giải thoát. Do đó chúng ta mới thấy con đường giải thoát chúng ta cho đến khi đó tâm bất động trước mọi cảnh mà. Mục đích của đạo Phật là như vậy, bất động trước mọi cảnh chứ đâu phải do thiền định, do cái gì.
Đó là chỗ chúng ta thấy được 4 câu kệ này để chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập Tứ vô lượng tâm và Tứ chánh cần, cho nên một cặp pháp này phải song song với nhau, theo nhau mà tu tập. Bài kệ này quý thầy phải hiểu:
- Từ tình thương cha mẹ thương nhau mới sinh chúng ta, chúng ta mới có ra đời, ơn rất nặng, nên Phật gọi cha mẹ là đại bố thí.
- Do tình thương chúng ta được nuôi lớn: khi sinh chúng ta ra, cha mẹ thấy mặt ta tự nhiên sinh lòng thương con hơn thương một vật gì khác trên đời này, nên tận tụy hy sinh mình nên cha chịu vất vả dầm sương giãi nắng chịu cực khổ nuôi dưỡng con. Mẹ ăn đắng nằm cay chịu ướt chịu hôi, chịu thối để con được lớn khôn nên người, biết bao kể xiết công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, chỉ vì lòng thương mà chẳng bao giờ than thân trách phận, chỉ thấy con mạnh khỏe an vui là sung sướng nhất cho mình. Vì lòng thương cha mẹ phải vượt qua những nỗi nhọc nhằn, những nỗi khổ đau.
Có tình thương ta sống chan hòa. Vì tình thương có 2 loại. Ở đây đến chỗ này chúng ta mới phân biệt, 2 câu dưới này chúng ta mới phân biệt để chúng ta thấy có 2 loại tình thương: một loại thương hạn hẹp, thương cá nhân mình, do tình thương này mà tạo ra muôn ngàn thứ đau khổ cho mình, cho người, tình thương này gọi là tình thương ích kỷ, tình thương nhỏ mọn, tình thương hạn hẹp chỉ biết thương mình, chẳng biết thương ai, đó là tình thương rất là nhỏ. Chỉ có lo cho mình thôi, như nhà vua mà nói thương bà hoàng hậu, mà bà đi với ai thì nhà vua giết bà. Đó, thì đó là thương ích kỷ, thương nhỏ đó chớ không phải thương lớn đâu. Hai: tình thương rộng lớn, từ bi vô lượng, Tứ vô lượng tâm đó, là tình thương rộng lớn vô lượng vô cùng, tình thương này giải thoát cá nhân thoát khỏi bản ngã con người, tình thương bao la vô bờ bến. Nó làm chúng ta thoát ra khỏi cái cá nhân của mình, cái ích kỷ của mình.
Hai câu trên là tình thương hạn hẹp, nghĩa là thương cha mẹ, thương con, thương này kia đó là thương hạn hẹp đó, nhưng nó cũng xuất phát từ lòng thương, lòng thương yêu này là lòng thương yêu vô minh, phải xét lòng thương yêu hạn hẹp đó là lòng thương yêu vô minh, không thấy xa nên thương mà khổ, gói ghém trong ích kỷ. Nhưng cũng nhờ có tình thương mà ta mới có mặt trên hành tinh này, nghĩa là dù nó hạn hẹp nhưng nó có tình thương chúng ta mới có sự hiện hữu ở trên cái hành tinh này. Từ tình thương cá nhân nhỏ hẹp này ta chuyển biến trau dồi, lần lần tình thương này bằng một cái trí tuệ minh mẫn, thoát ra ích kỷ nhỏ mọn, hẹp hòi, từ đó biến tình thương này trở thành tâm từ bi vô lượng. Từ cái tình thương đó, bây giờ chúng ta thấy 2 tình thương có khác nhau không? Nhưng mà chúng ta biến dần, biến dần làm cho chúng ta sáng suốt ra không còn vô minh nữa, cho đến chúng ta dẹp được những nhỏ mọn ích kỷ của chúng ta thì đến đó cái tâm từ bi vô lượng của ta nó sẽ thực hiện rộng lớn ra. Khi đã thấm nhuần lòng đại từ bi vô lượng này thì tâm hồn ta bất động trước vạn pháp.
Các thầy thấy chỉ có tu Tứ vô lượng tâm không, tu Tứ chánh cần không mà bất động trước vạn pháp, thì đó là mục đích của đạo Phật rồi còn phải tu cái gì nữa. Như vậy lúc bấy giờ chúng ta có định không? Có. Tại sao? Tại vì chúng ta có cần tu nó đâu, chúng ta chỉ cần dùng pháp hướng mà ra lệnh các hành ngưng là chúng ta đã làm chủ cái sống chết, thì nhập Tứ thiền rồi, đồng thời lúc đó chúng ta. Bởi vì cái pháp hướng nó có hiệu quả, nó là cái sức lực của tinh thần của chúng ta đã từng tập trau dồi những cái này mà nó thành tựu những pháp này thì lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần ra lệnh là chúng ta, có cần tập tu Tứ thiền đâu. Cho nên khi nghe các thầy tỳ kheo chỉ cần hít thở trong mấy cái là các thầy đã nhập Tứ thiền trong một ngày, hai ngày hoặc là một đêm mà người ta đã nhập Tứ thiền, mà nhập Tứ thiền xong, thì ông Anan ông khỏi cần mở cửa hang ông cũng chui vô được, qua được. Thì các thầy thấy đó không phải là câu hữu Tứ như ý túc sao. Cái chuyện ở đây quá thật chứ không phải cái chuyện mà nói dối đâu. Đó là cái chuyện trên thân khi mà cái pháp hướng mà đã hiệu quả. Bởi vì mục đích của chúng ta là tu tập cái pháp hướng chứ không phải là tu tập cái ức chế, mà tu tập cái ức chế nó sẽ trở thành thiền tà, thiền bậy không đúng. Ngồi đây mà giữ tâm không vọng tưởng đó là ức chế, ngồi đây để nhiếp tâm trong hơi thở để đè nén tâm không vọng tưởng đó là ức chế, cái đó sai. Bởi vì ly dục ly ác pháp là tâm chúng ta thanh thản, là định chứ đâu có gì khác hơn. Mà khi tâm thanh tịnh định là chúng ta điều khiển cái pháp hướng thì làm gì không ngừng, một thân biến ra muôn thân thì cái đó là dùng pháp hướng chứ gì. Vì chúng ta Dục như ý túc, cái muốn của chúng ta muốn như thế nào, bây giờ chúng ta muốn cái thân này ngưng thở thì nó phải ngưng thở. Thì các thầy cần gì phải rèn luyện hằng ngày, phải nhắc nó ngưng đâu, còn bây giờ chúng ta ở trên hơi thở mà bảo nó cứ ngưng, ngưng hoài mà nó có ngưng được đâu. Đó là cái tu sai chứ không phải tu đúng pháp.
Bây giờ Thầy nhắc trở lại để cho quý thầy thấy con đường của đạo Phật là nhắm ở chỗ nào? Chỗ tâm thanh tịnh. Mà tâm thanh tịnh thì ác pháp phải lìa, ác pháp còn, tâm ham muốn còn thì không bao giờ là tâm thanh tịnh.
Sống chan hòa cùng muôn loài vạn vật cỏ cây bên nhau, thương yêu thắm thía. Có tình thương ta sống chan hòa. Lúc bấy giờ tình thương đó luôn luôn ngự trị trong tâm ta khiến tâm ta thanh tịnh và an lạc, không còn ô nhiễm các pháp thế gian, do thế ta chỉ các hành trong thân, nhập định ngay tức khắc, làm chủ được sống chết. Và cũng từ nơi tâm thanh tịnh, an lạc đó ta hướng tâm đến Tam minh, thế là phạm hạnh đã xong không còn trở lui cuộc đời này nữa.
- Nhờ tình thương chúng ta giải thoát, hai câu cuối cùng chỉ cho tình thương rộng lớn. Câu trên chỉ cho sự trau dồi tâm từ bi hỷ xả vô lượng câu dưới chỉ cho tâm từ bi hỷ xả viên mãn được đạo giải thoát.
Bây giờ quý thầy tiếp tục tu tập dứt trừ các pháp ác và trau dồi các pháp thiện. Như hồi nãy chúng ta đã học tập và trau dồi pháp ác và trau dồi pháp thiện thứ 7. Kế đến chúng ta trau dồi pháp thiện thứ 8 và dứt bỏ pháp ác thứ 8. Đó vừa nãy chúng ta mới trau dồi được cái thứ 7 rồi chúng ta đọc bài kệ để chúng ta biết từ tình thương ích kỷ rồi chúng ta biến dần biến dần nó thành tu tập cái tình thương rộng lớn, tâm từ bi hỷ xả rộng lớn vô lượng, rồi từ đó chúng ta mới thấy mục đích của thiền định là không có tập thiền định chút nào hết, chỉ có dùng pháp hướng mà chúng ta đã nhập thiền định và từ đó chúng ta câu hữu tất cả những gì chúng ta muốn là nó theo ý muốn của chúng ta, tức là Dục như ý túc. Bây giờ chúng ta học về cái phần ý, ý nó có 3 cái pháp ác. Do ý nó có 3 pháp ác thì chúng ta phải xem pháp ác nào trước của nó.
8. Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó thường khiến ta ham muốn nhiều. Đó thì bây giờ cái tham lam này là cái dục đó, quý thầy sẽ thấy tới đây là cái bài phân tích ra từng khía cạnh của cái tâm tham của chúng ta. Thầy sẽ phân tích ra để quý thầy thấy. Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó khiến ta ham muốn nhiều, thấy cái gì cũng muốn, do sự ham muốn này đầu tiên là ta đã tự tạo cho mình khổ, kế đến là tạo cho người khác khổ. Vì mình ham muốn cái này cái kia là nó đã tạo cho mình khổ rồi. Chạy theo nó, phải làm ra có tiền có bạc để sắm ra nó. Muốn cái này, muốn cái kia, thì cái nào nó cũng tạo ra cho chúng ta khổ. Rồi do đó nếu không có tiền có bạc thì sanh ra trộm cướp, mới lấy của người, mới biển thủ cái này cái kia, để cho gian lận ở trong đó mới có ra mà sắm những ham muốn đó.
Đó là những tội ác do cái tâm tham này mà nó sinh ra muôn vàn tội ác không? Tất cả những cái tội gì ác là nó làm sạch hết. Phật gọi tâm ham muốn này là dục, là nguồn gốc khổ của loài người. Đó thì cái tâm ham muốn là nguồn gốc khổ, nó tập hợp tất cả những pháp ác lại để nó thực hiện được cái ham muốn của nó, cho nên nó là nguồn gốc khổ.
Vậy chúng ta hãy truy ra coi từ đâu mà có dục, mình phải truy ra từ đâu mà nó sinh ra cái dục này? Coi từ đâu mà có tham lam? Phải truy ra, nếu mà không truy ra thì chúng ta nghe nói dục mà chúng ta chẳng hiểu ở đâu hết, nó ở trong bụng của mình thì nó ham muốn là nó muốn chứ mình không biết cái gốc của nó thì làm sao mình đốn được cái gốc. Mình phải biết được cái gốc, rồi cái gốc đó nó đi ra như thế nào, chừng đó chúng ta phải chặt tỉa như thế nào để tới gốc, mới là đốn sạch nó mới được.

Như Phật đã dạy: do duyên thủ mà gồm có, thủ là mình giữ lại đó. Bây giờ giữ lại cái ghế, cái bàn kia, do duyên đó mà nó mới có ra dục thủ, là muốn giữ đó. Mình muốn có cái này kia tức là nó có cái dục thủ ở trong đó. Hai là kiến thủ, những cái hiểu biết của mình cái gì đó là mình giữ lại, thì khi mình giữ lại. Thì thứ 3 là nó có giới cấm thủ, giới cấm thủ thì nghĩa là cái đó có giới hạn rồi đó, nghĩa là ai mà chạm đến thì không được đó. Đó thì lần lượt mình sẽ triển khai ra tất cả những cái này để mình thấy được cái chỗ mà mình có cái tham, cái dục như thế đó. Bốn: Ngã chấp thủ. Bây giờ từ chỗ đó nó có xây xung quanh rồi, xây xung quanh của mình đồ đạc này kia rồi, bắt đầu từ đó của mình thì bắt đầu có cái ngã chấp rồi. Do cái chấp thủ này gồm có 3 loại hữu, đức Phật chia nó ra làm có 3 loại hữu. Bởi vì thủ rồi nó mới có hữu. Cho nên do cái chấp thủ đó nó mới sanh ra 3 cái hữu.
- Một là dục hữu.
- Hai là sắc hữu.
- Ba là vô sắc hữu.
Nó chia ra làm như vậy.
Dục hữu là cái lòng muốn có của mình. Rồi sắc hữu là cái vật đó nó sinh ra mình có. Vô sắc hữu là những vật không có mà mình tưởng tượng ra để rồi mình chạy theo nó.
Do hữu mới có cái ái, ái thì gồm có 6 cái. Nó đi tuần tự tuần tự rồi tới chỗ các thầy sẽ thấy nó tới cái chỗ nào đây, nó đi từng phần, từng phần để mà chúng ta sẽ thấy. Ái thì gồm có 6 cái:
Một là sắc ái, bây giờ mình thấy cái bàn cái ghế này mình thích đó là sắc ái.
Hai là thanh ái, mình nghe âm thanh mình thích.
Ba là hương ái, mình nghe cái mùi hương thơm mình thích.
Bốn là vị ái, mình ăn miếng gì ngon ngọt mình thích.
Năm là xúc ái, mình chạm mình nghe êm ái thích thú, thì đó là xúc ái.
Sáu là pháp ái, mình nghe cái gì mà vừa tai, nghe cái gì mà nó thích thú ở trong lòng của mình, ví dụ như người ta nói: có một vật gì thường hằng hoặc có 1 thế giới Cực lạc Tây phương nào đó. Mình nghe mình nghĩ mình chết cũng sanh về đó đó, thì đó là cái pháp ái.
Cho nên nghe cái đó rồi mình chấp cái đó đi, mình chết về đó sung sướng như vậy, thích thú như vậy, ở đó là nhà cửa lầu đài hoặc là ăn uống gì đầy đủ như cõi Cực Lạc vậy, thì do đó là mình bị pháp ái.
Do ái mà sinh ra thọ. Có ái thì nó mới sinh ra cái thọ. Thọ gồm có 6 thọ. Lần lượt mình truy ra chỗ nào đó đặng mình biết được cái gốc của nó mình đoạn dứt:
Một là nhãn xúc sở sanh thọ. Cái mắt của mình nó chạm vào một cái vật gì đó, như bây giờ Thầy thấy cái đồng hồ đây, tức con mắt Thầy chạm vào đó thì nó sinh ra thọ, nó sinh ra cái thọ tức là nó muốn cái vật đó.
Nhĩ xúc sở sanh ra thọ. Cái lỗ tai mình tiếp xúc với âm thanh nó sanh ra thọ thích cái âm thanh đó.
Tỷ xúc nó sinh ra thọ. Tỷ là cái lỗ mũi mình, thì nó xúc với cái hương thơm nó mới sinh ra cái thọ hương thơm.
Thiệt xúc thì nó sở sinh ra thọ. Thì thiệt, cái lưỡi của mình mà nó chạm xúc với đồ ăn nó thấy ngon thì nó sinh ra cái thọ ngon.
Thân xúc nó sở sinh ra thọ. Cái thân xúc của mình nó chạm vào chỗ êm ấm hoặc là nóng mát, nó sinh ra cái thọ biết nóng mát, biết êm ấm, đó là nó sinh ra cái thọ.
Ý xúc sở sinh ra thọ. Ý của mình nó tiếp xúc với các pháp thì nó sở sinh ra cái đó là pháp đúng, pháp sai, cái đó là pháp thiện pháp ác. Thì đó nó sinh ra cái thọ đó.
Thì như vậy chúng ta đã thấy lần lượt nó đã sở sanh ra những cái thọ như vậy. Do có thọ mà sanh ra ái. Có 11 duyên kế tiếp để tạo thành ác pháp, bất thiện pháp trong thế gian này.
Bây giờ chúng ta thấy từ cái ái này nó sẽ tiếp tục sinh ra các pháp, mà nó 11 duyên kế tiếp để sinh ra các ác pháp, mà bây giờ chúng ta đang tu tập để trừ các ác pháp trong thế gian đó. Tu tập TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, tu tập TỨ CHÁNH CẦN nè để diệt trừ các ác pháp này. Vậy thì chúng ta biết ở đâu mà nó sinh ra các ác pháp này. Do cái ái mà chúng ta sanh ra các pháp ác. Bởi vì tất cả những cái ái này nó mới sinh ra, do đó nó mới sinh ra thọ, đến đây thì chúng ta biết do có thọ mà sinh ra các pháp ác. Như vậy thì chúng ta sẽ tiếp tục để cho thấy do có duyên nào mà nó sinh ra cái gì đây.
Ái thì nó có 11 cái ái. Do duyên thọ mà có ái sanh. Bắt đầu mình thấy duyên thọ mới có ái sanh. 11 điều kiện nó sanh ra để chúng ta biết được, nó sảy sanh ra như thế nào cho đến khi thành các ác pháp đây, các bất thiện pháp đây.
Hai là do duyên ái mà có tìm cầu, có cái ái là có cái ưa thích của mình rồi, thì ưa thích, bây giờ thầy ưa cái đồng hồ thì phải tìm cái đồng hồ, thầy ưa thích cái máy này thì thầy phải tìm cầu có cái máy này, thầy ưa thích phụ nữ thì thầy đi tìm cầu cái người vợ. Thì đó là phải đi tìm cầu. Đó thì chúng ta thấy cái ái nó sanh ra đi tìm cầu, đi chỗ này chỗ kia.
Do tìm cầu mà lợi sanh. Do mình tìm cầu mà có cái lợi sanh ra. Lợi hồi đó mình không có gì hết, bây giờ tìm cầu mình tích lũy có vợ, có con có này kia đủ thứ hết, tiền bạc của cải tài sản. Thì đó là những cái lợi nó sanh ra rất nhiều.
Do lợi sanh ra thì phải tiêu dùng. Bây giờ mình có tiền bạc thì mình phải dùng, có cái bàn này thì mình phải sử dụng cái gì, có cái nhà này phải làm như thế nào, phải xài nó như thế nào, phải sử dụng nó làm sao cho hợp, trang hoàng như thế nào cho nó hợp với đời sống của mình. Cho nên phải có sự tiêu dùng.
Do sự tiêu dùng mà sanh ra dục sanh, do sự tiêu dùng này mình thấy nó thích thú. Ham muốn của mình mới sinh ra. Do sự ham muốn này nó mới có sự sanh ra, cái kia thì ở trên nó mới có ái thôi, mà tới đây thì chúng ta mới thấy được cái dục. Hồi nãy thì tham lam là dục đó (là lòng ham muốn của chúng ta) bây giờ do sự tiêu dùng này mới sinh ra cái ham muốn này, cái tham muốn này, tham lam này.
Do tham dục sanh thì đắm trước sanh. Hễ có sự ham muốn thì sự dính mắc đắm trước nó mới sanh. Thấy do lòng ham muốn của mình mới thấy cái đồng hồ mới thích, nó mới sanh ra đắm trước, nó mới dính đó. Dính mới mua về.
Do đắm trước sanh thì chấp thủ sanh. Thì mới mua về mới giữ, tức là có giữ lại, tức là có chấp thủ sanh.
Chấp thủ sanh thì hà tiện sanh. Bắt đầu mình thấy: từ cái chỗ mình hồi nào đến giờ thì mình chưa có hà tiện đâu, nhưng mà khi nó bị dính mắc rồi thì bắt đầu người ta xin đồng hồ không cho đâu. Tức là hà tiện tới rồi đó. Rồi bắt đầu mình hà tiện nữa, thấy người ta đến người ta xin tiền, mình chấp thủ, mình dính rồi cho nên mình đâu dám bỏ ra cho họ, cho nên hà tiện mới sanh.
9. Hà tiện sanh thì thủ hộ sanh. Tức là khi hà tiện có rồi, có sự giữ gìn bảo vệ nó, không có cho mất mát, nghĩa là làm chín đồng muốn kiếm thêm bỏ đồng nữa chứ chưa dám lòi ra ăn nữa. Đó là thủ hộ nó sanh.
10. Do thủ hộ sanh một số ác pháp, bất thiện pháp sanh. Bắt đầu muốn giữ gìn nó mà muốn bảo vệ nó bằng cách này bằng cách khác thì ác pháp nó sanh đó.
11. Do ác, bất thiện pháp sanh thì trượng kiếm đao búa gậy gộc, tranh đấu tranh luận, đấu khẩu, ác khẩu, vọng ngữ sanh. Đó tất cả những cái đó nó bắt đầu có thập ác đó, nó mới sinh ra.
Thì như vậy là quý thầy đã thấy được con đường đi của đức Phật, vạch từ duyên này đến cái duyên khác để các pháp ác sinh ra. Vậy thì bắt đầu bây giờ chúng ta dứt trừ những ác pháp này, tức là lần lượt chúng ta sẽ dứt trừ các ái, các thọ của chúng ta đó. Cho nên tới đó thì chúng ta sẽ, tất cả các ái các thọ của chúng ta dứt thì duyên sanh tử ưu bi sầu khổ chúng ta dứt chứ có gì. Mà đi từ cái chỗ nào, đi từ các ác pháp này. Mà chính ác pháp này là từ cái chỗ đó nó sanh ra ác pháp. Bây giờ chúng ta phải đốn sạch những ác pháp này cho nên TỨ VÔ LƯỢNG TÂM và TỨ CHÁNH CẦN là pháp cần thiết cho chúng ta để dứt các ác pháp. Chúng ta biết rõ được cái gốc của nó thì đi từ cái gốc đó mà chúng ta đốn dần thì cái cây khổ này nó phải tuyệt, nó phải đoạn dứt, nó không còn khổ nữa. Nếu mà không hiểu được như vậy thì chúng ta cứ tu lòng vòng, lòng vòng ở đâu mà tưởng là dứt khổ nhưng sự thật là không dứt khổ. Vì chúng ta chưa biết nó là ác pháp, mà ác pháp là gốc khổ, chớ không phải lòng ham muốn của chúng ta là gốc khổ đâu. Tại vì lòng ham muốn nên nó mới sanh ra ác pháp đây.
Vậy thì chúng ta đi từ cái chỗ tu TỨ CHÁNH CẦN và TỨ VÔ LƯỢNG TÂM thì ác pháp nó sẽ dứt. Ác pháp dứt thì giải thoát dứt, sanh tử dứt. Ở đây quý thầy cần phải hiểu: Do tiêu dùng mà tham dục sanh, nếu tiêu dùng không có bất cứ loại nào thì tiêu dùng diệt, mà tiêu dùng diệt thì tham dục diệt, tham dục diệt thì sân diệt, sân diệt thì si diệt. Biết rõ như vậy nên Phật dạy SANH đã đoạn thì PHẠM HẠNH mới xong, con người mới giải thoát.Tại sao vậy? Bởi vì đời sống như quý thầy đã thấy lộ trình thứ 2 thầy đã vạch ra đó: Đời sống tu sĩ trắng bạch như vỏ ốc, tức là chúng ta đã tiêu dùng đó, đã diệt sạch rồi. Vì chúng ta đâu có tiền bạc mà tiêu dùng, muốn gì cũng đâu có được. Cho nên ngay đó là chúng ta đã sanh đã tận rồi, ngay đó chúng ta đã thấy cái chỗ mà cái bước mà chúng ta đoạn dứt được cái pháp ác là ngay đời sống của chúng ta phải là đời sống phạm hạnh. Mà đời sống phạm hạnh là đời sống không còn tiền bạc tiêu dùng, không còn muốn gì được nữa hết. Nghĩa là đi xin ăn rồi, bây giờ người ta cho ăn ngon thì ngon, ăn dở thì dở chứ không nói: cho tôi ăn như vậy là không được, thiếu dưỡng chất chết tôi đi thì tôi tu không được, mấy ông không có phước đâu. Cho tôi ăn cho ngon, tôi tu được đặng mấy ông có phước thì cái đó là cái sai rồi. Cho nên ở đây chúng ta phải đoạn diệt để cho được cái tham dục của mình. Mà đoạn diệt cái tiêu dùng trước. Người tu sĩ thì không còn tiêu dùng nữa rồi. Ba y một bát, thiểu dục tri túc rồi còn cái gì nữa mà tiêu dùng. Không có thì chúng ta đến xin Phật tử. Chúng ta đến xin họ có cho là cho mà không cho thì chúng ta cũng chịu thôi. Về thí dụ cái y này rách rồi, đã mục rồi mà đến xin người ta nói bây giờ tôi chưa có để rồi hôm nào tôi có tôi sẽ cúng dường cho thầy, bây giờ thì tôi chưa có.Thì mình cũng thôi về chắp vá lại mà mặc đi, để cho kín thân chứ đừng để lõa lồ thôi chứ cũng chưa dám đòi hỏi ai hết. Đó là mình đâu có tiêu dùng được, mình đâu có muốn được. Còn bây giờ các vị có tiền đâu đó, thôi cái này rách bỏ đi, đi ra chợ mua may sắm cái khác, chớ để gì mà rách rưới như vậy. Còn mình không có nữa thì đâu có tiêu dùng được, cho nên phải chắp vá lại mà sống.
Đó là đời sống của tu sĩ như vậy. Cho nên trong thời đức Phật các thầy thấy bảy, tám mươi tuổi, các vị tỳ kheo trong thời đó bảy, tám mươi tuổi đi lụm khụm mà vẫn phải đi xin ăn chớ không được tỳ kheo khác mà xin về cho cái vị đó ăn. Cho nên nghe qua các bài kệ của trưởng lão, ni kệ hoặc tăng kệ chúng ta thấy sao mà đời tu sĩ lúc bấy giờ, lẽ ra thì họ nhập diệt cho rồi chứ để chi lê thê mà đi xin quá khổ như vậy, mà đi đường non núi nữa, quá vất vả. Phải nương cây gậy lụm cụm mà đi xin ăn. Bởi vì người ta đã thấy nhơn quả của người ta, người ta vui vẻ để người ta trả chứ không phải người ta không thấy. Biết rõ như vậy nên Phật dạy: Sanh đã đoạn thì phạm hạnh mới xong, con người mới giải thoát.
Chúng ta truy tìm biết như vậy bây giờ chúng ta mới biết đâu là sống đúng đời sống của người tu sĩ đạo Phật. Trắng bạch như vỏ ốc, không còn triền phược và những sợi dây vật chất, thương ghét trói buộc, chỉ còn một lòng từ bi vô bờ bến. Tuy là biết rõ như vậy, trước là để lập hạnh sống xuất gia 3 y 1 bát, sống vô gia đình không nhà cửa, không chùa to tháp lớn, một thân một mình tiêu diêu an lạc, có duyên thì giúp người không duyên thì ẩn bóng. Nhưng lúc ta còn đang tu thì phải siêng năng dứt bỏ pháp ác và trau dồi pháp thiện. Như hồi nãy thầy đã kể ra: tham là do dục mới có tham. Vậy chúng ta phải trạch pháp câu này để dứt bỏ:
Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó làm cho ta đau khổ và người khác đau khổ. Từ đây đứng trước mọi vật dù miếng ăn, manh áo tốt xấu ngon dở ta cũng phải từ khước viễn ly xa lìa, xem nó là rắn độc, là quỷ dữ, là ác thú trong tâm ta.
Đó là cái câu pháp hướng để quý thầy nhắc nhở để cho cái tâm mình đừng có tham ăn, tham mặc, tham y tham áo, tham của cải tài sản, tham tiền, tham bạc. Để chúng ta dứt bỏ tất cả những cái đó, để chúng ta không còn bị tâm tham nữa. Bởi vì tâm tham nó làm cho ta khổ và người khác khổ.
Nhớ nhắc đi nhắc lại câu này nhiều lần cho đến khi trước cái ăn và tất cả những vật dụng gì mà ta không còn ham muốn gì hết thì mới xong. Nghĩa là đứng trước cái ăn, tức là cái vật thực hàng ngày của mình, tất cả những cái vật dụng hàng ngày mà cần thiết cho đời sống tu hành của mình chứ đừng nói chi như người ngoài đời bằng cách này bằng cách khác thì tâm ta chẳng còn ham muốn một vật gì hết. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới thiểu dục tri túc, mới biết đủ đó, thì đó là lúc chúng ta mới xong.
Vậy phải nghiêm chỉnh tu hành đừng xem thường nó, nó được đức Phật gọi nó là một loại độc trong 3 thứ độc. Đó thì cái tham đức Phật gọi nó là một loại độc chứ không phải là nó thứ thường. Cho nên trong tam độc là tham sân si, nó là cái độc đầu tiên của 3 thứ độc đó. Vậy thì quý thầy đã hiểu được nó là thứ độc chứ không phải là cái thứ thường. Đến phần này gọi là trau dồi ý hành, nó rất vi tế và khó khăn vô cùng. Vậy quý thầy cần phải siêng năng đừng để thất niệm nhưng cũng phải vừa với sức của mình. Đó một lần nữa Thầy nhắc quý thầy đó, tu vừa sức của mình mà nhớ đừng để thất niệm, khi đang tu thì đừng để thất niệm, để vọng tưởng xen vô thì quý thầy hoài công rồi đó. Lúc bấy giờ chúng ta đặt cái niệm cho vững chắc không được để thất niệm. Cho nên trong kinh điển của Phật dạy khi đặt niệm rồi thì không được thất niệm, phải luôn luôn ở trong cái niệm cho nó rõ ràng, cho nó tỉnh táo chớ không được để cho nó lờ mờ nữa. Của mình thành tựu hay không thành tựu là do ở chỗ quyết tâm, có muốn ra khỏi cuộc đời dục lạc đầy cạm bẫy này hay không. Nếu quý thầy không muốn xa lìa cuộc đời dục lạc thế gian thì xin quý thầy đừng tu hành theo đạo Phật. Vì chẳng có ích lợi gì cho những người còn say mê dục lạc thế gian. Vì mình còn ham mê dục lạc thế gian, còn thích ăn thích ngủ, còn thích nói chuyện thì quý thầy đừng có theo đạo Phật. Tu uổng công lắm, mất cái thì giờ mà chẳng lợi ích cho mình, mà còn nợ đàn na thí chủ nữa. Cho nên khi quý thầy thấy nó còn thích thôi quý thầy đừng đi. Bởi vì cuộc đời thế gian quý thầy phải đoạn dứt nó. Chứ quý thầy mà còn ham thích nó một chút xíu thôi thì không có thể được. Sau này thầy sẽ đọc một câu kệ có một chú Sadi chú đi tu mà chú nhớ mẹ chú, do chỗ này mà chú không thành tựu được đạo giải thoát. Thì các thầy biết một chú Sadi 7,8 tuổi mà đi tu làm sao không nhớ mẹ mình, vậy mà về nhà bà mẹ khuyên một lời nói, chú về chú nỗ lực chú rời bỏ tình thương đó để rồi chú nỗ lực chú trở thành một bậc Alahán. Đó là những mẩu truyện của Trưởng lão tăng kệ trong thời đức Phật như vậy đó.
Thứ hai, sân là lòng giận dữ, lòng giận dữ rất khó dằn, nó là pháp ác. Khi tâm ý khi nó tức giận người ta có thể giết người không gớm tay, không sợ tù tội và cũng không sợ chết. Do thế mới biết lòng sân rất dữ. Khi mà người ta giận người ta không còn sợ chết, sợ tù sợ tội gì hết, người ta giết người người ta không có gớm tay đâu, cho nên cái lòng sân dữ lắm, không phải hiền lành đâu.
Cho nên chúng ta thấy bây giờ người ta chửi mình, người ta mắng mình, mình sân đó, mình ráng mình nén xuống chớ trong lòng tức lắm. Còn người đời chưa biết người ta không nhẫn, người ta không nén, người ta ăn thua đủ, người ta không nhịn ai hết, cái sân này tới cái sân khác, nó đưa đi đến chỗ có thể giết nhau, đi nằm nhà thương hay đi ở tù. Muốn biết người tu hành, nghĩa là mình muốn biết người tu hành được giải thoát ở mức độ nào thì chúng ta chỉ cần nhận ở cái lòng sân của họ là dễ biết. Thấy họ sân là biết họ tu ở mức độ nào rồi. Cho nên có nhiều vị tu hành rất lâu năm, ở rừng ở núi mà khi đụng việc chúng ta thấy tâm sân họ bùng khởi lên thì chúng ta biết là họ chẳng có được gì hết, chỉ qua cái hình thức ép của họ, qua cái sự tu tập của họ có cái vẻ khổ hạnh bằng cách này cách khác nhưng tâm sân của họ chưa xả được thì tham sân si đều là còn đủ chứ chưa hết.
Lòng sân còn thì lòng tham còn. Lòng sân còn thì ngu si còn. Bởi vì chính mình ngu si nên mình chưa có Minh được. Do đó vậy mà cái si còn thì tham còn, sân còn. Người ta nói xấu nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta giết nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta cướp đoạt của nhau cũng vì lòng sân thù hận. Bởi vậy sân là một pháp ác, một pháp cực ác lớn. Trong 10 điều ác lòng sân là ác nhất. Muốn tu tập dứt bỏ lòng sân ta hãy tu tập và trau dồi TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, khi nào lòng Từ bi hỉ xả có được thì lòng sân mới hết được. Nhưng TỨ CHÁNH CẦN cũng có pháp tu. Vậy ta phải trạch pháp ra câu này để dùng nó mà hướng tâm tu tập:
Ý sân là một hành động cực ác, đầy tội lỗi, làm cho ta khổ, người khác khóc, ta phải từ bỏ dứt trừ, phải mạnh dạn và quyết tâm xa lìa nó, từ bỏ nó, xem nó như thú dữ ác độc, như quỷ dữ la sát.
Đó là những câu hướng tâm để chúng ta thấy lòng sân của chúng ta dữ tợn lắm, như quỷ dữ vậy, như la sát vậy. Dùng câu này hướng tâm Như Lý Tác Ý phải ngồi kiết già lưng ngay thẳng, bởi vì chúng ta biết những pháp ác, cực ác thì chúng ta càng ngồi yên tĩnh, càng ngồi kiết già để thân tâm gom lại một điểm mà chúng ta xua đuổi, chúng ta đánh đuổi nó mới được. Chứ còn chúng ta ngồi như cái ghế này mà ngồi mà dùng để xoa cái tâm tham, tâm sân, tâm si của chúng ta không được. Như bình thường chúng ta ngồi cái ghế thường như thế này mà chúng ta tập trung cái niệm ở trước mặt để chúng ta xoa cái tâm đừng giết hại chúng sinh thì còn có thể được. Nhưng đến khi cái ý mà dừng tham sân si, 3 cái ác độc này nó không đơn giản đâu. Cho nên phải ngồi khoanh chân gom nó lại, tập trung cái niệm lại, do đó mới đủ cái sức dùng pháp hướng mới có thể đánh mạnh nó ra được.
Cho nên chúng ta phải biết tu, biết cách thức chứ nếu mà không biết cách thì chúng ta cũng không có kết quả đâu. Phải ngồi kiết già lưng ngay thẳng, đặt pháp hướng trước mặt, dùng hết sức tinh thần xua đuổi như xua đuổi một con chó điên. Nghĩa là mình biết nó, biết cái tham sân si của mình là con chó điên đó, nếu mình không xua đuổi mạnh thì nó cắn mình chết, nó cắn mình điên đó. Cho nên mình phải đem hết sức của mình ra xua đuổi như xua đuổi một con chó điên. Như vậy chúng ta phải biết cách thức chúng ta ngồi kiết già là chúng ta gom hết toàn lực đánh đuổi một con chó điên để không nó đem lại cho chúng ta tai họa là điên khùng.
2. Ý sân từ đây phải chấm dứt, phải từ bỏ không được phóng khởi. Nghĩa là mình nhắc nó từ đây bất kỳ hoàn cảnh nào không được phóng khởi ra. Đó là câu mình hướng tâm để đoạn dứt nó.
3. Ý sân phải chấm dứt ngay. Đó mình chỉ nói câu ngắn như vậy: chấm dứt, ngay. Ra lệnh như vậy là lâu ngày chúng ta dùng cái sức tinh thần của chúng ta, cái pháp hướng nó sẽ hiệu quả đến cùng. Cho nên đến cuối cùng thì ngay cái chỗ người ta vừa chửi mình thì ngay đó nó chấm dứt ngay liền, ở trong đầu của mình nó phóng ra chấm dứt ngay. Ngay đó tâm mình thản nhiên không sân nữa. Thì quý vị thấy cái pháp hướng nó hiệu quả đến mức độ đó. Nó ngắn chừng nào thì cái lực của nó lại mạnh chừng nấy. Mà cái câu hướng mà dài thì cái lực nó yếu chừng nấy. Cho nên pháp hướng khi mà dứt, từ bỏ, thì pháp hướng càng ngắn thì lực càng mạnh, cái tinh thần càng mạnh. Còn pháp hướng mà dài đó là pháp hướng trau dồi chứ không phải pháp hướng.
Đó là Thầy nhắc như vậy để sau này quý thầy trí tuệ thông minh sáng suốt tùy theo đó mà quý thầy trạch ra những pháp hướng cho nó đúng với môi trường, đúng với tâm của mình để cho mình tu tập.
Trau dồi lòng thương yêu để phát triển tâm lành ngăn ngừa tâm ác, quý thầy phải trạch pháp dùng pháp hướng dẫn tâm thương yêu chúng sanh. Bây giờ mình trau dồi cái tâm thương yêu của mình:
Ý sân giận dữ chửi mắng nạt nộ người khiến cho người ta sợ hãi, đau khổ. Ta phải thương yêu họ, không được làm cho họ sợ hãi. Vậy từ đây ta không nên chửi mắng, la hét mà phải thương yêu an ủi, giúp đỡ họ đừng sợ hãi.
Đó là cái câu trau dồi cái tâm thương yêu của mình đó. Cho nên câu này không dùng cái nạt nộ hay ra lệnh mà chỉ xoa dịu nhẹ nhàng, an ủi nó, để cho nó lần lượt lớn lên lòng thương yêu mà không có la hét làm cho người ta sợ. Mỗi khi mà chúng ta tức giận la hét gì đó thì chúng ta nhớ phải thương người cho nên nó dịu xuống liền tức khắc mà nó không có la hét.
5. Đời là khổ ta không nên sân để làm cho người, vật khác đều khổ thêm. Thấy ai sân ta nên thương họ, ta phải tập thương họ cho chân thật.
Đó là những cái điều mà chúng ta xoa dịu, làm cho tâm của chúng ta thấy người sân là chúng ta thương. Nhắc nhở chúng ta thấy cái người giận dữ là chúng ta thương. Và chúng ta cũng biết trạch pháp ra: đời đã là khổ rồi cho nên sân lại làm cho người khác, vật khác đều khổ theo vì vậy mà cái tâm không được làm vậy nữa, phải thương yêu. Đó là cái câu ám thị để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, để nó phá đi cái tâm ác của chúng ta là sân.
Đến đây thì chúng ta lại còn phải dùng ĐỊNH VÔ LẬU mà tu TỨ CHÁNH CẦN nữa. Thì các thầy phải thấy công trình tu tập của chúng ta phải sử dụng liên tục những cái định, trừ ra có cái định Hiện tại an lạc trú là 4 thiền là chúng ta không sử dụng ở trong này thôi. Dùng ĐỊNH VÔ LẬU tu TỨ CHÁNH CẦN là ta phải ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm sân trước mặt rồi tác ý đi tìm cái sân từ đâu có, từ đâu sanh, từ đâu diệt, cứ như thế chúng ta phát sinh trí tri kiến giải thoát, làm cho ta hiểu rõ cái ý sân, bẻ vụn cái ý sân, làm cho tan vỡ cái ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta nữa.
Nghĩa là trong khi chúng ta quán xét tự nó phóng ra, nó làm cho chúng ta thấu suốt được cái sân từ đâu đến, từ đâu có, từ đâu không, cho nên chúng ta biết rất rõ. Do biết rất rõ đó thì nó bẻ vụn cái ý sân của chúng ta, nó làm cho tan nát cái ý sân ra, nó làm cho ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta. Đó là chúng ta dùng định vô lậu mà phá tâm sân. Thì chúng ta biết áp dụng ở trong TỨ CHÁNH CẦN bằng ĐỊNH VÔ LẬU, bởi vì ĐỊNH VÔ LẬU nó không phải dùng pháp hướng mà nó dùng cái tri kiến nó quét sạch, nó suy tư nó đi tìm nguồn gốc của tâm sân rồi nó suy tư từ cái sân đó nó khổ như thế nào, làm sao… nó quét sạch ra. Nó làm cho tâm của chúng ta không còn sân đứng được ở đó. Phải đặt niệm này trước mặt, đừng cho thất niệm, luôn luôn lúc nào mà tới chúng ta thấu suốt được rồi thì chúng ta mới xả nghỉ, còn chưa có thấu suốt được thì chúng ta đừng có xả nghỉ ngang, mà chúng ta phải được liên tục, đừng có để thất niệm trong thời gian truy tìm cái sân thì nó mới được.
Phải đặt niệm này trước mặt đừng cho thất niệm, có như vậy tu TỨ CHÁNH CẦN câu hữu Vô lậu định. Đó bắt đầu chúng ta tu TỨ CHÁNH CẦN mà chúng ta câu hữu qua ĐỊNH VÔ LẬU đó thì các thầy thấy mình phải khéo léo, mình phải áp dụng cho đúng cách, chứ nếu mà mình cứ tu TỨ CHÁNH CẦN không thì mình không thông suốt được cái tham sân si của mình. Do đó mà mình nhắc ở ngoài da của nó không thì nó không có thấm đâu. Cho nên chúng ta dùng cái ĐỊNH VÔ LẬU, do nhìn cái lậu hoặc của tham sân si này như thế nào vì vậy mà chúng ta đốn sạch ở trong gốc nó, đập tan nó từ trong gốc sân của nó, dứt được ý sân của nó. Thì quý thầy thấy tuyệt diệu không. Cho nên mình biết câu hữu được pháp này với pháp kia, cho nên mình câu hữu với ĐỊNH VÔ LẬU mà mình đạt được như ý nguyện của mình là tâm sân dứt. Thì như vậy là Thầy dạy quý thầy có cách thức để tu tập, có cách thức để câu hữu, chứ đâu phải là thiếu cái sự câu hữu đó: mình cứ ĐỊNH VÔ LẬU là mình cứ tu ĐỊNH VÔ LẬU còn tu TỨ CHÁNH CẦN là cứ phải tu TỨ CHÁNH CẦN. Không phải đâu. Chính vừa nãy mà chúng ta tu tập TỨ CHÁNH CẦN mà chúng ta tu tập lòng thương yêu của mình tức là câu hữu với TỨ VÔ LƯỢNG TÂM đó. Những cái mà chúng ta câu hữu thầy nhắc quý thầy mới biết, mà Thầy không nhắc thì quý thầy không biết đâu. Đó là những cái chúng ta câu hữu với nhau, pháp này câu hữu với pháp kia để chúng ta thực hiện cho đạt được cái mục đích của chúng ta là giải trừ tâm ác của chúng ta, 10 điều ác ra khỏi tâm của chúng ta, không còn đất đứng ở đó.
Si. Bây giờ đến cái phần ngu si của ý chúng ta đây. Si là vô minh, là trạng thái ham ngủ, ham ăn. Tức là cái si của chúng ta nó hiện ra trạng thái ham ăn ham ngủ. Đó là cái si đó. Vì vậy mà chúng ta biết cái trạng thái ham ăn ham ngủ của chúng ta là si. Cái người nào mà còn thích ăn, thích ngủ là người đó đang si, chứ chưa phải là thông minh. Mặc dù bây giờ họ là thông minh, là nhà bác học đi nữa, là những con người mà học tiến sĩ đi nữa mà còn ham ăn, ham ngủ thì đó là những người si chứ không phải là những người không si đâu. Muốn đoạn dứt pháp ác này quý thầy phải tu Chánh niệm tỉnh thức định.
Đó, thì bây giờ muốn đạt được cái chỗ si này chỉ có CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC định thôi, nó mới có sức tỉnh thức, chứ còn nếu không nó ham ăn ham ngủ à. Mà nó tỉnh thức thì nó diệt trừ cái ăn, do đó nó mới có tỉnh thức, nó mới tu ĐỊNH VÔ LẬU nó mới quét sạch được cái ăn, nó mới thấy cái ăn là bất tịnh. Thì từ cái chỗ này nó câu hữu với cái kia nó kết hợp, nó làm cho chúng ta có một cái lộ trình tu tập rất là dè dặt, rất là kỹ lưỡng, rất là dày mịch không để cho các pháp ác xen vô được. Bởi vì chúng ta có những cái pháp nó làm như mạng lưới mà không cho pháp ác rơi trên đó được, nó đánh bại, nó đánh bạt ra hết. Nó không còn chỗ nào để pháp ác lọt vào tâm chúng ta được. Nhờ các pháp này mà chúng ta câu hữu liên tục, mà chúng ta đánh các pháp ác ra khỏi tâm chúng ta. Vì vậy đưa chúng ta ra con đường giải thoát rất là rõ ràng và cụ thể. Cho nên CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC là chúng ta phải đi kinh hành nhiều, theo hành động đi mà chúng ta tỉnh thức thì không còn lười biếng, không còn buồn ngủ nữa. Đó nó phá cái si rất rõ, cái trạng thái si của chúng ta.
Muốn phá và dứt ác pháp si mê này thì quý thầy phải phá vô minh. Đó, hồi nãy là đi kinh hành là để tỉnh thức thôi. Còn bây giờ chúng ta si tức là vô minh chứ gì. Muốn phá vô minh thì phải làm sao? Chớ đâu phải là tỉnh thức không? Tỉnh thức không mà nó không hiểu gì hết thì cái tỉnh thức đó để ngồi suốt ngày chơi cho nó thanh thản thôi chứ có làm gì. Bây giờ chúng ta phải dùng sức tỉnh thức này để mà chúng ta tu tập Định CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC. Làm cho chúng ta có sức tỉnh thức, từ sức tỉnh thức đó chúng ta mới phá Vô Minh. Mà phá Vô Minh thì nó phải có Minh. Muốn phá Vô Minh quý thầy phải học hiểu những lời Phật dạy, Thầy dạy. Muốn phá được cái vô minh đó thì mình phải là người học, chớ mình không học thì mình không biết, mà mình không biết thì biết đâu měnh lŕm. Chẳng hạn bây giờ nói rằng đời khổ, quý thầy cho rằng đời đâu có khổ. Đó là cái vô minh của quý thầy. Nhưng khi nghe nói khổ, vạch cho ra từng ly từng tý mới thấy thật đây là khổ. Quý thầy mới thấy được cái khổ, mà thấy được cái khổ là vén được cái vô minh. Vậy quý thầy đã Minh. Minh là nhờ sự học hỏi những cái gì của người ta đi qua rồi người ta dạy lại cho mình, để mình thấy được, mà mình thấy được đó là cái minh của mình. Cái nào chưa hiểu cần phải hiểu cho rõ, nghĩa là cái lời dạy đó cái nào chưa hiểu thì mình phải hiểu cho rõ, hiểu cho rõ là phải hiểu cho đúng vì hiểu sai tức là vô minh. Theo những điều mà từ lâu quý thầy chưa biết, bây giờ được học hiểu quý thầy đã biết và biết rất rõ đó là phá si, dứt trừ si, tức là phá vô minh. Phá vô minh tức là minh, minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện. Như hồi nào tới giờ thầy chưa có dạy Thập thiện, cho nên quý thầy đâu nghe nói là các pháp ác rồi các pháp thiện. Bây giờ dạy các pháp ác, các pháp thiện thì quý thầy biết có 10 pháp ác, có 10 pháp thiện; sao là ác, sao là thiện; thì như vậy là quý thầy đã Minh rồi đó. Đã biết được 10 rồi, còn hồi đó thầy chưa nói 10 các thầy biết pháp ác chứ chưa biết nó 10 hay 20 hay gì đó, chưa có biết đâu. Còn bây giờ đã được học các thầy biết đó là pháp ác, đó là pháp thiện. Mười cái pháp ác này, 10 cái pháp thiện này, hoặc là tất cả các pháp khác như thế nào như thế nào, thì bắt đầu quý thầy minh rồi đó. Vì vậy Minh tức là mình không theo ác pháp mà vô minh thì mình theo ác pháp thì mình sai lệch. Minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện, cái nào đúng chân lý, cái nào sai chân lý, cái nào đúng nhân, cái nào đúng quả, cái nào cần trau dồi, cái nào không cần trau dồi, cái nào cần dứt bỏ, cái nào không cần dứt bỏ, cái nào tùy, cái nào chỉ, cái nào ức, cái nào quán, cái nào diệt, cái nào xả, cái nào hướng, cái nào ly, cái nào khởi, cái nào diệt, cái nào khổ, cái nào không khổ, cái nào còn khổ, cái nào hết khổ, cái nào sân, cái nào không sân, cái nào tham, cái nào không tham và biết rất rõ, đó là minh. Tất cả những cái mình biết rõ như Thầy kể ở trên thì đó gọi là Minh. Mình biết cái này khổ, cái này không khổ, cái này tham, cái này không tham, cái này ác, cái này không ác, đó là những cái đó gọi là Minh. Nhờ có Minh mà si hết. Nghĩa là mình rõ rồi thì cái si kia nó hết rồi, mình không có lầm nữa cho nên gọi là hết.
Khi có minh thì chúng ta hãy tinh tấn chuyên cần tu tập, không phí bỏ thời gian vô ích, một lòng quyết tâm, quyết dứt bỏ các pháp ác. Bây giờ mình đã minh rồi mà mình lười biếng thì các pháp ác nó còn không? Còn. Cho nên khi mình đã biết rõ rồi thì mình mới chuyên cần siêng năng tu tập để trau dồi thân tâm của mình để dứt bỏ thì nó mới hết chớ, chớ không phải biết rồi để khơi khơi nó hết đâu. Nói tôi minh rồi tôi biết, bởi vì cái minh này là cái minh của mình huân tập sự hiểu biết của người khác mình mới hiểu thôi, cho nên cái này Phật dạy đó là cái tri kiến chứ chưa phải là tri kiến giải thoát. Còn tri kiến giải thoát của mình mà Thầy nói ngồi để mà phá cái vô lậu, tự nó phóng ra, rồi tự nó tìm hiểu ra, rồi nó quán xét nó thấu suốt được cái lý đau khổ hoặc cái lý nào đó, rồi nó xả đi cái lý đó đi, nó làm cho không còn lậu hoặc thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát. Còn bây giờ cái minh này mới là cái tri kiến của chúng ta thôi. Tức là chúng ta nhai lại những hiểu biết của người khác để cho mình hiểu cái đó đúng sai thôi, đó là cái tri kiến đúng, còn nếu mình nhai lại cái tri kiến sai thì nó thành kiến chấp, tà chấp hay thân chấp, do đó nó đưa chúng ta đi lầm lạc tới chỗ càng gây thêm pháp ác nữa, cho nên càng đem đến sự khổ đau.
Quý thầy ngồi kiết già lưng ngay thẳng trước mặt tưởng ánh sáng ngày như đêm rồi dùng pháp hướng NHƯ LÝ TÁC Ý:
Tâm u tối si mê như đêm đen, ta hiện giờ thấy nó sáng suốt như ban ngày không còn đen tối nữa.
Đây là tu cái Định sáng suốt đây, để cho chúng ta, từ đó nó mới có cái sự sáng suốt. Nó mới như cái lý nó tác ý ra, những tri kiến giải thoát của chúng ta mới phát ra được. Vậy thì khi tu cái Định sáng suốt này thì thứ nhất chúng ta được tỉnh thức. Chúng ta ngồi giữ tâm thanh thản thì nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày. Còn nếu mà chúng ta chưa có đủ tỉnh thức thì chúng ta phải tu tập dùng cái tưởng để thấy cái tâm chúng ta si mê như đêm đen, bây giờ nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày, nó sáng suốt như ngày, nó không còn u tối nữa.
Do cái tưởng sáng suốt này nó làm cho tâm của chúng ta luôn ở trong chỗ sáng suốt đó và nó phát triển tâm thanh thản tức là tâm tỉnh thức. Đó thì chúng ta phải thấy được mấu chốt tu cái chỗ này gọi là tu cái tâm sáng suốt hoặc tu cái ĐỊNH SÁNG SUỐT. Cái chỗ này là chỗ thêm phần để chúng ta biết chứ còn trước kia Thầy dạy quý thầy giữ cái tâm thanh thản tức là giữ cái tâm sáng suốt của mình. Còn bây giờ là chúng ta chưa đủ cái tỉnh thức, cái Chánh niệm tỉnh giác cho nên cái sức tỉnh chưa có thì giữ tâm thanh thản nó không có được lâu, do đó chúng ta mới ngồi, mới tưởng là cái tâm của chúng ta si mê như đen tối mà bây giờ nó phải sáng suốt như ban ngày, nó không còn đen tối nữa. Đó là chúng ta dùng nhắc nó để chúng ta ngồi đây chúng ta dùng cái tưởng để thấy luôn luôn lúc nào cũng sáng suốt ở trước mắt của chúng ta. Do ánh sáng tưởng tượng đó mà nó giúp cho chúng ta sáng suốt.
Những bài này đã được Phật dạy các tỳ kheo trong thời đức Phật, rất lâu và rất nhiều chứ không phải mới mà Thầy đặt ra đâu. Có dịp quý thầy nghiên cứu về kinh tạng Pali hoặc là kinh tạng A Hàm thì quý thầy sẽ thấy được những điều mà Phật dạy này. Để chấm dứt bài Tứ Chánh Cần thầy xin đọc lại một bài kệ của đức Phật. Đến đây bây giờ tham sân si 10 cái pháp ác rồi thì mình đã tới cái si là mình đã chấm dứt rồi, cho nên phải đọc lại một bài kệ của đức Phật để chúng ta thấy được tóm lại cái ý của nó như thế nào. Đây bài kệ của đức Phật đây:
Ai phản lại chánh pháp
Tham sân si nuôi lớn
Thanh danh bị sứt mẻ
Như trăng khuyết đêm đen
***
Ai không phản chánh pháp
Tham sân si đoạn dứt
Thanh danh được tròn đủ
Như trăng tròn mười sáu
Bây giờ mình hiểu được cái chánh cái tà rồi, cái ác cái thiện rồi mà nếu mình còn phản lại thì là một cái tội rất lớn. Nghĩa là biết rồi mình còn phạm phải thì coi như cái con người của mình nó bị sứt mẻ, không còn...Trăng khuyết mà còn đêm đen nữa thì các con biết rằng, các thầy biết rằng trăng nó khuyết nó nhỏ xíu, thì ánh sáng nó đâu có mà đêm đen nữa thì nó mờ tối vô cùng. Người phản lại chánh pháp này, phản lại các pháp thiện, thì tham sân nuôi lớn, thì thanh danh bị sứt mẻ như trăng khuyết đêm đen.
Đó thì quý thầy thấy bài kệ của đức Phật, nếu chúng ta đi vào chánh pháp thì tham sân si, 3 cái pháp này đoạn dứt thì 7 cái pháp ác kia nó cũng sẽ mất đi. Do đó chúng ta sống như trăng tròn 16, tròn đầy không có thiếu khuyết một chỗ nào nữa hết. Trăng rằm nó còn khuyết một chút chứ trăng 16 thì nó tròn thiệt tròn, không có thiếu chỗ nào, tức là giải thoát hoàn toàn. Chánh pháp giúp cho quý thầy thấu rõ chơn lý của đời người, đó gọi là Minh. Các thầy không rõ chánh pháp nên không thấy chân lý, đời là ác pháp, là khổ đau nên phóng tâm chạy theo vật chất, ham muốn thế gian pháp, cái không hiểu này gọi là Vô Minh.
Đó mình chạy theo cái ham muốn như vậy, cái đó gọi là Vô Minh. Còn cái mình hiểu đúng chánh pháp thì gọi là cái Minh. Do không hiểu nên lầm chấp ác pháp là thiện pháp. Do không hiểu tưởng đời sống con người là hạnh phúc, nào ngờ là khổ đau, là không hạnh phúc. Người đời vì lầm nên xây dựng an vui hạnh phúc trên một mảnh đất vô thường, không vững chắc, thay đổi liên tục không dừng nghỉ. Vì thế công trình kiến tạo và xây dựng hạnh phúc, an lạc cho nhân loại là một công trình Dã Tràng.
Đó thì quý thầy thấy người ta phát minh cái này cái kia để người ta đem hạnh phúc cho con người chứ gì, nhưng mà càng phát minh càng đem lại sự đau khổ cho con người càng nhiều, đó là chúng ta xây dựng trên mảnh đất vô thường, mọi vật đều vô thường mà người ta nghĩ đó là thường, người ta lầm chấp cho nên người ta càng cố gắng xây dựng lên thì càng đem lại nỗi khổ cho nhân loại.
Càng xây dựng văn minh thì con người lại càng khổ bấy nhiêu, chỉ vì do họ xây dựng ngọn mà không xây dựng gốc. Do vô minh này mà loài người trên hành tinh này không lúc nào được hòa bình, chỗ này không chiến tranh thì chỗ khác chiến tranh. Càng khoa học, càng máy móc, càng tinh vi thì chúng ta thấy trên thế giới lúc nào cũng có nước chiến tranh chứ không bao giờ hết. Tưởng là đem lại phục vụ cho nhân loại, cho con người được thanh bình, được an vui, được thương nhau nhưng cuối cùng họ vẫn giết chóc nhau. Họ vẫn tìm mọi cách: về quân sự thì họ cũng tìm mọi cách bằng súng đạn, mà về kinh tế thì họ cũng tìm mọi cách để hại các cơ xưởng, các công trình của kẻ khác, làm cho suy sụp kinh tế của kẻ khác xuống. Đó là những hậu quả của sự văn minh, sự tiến bộ mà xây dựng trên cái ngọn mà không xây dựng ở trên cái gốc.
Vì xây dựng trên cái ngọn là xây dựng trên mảnh đất vô thường, trên các vật vô thường thì làm sao mà có sự hạnh phúc an vui vĩnh cửu được. Vì hỷ lạc của cuộc đời nên người ta mê mệt, đắm đuối theo nó, do đó đức Phật có phân tích cho chúng ta biết có 4 loại đam mê, hỷ lạc thấp kém hạ liệt, thuộc về những phàm phu, không xứng thánh hạnh, không có lợi ích, không có hướng đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết Bàn. Nghĩa là vì có những sự hỷ lac của cuộc đời, tức là cái sự làm cho chúng ta thích thú đó, làm chúng ta khả ái, khả hỉ đó cho nên con người mê si mới đắm đuối nó, chạy theo nó.
Do sự mê si đắm đuối chạy theo nó, thì đức Phật là một người giác ngộ cho nên Ngài thấy được, Ngài phân tích cho chúng ta có 4 loại đam mê hỷ lạc thấp kém này. Nó hạ liệt, nó làm cho chúng ta không có viễn ly, không có hướng đến sự yểm ly, vô tham, tịch diệt được, an tịnh được cho nên càng lúc càng khổ. Đó thì trong khi mọi con người đang xây dựng hạnh phúc cho con người lại là đưa con người vào cái chỗ mà chạy theo những cái hỷ lạc của cuộc đời, mê mệt nó, đắm đuối nó.
Đây quý thầy sẽ nghe lời của Phật dạy và quý thầy sẽ thấy rằng những sự mà ngu si của chúng ta để xây dựng những cái đau khổ đó.
Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng, có hạng người ngu si, sau khi giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh, tự mình sung sướng hoan hỷ thích thú, đó là hỷ lạc thứ nhất.
Các thầy thấy rõ không, ngay bây giờ, có nhiều người bắt gà bắt vịt, họ làm thịt, họ giết đi, phải không? Họ thích thú ngay sự giết rồi họ ăn thịt chúng sanh họ lại ngon nữa: chà bữa nay ăn rất ngon, vợ chồng mình bữa nay làm bữa ăn thích quá, mai mốt có dịp làm nữa, ăn nữa. Có phải thích không? Nếu không thích thì làm sao. Đó là đức Phật phân tích cho chúng ta giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh đó là cái hỷ lạc thứ nhất. Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy rõ mà, đó là cái hỷ lạc của dục đó, thứ nhất đó.
Này các thầy, các thầy có thấy chăng, có người sau khi lấy của không cho hoặc trộm cướp của người tự mình sung sướng, hoan hỷ thích thú.
Đó là hỷ lạc thứ hai. Có không? Thằng trộm nào mà lấy xe đạp hay xe Honda của người ta về bán lấy tiền mua quần mua áo, mua đồ đạc ăn uống cho vợ con nó thích thú lắm chứ. Nó đâu có nghĩ người ta mất của người ta khổ đâu. Nó sung sướng lắm. Trời ơi bữa nay mình làm vố này là cả tháng khỏi đi. Có phải thích không?
Đó là đức Phật cho chúng ta thấy sự thích thú thứ 2, hỷ lạc thứ 2 của con người chúng ta.
Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng, có người sau khi tự mình nói láo gạt người, sung sướng, hoan hỷ.
Đó là hỷ lạc thứ 3. Có không? Nói láo người ta, gạt người ta được, về cười hỷ hả sung sướng lắm, đó không phải là thích thú sao? Đó là cái hỷ lạc thứ 3. Hoặc là mình nói xấu người, hoặc là mình nạt nộ người làm cho người ta sợ hãi, mình về mình thích thú. Hồi nãy tao nạt tiếng, trời nó run lẩy bẩy trông thấy khoái. Phải không? Các con thấy cái điều đó là một bằng chứng cụ thể mà ông Phật ông nói, Thầy thấy không có gì mà sai hết. Còn ghét người nào đó mình đặt điều nói xấu người đó. Mình thấy người đó ngồi khóc lu bù. Bởi họ không có xấu mà nghe người ta nói mình vậy, tức quá khóc luôn.Thì lúc bấy giờ mình thích lắm, thấy người đó rầu rỉ khóc lóc vậy, khoái lắm. Đó không phải là cái hỷ lạc sao? Đó là cái hỷ lạc thứ 3 của mình đó.
Này quý thầy, quý thầy có thấy chăng, người say đắm, đam mê vây quanh 5 thứ dục lạc: sắc, danh, lợi, thực, thùy.
Nghĩa là bây giờ chúng ta nhìn chung, chúng ta sẽ thấy này: sắc là nữ sắc, là sắc dục đó, danh là ông này bà kia, ông lớn bà nọ đó, lợi là tiền của, ăn ngon, ngủ muốn ngủ hồi nào thì ngủ đó. Đó là người ta vây quanh 5 thứ dục lạc này. Do đó nó có những hỷ lạc. Mà những hỷ lạc này đức Phật gọi là hỷ lạc thứ tư. Ở trên kia nó là những hỷ lạc nằm trong ác pháp thật, nhưng mà nó có thật sự đó. Rồi đến 5 thứ dục lạc này mà họ vây quanh thì chúng ta có thấy họ hỷ lạc không? Họ khoái lắm chớ, làm sao mà không khoái điều này, ăn miếng ngon là mình thấy thích rồi thì tức là nó đã có hỷ lạc thứ 4 rồi. Rồi mình ngủ, mình ngủ mình lười biếng li bì nằm vật tới vật lui đó thì là cũng hỷ lạc của cái thứ ngủ rồi. Có tiền nhiều thì mình cũng thấy vui, có danh làm ông lớn thì mình cũng thấy thích đó, thì đó là dục lạc rồi. Có sắc đẹp, nữ sắc thì lại thích thú. Thì do đó tất cả những cái này đều là hỷ lạc thứ 4. Ông Phật ông nói Thầy thấy không sai ở chỗ nào hết. Do chỗ hỷ lạc đó mà người ta không bỏ cuộc đời, không dứt ra cuộc đời được. Mà mình là người hiểu biết thì các thầy có dứt ra được không? Phải dứt đi chớ, mình đã hiểu lời Phật dạy quá rõ rồi. Thầy đã dạy đây thì chắc chắn không còn thiếu chỗ nào hết, mà không còn thiếu thì mình thấy đó là khổ hay vui? Cái đó là vui giả, vui không thật đâu, mà chúng ta hãy tìm cái vui chân thật. Còn về cái phần tu hành chúng ta có cái hỷ lạc không? Có chớ, sao lại không. Phật cũng có dạy chúng ta biết chớ, bởi vì nói đến bài học này nó dài dòng tại vì phải nói cho đủ, nói cho quý thầy hiểu được giáo án cua nó, hướng nào cho nó rõ hướng nấy. Cho nên tuy là nói cái giai đoạn thứ nhất nhưng sự thật quý thầy thấy nó thông suốt gần như là chúng ta đã hiểu con đường đi của đạo Phật.
Đây là 4 thứ hỷ lạc phàm phu đầy đau khổ và tội ác. Chắc đến đây quý thầy rõ lộ trình thế gian pháp, là say mê chìm đắm trong 4 thứ hỷ lạc đê tiện, thấp hèn, hạ liệt thuộc về hạng phàm phu, không xứng với thánh hạnh. Đó là những thứ hỷ lạc ở trên đó, mà thầy đã kể ra rồi đó, thì đó là những hỷ lạc của tội lỗi mà quý thầy đã nhận ra rồi.
Này quý thầy, có 4 loại hỷ lạc nhất định đưa đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.
Đây bây giờ nói 4 thứ hỷ lạc mà cái lộ trình thứ 2 mà chúng ta sẽ bước vào đây. Ờ bây giờ bên kia nó hỷ lạc nó đem đến đau khổ mà nó không được cái an tịnh cho cuộc đời chúng ta. Nó như cái bóng chớ không phải là miếng mồi thật, còn đây 4 cái hỷ lạc này là cái thật đưa chúng ta đến giác ngộ và niết bàn, tâm hồn an tịnh. Vậy 4 loại hỷ lạc này là gì?
1. Đây chúng ta phải xét xem cái hỷ lạc này nằm ở chỗ nào đây, để mà chúng ta tìm lấy hỷ lạc của pháp giải thoát chớ, chứ nếu không chúng ta cứ chạy theo hỷ lạc của dục không thì...Bây giờ chúng ta tu mà chúng ta không có hỷ lạc thì chúng ta tu cái gì đây. Ít ra nó cũng phải đem cho chúng ta có một cái gì thích để mà chúng ta tiến tới con đường giải thoát chứ. Nếu mà tu quá khổ, luôn luôn bị hành hạ không thì chúng ta làm sao ham tu. Cho nên đức Phật cũng phân tích cho chúng ta thấy có 4 loại hỷ làm chúng ta thích, làm chúng ta tiến bước trên con đường. Dù là con đường rất khổ nhưng nó có những cái an ủi cho chúng ta, làm chúng ta tiến tới mà chúng ta không có lùi bước. Bốn loại hỷ này là gì?
Các thầy ly dục, ly ác pháp, chứng và trú sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ, đó là hỷ lạc thứ nhất.
Đó, quý thầy thấy chưa, dục chạy theo ác pháp thì nó sinh ra các hỷ lạc đó, 4 cái loại hỷ lạc trên. Còn bây giờ mình đi ngược lại, mình đi ngược lại thì nó cũng có sanh hỷ lạc cho mình. Đó thì nó cũng có những hỷ lạc khác hỷ lạc kia rất nhiều. Và nó tuyệt diệu hơn rất nhiều vì nó đưa lại tâm hồn an tịnh và thắng trí giác ngộ niết bàn tịch diệt, nó làm cho tâm vô tham, vô sân, vô si, nó làm cho mình không có khổ nữa. Cái hỷ lạc này nó làm cho mình không khổ nữa, cho nên, do đó mình phải ly dục ly ác pháp để chứng và trú Sơ thiền- một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh. Đó là hỷ lạc thứ nhất của con đường tu tập chúng ta, tức là lộ trình thứ 2 đó.Vậy thì bây giờ nói về hỷ lạc thì đức Phật nói có một cái định gọi là Hiện tại an lạc trú đó. An lạc cho nên nó có cái lạc ở trong đó đó, mà cái lạc đó là nó chứng qua trong 4 cái lạc này, đó là cái hỷ lạc thứ nhất.
2. Quý thầy tịnh chỉ tầm tứ.Tịnh chỉ tức là ngưng lại, không cho tầm tứ nó còn nữa đó.Chứng và trú thiền thứ 2 một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ nội tĩnh nhất tâm. Đó là hỷ lạc thứ 2, nó rõ ràng. Quý thầy thấy định sanh hỷ lạc. Nó không giống cái hỷ lạc của ly dục sanh hồi nãy. Mà đây là cái định sanh, trạng thái hỷ lạc này nó có khác hơn nhưng nó cũng không phải khác xa cái chỗ ly dục đó đâu. Bởi vì ly dục là tâm thanh tịnh, mà cái nhất tâm này nó không tầm không tứ cũng là thanh tịnh, cho nên nó không khác xa, nhưng mà nó sâu hơn, nó nhiều hơn.
3. Quý thầy lìa xa các trạng thái tưởng. Bây giờ mình tới cái hỷ lạc thứ 3 thì quý thầy xa tất cả các trạng thái tưởng. Xa cho đến khi mà xa giấc mộng chiêm bao của quý thầy luôn nữa. Quý thầy lìa xa các trạng thái tưởng, trú ở hơi thở, ly sạch 6 loại tưởng, chứng và an trú thiền thứ 3. Đó là hỷ lạc thứ 3. Ở trong kinh thì Phật nói ly hỷ trú xả, chứng thiền thứ 3, còn Thầy ở đây thì thầy nói một cách rõ ràng hơn để cho chúng ta nhận ra được. Là do chúng ta lìa xa các trạng thái tưởng, bởi vì lúc này ý thức của chúng ta là diệt tầm tứ rồi, cho nên ý thức nó ngưng rồi, nên cái tưởng thức nó hoạt động. Do tưởng thức hoạt động mới sinh ra những trạng thái làm chúng ta thích, vui cho nên gọi là hỷ đó, có cái này xảy ra, có cái kia xảy ra chúng ta vui. Ví dụ thấy hào quang, thấy bay bổng lên trời, thấy mình có thiên nhãn, thần nhãn. Do đó mình thấy nó làm cho mình thích thú, mình thích thú tức là vui. Cho nên Phật mới nói ly hỷ, Thầy nói tận gốc còn Phật nói là cái trạng thái vui. Nhưng mà cái gì làm chúng ta vui? Nó phải có cái vui. Còn ở đây Thầy nói trạng thái làm cho chúng ta vui mà không nói hỷ, nhưng mà nói trạng thái đó, cho nên chúng ta phải lìa tất cả các trạng thái xảy ra mà làm cho chúng ta vui đó, thì do đó chúng ta gọi là ly hỷ. Vậy thì chúng ta phải xả sạch, ly sạch 6 cái tưởng này thì chúng ta mới chứng và an trú thiền thứ 3, do đó hỷ lạc thứ 3 sanh. Chúng ta mới có cái hỷ lạc thứ 3 sanh
4.Đến đây quý thầy sẽ tiếp tục để thấy nó có 4 cái loại hỷ lạc.
Quý thầy tịnh chỉ hơi thở, nhập tứ thiền. Phật nói xả hỷ xả lạc xả niệm thanh tịnh là nhập Tứ thiền. Ở đây Thầy không nói vậy, Thầy nói rất rõ ràng cụ thể, làm sao cho hơi thở ngưng là nhập Tứ thiền chứ không cần phải không cần xả. Mà ngưng tức là xả hỷ xả lạc rồi, có phải dễ không. Các thầy thấy chỗ Thầy dùng thì nó dễ hiểu và dễ rõ, còn nói xả hỷ xả lạc không biết xả làm sao cho hết hỷ, xả làm sao cho hết lạc, xả làm sao cho hết niệm thanh tịnh, thì nó hơi khó. Nhưng ở đây thầy chỉ cần nói tịnh chỉ hơi thở là nhập Tứ thiền. Mà nhập tứ thiền là hỷ lạc thứ 4 sinh ra. Có gì đâu, cái hỷ lạc đó ai tới đó thì biết cái hỷ lạc đó. Chớ bây giờ nói hỷ lạc như là dục lạc như ăn miếng ngon thì sai rồi, ăn miếng ngon mà thấy ngon thì đó là trật rồi. Bởi cái hỷ lạc đó đâu có ăn ngon. Cho nên có nhiều người nói tôi nhập định tôi thấy sung sướng lắm, sảng khoái lắm, điều đó là dục lạc chứ không phải hỷ lạc của thiền định. Phải hiểu cho đúng cách thì chúng ta mới thấy con đường tu của chúng ta đúng, còn nếu không thì chúng ta sẽ không thấy.
Bốn loại hỷ này nhất định đưa tới yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, giác ngộ, thắng trí, niết bàn, hỷ lạc này xứng thánh hạnh. Cái hỷ lạc này là cái hỷ lạc của bậc Thánh người ta thọ hưởng hỷ lạc này, chứ phàm phu thì không bao giờ rớ tới nó được. Bây giờ nghe nói ly dục ly bất thiện pháp để sanh hỷ lạc thì quý thầy có biết cái hỷ lạc nó ở đâu đâu. Bởi vì mình chưa có ly dục mà, tâm mình còn ham muốn cái này cái kia mà, làm sao mình biết, chừng nào mình ly sạch rồi mình mới biết. Thì đó là những cái mình chưa làm được cho nên mình chưa thấy hỷ lạc đó. Cũng như bây giờ người ta nói ăn miếng bánh này ngon quá, mà mình chưa có ăn mình biết ngon làm sao. Chỉ nghe theo, nghe nói vậy thôi, chừng nào mình bỏ vô miệng mình nhai mình nuốt, đó là hỷ lạc của dục. Mình ăn mình mới biết nó ngon, nó ngọt, nó đắng cay trong đó. Còn bây giờ chưa ăn nghe người ta nói cái bánh này ngon lắm, cái bánh này làm đâu bên Hoa Kỳ đó, mới đem về đây, thợ làm bánh này rất khéo, rất ngon, ăn cái mùi vị đặc biệt không có cái bánh nào ngon bằng. Người ta nói vậy chứ mình chưa nếm lưỡi mình chưa biết. Thì bây giờ 4 cái hỷ lạc của pháp này thì các thầy chưa có biết, chưa có nếm được. Mà nếm được rồi quý vị mới biết mùi vị của nó, nó không phải ngon như cái bánh mà chúng ta ăn mà nó có vị ngọt ở trong miệng đâu. Ngọt ở trong miệng đó là dục lạc chứ không phải gì. Bởi vậy khi có tu tới rồi người ta nói thì biết, nói thì biết. Mà chưa tới thì nói gì chúng ta tưởng tượng ra cũng không nổi, mà tưởng tượng ra nó thành ra dục lạc. Cho nên vì vậy quý thầy do sức tưởng ra mới ngồi nghe khinh an, mới nghe nhẹ nhàng, thoải mái, sung sướng. Cha, cái này là hỷ dục chứ hỷ lạc gì. Đó là cái sai, không có đúng. Ở đây chúng ta có 8 loại hỷ lạc, 4 loại thuộc về phàm phu thường sanh ác pháp, 4 loại thuộc về bậc thánh thường sanh các thiện pháp. Bây giờ quý thầy đã rõ hỷ lạc nào đúng và hỷ lạc nào sai, thì hãy chọn cái đúng mà đi, cái sai mà bỏ đi, để kiếp kiếp đời đời thoát khỏi khổ đau. Cái sai thì nó luôn luôn gắn liền với khổ đau mà cái đúng thì nó mới thoát ra khỏi khổ đau. Thầy vạch quá rõ còn đi hay không đi là quyền của quý thầy, còn muốn hay không muốn là do quý thầy chứ thầy không có còn cõng quý thầy đi được nữa. Quý thầy nhớ Phật ngày xưa cũng nói: các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta không thắp đuốc cho các con đâu. Thì các con hiểu điều đó, bây giờ các con rõ rồi đó. Thầy vạch ra 2 lộ trình rất rõ, đầu tiên thì giảng nói cái này kia, nhưng bây giờ tới giai đoạn này thì các con biết thầy đã chỉ cho thấy rõ ràng 2 cái lộ trình. Phải bước 1 lộ trình chứ không thể nào bước 2 lộ trình được.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét