NGŨ GIỚI, BÁT GIỚI, THẬP GIỚI, CỤ TÚC
GIỚI
Như là chúng ta thọ ngũ giới đó, thì ngũ giới nó nằm ở trong tam
quy cho nên gọi là ngũ giới tam quy, các thầy hiểu chưa? Đó, còn phiên tà có
nghĩa là bắt đầu, sự bắt đầu của chúng ta tức là bắt đầu tam quy. Cho nên đầu
tiên tiến vào cửa Phật đó là cái danh từ của nó gọi để chúng ta thấy rằng chúng
ta bắt đầu vào đạo Phật đó thì chúng ta phải bắt đầu tam quy, kế đó thì chúng
ta phải ngũ giới tam quy, thì từ tam quy đó lưu xuất ra ngũ giới. Cho nên chúng
ta phải thọ ngũ giới, đó là quy y ngũ giới. Sau khi tin thọ Phật thì chúng ta
thọ thêm ngũ giới.
Ba, Bát giới tam quy là tức là thọ bát quan trai đó,
các thầy thấy chưa, lẽ ra ở chỗ này thì chúng ta nên thêm cái chỗ này nó đúng
bởi vì theo Thầy thấy là cái chỗ này cái bát giới quan trai đó là cái chỗ mà
cái người cư sĩ người ta tập, tập theo cái hạnh của người tu sĩ. Cho nên người
ta thọ một ngày đêm đó, các thầy nghe trong chùa mà hay dạy chúng ta thọ bát
giới quan trai đó, thì đó là tập luyện để mà chúng ta bước qua cái giai đoạn
thứ hai, cái lộ trình thứ hai.
Thì cái chỗ này theo trong kinh sách nói thì là thứ 3 thì Thầy
thấy Thầy cũng viết ra đây để cho đúng nhưng mà Thầy sửa lại, Thầy thấy nó
không đúng. Là vì ở trong cái vai trò, cái lộ trình của người cư sĩ đó thì nó
phải thọ thập thiện tam quy nó mới đúng. Bởi vì thập thiện là
mười cái pháp lành, mười cái pháp lành rồi mới có thể thọ bát quan trai mới
đúng, thì nó như vậy mới đúng. Vậy cho nên quý thầy nên sửa lại, là cái thứ ba
đó, là thọ thập thiện tam quy, là trau dồi thập thiện đó, bởi vì
cái người cư sĩ phải là thọ thập thiện để mà trau dồi. Khi mà ngũ giới rồi thì
tức là thập thiện, nó phải đúng chớ, rồi bắt đầu chúng ta mới thọ bát quan trai
đó thì chúng ta phải tập dần để mà chúng
ta bước vào lộ trình thứ hai, để mà trở thành người tu sĩ, thì thọ bát quan
trai là một ngày một đêm là tập cái hạnh của Sa Di đó, cho nên nó mới có bát
quan trai này.
Đó thì như vậy là thọ bát quan trai là bát quan trai tam quy đó là
thứ tư. Còn thập thiện tam quy là thứ ba. Đó thì Thầy sửa lại, đổi lại cho nó
đúng cái vị trí của nó.
Tới cái thứ năm là thập giới tam quy, đó là Sa Di,
Sa Di ni đó, thọ mười giới đó, tức là cái thứ năm này bắt đầu qua cái lộ trình
thứ hai của tu sĩ rồi đó, nghĩa là cái người xuất gia rồi đó, ly gia cắt ái rồi
đó.
Thứ sáu thì cụ túc giới tam quy, từ tam quy đó mà
sanh ra cụ túc giới cho nên Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni dâng thọ đại giới, bây giờ mà
thọ đại giới là 250 giới, 348 giới đó là cụ túc giới tam quy. Đó là quy y tam
bảo ở đây nó có sáu cái bậc chứ không phải năm bậc, mà nó có sáu cái bậc. Bởi
vì thập thiện tam quy mà ở trong kinh sách giới thì nó chỉ có để năm thôi. Là
nó năm bậc cho nên Thầy thấy thập thiện tam quy họ không có viết tức là họ đã
bỏ. Họ đã bỏ trong cái vai trò của lộ trình của người cư sĩ thì cái đó là cái
sai cho nên họ bỏ ra. Thập thiện tam quy nó rất là rõ ràng cái pháp thiện mà
người tu sĩ cần phải thực hiện trong cái đời sống của họ, họ mới biết thiện
biết ác mà họ sửa mình chứ. Còn nếu không biết thiện biết ác thì họ làm sao họ
biết đâu mà họ sửa.
Đó, thì cho nên ở đây Thầy thêm một cái phần thập thiện tam quy là
nó có sáu cái điều kiện mà quy y tam bảo, nó có sáu cái bậc như vậy, sáu cái
bậc là sáu cấp bậc mà tu hành theo đó mà
có thể phân chia ra cấp bậc mà chúng ta
tu hành nó mới đúng.
Tại sao Thầy dám thêm, Thầy dám bớt là tại vì Thầy thấy cái lộ
trình của giới kinh nó rõ ràng lắm. Cho nên Thầy nắm giới kinh mà Thầy biết đi
cái chỗ nào đúng, cái chỗ nào sai. Còn cái giới bổn nó bỏ như vậy, nếu mà một người cầm giới bổn không thì chắc chắn là
phải tin có năm thôi, có năm bậc chứ không thể nào mà nói sáu bậc được.Nhưng mà
nằm trong giới bổn Thầy thấy rõ ràng là khi bước qua giới hạnh mà tu tập thì
đức Phật dạy cái thập thiện này rất rõ. Về thân thì nó có 3 hành động này, rồi
khẩu nó có 4 này, rồi ý nó có 3 tham sân si này thì đó là thập thiện rồi. Do đó
mà trong cái giới kinh Phật nhắc tới nhắc lui cái thập thiện rất nhiều mà trong
cái giới bổn thì làm như người ta quên đi, người ta bỏ cái thập thiện đi. Đó là
người ta đã coi thường thập thiện, mà
người ta sơ sót, người ta hông thấy. Cho nên ở đây Thầy dựa vào giới kinh mà
Thầy thêm vào cái chỗ này chúng ta mới thấy rằng quy y Tam Bảo nó có sáu bậc
chứ không phải nó có năm bậc như ở trong kinh giới nói. [05:00]
Tam quy chẳng những là căn bản của tất cả giới mà còn là căn bản
của sự tu tập hàng ngày của tiền đồ Phật giáo. Tam quy là gốc sinh ra Phật pháp
cho nên Phật giáo Nam Tông xem tam quy rất quan trọng, họ xướng tam quy bằng
danh từ suông để hành trì. Họ xem cái sự tam quy đó quan trọng lắm, cho nên khi
mà họ xướng lên để mà thọ tam quy đó, nó có cái vẻ trịnh trọng lắm. Nhưng mà đó
là bằng những danh từ suông.
Và cũng xướng tam quy mê tín để khấn nguyện cho người, nghĩa là
Thầy nói bên Nam Tông họ xướng cái tam quy đó nó có nhiều cách, nó xướng suông
để làm cho cái vẻ long trọng của buổi lễ tam quy đó. Ở đây Thầy không có được
nghiên cứu nhiều ở bên nước nó, Thầy không có dịp đi để mà xem thọ cái tam quy
nó như thế nào. Nhưng mà dựa vào những kinh sách thì người ta nói đó thì Thầy
chỉ dựa vào đó Thầy nói ra ở chỗ này để chúng ta thấy được là.. nói họ làm cái
lễ thì nó nghiêm trang lắm nhưng mà họ xướng lên thì đó là cái danh từ suông
thôi, bằng chứng là tại sao chúng ta biết là danh từ suông? Nếu mà một cái
người nó có đi vào cái thâm tâm mà tam quy thì nó không có thể nào thực hiện
cái ác pháp của nó mà cầm súng, cầm dao
giết người như vậy. Đó là cái thứ nhất bằng chứng để chúng ta thấy cái hiện tại
chứ không thể nào chúng ta dựa vào cái hình thức mà tôn trọng cái trang nghiêm
đó mà cho rằng nó là thiện pháp đâu.
Cho nên qua cái hạnh ác của họ thì chúng ta chứng minh rằng cái
thọ tam quy đó là cái hình thức, hình thức suông. Không có gieo được trong tâm
hồn của họ một cái thiện pháp cho nên họ
dám cầm súng, cầm dao, cầm rựa họ giết người một cách rất là tàn nhẫn.
Và cũng xướng tam quy mê tín để khấn nguyện cho người, nghĩa là
xướng tam quy lên cũng như mình nói là tam quy gia hộ cho mình thế này thế
khác, đó là cách thức của họ. Vì vậy mà ở Việt Nam Đại Thừa của chúng ta cũng vậy,
khi nói tam quy là cứ nói tam quy gia hộ đó. Đó là cái lối dạy người mà khi thọ
tam quy có hình thức mê tín trong đó, làm cho người ta mất cái thấy thiện pháp
ở trong tam quy mà người ta thấy có cái
vẻ trịnh trọng bằng cách này, bằng cách khác qua cái hình thức đó làm cho người
ta hăng máu hơn chứ còn người ta không có
thiện pháp được.
Vì thế tu sĩ Nam Tông hành tam quy bằng miệng lưỡi. Đời sống họ
chẳng giống Phật chút nào, ăn uống phi thời, ăn thịt chúng sanh, dựa vào các bộ
luật, phi luật của người đời sau nên không có giới lý rõ ràng, giới hành rõ
ràng. Nghĩa là cái giới lý của họ nó không có rõ ràng, nó phá chỗ này nó chắp
chỗ kia, nó không có rõ ràng. Giới hành cũng không có rõ ràng. Nghĩa là nó
không có cái giới hành nữa, làm cho người tu thiền Nam Tông sinh ra các loại
thiền ngớ ngẩn chẳng biết cách thức nhập định như thế này như thế khác. Tự kiến
giải ra loại thiền Minh Sát Tuệ, đó thì quý thầy có đọc cái thiền Minh Sát Tuệ
không? Phật dạy hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Ông ta
dạy thở phình, xẹp, phình xẹp nếu mà cứ tập trung cái bụng mà phình lên xẹp
xuống kiểu này ít bữa cái bụng nó thành cái trống chầu vậy nè, để cho mấy ông
làng ông xã đánh rước thần, rồi tu chẳng tới đâu hết, rồi cái minh sát ra, minh
sát là vô thường khổ vô ngã.
Đó là những cái mà không hiểu được cái đường lối của đạo Phật cho
nên từ cái chỗ tu ức chế tâm bằng cách nương theo cái bụng lên xuống gọi là
phình xẹp, phình xẹp đó, phình xẹp riết chắc là nó thành cái trống. Cho nên do
những cái không hiểu Phật pháp rồi dựa vào những cái kiến giải quá tầm thường
mà những cái bài kinh của Phật mà bên Nam Tông họ viết rất nhiều, kinh sách họ
đâu có phải như mình đâu, bán đầy chợ, đầy búa hết, loại nào cũng có hết. Lấy
định vô lậu và định niệm hơi thở câu hữu không đúng cách. Lấy Tứ niệm xứ làm
thiền quán, thiền quán sai chẳng rõ trong tứ niệm xứ có ba tướng, nhân tướng,
hành tướng và đặc tướng. Biến tứ niệm xứ thành loại thiền quán sai bét. Họ
chẳng biết Tứ niệm xứ là niệm lực, mà còn niệm thì làm sao gọi là thiền. Vậy mà
họ gọi Tứ niệm xứ là trái tim thiền định. Đó họ đặt cái tên của Tứ niệm xứ là
trái tim thiền định, quý thầy nghĩ sao? Mà Tứ niệm xứ là còn niệm làm sao gọi
là thiền định. Họ hiểu như thế nào? Người ngu, người ngu si không thấu rõ giới
hành của Phật, biến giới hành thành pháp môn thiền định điên khùng cho nên
không thể nhập được Bốn Thánh định của đạo Phật. Đó thì bằng chứng các thầy
thấy có những vị thiền sư của Nam Tông họ tu, họ rút vô nhả ra, rồi rút vô nhả
ra rồi họ nghe trời sét hoặc là đại địa này nó nổ bùng lên hết rồi bắt đầu họ
chứng ngộ, chứng theo kiểu thiền tông đó. Tu thiền của phật giáo nguyên thủy mà
họ chứng riết thành Thiền tông hết ráo. Đó thì những cái trạng thái và những
cái bài pháp của họ qua những kinh nghiệm họ để lại, những cái lời tự thuật của
họ, của những vị thiền sư này Thầy được đọc Thầy thấy toàn là thứ không hiểu
Phật pháp kiến giải ra tu hành.
Phật dạy cái lộ trình thiền định như thế nào để đi đến đó? Họ
không chịu ly dục ly bất thiện pháp, họ không chịu rời ăn thịt, ăn máu chúng
sanh, mà họ làm sao họ ly được cái ác pháp được hông? Cho nên làm sai cái ác
pháp ngay trong miệng họ. Họ nuôi cái tà mạng họ bằng xương máu chúng sanh, họ
gọi là họ ly, ly cái gì mà Phật dạy ly dục ly bất thiện pháp là ác pháp chứ gì?
Mà hàng ngày họ ăn những cái ác pháp thì làm sao họ ly, mà họ không ly thì làm
sao có định được? Cho nên ba cái định này đều là ba cái định tưởng của họ, họ
tưởng ra họ vẽ ra, họ dạy. Bây giờ kinh sách ở bên nước họ mang qua Việt Nam
bán đầy chợ, thử hỏi quí thầy có tin không? Nào là Trái tim thiền định, nào là
Thiền Minh Sát Tuệ, ở trong chùa nào của mình giờ cũng có hết chứ đừng nói. Bây
giờ cư sĩ các con cũng có, coi như là các con cũng đọc nhạo hết mấy cái thứ đó
rồi chứ không phải là không. Còn bao nhiêu thứ đặt ra nào là Thiền quán ba mươi
mốt, ba mươi tám ngày gì nội tu ba bốn bốn mốt ngày là nhập định, trời ơi thiền
gì mà nhập mau dữ vậy, nói sao mà nói vọng ngữ đến mức cái độ Thầy không ngỡ
được. Phật pháp gì mà có chuyện dạy kỳ vậy, nội cái ly dục ly bất thiện pháp
nhập cái sơ thiền không đã gần chết người ta rồi. Hở hở ra chút thì nó ham muốn
cái này, hở hở ra chút thì nó sanh ra ác pháp nó giận hờn thương ghét đủ thứ ở
trong này, biểu ly có bao nhiêu đó mà ly không được còn ở đó mà nhiếp tâm thiền
định cái gì.
Đó thì nói cho hết để cho quý thầy thấy được con đường Phật pháp
bây giờ nó lộn xộn, nó ngầu xà ngầu hết nó đầu chẳng ra đuôi, đuôi chẳng ra
đầu.
Che dấu sự vô minh họ bảo đời mạt pháp không ai nhập định được, họ
không nhập ra được định là do ly dục ly ác pháp mà tâm có định. Vì thế mọi pháp
hành thiền định của họ toàn là thứ ức chế tâm và nén tâm cho nên tu hành chẳng
đi đến đâu. Rất uổng phí đời tu hành rồi đây sẽ sa địa ngục cả đám để trả nợ
máu xương của chúng sanh. Luật nhân quả không tha từ một ông nào. Phước hết thì
họa đến, sanh thiên còn phải đọa xuống địa ngục huống là các ông.
Đó thì ở đây Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng Phật giáo
bây giờ nó không có cái lối mà chúng ta hiểu biết với các ông thầy này đâu, bên
Nam Tông cũng như là bên Bắc Tông của chúng ta chẳng ai mà có thể nói là...
Thầy không phải hơn ai hết nhưng mà phải dựa vào trong kinh sách của Phật
Nguyên Thủy hẳn hòi gốc nói ra chứ Thầy không có hơn ai hết. Nhưng mà Thầy nói
là Thầy nói qua cái chỗ mà Thầy đã có cái kinh nghiệm biết được cái chỗ đó. Từ
mười năm ở trong giữ gìn giới hạnh nghiêm túc cho đến ngày hôm nay được chút
chút đỉnh thiền định làm chủ được cái sống chết của mình Thầy mới dám nói lời
này. Nếu không được vậy chẳng dám nói ai hết, vì mình nói như vậy mình có biết
mình có đúng hay sai? Mình có làm được không, đây mình sa xuống địa ngục sao?
Nói người ta mai mốt mình ngáp gió, mình nằm đó mình lăn lộn trên cái giường
bệnh chúng nó cười mình đó, còn bây giờ mình làm được mình dám nói. Mình dám
nói để rồi mai mốt mình có chết đi thì người ta cũng nói ở ông thầy này ông ấy
nói được chứ ông cũng làm được đây, người ta còn tin chút mình nói đúng. Còn
không khéo mình nói ho dữ đi rồi đến chừng đó nhăn răng méo miệng há họng người
ta chở vào nhà thương mổ xẻ từng tấm da lúc bấy giờ người ta cười đó. Phải biết
cái chỗ nói mình nói chứ, mình nói mình phải làm sao cho được mình mới dám nói
chứ. Nói mà nó mạnh thế này mà làm không được chúng còn xé xác mình nữa, ông
nói giỏi bao nhiêu ông thầy vô nhà thương. Ông nói giỏi bây giờ ông làm đi coi
coi, tôi đập ông đó chớ, phải hông? Đó là cái hẳn nhiên bởi vì nhân nào thì
phải quả nấy à, mà mình nói mình làm được chẳng sợ ông nào hết.
Sau khi chúng ta đã có khái niệm, à bây giờ đây về phần một quy y
Tam bảo như thế nào, Thầy đặt thành cái đề mục của nó, sau khi chúng ta đã khái
niệm hiểu biết về quy y tam bảo rồi thì phải nên quy y tam bảo. Nghĩa là mình
đã hiểu được khái niệm của quy y tam bảo rồi, như Thầy đã nói quý thầy đã hiểu
rồi thì bắt đầu bây giờ quý thầy mới quy y tam bảo, nghĩa là khi bây giờ quý
thầy đã quy y tam bảo rồi. Nghĩa là quý thầy đã có những vị thầy quy y tam bảo
rồi, nhưng bây giờ quý thầy thấy rằng quý thầy theo ông thầy đó quy y tam bảo
không đúng cách, quý thầy có thể xin quy y tam bảo lại, chớ không có lỗi lầm gì
hết bởi vì cái ông thầy đó không có đủ cái sức đại diện mà quy y tam bảo cho
quý thầy đâu. Người ta không có dẫn quý thầy đi vào thiện pháp mà người ta dẫn
quý thầy đi vào ác pháp, qua cái hành động sống của họ tức là họ sẽ dẫn quý thầy
vào ác pháp.
Cho nên chúng ta từ giã mấy ông thầy đó đi, đi tìm những cái bậc
nào mà có đủ thanh tịnh nghiêm túc như tam bảo để đứng ra làm cái lễ cho chúng
ta quy y thì chúng ta hãy chọn những bậc thầy đó mà làm thầy của mình. Thầy nói
đây không có nghĩa là quý thầy xúm lại quy y với Thầy đâu, Thầy ẩn bóng rồi
đừng có mong mà tìm Thầy nữa. Bởi vì nếu mà Thầy nói ra mà để cho quý thầy tập
trung về mà Thầy quy y làm đệ tử của Thầy tức là Thầy còn danh còn lợi đó. Cho
nên Thầy đề nghị khi mà Thầy nói ra tất cả những cái này rồi thì quý thầy khó
mà tìm Thầy, gặp Thầy quy y Thầy đâu.
Để nghi lễ quy y tam bảo lúc Đức Phật còn tại thế. Lúc mà Phật còn
tại thế thì người quy y tam bảo nó không có dùng cái nghi lễ, nghĩa là trong
kinh nó diễn tả cái này rất rõ ràng, nghĩa là không phải dùng cái lễ gì hết.
Như người đệ tử đầu tiên quy y tam bảo với đức Phật Thích Ca là cha của Da Du
Dà, ông chỉ ở trước đức Phật nói lên, phát lên ba lần như thế này: “Con nay
quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng cúi xin Thế tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc”.
Đó là ông nói ba lần như vậy, ông quỳ xuống trước đức Phật ông nói ba lần vậy
xin đức Thế Tôn nhận con làm Ưu Bà Tắc vì đức Thế Tôn là nhất thể tam bảo cho
nên ông đứng trước đức Thế Tôn mà xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Khi mà nói lên là sau khi ông được nghe một cái bài pháp chứ không
phải đơn giản đâu, cái bài pháp đó nó làm cho ông thấm thía được cái cuộc đời
của ông, ông thấy chỉ có ba ngôi tam bảo là thiện pháp, đem cái đời sống ông
giải thoát mà thôi, từ đó nó ngộ được cái lý sâu sắc cái bài pháp đó. Cho nên
thường thường chúng ta đọc kinh hầu hết là người ta những người cư sĩ đó họ
chưa có cắt lìa được, họ chưa có xuất gia được thì họ xin là làm Ưu Bà Tắc hay
Ưu Bà Di -Ưu Bà Tắc là nam, Ưu Bà Di là nữ. Cho nên đây là cái ông này, ông là
Ưu Bà Tắc tức là nam, còn cái người nữ mà xin Phật làm cư sĩ nữ thì gọi là Ưu
Bà Di, đó, Thầy phân biệt, bởi vì hai chúng cư sĩ mà, chúng nam chúng nữ đó.
Cho nên vì vậy ông này ông đứng lên quỳ xuống đức Phật ổng xin ổng
là cái lời nói như vậy là cái lời nói nó phát ra gọi là Tam quy. Còn ông Phật
thì ông làm thinh ông chấp nhận thôi chứ ông không nói gì hết, tức là tam kết
chứ không phải như bây giờ, a tốt lắm như vậy là quý lắm, đó là mình kết người
ta chứ gì, rồi bắt người ta thệ đừng có quy y quỷ vật thiên thần nữa, đó là bắt
người ta thệ. Ông Phật hồi đó không bắt ai thệ, bắt người ta thệ tức là ghép
người ta không có dám rời, người ta tu hành một thời gian người ta không thấy
được người ta cứ rời chứ, ép buộc người ta vào cái đạo của mình là đạo thiện
pháp mà. Có lợi ích thì người ta đến, còn người ta thấy không lợi ích, người ta
muốn ở ác pháp thì người ta cứ về. Chứ căn cớ gì mà bắt người ta thề, buộc chân
người ta cứ theo mình hoài, mà người ta theo mình người ta làm không được phải
làm khổ cho người ta thêm không?
Đó cho nên đạo Phật không có cái mà thề ở trong đó, còn cái tôn
giáo khác thì họ có bắt thề. Đức Phật làm thinh biết là đức Phật đã nhận lời
chớ còn mình đây mấy ông thầy mình sao. Thiện hỷ làm tốt lắm được vậy tốt lắm,
nói một lời khi mà phát lên nói tốt như vậy là kết họ đó, cho họ dính vô đó,
gọi là tốt.
Từ đó họ được xem là thọ quy y tam bảo, thọ quy y tam bảo rồi.
Nghĩa là sau cái lời đó rồi thì cuối cùng cái người cư sĩ đó họ là đệ tử của
Phật rồi, họ không còn là đệ tử của ngoại đạo nữa, từ đó họ đến với tịnh xá,
đến với đức Phật chứ không bao giờ họ đến cái nơi của ngoại đạo đâu.
Tại sao lúc bấy giờ chưa có đủ tam quy thì làm sao có quy y được,
Phật có một mình và pháp chưa thuyết. Nghĩa là lúc bấy giờ có một đệ từ đầu
tiên là cái ông là cha của Da Du Dà đó, chỉ có mình ông đó là người đầu tiên mà
làm đệ tử cư sĩ của Phật, chứ không phải 5 anh
em Kiều Trần Như đâu. Quý thầy nói 5 anh em Kiều Trần Như là tu sĩ còn cái ông
cư sĩ, mà không phải có một ông này đâu còn hai người nữa là những cư sĩ mà đệ
tử của Phật đầu tiên đó. Thì bây giờ đức Phật chỉ có một mình à, Pháp thì chưa
thuyết chưa có nói, bởi vì đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên là dạy cho
năm anh em Kiều Trần Như chứ đâu có dạy ai đâu. Các thầy hiểu bởi vì đó là cái
pháp đầu tiên Phật nói ra với năm anh em Kiều Trần Như còn cái ông cư sĩ này có
nói pháp cho ông nghe chưa đâu, phải hông? Nhưng mà qua oai nghi tế hạnh, rồi
qua những cái điều kiện hoàn cảnh của ông ta, ông hỏi thì Phật thuyết pháp cho
ông ta nghe nó đúng cái hoàn cảnh ông ta mới thấu hiểu được cái giáo lý của đạo
Phật. Thì tức là đức Phật phải có thuyết pháp nhưng đâu phải là cái bài pháp đó
là cái bài đầu tiên. Bởi vì bài pháp đầu tiên phải nói là Tứ Diệu Đế rồi, thì
những cái này là những cái duyên mà người ta gặp hỏi thôi. Rồi ông ta hỏi bây
giờ con tu vậy đó, sai hay là đúng, phải hông? Hoặc là con nghe kinh đó vậy vậy
như thế nào? Phật mới giải thích chứ không phải là đem pháp giảng để dạy cho
người ta hiểu đó là cái tà, cái chánh kiến thôi.
Đó thì như vậy thì các thầy thấy đó là không phải
cái bài pháp đầu tiên đâu, cái bài pháp đầu tiên là thuyết giảng cho 5 anh em
Kiều Trần Như. Cho nên đây là chỉ nhắc lại, nhưng mà ông này ông ấy lại nhận ra
được cái lời của Phật dạy quá là tuyệt, đúng, đúng là cái môi trường của ông là
như vậy sai quá sai rồi. Cho nên ông thấy là chỉ có đức Phật là người hướng dẫn
ông đúng chánh pháp, mặc dù ông chưa hiểu cái chánh pháp đó ra sao hết nhưng mà
nói nghe hợp lý, nghe đúng cho nên từ đó ông mới xin làm đệ tử cư sĩ của Phật.
Phật có một mình chưa thuyết pháp làm sao có Pháp
bảo, tăng chưa độ làm sao có tăng bảo thế mà đức Phật nhận quy y người. Lúc nãy
Thầy có dạy nhất thể tam bảo quý thầy có nhớ không? Từ trong Phật có đủ ba ngôi
tam bảo:
- Một, Phật có cái khả năng giác chiếu nên gọi là
Phật bảo.
- Hai, Phật thuyết pháp tự tại vô ngại cho nên có
cái khả năng hủy trì vì thế gọi là pháp bảo.
- Ba, Phật không có hý luận tranh luận vì thế gọi
là tăng bảo. Do vậy từ một đức Phật có đủ ba ngôi tam bảo.
Như vậy từ một Đức Phật có đủ ba ngôi tam bảo như
vậy, Da Du Dà quy y tam bảo mà không thiếu một bảo nào nên đã thành quy y tam
bảo, còn thiếu thì chẳng thành.
Đó bây giờ thí dụ có một mình Phật à, mà quy y có
Phật không thì ba ngôi kia làm sao đủ, thì ba ngôi kia không đủ thì làm sao gọi
thành tam bảo được. Đó mà ở đây mọi nhất thể tam bảo chúng ta thấy ông Phật là
đủ hết rồi. Cho nên khi mà vị cư sĩ này đã quy y Phật là thành quy y tam bảo
không có còn thiếu nữa.
Tăng già đầu tiên của đức Phật là khi đã độ được
5 anh em Kiều Trần Như thì hóa tướng tam bảo mới đầy đủ. Bây giờ cái này là hóa
tướng tam bảo đây, còn hồi đó là nhất thể tam bảo đó. Còn hóa tướng tam bảo thì
bắt đầu có 5 anh em Kiều Trần Như mới có được 6 người đức Phật nữa mới là 6
người. Cho nên tăng bảo là 5 người đó, đó thì chúng ta thấy nó có cái giáo đoàn
nó có một cái tăng già rồi đó. Thì bắt đầu từ 5 anh em Kiều Trần Như, còn trước
khi chưa độ 5 anh em Kiều Trần Như thì quy y tam bảo thì chỉ là chỗ nhất thể
tam bảo, đó, còn sau này có rồi thì gọi là hóa tướng tam bảo.
Các con thấy các danh từ như vậy mình phải hiểu
chứ còn nếu Phật pháp mà không hiểu như vậy lúc người ta hỏi nhất thể tam bảo,
hóa tướng tam bảo lúc bấy giờ mình nghe mình không biết cái gì hết. Nhất thể
tam bảo thì biết là chỉ có một mình ông Phật thôi, mà hóa tướng tam bảo thì
biết là có ông Phật với 5 anh em Kiều Trần Như và sau này chúng càng đông thì
đó là hóa tướng tam bảo hết.
Cho nên được xem là thọ tam quy rồi, sau đó đức
Phật còn truyền tam quy cho 2 người lái buôn và Lâm Vương rồi đến 5 anh em Kiều
Trần Như là chỗ nhất thể tam bảo. Nghĩa là ông Phật ông đã cho một cái vị cư sĩ
cha của Da Du Dà làm cư sĩ quy y tam bảo và đến đó một vị lái buôn và một vị Lâm Vương đó là 3 cái người đệ tử đầu tiên cư sĩ đó. Đó là
3 cái vị đầu tiên rồi sau đó mới độ 5 anh em Kiều Trần Như là độ những người tu
sĩ.
Bây giờ trong khi mà độ như vậy cho quy y 3 vị
đầu tiên cư sĩ đó gọi là nhất thể tam bảo và đồng thời đức Phật mà độ cho 5 anh
em Kiều Trần Như thì cũng gọi là nhất thể tam bảo vì lúc bấy giờ đức Phật đâu
có tam bảo. Mà 3 cái người này cũng phải, từ bắt đầu mà muốn thành tu sĩ thì
cũng phải quy y tam bảo rồi ngũ giới, rồi thập giới, thập thiện rồi cho đến 250
giới. Cho nên những người này mà được thành tu sĩ tỳ kheo thì nó cũng phải trải
qua các cấp bậc đó, chứ không phải là bây giờ có đức Phật rồi cái thọ 250 giới
liền không phải đâu. Mà lúc bấy giờ các thầy có thấy kinh bổn ra đời chưa? Chưa
có mà, 13 năm sau mới có kinh bổn ra chứ đâu phải.
Khi mà chúng Tỳ Kheo đã phạm pháp, đã phạm giới
còn chúng bấy giờ người ta không có phạm pháp, người ta không có phạm giới
luật, rất thanh tịnh, ăn ngày một bữa là một bữa. Còn chúng sau này ăn lộn xộn,
một ngày một bữa không ăn còn đi kiếm để dành, để...để ăn thêm. Như vậy Phật phải chế ra để ngăn cản mấy ông đó,
đó là sau 13 năm chứ không phải là khi mà 5 anh em Kiều Trần Như là đã có chế
giới đâu. Cho nên giới bổn sau này nó không có cái giá trị mà giới kinh thì lúc
bấy giờ là pháp bảo của Phật là giới kinh. Cho nên nó có từ ngay trong cái thời
đức Phật, nó lưu xuất từ cái miệng ông Phật, nó lưu xuất từ cái tâm tự tại vô
ngại của Phật mà nói pháp ra thì pháp bảo là giới kinh. Cho nên giới bổn nó ra
đời sau 13 năm nó mới ra đời.
Nghe trong kinh tạng Nikaya câu nói quy y tam bảo
thật là rất đơn giản và đầy đủ ý nghĩa, đây trong kinh Nikaya thường thường là
các vị mà xin để mà quy y tam bảo thì các vị nói như thế này: “Nay chúng con
xin quy y tôn giả Gotama, quy y pháp và quy y chúng Tỳ Kheo tăng. Mong tôn giả
nhận chúng con từ nay trở đi cho đến mạng chung chúng con trọn đời quy ngưỡng”.
Đó thì lời nói này trong kinh, trong kinh Nikaya thì cái lời nói này rất là
nhiều. Đây là một câu nữa: “Nay con xin quy y thế tôn, quy y pháp, quy y
chúng Tỳ Kheo tăng mong thế tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung
con trọn đời quy ngưỡng”. Bắt đầu quỳ xuống trước mặt, khi mà nghe bài
thuyết pháp xong rồi ngộ được cái lý của đạo Phật rồi bắt đầu những người này
mới quỳ xuống mới trước Phật, xin đức Phật cho mình được trọn đời cho đến ngày
mà mạng chung mình đều quy ngưỡng theo tam bảo.
Đó là câu trong kinh dạy quy y tam bảo rất là tự
nhiên đơn giản chứ không giống như cuội ở trong cái giới đàn tăng đó. Ở trong
giới đàn tăng nó dạy chúng ta theo các tổ mà đặt ra giới đàn tăng rồi đó, để
làm những cái lễ quy y chúng ta cách cuội lắm. À bây giờ Thầy nhắc câu đó bắt
các con phải nói trở lại, nhắc lại cũng như mà mấy ông đánh võ vậy đó, ở ngoài
mình thấy mấy ông đánh ngon lắm chứ sự thật mấy ông cuội để cho mình xem thấy
đòn nào ngon. Chứ còn đánh thật mấy ông chắc dập mặt hết đó, phải hông các con?
Đó là cái cuội. Vì vậy mà cái sự quy y theo Phật, Pháp, Tăng này Thầy thấy làm
cái kiểu trong giới đàn tăng Thầy đọc nghiên cứu Thầy thấy cái lối cuội. Ông
thầy đọc rồi bắt đầu, mấy con có quy y không, Thầy không biết có không chứ còn
Thầy thấy rõ ràng là mấy ông nói trước mấy con nói sau cứ lặp lại, lặp lại. Ít
ra mình muốn nói nó mình phải nói từ tâm nguyện mình chứ mình bắt chước nhại
lại của người ta thì cái tâm nguyện của mình lúc bấy giờ sao? Ráng lo mà nhớ
cái lời ông ta nói là hết sức rồi còn đâu mà cái tâm của mình như thế nào gọi
là quy y?
Các con phải biết nếu mình không nhớ được thì ít
ra mình cũng phải soạn cái câu nào đó để mình hướng đến tam bảo quy y mình phải
học thuộc lòng, từ đó mình thuộc lòng rồi tâm của mình nó duyên theo hình ảnh
của đức Phật, Tam bảo đó mà mình nói lên cái lời nói của mình. Tốt nhất là mình
để tự nhiên của mình lưu xuất ra chứ mình học câu cũng không hay nữa. Thầy nói
thật sự hông hay, còn cái này cuội theo mấy lão ngồi đó mà nhắc chừng cũng như
mình nhắc tuồng hát vậy đó. Thiệt ra thì rõ ràng là nhắc tuồng hát để rồi các
người quy y đó nhắc theo chứ có làm gì, chứ không phải là nhắc tuồng hát sao.
Đó thì Thầy thấy nó từ cái chỗ hình thức dẫn đến
nó sai nó sai làm sao mà nói lên cái tâm thành quy y của người nó đâu phải là
cái việc cuội như vậy. Cái chuyện mà làm giả như vậy được, nói hết để cho thấy
được cái trò bịp bợm người ta, gạt gẫm người ta nó đủ cách, nó không còn cái
hình thức thiêng liêng của cái tôn giáo người ta đến đó. Mà người ta cứ ngỡ
rằng, cái người mà làm đó người ta cứ ngỡ rằng đó là mình làm đúng chứ người ta
đâu có thấy được cái sai. Người ta làm sao người ta gợi được cái ý của người đó
đó, cái người mà muốn mà quy y tam bảo người ta hiểu được cái tam bảo như thế
nào để từ cái thâm tâm người ta, người ta quỳ trước tượng Phật, người ta quỳ
trước tam bảo mà người ta phát lên cái lời nói tận đáy lòng của người ta. Để
người ta quy ngưỡng để đem lại cái sự hạnh phúc, cái sự an vui, cái sự giải
thoát cho họ từ cái chỗ mà trôi lăn ở trong sanh từ đau khổ này mà người ta
chấm dứt được cái sinh tử đó, người ta mới có cái sự tha thiết đó chứ.
Nói như vậy 3 lần tức là chánh thọ tam quy, tam
quy giới, nói 3 lần như vậy đó gọi là chánh thọ tam quy giới. Sau là tam kết,
tức là cái ông thầy hướng khải đó gọi là tam kết là được một vị thầy chấp nhận
lời xin quy y đó. Chỗ trọng yếu của quy y là nói lên 3 lần chánh thọ tam quy,
nhận lấy giới thể vô tát của tam quy, cái giới thể của tam quy gọi là giới thể
vô tát tức là cái hạnh sống của tam quy đó. Cũng ở chỗ chánh thọ này tuy đơn
giản nhưng sự quy y như vậy trong một bầu không khí trang nghiêm, vắng lặng và
trang trọng thì tạo cho người quy y tam bảo cảm giác như có một sự thiêng
liêng, thâm u, huyền diệu biết bao. Cái lời nói trong cái sự trang nghiêm vắng
vẻ đó, cái lời nói đó chừng 1,2 người quy y người ta nói lên cái lời nói từ tận
đáy lòng. Nó làm cho cái cảnh giới lúc bấy giờ nó thiêng liêng vô cùng nó huyền
diệu vô cùng, nó làm cho người ta siêng vào cái thiện pháp rất là thấm nhuần ở
trong cái tâm hồn, từ đó quy y rồi về người ta không dám giết hại chúng sanh,
người ta không còn muốn ăn thịt chúng sanh.
Còn hầu hết bây giờ cư sĩ quy y tam bảo rồi về ba
cái thịt nuốt sạch, ông nào cũng vậy, thịt nó ngon mà, nó bổ mà, nó mập mà còn
ăn ba cái rau cải nó khô nó héo hết. Cho nên quy y rồi ở trong quy y đã nương
theo Phật rồi mà về mà nuốt thịt được thì Thầy thấy không có còn cái chỗ nào mà
Thầy chê được cái chỗ đó hết. Ba cái tượng trưng, ba cái chỗ mà thiện pháp cao
đỉnh nhất mà giờ cúi đầu, to tiếng nói lên những cái giọng là quy y tam bảo
rồi, thế mà về vợ con đem phở cái lên là ních, hông có tha tô nào hết, còn thêm nhiều tô nữa chứ, bữa nay
bà nó nhà nấu sao ngon quá, cho tôi tô nữa. Có hông? Thầy nói đâu có trật, nấu
dở dở thì ăn vài miếng thịt chơi thôi, dẹp, phải hông? Ăn thịt thôi chứ đâu có
phải lật ở dưới mà ăn giá đỗ đâu? Đâu có thèm bởi vì nó dở, chỉ nuốt ba cái
miếng thịt nó ngon. Quy y tam bảo mà còn thấy cái chỗ đó thì thiện pháp ở chỗ
nào. Thật sự ra họ không thấy Phật pháp là thiện pháp cho nên Thầy quét cho ba
cái ông mà theo Phật giáo mà làm cái điều ác.
Câu nói tuy đơn giản ngắn ngủi nhưng lời nói quy
y rõ ràng mạch lạc, nói ra lời nào chữ nào cũng phải rõ ràng nhấn mạnh tự tâm
hồn tha thiết hướng về người cha lành muôn một tuyệt đối chẳng được lôi thôi.
Nghĩa là lúc bấy giờ mình nói lên những lời nói đó tận đáy lòng của mình, phải
rõ ràng mạch lạc, lời nào ra lời nấy cho hẳn hoi. Bởi vì đó là đấng cha lành
của mình, ba ngôi tam bảo là đấng cha lành của mình, trong 3 cõi mà, đâu có phải
một cõi đâu, Cho nên mình hướng về đó là hướng về cả cái tâm hồn của mình.
Đại sư Hoằng Nhất nói: dù người xuất gia hay
tại gia lúc thọ tam quy, trọng yếu nhất là có 2 điểm, thứ nhất là người thọ tam
quy phải chú ý đến nghĩa của quy y tam bảo, thứ hai là ngay cái lúc thọ quy y,
vị thầy chịu trách nhiệm quy y phải giảng nói rõ văn ngôn phải đơn giản để cho
người nghe dễ hiểu, dễ nhận nếu không được vậy thì quyết chẳng đắc tam quy hoặc
cách xa nghe không rõ cũng chẳng đắc tam quy, hoặc tuy nghe hiểu, biết nhưng
trong đó có 2, 3 chỗ nghi mà không chịu hỏi thưa giải nghi thì cũng chẳng đắc
tam quy. Đó thì ở đây ngài Hoằng Nhất ngài là một giới sư cho nên ngài nêu
ra khi mà thọ tam quy, mà cái người mà đứng ra mà làm lễ tam quy mà không giải
nghĩa cho cái người mà thọ tam quy hiểu thì cái lỗi đó là lỗi của ông thầy đó.
Rồi mà giảng làm sao cho người ta nhận hiểu cho được rõ ràng, nếu mà người ta
ngồi xa quá người ta không nghe thì người ta cũng không đắc tam quy đâu, mà
nghe mà có chỗ nghi nghi ở trong đó thì cũng chẳng đắc tam quy đâu. Đó, cho nên
vì vậy đó, khi mà mình muốn nghe cái gì đó mà vì cái thọ buổi lễ tam quy khi
ông thầy giảng cho mình hiểu để lát nữa mình phát tâm lên mình nói lời nói quy
y tam bảo cho nó tận ở trong lòng của mình thì mình phải rõ thật rõ. Có nhiều
người quy y cả ngàn người hoặc cả trăm người ngồi đầy cái giảng đường này, đầy
cái nơi này, mà rồi lúc bấy giờ đó, họ ngồi ở dưới đó, dường như họ không nghe
họ ngủ nữa. Tới chừng đó biểu quy y họ cũng quỳ lên họ cũng nói, nói tầm ruồng
tầm đế, ông thầy nói sao họ nói vậy,
chứ hồi nãy không biết ông thầy ông ấy nói cái gì mà quy y tam bảo. Tới chừng
ra rồi hỏi ông quy y tam bảo rồi ông biết hồi nãy ông thầy nói gì không? Trời
đất ơi! tôi có biết đâu nhất thể tam bảo như thế nào, mà trụ trì tam bảo như
thế nào tôi chẳng biết hết á.
Bây giờ quý thầy đã quy y rồi Thầy hỏi nhất thể
tam bảo hoặc là trụ trì tam bảo, mà nếu mà Thầy không giảng ra, Thầy hỏi quý
thầy có hiểu không, có biết sao mà trả lời không? Mà người nào cũng quy y rồi
đó. Bởi vì nếu mà không có Thầy vạch ra cho rõ thì coi như là quý thầy có quy y
tam bảo cũng chẳng biết quy y tam bảo là cái thứ gì nữa chứ đừng nói, nó hông
biết là nhân duyên như thế nào nữa.
Tam quy rất là đơn giản, song muốn thật sự đắc
cái thể của tam quy cũng chẳng phải dễ dàng đâu, cho nên vì vậy mà quý thầy thọ
tam quy rồi có ông nào mà đắc tam quy đâu. Thầy nói về cũng vẫn ăn thịt cá thì
có đắc ở chỗ nào được đâu còn đắc tam quy rồi thì mình phải giống ông Phật chứ,
chứ làm sao mà…Cũng như mà các con nghe một câu chuyện của ông Visakha chứ gì
ông đến ông nghe ông Phật thuyết rồi, về cái bà vợ.. mỗi lần thì ông đến nhà,
bà vợ đưa tay cái ông chồng nắm, hai vợ chồng mới dẫn đi lên, bữa nay nghe Phật
không biết nói làm sao không biết, ông về bà vợ đưa tay ông không thèm nắm tay
bà ấy nữa. Ơi trời cái kiểu đó, bà sao tức tối ông này ông ấy nghe Phật nói sao
bây giờ ông đối xử với mình kỳ vậy ta hay hoặc là có cái bà cư sĩ cũng vô ngồi
nghe Phật rồi ông nhiễm rồi bây giờ ông về ông không thèm mà nắm tay mình nữa cho
nên bà nghi ngờ vậy. Cho nên khi đó ông ấy đi trước bà đi sau, mà mỗi lần thì
nắm tay nhau đi song song mà hôm nay hổng được ông đi xa xa bà ấy chứ bà ấy mà
đi ráng ráng lại gần thì ông ráng ông đi xa hơn không dám lại gần bà nữa, thấy
ông này kỳ cục cho nên đến cái phòng khách rồi thì bắt đầu ông ấy ngồi lên ghế
kia, bà ấy ngồi ghế bên đây chứ mọi lần 2 người ngồi chung cái ghế, nay ngồi
riêng ra, rồi bà mới hỏi sao nay ông sao kỳ quá vậy, nay tui thấy ông không
giống như mọi lần vậy, có ai không, có bà nào không? Bà nổi ghen trước cái đã,
như vậy lẽ đương nhiên đàn bà là phải vậy thôi, có người nào mới làm vậy chứ
không có sao mà kỳ vậy. Cho nên bà mới hỏi ông ấy, đâu có tôi nghe Phật thuyết
pháp tôi thấy đây là cái nhân sinh tử, thôi bà đi nghe Phật thuyết pháp đi rồi
bà biết chứ bây giờ tôi nói bà cũng không tin tôi đâu, bà sợ tôi có cô nào cư
sĩ cũng vô nghe Phật rồi tôi nhiễm bà ta rồi về bà ghen tuông bậy bạ thì hổng
được, thôi bà cứ đến nghe Phật rồi bà mới biết lòng tôi chứ giờ tôi giãi bầy bà
cũng không tin tôi đâu.
Bởi vì người ta nghe Phật thì có nam có nữ nhiều,
mà bây giờ đi có mình tôi không có bà nên giờ về bà nghi như vậy cũng phải, mà
tôi làm vậy là đúng lời Phật dạy rồi, bởi vì tôi biết đó là sanh tử nhưng giờ
tôi nói bà hông nghe đâu thôi bà cứ đi. Bà ta bà sửa soạn xe cộ bà đến bà nghe
Phật thuyết pháp, sau khi nghe ông Phật thuyết pháp rồi bà về mà xin ông chồng
cho bà xuất gia đi, bà đi tu, ông bằng lòng ông ở nhà ông nuôi con phải hông?
Còn bà đi tu. Cho nên sau này Thầy sẽ nói lại cái chỗ mà ông Visakha là chồng
bà Dhammadinna khi mà bà tu chứng rồi mà ông về ông hỏi pháp ông chất vấn bà
dữ lắm chứ không phải không đâu, để coi bà thâm hiểu như thế nào, đi tu theo Phật
như thế nào bà Dhammadinna bà trả lời rất là tuyệt diệu. Thầy nói những cái bài đó Thầy
sẽ đọc, lẽ ra bữa nay mà nó đủ thì giờ Thầy sẽ đọc cái bài đó cho các con nghe
gương hạnh của người xưa người ta tu kinh lắm.
Cho nên phải hiểu những cái gì mà chúng ta phải
hiểu, cho nên nói mình đắc mà tam quy đó, thì chắc chắn Thầy nhìn hết cư sĩ mà
thọ tam quy rồi, chưa nói là ngũ giới đâu, Thầy nói nội tam quy thôi thì chưa
có ai mà đắc tam quy hết. Nghĩa là hầu như là nói là nói một lẽ thôi cũng là
tam quy,cũng là cái cái lòng thái (khoái?), người nào thọ tam quy ngũ
giới cũng cái lòng thái (khoái?) rồi. Trời! đẹp đẽ lắm chớ.
Mặt A 37:50
Do vì vậy đó, thì sau này các con sẽ được học cái
bài mà của bà vợ của ông Visakha bà nói pháp cho đến cuối cùng thì ông cũng
chưa có đủ cái niềm tin ở chỗ bà cho nên ông mới đến gặp đức Phật, hỏi đức Phật
bà đã giải thích như vậy có đúng hay không? Đức Phật nói ta cũng cỡ giải thích
như là bà Dhammadinna vậy thôi
chứ không hơn, nghĩa là ta chỉ giảng như vậy thôi cũng như là bà. Cho nên trong
cái giới ni bà là đệ nhất trí tuệ, đức Phật đã khen ngợi bà là đệ nhất trí tuệ,
cho nên những cái bà giảng hầu như là đức Phật không có cho là sai cái chỗ nào
hết, không có sai chỗ nào, có nhiều cái đức Phật không giảng mà bà giảng ra
được. Cho nên tất cả những cái thiền định, từ cái nhập diệt thọ tưởng định các
con sẽ nghe bà giải thích về nhập diệt thọ tưởng định rất kỹ, rất là hay, rất
là tuyệt, cách thức mà dùng cái định nào, dùng cái gì để mà tu tập thiền định
bà giải thích rất hay, rất rõ.
Do đó trong những buổi giảng Thầy thêm những cái
bài đó để sau này khi mà giảng về cái giới hành thì nó dễ hơn, nó ngắn hơn mà
chúng ta đã chuẩn bị cho chúng ta có những cái bài học nó cụ thể rồi. Sau khi
dạy qua cái giới hành thì Thầy rất dễ dạy cho quý thầy hiểu. Bởi vì cái trục mà
Thầy sẽ nhắm vào là Thầy sẽ lấy Bát Chánh Đạo mà dạy tất cả 37 phẩm trợ đạo
quay xung quanh ở trên bát chánh đạo, tám cái ngõ mà đi đến giải thoát, cho nên
vì vậy mà Thầy trang bị cho quý thầy ở trong khi mà học giới bổn này hoặc là
học những cái điều kiện khác Thầy trang bị cho những cái bảng kinh để quý Thầy
chuẩn bị cho tinh thần mình có sự hiểu biết, chứ đến đó mà Thầy giảng mà nếu
không trang bị, đem những cái bài kinh kia vô nữa thì nó quá nhiều, nó làm cho
loãng đi. Còn bây giờ thỉnh thoảng xen vô trong những cái giới bổn này là chúng
ta có những cái gợi về thiền định cũng làm cho chúng ta thích thú trong khi
nghe, nó cũng như thay đổi, nói hoàn toàn giới không, nó khô lắm cho nên đem
những cái giới hành vô để xen vô những cái kinh nghiệm của các vị tu hành làm
chúng ta có thay đổi cái không khí nó tốt hơn. Chứ còn nói điều 1, điều 2, điều
3, điều 4, điều 5 nói riết chúng ta thấy cũng chán lắm, cho nên Thầy khéo léo
để làm cho tâm lý của các con phấn khởi trên bước đường tu tập.
Thầy xin đọc lại chỗ này, quy y tam bảo rất đơn
giản xong muốn thật sự đắc giới thể của tam bảo cũng không phải là chuyện dễ.
Bởi nhìn chung mọi người Phật tử ai cũng đều quy y tam bảo nhưng hầu hết không
có người đắc tam bảo. Nếu như tự biết không đắc tam bảo thì chẳng ngại gì thỉnh
một vị minh sư, hoặc là thỉnh thầy khác thọ quy y một lần nữa, trong nghi thức
thọ quy y, đại quy mô của tập thể mấy chục người hoặc mấy trăm người, mấy ngàn
người là chẳng thể tin cậy được, chỉ là gieo trồng căn lành cho họ mà thôi.
Nghĩa là quy y đông nó không có cái sự thiêng
liêng mà nó có sự vui nhộn ở trong đó thôi, nghĩa là thấy người ta quy y là bắt
chước đó thôi, cho nên gieo cái nhân đó thôi chứ còn không có đắc cái tam bảo
được. Cho nên vì vậy mà cái số người lượng mà đông mà quy y tam bảo bây giờ về
họ bán phở họ vẫn bán phở, họ bán cháo lòng thì họ vẫn bán cháo lòng. Họ làm
cái gì thì vẫn cái nấy, nhà họ thì ăn thịt thì họ vẫn ăn thịt như thường, mà họ
vẫn quy y tam bảo họ vẫn thọ ngũ giới rồi, nhưng mà họ nói rằng tôi thọ ngũ
giới là tôi không cầm giao tôi giết thôi. Nghĩa là tôi ra ngoài chợ họ mần
(làm) gà, mần thịt, mần cá thì tôi mua về tôi ăn thôi chứ không sao. Nhưng mà
quy y tam bảo nó không phải như ngũ giới. Mà ngũ giới đó là cái bước thứ hai
của chúng ta để tu tập họ còn cái lý luận ở trong cái gián tiếp sát sanh. Mình
không mua không ăn làm gì người ta giết, chính mình mua mình ăn người ta mới
giết chứ, cũng như quý thầy nói ăn không nghe, không thấy, không nghi mà chính
mình ăn người ta mới giết cho mình ăn chứ, chứ mắc mớ gì người ta đem thịt cá
cho mình ăn. Mình ăn chay thì ai mà cho, một lần, hai lần người ta hông biết
người ta cho thôi. Còn ngày xưa có người nói đức Phật đi khất thực, thì người
ta nấu ăn cái gì thì người ta cho mình ăn cái nấy, mình nói mình ăn chay làm
sao giờ. Thì là lẽ đương nhiên ông Phật ông hông cãi rồi, ông hông nói tôi ăn
chay rồi nhưng mà ai cho ông, thì ông có ăn hay là không ăn là cái quyền của
ông ấy chớ cái người đó có ép ông ấy được sao? Cho nên bây giờ có bỏ ông ấy đầy
bát thịt đi nữa ông ấy cũng mang về nhưng có ăn hay không ăn là quyền của ông
ấy. Trước mắt ông thấy những cái thịt chúng sanh vậy ông ấy ăn được sao, là một
cái người tu sĩ đạo Phật tâm từ người ta đâu có đơn giản được, cho nên người ta
không ăn thì người ta phải bỏ ở dưới đất đi chớ. Bởi vì cái đó là cái lòng của
người cư sĩ họ cúng dường mình thì mình nhận chứ nhưng mà mình không ăn là vì
lòng từ của mình chứ, còn đằng này mình thèm khát mình nuốt hết thì tức là mình
có phải là cái lòng từ đâu, cho nên mình nhai mình nuốt hết, càng ngày nó càng
nghiền ra nó muốn ăn, cho nên bữa nào mà người ta hông có thịt cá cho mình về
mà ăn nuốt không vô.
Cần thọ tam quy vốn chỉ cần thỉnh cầu một vị thầy
thanh tịnh giới hạnh quy y ở trước Phật 3 lần, mỗi lần nói lên với tâm thành
tha thiết tam quy tam kết là được.
Trong tam quy chánh phạm có tám mục, ở trong cái
quy y tam bảo đó thì cái chánh phạm hạnh của nó thì nó chia làm tám mục.
Một là người thọ
quy y phải dâng cúng hoa quả đèn đuốc, đây là cái nghi thức thầy nhắc ra để cho
quý thầy biết khi mà mình muốn thọ quy y thì mình phải làm cho nó đúng cái cách
của nó, một là người thọ quy y phải dâng cúng hoa quả, đèn đuốc chỉnh tề rồi
đến đảnh lễ một vị thầy thanh tịnh giới hạnh lên tòa quy y. Nghĩa là lên cái
chỗ ngồi mà để làm cái lễ mà thọ quy y cho mình, đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai, vị thầy
thỉnh mười phương tam bảo chứng minh thọ quy y, trong cái buổi đó thì cái vị
thầy đó, cái cách thức của họ đó, cái nghi lễ của họ đó, thì cái vị thầy đó
phải thắp hương rồi hoàn nguyện mười phương để chứng minh cho mình cái ngày hôm
nay mình đại diện mình quy y tam bảo, đó là cách thứ hai. Nghĩa là cách thứ
nhất là cái người thọ quy y phải sắm sửa đầy đủ rồi thỉnh cái vị thầy đó, vị
thầy đó chấp nhận rồi thì vị thầy đó đến mặc y áo đàng hoàng. Mình đại diện cho
Phật đâu có phải mặc cái đồ lè phè lên đó được, phải nghiêm chỉnh đàng hoàng rồi
bắt đầu mới thắp cây thắp hương, mới quỳ xuống mới đảnh lễ trước cái tam bảo
đó, rồi mình mới thỉnh chư Phật mười phương ba đời chứng minh cho hôm nay là
mình đại diện cho Phật, Pháp, Tăng để mà thọ quy y cho cái người đệ tử tên gì
đó, đó là cái giai đoạn thứ hai.
Thứ ba là vị thầy khai
thị ý nghĩa của tam quy, đó sau khi mà thắp hương thỉnh chư Phật chứng minh rồi
thì bắt đầu mình lên thượng tòa thì bắt đầu mình khai thị ý nghĩa của tam quy
cho cái đệ tử mình ngồi nghe, nghe cho rõ, đó là cái giai đoạn thứ ba. Bởi vì
mình làm một cái lễ nào đó nó cũng phải có từng tiết mục của nó ở trong những
cái lễ đó, mà nếu không nắm được cái này thì mình làm sao mình làm cái lễ quy y
ra được, cái gì trước cái gì sau. Cho nên trong giới đàn tăng nó dạy chúng ta,
nhiều khi mà cái người chưa có bao giờ mà đứng ra làm một cái chủ lễ một cái gì
đó thì đọc ở trong giới đàn tăng nhiều khi chúng ta chưa biết đâu, chúng ta
phải có trực tiếp sống coi quý thầy họ làm cái nghi lễ như thế nào, thế nào thì
lúc bấy giờ có thấy rồi, có trực tiếp thấy người ta tổ chức một cái lễ giới đàn
tăng đi, cái gì làm trước cái gì làm sau, người nào làm gì gì chúng ta có trực
tiếp sống trong đó rồi thì chúng ta mới đọc giới đàn chúng ta mới hiểu.
Đọc rồi mới hiểu thì Thầy thấy viết sách nó quá vụng,
Thầy chê ngay liền giới đàn tăng này viết, một cái người mà thọ lãnh cái trách
nhiệm mà đứng ra mà làm cái vị hòa thượng đường đầu để mà lãnh đạo cái chỗ thọ
cái cuộc giới đó, họ chưa có làm một lần nào, chưa có được mà trực tiếp thấy
lần nào, thì họ chới với đọc trong sách họ không làm được. Còn trái lại khi mà
Thầy viết kinh sách ra á cái người đọc kinh sách họ biết từng cái tiết mục,
tiết mục đó phải làm cái gì, ai làm cái đó người đó làm sao, rồi cách trả lời
như thế nào ở chỗ đó thì cái người đó phải tùy tiện thông minh của mình mà trả
lời cho nó hợp với cái chỗ đó. Viết ra một cuốn sách như vậy nó mới có giá trị
của giới đàn tăng, còn viết ra quyển sách người ta...
Nói chung là đây là những người Trung Hoa họ viết
ra rồi hòa thượng của mình dịch trở lại, chứ còn Việt Nam của mình các vị hòa
thượng không có ai mà dám mà đặt ra cái này hết, chỉ có nói Thầy đặt thôi,
nghĩa là chỉ có Thầy có thể nói nói là Thầy đặt giới đàn tăng ra được, là vì
Thầy đi từng tiết mục. Một cái người mà cầm cái bổn mục của Thầy ra họ chưa bao
giờ mà làm cái lễ nào hết họ cầm đó họ làm cái lễ được, họ biết rằng cái gì làm
trước cái gì làm sau. Bởi vì qua kinh nghiệm bản thân của Thầy từng ở trong
những cái tổ chức, những cái giới đàn, những cái lễ này kia trong cái các pháp
yết ma Thầy đã nắm rất vững trong cái vấn đề này, cho nên Thầy rất thông suốt
về vấn đề này, cho nên Thầy dám đặt ra những cái bảng mà giới đàn tăng. Cái
người mà chưa từng biết gì hết, bây giờ Thầy nói như Minh Tông này hoặc Mật
Hạnh này, hoặc mấy con này chưa có từng biết và thọ giới gì hết, nhưng mà cầm
cuốn sách Thầy ra là các con biết tổ chức cái giới liền, phải làm cái gì, phải
trang nghiêm thế nào, trong cái đạo tràng đó phải làm sao, làm sao, cái gì trước
cái gì sau, cái người nào ngồi đâu, vị trí nào, tam sư thất chúng ở vị trí nào
Thầy vẽ ra cái bản đồ hết, các con coi theo đó mà có thể sắp xếp người ta, ngay
đó là tổ chức cái giới đàn rất là nghiêm chỉnh, chứ không phải là đọc ở trong
đó chúng ta chẳng biết tổ chức làm sao hết.
Đó là những cái mà người viết sách nó không có
cái kinh nghiệm mà qua cái chỗ mà dựa vào cái người này đến người kia nó có cái
trừu tượng, nó khó có thể mà chúng ta vạch ra được, tự mình làm ra một cái lễ
được.
Bốn, người thọ quy y
nguyện sám hối những lỗi lầm trước để ba nghiệp thanh tịnh nhận được giới thể
tam quy không tạp, không uế. Đó, thì các thầy thấy đó, khi mà mình chưa có quy
y là cái thân của mình là ăn thịt chúng sanh, là giết, là hại, là có những ác
pháp, là tham là sân là si, nó đủ cách là nhiễm của thế gian rất nhiều rồi. Mà
khi mà nghe được cái lời dạy của cái vị thầy mà người ta giảng khai thị cho
mình hiểu rồi thì ngay đó thì cái người mà quy y tam bảo là họ quỳ xuống trước
thầy đó mà người ta xin quy y liền. Còn cái này có quy y đâu, họ có sám hối
không, quỳ xuống sám hối điều gì? Nghe cái bài người ta giảng rồi biết tất cả
những cái lỗi lầm của mình từ hồi nào tới giờ mình chưa biết Phật pháp rồi cho
nên mình có những cái lỗi lầm ở trong những cái ác pháp đó, cho nên ngay liền
đó thì sau khi cái lời khai thị của vị thầy mà đứng ra quy y rồi, thì cái người
mà thọ quy y đó đâu có phải chờ tới quy y rồi mới là nói lên đâu mà ngay đó là
biết mình đã có lỗi rồi, có lỗi từ những cái thời gian đã qua rồi. Cho nên bây giờ
đứng lên xin sám hối để cho thân tâm mình thanh tịnh, để cho mình nhận ba cái
pháp thanh tịnh vào, còn tâm mình chưa có sám hối nó chưa có thanh tịnh này,
mình chưa có thấy được cái lỗi lầm của mình, nhận thêm ba cái pháp thiện vào
làm sao nhét vô được, thiện với ác nó kỵ nhau chứ làm sao hai cái nó ở chung
nhau được một nhà, thử hỏi coi ông chồng thì dữ như cọp, bà vợ thì hiền như ông
bụt thì thử hỏi vợ chồng người đó ở được hông? Phải hông đâu có làm sao mà sống
chung với nhau được, một người hiền một người dữ không làm sao sống chung với
nhau được hết, nó phải là hai người nó phải như nhau mới sống chung với nhau
được. Cho nên vì vậy mà tâm chúng ta đang ở trong tâm ác này mà bây giờ nhét vô
pháp thiện có vô nổi không cho nên có người nào mà đắc tam quy đâu. Đó, vì vậy
đó khi mà cái người mà biết quy y thì cái phần thứ tư này cái người quy y phải
quỳ ngay trước bậc thầy đó và quỳ trước tam bảo xin sám hối những lỗi lầm từ
đây con sẽ hoàn toàn cố gắng là con giữ gìn không được vi phạm nữa, và con xin để
mà con đem ba cái pháp thiện này vào trong thân tâm của con. Đó mình hứa khả
như vậy, từ đó mình mới thọ tam quy nó mới có được chứ, còn tâm chưa thanh tịnh
gì hết thọ đại, nhét vô làm sao nhét vô nổi, nhét vô thì cái ông thiện ông bung
ra ông nhảy lên, trời ơi ông ác đẩy tôi chạy thấy mồ tôi làm sao mà tôi ở đó
được, cho nên làm sao đắc tam quy. Quý thầy phải hiểu bởi vì đây là cái nói của
Thầy là phải nói hết, nói để cho quý thầy biết nhét chỗ nào mà nhét cho được,
mà nhét không được thì đừng có nhét, nhét bậy thì nó càng khổ cho mình thêm. ok
Năm, thọ tam quy,
tam kết và tam thệ, cái phần thứ năm này là trong giới đàn kinh có dạy rõ tam
quy, tam kết và tam thệ nhưng mà ở đây Thầy thấy cần thiết là chúng ta quy y
thọ tam quy và cái sự chấp nhận của vị thầy đó đại diện cho ba ngôi tam bảo đó
là đủ, tam kết, tam quy là đủ, còn tam thệ thì đó là để giành cho cái phần tôn
giáo của người khác chứ không phải Phật giáo. Đó cái tam thệ thì chúng ta bỏ,
chúng ta được thì chúng ta cứ ở theo Phật mà chúng ta tu thì được phước báu, mà
không được thì chúng ta muốn quy thiên thần quỷ vật gì cũng được, nghĩa là
chúng ta muốn làm ác thì chúng ta muốn quy y ở đâu cũng được chứ có gì đâu mà
bắt buộc người ta phải ở với mình mà người ta phải khổ, cho nên Phật không có
bắt buộc một tín đồ nào hết, được thì anh cứ ở tu để giải thoát cho anh, mà
không được thì anh cứ ra chứ chúng tôi không có ép cho nên không có tam thệ.
Sau đó rồi, khi mà quy y rồi thì cái vị thầy đó,
tức là cái vị thầy mà đứng ra đó, cái phần thứ 6 này vị thầy đó
có lời khuyến chuất nói rõ cái phần
mà, cái sự mà nương theo tam bảo này nó đem lại cái kết quả gì cho cái đời sống
của người ta thọ tam quy, nghĩa là phải giải rõ, ở đây Thầy viết như thế này: vị
thầy khuyến chuất nói công
đức tam quy thù thắng và người thọ tam quy phải vâng làm và thực hành cho đúng
để được kết quả hữu ích khi bước vào cổng nhà Phật. Đó là cái lời viết ngắn ngọn như vậy nhưng mà chúng ta phải
biết rằng khi mà cái vị thầy đó khuyến chuất nói được khi mà chúng ta thực hiện cái hành sống của chúng ta
đối với ba ngôi tam bảo này sẽ đem đến cái hạnh phúc gia đình của anh như thế
nào và những người xung quanh của anh như thế nào, nó sẽ được sự giải thoát an
vui như thế nào, nó đem lại cái cuộc sống của anh như thế nào trong cái đời
sống của anh hiện tại chứ không phải đợi ngày mai đâu.
Nghĩa là quy y tam bảo rồi, ngày nay anh về bắt
đầu vợ con phải sửa soạn đồ chay hết, nghĩa là có thay đổi rồi đó, phải hông?
Các con thấy không thiện pháp liền tức khắc trong nhà, còn mình quy y rồi về
bữa nào cũng như bữa nào cũng thịt bằm đầy thớt, chảo nào cũng ngập lút hết
thịt cá hết thì quy y đó có nghĩa lý gì, cho nên ông thầy của mình phải khuyến
khích cho cái người đệ tử của mình quy y, phải thấy được điều này, cho nên cái
người quy y mà cư sĩ về rồi thì người đó hoàn toàn ăn chay. Bởi vì cái ăn chay
này nó chưa phải là ăn chay trên ăn chay đâu. Còn cái người tu sĩ chúng ta phải
có tâm từ bi viên mãn khắp chúng sanh, cho nên ăn chay nó trên ăn chay nữa, cái
này ăn chay là mới có ăn chay sơ sơ thôi đó, nghĩa là tránh những h́nh ảnh đau
xót mà mình nhét vào trong cái tà mạng của mình. Đó là những người cư sĩ.
Cho nên hầu hết những người theo Thầy, mà là cư
sĩ, đến mà Thầy chịu, Thầy mà chấp nhận Thầy quy y rồi thì về ăn chay chứ nếu
mà về ăn mặn đừng có nói là đắc tam quy đâu, Thầy chẳng có chấp nhận mấy cái
thằng đệ tử đó đâu. Nó phải đúng là đúng, theo đạo Phật đúng là đúng mà không
đúng là thôi, còn bây giờ mình thấy mình chưa có thọ tam quy được, mình còn
thích thịt thì thôi, thì ở ngoài đó đi đừng có vô đây mà làm cho Phật pháp
người ta suy đồi đi, để cho người ta có được người nào nó quý người đấy, người
nào mà gọi cư sĩ đệ tử của Phật người ta cũng vẫn thấy thanh tịnh. Còn mình vô
mà mình quy y có hình thức rồi mình cũng ăn thịt ăn cá rồi mình cũng chửi mắng
la hét rầm rộ tùm lung tà la thì thử hỏi Phật pháp còn cái gì nữa, đạo Phật nó
suy là suy do mấy ông đó.
Bảy, khi mà thọ tam
quy và được khuyến cáo rồi thì cái người thọ quy y đó phải đảnh lễ thầy tỏ lòng
tri ân, đó là cái mục thứ bảy. Bây giờ Thầy vạch ra cho quý thầy thấy từng mục
từng mục để cho chúng ta làm thì các thầy bây giờ chưa bao giờ thấy đi nữa
nhưng mà nghe Thầy vạch ra từng mục như vậy các thầy dễ quá mà đâu có gì khó
đâu, Thầy dạy quá rõ ràng rồi.
Tám, người thọ tam
quy hứa khả vâng lời dạy, bây giờ mình quỳ xuống mình đảnh lễ thầy để tri ân
thầy đã đứng ra mà thọ quy y cho mình rồi và bắt đầu cái phần thứ tám mình phải
nói cái lời hứa của mình mà qua thầy đã dạy cho nên mình sẽ không bao giờ đối
với tam quy Phật, Pháp, Tăng không dám biếng trễ, nghĩa là cái hành động Phật
pháp như thế nào thanh tịnh như thế nào, mình cố gắng mình khắc phục cho được
ba cái thiện pháp này.
Đến đây là thọ tam quy đã xong, nghĩa là sau khi
mình hứa khả cố gắng về khắc phục đời sống của mình cho đúng cái người đệ tử
của Phật, đệ tử cư sĩ của Phật, mình phải làm cho đời sống của mình phải đúng
như những cái lời mà Phật dạy trong kinh thì nó đem đến cái thiện pháp, nó đem
đến cái sự an lành cho cái gia đình đó, thực tế cụ thể chứ không còn đi ở tù
đâu. Thầy nói mình thọ tam quy rồi mà mình còn ăn hối lộ thì mình ở tù chứ làm
sao, mình thọ tam quy rồi mình còn gian xảo mình bán vàng mình còn bớt này kia
mình cân đo thiếu người ta mai mốt công an đến nó coi cân mình cân non nó bắt
mình phải hông, bỏ tù mình sao, nó phạt mình thì sao. Đã quy y rồi, hỏi ra ông
là gì, nói tui quy y tam bảo rồi, tôi quy y thọ giới rồi, tôi có pháp danh đàng
hoàng rồi mà làm ăn như vậy đó có phải làm nhà nước họ cười cho, ông đệ tử của
Phật gì mà gian xảo quá.
Đó là những cái mà cái giới cư sĩ mà không thấy
được cái điều của mình đã làm sáng tỏ Phật pháp hay làm suy đồi Phật pháp, mà
hầu hết là cư sĩ, đâu có nói là tu sĩ bây giờ nói tu sĩ là chúng ta đã thấy làm
cho Phật pháp suy rồi mà giới cư sĩ có làm không, có chứ sao hông làm. Mấy ông
ở tù mà nói là Phật tử, rõ ràng hỏi ra mấy ông cũng gian xảo đủ cách mánh khóe
các ông làm ra tiền ra bạc bằng cách này bằng cách khác, mấy ông ở tù thì không
phải là cái đó là mấy ông đã hạ Phật pháp xuống sao? Phật dạy các ông làm điều
lành tại sao các ông làm gian xảo như vậy, Phật dạy các ông không có ăn giết
hại chúng sanh mà các ông về bữa nào cũng dẫn nhau đi nhà hàng ăn tôm tươi nữa,
chứ đừng có nói, ăn cá tươi nữa, bắt lên rồi bỏ con cá còn lăn lộn vậy bỏ trong
chảo còn nhảy múa tùm lum mấy ông ngồi đó gắp mà ngon, không phải sao? Thầy nói
mấy ông Phật tử chứ ai vô đó, thấy vô nhà hàng thấy mặt là biết liền.
Đến đây là thọ tam quy đã xong, theo đạo Phật
không có nghĩa là thọ tam quy suông mà phải có hành tam quy giới, nghĩa là đâu
có phải mình thọ tam quy suông đâu, mà mình thọ phải có hành nó, mình hành nó
tức là mình sống đó. Bây giờ quý thầy hành như thế nào, thậm chí có nhiều người
bây giờ cả quy y rồi, cả bây giờ Phật pháp 7-8 năm, 10-20 năm rồi mà vẫn có
thấy thay đổi gì đâu, mà nói là đệ tử Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di của Phật, có vọng ngữ
không?
Có 4 điều kiện mà quý thầy phải hành thì xin nhắc
lại, Thầy xin nhắc lại 4 cái điều kiện mà người cư sĩ phải chấp nhận phải hành
nó, đó là Thầy xin nhắc lại, ở đây là nhắc lại chứ còn cái này là quý thầy đã
nhớ rồi chứ không phải không đâu.
Một là thông hiểu những gì chưa thông hiểu, đầu tiên quý thầy cần phải hiểu Phật pháp thêm, không phải
quy y tam bảo rồi về có bao nhiêu đó là mấy vị đủ đâu, bởi vì còn phải tìm hiểu
thêm nữa, cho nên các vị phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu.
Hai là trau dồi những gì chưa trau dồi. Bây giờ quý vị về quý vị thay đổi cuộc sống của quý vị này,
ăn chay này, nhỏ nhẹ trong gia đình này, không chửi mắng nhau, rồi có nghiện
rượu nghiện thuốc thì bỏ dần hết do đó là quý vị đã trau dồi được một phần đó,
nhưng mà còn những cái cần trau dồi nữa đâu phải có bao nhiêu đấy đủ. Cho nên
nó còn tiếp tục ở trên con đường để đi đến đem lại hạnh phúc an vui cho quý vị
rất nhiều nữa, thì quý vị cần phải trau dồi những gì chưa trau dồi.
Ba, tu tập những gì chưa tu tập, nghĩa là những cái gì mình đã biết mình tu tập nó
chưa đủ đâu nó còn phải tu tập nữa chứ đâu phải tới đó mình thỏa mãn rồi, bây
giờ hạnh phúc gia đình mình ngon quá rồi tiền bạc cũng dư ăn dư để rồi, thôi
bây giờ nhiêu đó đủ đạo Phật đâu có dạy chúng ta thỏa mãn, toại nguyện ngay nửa
đường đâu, phải đi tới nữa chứ, đó cho nên vì vậy đó chúng ta phải biết.
Thứ tư là dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.
Ba giới đầu tiên này quý vị cứ theo 4 điều kiện
trên đây mà tu tập, theo 4 điều kiện trên đây mà tu tập, mà hàng ngày quý vị
sống đúng giới hạnh của tam quy, chắc chắn quý vị sẽ có một đời sống hạnh phúc
an vui và yên ổn nhất, thiết thực hiện tại không có thời gian.
Đến phần giới hành, Thầy sẽ chỉ dạy tu tập 3 giới
đầu tiên này, từ 3 giới đầu tiên này chúng sanh ra ngũ giới, ngũ giới là gì,
ngũ giới là năm giới cấm còn gọi là năm thiện pháp. Kế đến cũng từ ba giới đầu
tiên này sinh ra thập thiện, thập thiện là gì, là mười điều lành còn gọi là 10
giới cấm. Kế đến nữa từ ba giới đầu tiên này sanh ra bát quan trai giới, bát
quan trai giới là gì, là tám cửa ải phải vượt qua mới thanh tịnh được thân tâm
còn gọi là tám giới cấm, còn gọi là tám thiện pháp. Những giới cấm này đều là
của hàng cư sĩ tu tập trau dồi những thiện pháp mà thôi. Muốn thành tựu những
pháp thiện này người cư sĩ phải lấy giới hành trau dồi tứ vô lượng tâm, tứ
chánh cần. Phải lấy giới định tu tập Thánh phòng hộ sáu căn, Chánh niệm tỉnh
thức định, Vô lậu định. Đó là những cái mà cái người cư sĩ cần phải tu tập
trong những định đó đó, để thực hiện các giới hạnh đó từ thọ Bát quan trai cho
đến tất cả ba cái thọ giới Tam quy đều là phải tu những cái định, cái định
chánh niệm, cái định phòng hộ sáu căn, cái định vô lậu thì nó mới thực hiện
được những cái pháp thiện đó.
Thì đó là những cái điều kiện trong cái lộ trình
của người cư sĩ, cư sĩ phải tu tập những cái pháp đó.
Phải lấy giới pháp thực hành, pháp quán, tùy
pháp, hướng pháp, tịnh pháp. Nghĩa là lúc bấy giờ đó thì cái vị cư sĩ phải học
phải biết cho rõ các pháp hành như thế nào, các giới pháp như thế nào, để mà
thực hành, thì thực hành nó có quán pháp, tùy
pháp, hướng pháp và tịnh pháp. Đó nó làm cho
chúng ta được thanh tịnh tâm gọi là tịnh pháp, cho nên đó là khi mà tịnh tâm
thì đó là ly dục ly bất thiện pháp.
Giới luật trong Phật giáo trên đại thể gồm có hai
loại khác nhau, đó, mình phải thấy giới luật của Phật giáo nó chia làm hai loại
nó có khác nhau chứ nó không giống nhau, một là Tiệm Thứ giới, hai là Đốn Lập giới. Đó
những cái danh từ này nếu mà không được Thầy giải thích Thầy không nói rõ, thì
nghe thì quý thầy khó mà hiểu, còn ở đây Thầy dạy giới là phải dạy hết, hết sức
dạy của mình để làm cho quý thầy hiểu biết cho nó rõ ràng.
Tiệm Thứ giới chỉ cho tam quy ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện
giới là giới tại gia hay là giới của người cư sĩ, còn gọi là pháp lành của
người cư sĩ. Đó thì Tiệm Thứ giới đó là những giới mình lần lượt mình tu tập
dần dần, dần dần đó gọi là Tiệm Thứ giới, mà những cái giới này nó thuộc về, nó
như là tam giới đó, tam quy đó, tam quy giới đó, ngũ giới đó, bát quan trai
giới đó, thập thiện giới đó, là những cái pháp mà của người cư sĩ đang hành ở
tại gia. Đó thì như vậy là cái người cư sĩ đã trang bị cho họ những cái giới
hành của họ, những cái giới lý và giới hành của họ, là đầu tiên thì chúng ta
gọi những cái giới đó là Tiệm Thứ giới, nó có cái tên gọi là Tiệm Thứ giới.
Không thọ ngũ giới, bát quan trai giới, thập
thiện giới thì sẽ không thọ được thâp giới Sa Di, nghĩa là cái người mà không
có thọ cái Tiệm giới này thì không có bao giờ mà có thể đi qua cái lộ trình thứ
hai mà thọ thập giới Sa Di được, nó khó như vậy đó. Sa Di, Sa Di ni không thọ
thập giới Sa Di, Sa Di ni sẽ không thọ được Tỳ Kheo giới, Tỳ Kheo ni giới,
nghĩa là cái người mà muốn thọ Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni mà không thọ Sa Di thì
không bao giờ mà có thể thọ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni giới được. Trong quá trình từ
Sa Di tiến vào Tỳ Kheo ni phải thọ giới pháp của Thức Xoa Ma Na. Đôi bên Tỳ
Kheo ni, Sa Di ni với Tỳ Kheo ni đó thì nó còn một cái đoạn nữa là để mà thử
thách ở bên ni là họ phải thọ Thức Xoa Ma Na.
Do vì cần phải tuần tự tiến lên từng cấp thiện
pháp này cho nên gọi là Tiệm Thứ giới, nghĩa là tất cả những cái giới mà như
vậy đó, của cái lộ trình của thứ hai của tu sĩ đó thì nó được gọi là Tiệm Thứ
giới chứ chưa phải là Đốn Lập giới.
Đó thì chúng ta thấy cái Tiệm Thứ giới đó bên cái
lộ trình cư sĩ thì nó có những giới gì mà bên tu sĩ thì nó có những giới gì cho
nên gọi là Tiệm Thứ giới.
Hai chúng tại gia cộng thêm năm chúng xuất gia
thành ra bảy chúng đệ tử Phật đều lấy Tiệm Thứ giới để được danh phận theo thứ
tự, nghĩa là lấy Tiệm Thứ giới đó mà chia ra làm bảy cái chúng đệ tử theo cấp
bậc của giới luật.
Đốn Lập giới chỉ là bát giới và bồ tát giới của kinh Phạm
Võng và kinh An Lạc, hai thứ giới này là giới biệt giải thoát, giới biệt
giải thoát ở ngoài thất chúng giới, tức là ở ngoài bảy cái giới Tiệm, Tiệm giới
ở trên, cho nên cái Đốn giới này nó có cái quan trọng gì không?
Đốn giới này không phải từ tam quy giới lưu xuất
ra, đó, mình nghiên cứu về kinh sách đó, mình mới thấy rằng cái Đốn giới này nó
không có phải từ trong tam quy lưu xuất ra, cho nên mới nói Đốn giới là do các
Tổ chúng ta đặt ra, làm ra. Cho nên Thánh Nghiêm có xác định, cái ông mà giới
sư Thánh Nghiêm này ông có xác định cho chúng ta thấy được cái điều mà Đốn giới
này nó không phải ở từ tam quy lưu xuất ra mà nó từ ở nơi những người khác mà
lưu xuất ra. Giới này và giới kia tuy đồng là Phật giới nhưng không thọ tam
quy ngũ giới cũng có thể thọ ngay Bồ Tát giới và bát giới, đó thì ông xác
định cái câu ông nói để chúng ta thấy rõ, thì cái giới này với giới kia thì nó
có giống nhau nhưng mà nó cũng có những cái khác nhau chứ không phải giống nhau
hết đâu nhưng nó không phải từ ở tam quy, nghĩa là cái người mà không có thọ
tam quy, thì thọ Bồ Tát giới hoặc là thọ bát giới đều được, đó, do đó thì chúng
ta biết ngoài tam quy nó còn có những giới khác rồi thì tức là nó của ai?
Bởi vì tam quy là Phật pháp, mà Phật, Pháp, Tăng
từ đó nó mới lưu xuất ra các giới, thế mà không cần thọ tam quy mà bây giờ thọ
bồ tát giới là vẫn như thường, thì ông là một cái vị mà luật sư, ông Thánh
Nghiêm là một vị luật sư, ông nghiên cứu rất là kỹ lưỡng trong các bộ luật cho
nên ông xác định đó là một cái điều mà chúng ta phải thấy rằng trong các bộ
giới luật Bồ tát giới hay là bát giới thì nó đều là ngoài cái Phật, Pháp, Tăng
ra nó có những cái giới đó. Đó là một thứ giới do các Tổ chế ra để bịt mồm
bịt miệng người khác, để phá giới luật của đạo Phật mà chẳng ai dám nói. Vì
thế chúng ta phải biết tất cả giới đều do tam quy mà có, tam quy là mẹ sanh ra
các giới hay nói cách khác tam quy là nơi sanh ra các pháp lành, còn Bồ Tát
giới thì không nơi tam quy sanh ra mà nơi các Tổ sanh ra, nên gọi là không thọ
tam quy mà thọ Bồ Tát giới vẫn được. Đó là một bằng chứng Bồ Tát giới không
phải là giới luật của Phật. Đó, xác định cho rõ những cái vị trí đó chúng
ta mới biết Bồ Tát giới không phải là giới luật của Phật, nó không phải từ tam
quy mà ra, bởi vì muốn thọ cái nào đi nữa thì nó cũng phải từ tam quy, thọ tam
quy rồi mới thọ ngũ giới chứ, còn cái này chưa thọ tam quy mà đã thọ ngũ giới
thì tức là ngũ giới đó ngoài tam quy rồi. Cũng như Bồ Tát giới nó ngoài tam quy
mà nó có, tức là của tổ mình đẻ chứ không phải Phật đẻ rồi.
Đó thì chúng ta khi mà nghiên cứu kinh giới vậy
đó, chúng ta mới biết hồi nào tới giờ nghe mà thọ Bồ Tát giới thì khoái lắm.
Trời ơi! Mình chưa gì hết vô thọ Bồ Tát giới làm việc từ thiện rồi. Các thầy
biết thọ Bồ Tát giới để làm gì không? Để mình đi đến chùa mình cúng dường cho
nhiều quý thầy chứ gì, làm công quả đầy đặn, coi như làm công mà khỏi tốn tiền
chứ gì, chùa bây giờ sắp sửa xây cất đây quý Phật tử mà thọ Bồ Tát giới phải vô
đó mà đẩy đất, phải vô đó mà khiêng gạch, phải vô đó trộn hồ mà làm, đó là được
phước lớn á, không phải là người thọ bồ bát giới là phải đi làm vậy không, đó
là cái điều kiện mà người ta chế ra để mà người ta lợi dụng lấy công sức của
người khác, lợi dụng cái mồ hôi nước mắt của người khác mà khỏi tốn tiền, khỏi
trả công. Cho nên có nhiều chùa biết bao nhiêu mà nói công quả, họ cất vĩ đại
lắm như tòa thánh Tây Ninh biết bao nhiêu công sức của người ta bỏ vô công quả
hông, làm như vậy có lợi ích chứ, Bồ Tát giới của mấy ông mà, mấy ông thọ rồi
mấy ông không làm thì làm sao có lợi ích.
Đó là những cái điều mà người ta đặt ra người ta
lấy công sức của kẻ khác, hoặc là lấy tiền bạc của kẻ khác đóng góp vô. Bồ Tát
giới phải biết bố thí, phải biết cúng dường chứ, đó là cái hẳn nhiên, đó là
những cái điều mà đọc lại trong kinh Phạm Võng bồ tát giới thì chúng ta thấy
cái điều đó rất rõ.
Nội dung của ngũ giới, bây giờ Thầy nói về cái nội dung của ngũ giới nhắc lại để
chúng ta, ai thì chắc cũng biết rồi nhưng mà ở đây thì mình phải nói cho nó hết
chứ không khéo nói ngũ giới không thì ở trong cái lời giảng của Thầy nó không
có nói ra ngũ giới như thế nào hết thì tức là chúng ta ngầm biết nhưng mà chúng
ta phải nói ra.
- Nội dung của ngũ giới: một là không sát sanh, hai không trộm cắp, ba không tà dâm,
bốn không vọng ngữ, năm không uống rượu.
- Nội dung của thập thiện: một không sát sanh, hai không trộm cắp, ba không tà dâm, bốn
không vọng ngữ, năm không nói lưỡi hai chiều, sáu không nói thêu dệt, bảy không
nói lời hung ác, tám không tham, chín không sân, mười không si.
- Nội dung của bát quan trai giới: một không sát sanh, hai không trộm cắp, ba không dâm dục, à
ở đây bát quan trai giới các thầy thấy ở trên kia ngũ giới thì không tà dâm, mà
bát quan trai giới là không dâm dục, nghĩa là cái ngày mà thọ bát quan trai
giới mà tâm tư ý nghĩ mà còn nhớ vợ nhớ con thì không được. Đó là cái vấn đề đó
là không dâm dục hoàn toàn là phải trong sạch đó, nó khác hơn là cái ngũ giới
rồi, cho nên cái chỗ này là vấn đề quan trọng của cái vai trò mà chúng ta tập
để mà chúng ta đi qua cái lộ trình thứ hai của người tu sĩ là cấm đứt dâm. Bốn
là không vọng ngữ, năm là không uống rượu, sáu là không đeo tràng hoa hương
thơm, không xoa dầu thơm, không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật,
không có đến xem, bảy không ngồi giường nằm cao rộng lớn, tám là không ăn phi
thời.
Đó là cái thọ bát quan trai,nó kết hợp như vậy để
mà chúng ta tập luyện để bước sang qua một vị Sa Di, một vị đầu tiên của đệ tử
xuất gia của Phật đó là tập luyện cho cái người cư sĩ như vậy.
Về phần bát quan trai có tám điều giới nhưng kỳ
thật là 9 điều giới trước của thập giới Sa Di, nghĩa là trong bát quan trai chứ
sự thật ra nó là 9 giới của Sa Di chứ không phải là tám đâu, trừ điều thứ mười
chẳng cất giữ tiền bạc của báu. Hoàn toàn đều giống Sa Di giới chỉ đem hai điều
giới sáu và bảy hợp lại của Sa Di giới thành một điều giới thứ sáu. Chỗ khác biệt nhất giữa bát quan trai giới và Sa Di thập giới
là chỉ chỗ thọ trì một ngày một đêm trong sáu ngày trai chẳng giống như Sa Di
giới phải thọ trì suốt đời. Nghĩa là chỗ khác biệt của
thọ bát quan trai với Sa Di thì thứ nhất cái khác biệt là cái giới thứ chín, là
cái giới thứ mười là không cất giữ tiền bạc đó và hai cái giới nó hợp lại nó
thành một cái đó là chỗ khác biệt của Sa Di giới còn hoàn toàn thì nó giống Sa
Di giới hết.
Cho nên cái thọ, cái người mà thọ bát quan trai
đó thì họ thọ có một ngày, một ngày một đêm còn cái người Sa Di thì thọ trì
suốt đời, rồi cứ tháng nào chúng ta cũng thọ trong một ngày, hai ngày thọ bát
quan trai hoặc 6 ngày tùy theo ngày trai giới đó mà chúng ta thọ, cho nên nó có
khác hơn là cái người mà Sa Di họ thọ suốt đời giới của họ, họ không có rời cái
giới của họ, còn cái kia thì bữa nay chúng ta tu tập như vậy, luyện tập vậy
ngày mai chúng ta về cái đời sống nó khác nó không giống như đời sống của thọ
bát quan trai nữa. Vì thọ Sa Di giới là người cư sĩ đã bước vào lộ trình thứ
hai của đạo Phật, nghĩa là cái người mà thọ Sa Di giới đó là cái người cư sĩ đã
tu tập thọ bát quan trai giới, đã có cái kết quả đã có cái hướng đi vào cái lộ
trình thứ hai, người Sa Di giới là cái người đã tập luyện thuần thục ở thọ bát
quan trai, là cái người cư sĩ đã thọ bát quan trai thuần thục. Lộ trình này
đi đến quả vị giải thoát cao nhất của nó là Alahan, nghĩa là bắt đầu từ cái chú
Sa Di này đi đến cái quả vị cao nhất của chú là chú sẽ đạt được quả vị Alahan.
Bát quan trai giới là phương pháp tập sự của cư
sĩ để tiến vào lộ trình thứ hai vượt sanh thoát tử. Bộ phận chủ yếu của sinh tử là ở tại hai nguồn gốc đại họa là
dâm dục và ăn uống. Đó bây giờ Thầy xác định cho quý thầy thấy có ăn
uống mới có dâm dục, không ăn uống chừng một ngày hay ngày mấy người đói mệt lả
mấy người đòi dâm dục được không, đòi dâm dục sao được cái thân nó đi hết muốn
nổi, nó mệt thở cầm canh rồi làm sao, chỉ có ăn nuốt vô cho nó mập ra rồi nó
mới sanh thôi chứ, cho nên dâm dục và ăn uống nó là hai cái thằng nó kết hợp
nhau nó hại cái đời của quý vị trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Cho nên ở đây
người ta cứ nói Thầy dạy cứ ăn uống không à không có dạy gì hết.
Sắc dục, ẩm thực là nguyên nhân căn bản khiến
chúng sanh thành chúng sanh. Đó quý thầy thấy chúng ta
thành chúng sanh mãi mãi là do cái ăn với cái sắc dục chứ không phải cái gì
hết, ẩm thực thì nó bổ túc cho sắc dục, ăn nhiều thì nó sắc dục nhiều, mà ăn ít
thì sắc dục ít chứ không có gì. Ăn uống là trợ
duyên tăng thượng của sanh tử, dâm dục là nguyên nhân căn bản của sanh tử. Ăn uống thì chúng ta nó trợ duyên cho cái sự dâm dục chứ gì,
cho nên nó trợ duyên cho sanh tử, dâm dục là nguyên nhân căn bản của sanh tử.
Cho nên khi chúng ta đã hiểu biết được vậy chúng ta nhìn thấy ăn uống là chúng
ta phát ghê nó rồi, rồi chúng ta thấy sự dâm dục mà nó đòi hỏi là chúng ta thấy
nó cũng sợ hãi rồi. Cho nên thấy phụ nữ cũng như là thấy rắn, thấy cọp vậy
thôi. Còn quý thầy thấy phụ nữ mà cứ ngó hoài rớt con mắt mà hông hay, cái điều
đó là cái điều ta hại lớn, tu theo đạo Phật mà cái kiểu đó mà đi ra đường thì Thầy
thấy xe đụng có ngày cũng chết.
Tất cả chúng sanh đều do chẳng đoạn dâm dục vì
thế chẳng lìa sinh tử, tất cả chúng sanh đều do tham luyến các khoái lạc dâm
dục thành trợ duyên cho sự sinh tử con cháu sau này khổ đau, đẻ ra con cháu đứa
nào khỏi khổ đâu, tự thân cũng bị sợi dây sanh tử trói buộc. Chúng sanh có dâm dục là bẩm sinh, cha mẹ sanh ra là có dâm
dục rồi nhưng mà đã biết nó là con đường sanh tử thì chừa nó đi, nghe nói bẩm
sanh dâm dục thì mê miết theo à, càng ngày càng khuếch trương càng tăng trưởng
cho lớn ra nữa, một vợ hông đủ, ba bốn vợ còn thêm nữa, thì đó là những cái
sai, tăng trưởng cho dữ thành ra khổ nhiều.
Sự giao tiếp hai tánh nam nữ hình thành sự dâm
dục phải sau khi được no ấm, nghĩa là cái sự giao tiếp giữa hai cái tính dâm
dục là no ấm mới sanh ra, còn nếu mà đói khát thì làm sao sanh ra được. No ấm
thuộc về ăn mặc, ăn so với mặc còn trọng yếu hơn. Bởi vì cái ăn có thể
mình no được còn cái mặc coi vậy chứ ở trần riết nó cũng quen rồi, lạnh lạnh
chứ nó không thấy lạnh đâu, còn mấy người cứ hở hở ra cũng mặc áo ấm thì nó
cũng quen rồi, nghe hơi lạnh lạnh cái là đóng áo ấm vô, thì đó là nói ăn với
mặc rồi, còn về cái người mà người ta ở trần hoài, cái ông nông dân mà họ trùng
trục mà họ không thấy lạnh tức là họ quen da với lạnh rồi cho nên họ không cần
mặc áo ấm. Mình không mặc thì nó cũng không chết, có mặc mà không có ăn thì lại
chết, nghĩa là bây giờ nó lạnh vậy chứ nó không chết đâu, nhưng mà có thể nói
rằng nó lạnh quá thì nó sanh bệnh của mình rồi nó cũng chết, nhưng mà nói rằng
không có mặc thì nó không chết liền đâu, nhưng mà không có ăn thì phải chết
liền.
Vì thế dâm là căn bản của sanh tử, ăn là trợ
duyên sanh tử, nếu vượt ra
ngoài dâm dục và ăn uống là liễu sanh thoát tử.Nghĩa là
mình vượt ra được cái ăn uống và cái dâm dục, cho nên các thầy thấy khi mà mình
tịnh chỉ hơi thở này, các hành ngưng này, lúc bấy giờ mình ngồi 7-8 ngày có ăn
uống không? Thì mình, tức là mình vượt ra ăn uống rồi thì còn gì dâm dục nữa,
dâm cái gì nổi, ngồi như gộc cây mà còn gì dâm cho nên đó là những cái mà mình
đã thấy được cái sự làm chủ của mình rồi, cho nên liễu sanh thoát tử ngay chỗ
đó chứ còn chỗ nào nữa mà gọi là liễu sanh thoát tử. Trong tam giới cõi trời phi tưởng phi phi tưởng của vô sắc giới không
còn có niệm dâm, nghĩa là trong cái cảnh giới mà phi tưởng phi
phi tưởng thì nó không có cảnh dâm nhưng cũng chẳng lìa tưởng thực, lúc bấy giờ
mấy ông cũng còn khoái ăn à, cái ăn này coi bộ độc hơn, Thầy nói dâm dục mà
người ta tu đến tưởng xứ phi tưởng phi phi tưởng lìa được dâm dục mà cái ăn lìa
không nổi, các con thấy không mà nhập Tứ thiền là chúng ta lìa cái ăn được,
không thèm ăn nữa.
Đó là các con thấy cái chỗ mà đức Phật dạy chúng
ta rất rõ ràng để mà chúng ta thấy được cái chỗ làm chủ của mình. Dù là cõi
trời nào chứ cũng cũng khoái ăn à, họ không khoái dục chứ họ khoái ăn cho nên
họ gọi là vô sắc dục mà, họ không có dục nữa, vô sắc, vô dục nhưng cũng chẳng
lìa tưởng thực do thế vẫn không ra khỏi sanh tử. Còn ăn đó là còn sanh tử đó.
Cho nên cái người mà nhập tứ thiền rồi họ tịnh chỉ hết nó làm cho không còn đói
khát nữa từ đó nó hết ăn rồi cho nên nó lìa sanh tử rồi, còn cái người mà chưa
nhập tứ thiền, tam thiền cũng còn ít nữa thì chắc chắn là còn sanh tử.
Vì vượt qua sanh tử nên phải giới không dâm là ức
chế dâm dục nó phải thọ trai giới rất là kỹ lưỡng, đối với dâm thì chúng ta
muốn vượt qua sanh tử thì đối với dâm là chúng ta phải cố gắng mà vượt qua. Sinh hoạt lộ trình xuất gia xuất thế bắt đầu thực hiện từ
giới dâm và trì trai, đó thì bắt đầu qua cái giới bổn các thầy thấy
giới dâm là đầu tiên Thầy đã giảng rồi đó, giảng cái giới bổn khi mà bước qua
Thầy có giảng, thì nó là giới dâm rồi đó, đó thì bắt đầu mà cái con đường mà
thực hiện để làm chủ sanh tử để chấm dứt cái sự luân hồi thì ngay đó là giới
dâm đầu tiên đó trước, chứ đâu có nói giới sát, Sa Di thì nói sát mà các vị mà
thọ cụ túc giới, thọ 250 giới các vị Tỳ Kheo đó thì cái giới dâm là làm đầu.
Dâm dục do ăn uống đầu đủ mới nổi dậy, đó ở đây
Thầy xác định cái điều đó quá rõ ràng cụ thể mà. Chính vì thế trì trai là giới
điều thứ tám không ăn uống phi thời, mà không ăn uống phi thời đức Phật còn dạy
chúng ta ăn ít ít thôi chứ đừng ăn nhiều, ăn nhiều rồi nó cũng sanh ra nữa,
mình sợ nó đói rồi mình ăn cho lung mà không ngờ là nó sinh dục. Bây giờ quý thầy mới thấy ăn ngày một bữa rất là quan trọng cho con
đường tu hành theo đạo Phật. Đó bây giờ quý thầy thấy dạy
chỗ này quý thầy thấy cái sự ăn một bữa là rất là quan trọng cho sự tu tập của
chúng ta, mà người ta không thấy quan trọng cho nên người ta thấy ăn ngày ba
bữa hoặc thế này thế khác, cho nên tu sĩ mình bây giờ có ai mà chịu ăn một bữa
không, họ đâu có thấy nó quan trọng, họ đâu có muốn liễu sanh thoát tử, họ muốn
nó sanh tử luôn luôn ở trong này, cho nên chúng ta cứ làm Bồ Tát hạnh cứ luôn
luôn sanh tử trong này đi để làm thầy dạy người ta hoài phải khỏe không, đời
nào mình cũng làm ông lớn hết không phải sướng sao, nhưng mà chắc được không?
Điều đó thì còn để nhân quả nó trả lời cho quý thầy.
Nghe sự giải thích bát quan trai giới như thế này
quý vị sẽ không hài lòng chỉ vì tám giới mà chỉ có giải thích hai giới: dâm và
ăn. Ở đây quý thầy thấy bát quan trai giới mà Thầy giải thích có hai giới đó mà
nó nhiều quá nhiều, còn bao nhiêu thì không giải thích, thì quý thầy thấy Thầy
dạy như vậy là thiếu khuyết quá nhiều. Ở đây quý thầy phải hiểu mục đích của
thọ bát quan trai giới là bắt đầu sự tu tập chấm dứt sanh tử luân hồi, cho nên
hai giới này rất quan trọng vì thế phải giải thích cho rõ ràng, 5 giới đầu của
Bát quan trai bất đồng với ngũ giới là ở chỗ giới không tà dâm và giới không
dâm. Đó là chỗ phân biệt chúng ta thấy ngũ giới nó khác với bát quan trai giới
là chỗ cái kia là không tà dâm nhưng mà còn dâm được, dâm với vợ chứ không có
thể dâm loạn với người khác được, đó còn ở ðây hoàn toàn là býớc qua trai giới
rồi thì người cư sĩ này không còn dâm, đó là chỗ sai khác của hai cái giới này.
Giới thứ 6 và giới thứ 7 là những giới hành gián
tiếp đến dâm, tại sao mà nói nó là những cái giới thứ 6 thứ 7 nó là gián tiếp
đến dâm để chúng ta sẽ thấy những hành động đó đều là môi giới phóng túng dâm
dục cho nên phải biết. Bây giờ mình trang sức là làm gì, thoa son đánh phấn rồi
này kia, chải tóc rồi cho đẹp thì không phải gợi lên người ta dâm sao, đó không
phải cái đó nó là cái gián tiếp để gợi ra cái dâm dục của người ta sao. Cho nên
cái ông thầy mà đi ra còn vuốt vuốt cái đầu mình coi cạo nó có còn cái cọng tóc
nào có sót không thì cũng đều là sửa soạn cho cái hình thức của mình mặc dù cái
đầu cạo trọc có đẹp đẽ gì đâu mà vẫn sợ nó còn ló ló mấy cái cọng tóc dài dài
ra người ta coi nó xấu đi. Đó cũng là hình thức để mà giao tiếp trên cái sự môi
giới của dâm chứ không phải gì, sợ mấy cô kia coi cái đầu ông thầy này trọc mà
coi nó chưa sạch, nó lam nham như cóc gặm đó. Cho nên những cái hình ảnh mà
chúng ta soi gương này kia điều đó là còn trong cái hình ảnh của những cái giới
mà có thể nói rằng nó còn tạo lên trong cái gián tiếp của dâm, muốn làm đẹp đó,
đó là những cái hẳn nhiên rồi.
Vì vậy mà những hành động đó đều là môi giới,
phóng túng dâm dục cho nên phải biết các điều giới vẫn thuộc về phạm vi dâm,
nghĩa là các cái giới đó đều là phạm vi dâm hết, ca hát cất giọng lên ca hết để
làm cho mấy cô nghe khoái chơi, ông thầy mà tụng cất giọng ông lên cái...sướng
cái gì đó. Trời ơi! mấy cô khóc ngất hết, tới chừng ông thầy về cái nhớ cái tiếng
ông thầy mà tụng bữa đó, mấy cô nhớ mãi muôn đời thì ông thầy khoái lắm chứ có
gì đâu. Đó là cái kiểu mà ca hát, Thầy nói đây ca hát trong cái mấy ông thầy mà
tụng đám đó, ông thầy nào mà có tiếng ca giọng lên một cái là Thầy nói mấy cô
rơi nước mắt hết, kêu là gì ..gì mà..cái gì mà sanh.. Thầy quên rồi…. thuyết
minh sanh, ờ mấy ông thầy thuyết minh sanh, trời ơi! nói lên cái, cất giọng lên
một cái là mấy bà rơi nước mắt hết. Gì kêu cái gì ông cha mồ tổ gì đó cho nó
dậy đó làm sao người ta động tâm, động ý được, mà cái giọng của mấy ông lại hay
nữa. Đó là những cái điều kiện mà như vậy thì quý thầy thấy rõ ràng mấy ông
thầy tụng kinh mà sám đồ hay, mấy ông tụng thu băng để làm gì?
Đó là cái hình thức giao tiếp của cái sự mà với
cái dâm chứ gì làm cho mấy cô cảm động được cái lời tụng kinh của mấy ông. Ông
thầy tụng kinh hay quá, bữa nào mình ra chùa mình xem coi mặt ông sao, thấy đẹp
cái rồi thôi dính vào. Vậy thì làm sao tu hành được! Các thầy thấy trong cái
chỗ đó, từ cái chỗ mà mình đem cái âm thanh có giọng cao, giọng thấp giọng trầm
bổng của mình để tụng kinh để gây cái quyến rũ người ta thì tức là ngay đó
người ta đã biết cái tâm dâm mình nó hết chưa? Chưa hết, ở đây giới luật có chỉ
rõ để mà chúng ta thấy được cái bộ mặt dâm nó ở chỗ nào mà chứ đâu phải là giấu
chúng ta được đâu. Thấy cái hành động là biết được cái tâm dâm nó ở mức độ nào.
Bởi vậy quý thầy phải hiểu bát quan trai giới là
giới trừ dâm dục và tiết chế ăn uống. Bát quan trai giới là một giới hạnh trong
tam quy mà ra, ở đây người cư sĩ chỉ sống có một ngày một đêm, còn người tu sĩ
thì phải hằng sống lấy đó làm cuộc sống hàng ngày của mình, đời sống của người
xuất gia mặc y hoại sắc. Cho nên người tại gia cư sĩ khi thọ bát quan trai thì
cũng phải ăn mặc thô xấu chứ không phải, thọ bát quan trai thì hầu hết mấy cô
thoa son đánh phấn trời ơi!, thọ bát quan trai cái kiểu đó thì thầy nói thôi
hết rồi, đã là gợi cái, đây là tám cái giới để mà diệt cái tâm dâm của chúng ta
để mà hoàn toàn chúng ta sống trong một ngày một đêm, để mà thực hiện được thoát
cái con đường sinh tử. Thế mà đi vô thọ bát quan trai Thầy thấy hầu hết mấy bà
cũng đi thọ bát quan trai đó, son phấn lòe loẹt, mặc áo thiếu điều muốn bànhh
ngực ra cho người ta xem, cũng là thọ bát quan trai. Lẽ ra thì chúng ta phải
mặc đồ thô đồ xấu, những cái quần áo rách ở nhà mà nhét vào lỗ cống đó lấy ra
mặc, mang đi thọ bát quan trai thì mới đúng cái nghĩa, ông Phật ngày xưa ông
còn lượm vải thây ma ngoài đồng, ông kết lại thành một cái y ông vấn, ông Ca
Diếp ông đắc cái y đó lắm cho nên khi đức Phật được cái người khác cúng dường
là ông quỳ xuống ông xin đức Phật cho ông ấy cái y đó tức khắc liền, ông sẽ
luôn luôn mặc mãi trong đời ông. Thì thọ bát quan trai là cái hình ảnh phá cái
dâm dục, phá cái con đường sanh tử, thì cái hình ảnh mặc y tốt đẹp là cái hình
ảnh gì, là cái môi giới dâm dục chứ gì.
Đó thì hôm nay Thầy dạy hết cho quý thầy thấy
biết được từng cái chi tiết tâm lý của con người nó như thế nào, cho nên cái
bản chất của người nữ là bản chất dâm dục chứ gì, cho nên sanh ra là họ sửa soạn
rồi, còn mấy cậu con trai mà hay gọi kính coi mặt coi mày nặn mụn đó cũng là
cái hình ảnh dâm dục chứ gì, chứ còn hông dâm dục thì ai làm đẹp làm gì?. Do
chạy theo cái kiểu dâm dục đó mà nó thực hiện qua cái sự trang điểm mặt mày
quần áo đi thì ngó tới ngó lui coi áo quần mình nó nếp không, có ly thẳng
không, nhăn nheo sợ chúng nói cái thằng này nó bù xù như cái thằng khùng, như
cái thằng bợm thì ai mà thương được, đó là những cái hình thức mà chúng ta tạo
ra cái cảnh giới để mà dâm dục.
Đời sống của người xuất gia mặc y hoại sắc cho
nên người tại gia cư sĩ khi thọ bát quan trai đều nên mặc y phục mộc mạc, thô
không trang điểm như giới thứ 6 và thứ 7 đã dạy, đó là hạnh sống giải thoát của
người cư sĩ, của người tu sĩ đạo Phật.
Trong thời đức Phật còn tại thế có một bà quyền
uy, có tiền của địa vị lớn lao trong xã hội, bà tên là Tỳ Xá Khư Mẫu. Có một
lần bà đi đến bái kiến đức Phật. Khi đến gần cửa tịnh xá Kỳ Viên bà mới nhớ ra
những đồ trang sức trên thân đều là những vòng hoa Anh Lạc chiếu sáng ngời, bà biết
rằng đi bái kiến đức Phật như thế này không nên, nhưng trở về nhà thì đường xa
mà cởi đồ trang sức thì bất tiện. Cho nên trở về nhà thì nó xa quá đi đến cửa
tịnh xá Kỳ Viên rồi mà bây giờ trở về nhà bà cũng như đây mà ra chợ Trảng Bàng
vậy đó thì bà thấy nó xa quá mà bây giờ làm sao đây, đeo đồ này giờ mình quên
rồi, mình bỏ ở nhà hết đi, lỡ đeo rồi bây giờ làm sao đây, để bà cư xử như thế
nào để bà mới diện kiến đức Phật được chứ. Bà đeo như thế này vô ông Phật ông
quở một cái từ đây về sau chắc bà không dám gặp mặt ông Phật nữa. Nhưng trở về
nhà cởi đồ trang sức thì bất tiện do thế bà tùy tiện cởi vòng hoa Anh Lạc bỏ
dưới gốc cây trong tịnh xá, mộc mạc không trang sức đi bái kiến đức Phật. Đó
thì như vậy trong khi bà bỏ đó rồi khi trở về bà lại quên đi bà đi về luôn,
phải là bà lại gốc cây bà lấy ra thì cũng được, bà quên đi. Cái câu chuyện đó
nó rõ ràng lắm, bà quên đi, rồi do đó thì cái ông Anan ông thấy ông lượm ông
đem vô giao cho đức Phật thì trong khi đó bà trở lại tịnh xá bà sai cái người
đầy tớ của bà trở lại gốc cây đó lượm mà không thấy cho nên ông Anan biết được
cho nên vì vậy ông Anan đi nói với Phật đem trả cái đó, thì bà mới đem cái đó
bà cúng dường cho đức Phật để xây dựng thêm những cái gì cho tu tập bà không có
nhận cái đó trở về, coi như đây là cái của cúng dường đi.
Đó thì các con thấy trong khi đó người ta đến với
đức Phật là người ta phải có một cái sự như vậy, mộc mạc như vậy đồ trang sức
người ta dẹp hết người ta mới dám đến, đến mà gặp Phật. Còn bây giờ hầu hết
Phật tử con thấy họ đến đây họ nghe Thầy thuyết pháp sao? Trời đất ơi! Thầy nói
thôi khỏi nói rồi, Thầy hông còn nói chỗ nào nữa hết, mà Thầy đến các chỗ khác
cũng vậy nhất là của người phụ nữ, nam thì nó ít hơn chút, phụ nữ thì quá tệ,
Thầy nói thiệt, các con khỏi nói, mặc quần áo thì khỏi nói cũng hết chỗ chê,
còn mà sửa sang thì cũng không có chỗ nào mà nói được hết. Đó là đi yết kiến
những bậc tu hành mà như vậy, cho nên thường thường mấy cô mà đến nghe một hơi
là Thầy nạt, Thầy nạt liền, đến cái chỗ này không phải là chỗ thoa son đánh
phấn đâu, không phải là chỗ mà dạ hội đâu, không phải là cái chỗ đám cưới đâu,
ở đây là cái chỗ nghe Phật pháp tu hành, xả ba cái thứ đó xuống đi, dẹp ba cái
thứ đó đi ra rửa mặt đi.
Đến đây là chúng ta đã hoàn chỉnh lộ trình thứ
nhất trong giới luật của đạo Phật, hay nói cách khác là chúng ta đã tu tập đúng
cách thiện pháp của đạo Phật.
Đến đây là lộ trình thứ hai của người xuất gia
nghĩa là cái lộ trình thứ nhất chúng ta hoàn chỉnh rồi ðó, cái giới luật mà lộ
trình thứ nhất chúng ta ðã hoàn chỉnh.
Bây giờ cái lộ trình thứ hai là lộ trình xuất
gia, xuất gia là cái mục đích là chúng ta đi tìm con đường giải thoát, nghĩa là
phải lìa cái cuộc đời chứ không phải là xuất gia với cái danh từ suông đâu, hầu
hết là bây giờ chúng ta xuất gia với danh từ suông đó cho nên không có lìa cái
sự giải thoát.
Xuất gia là gì? Xuất gia là ra khỏi nhà, xuất là
ra khỏi, gia là nhà, của cải, tài sản, anh em chị em vợ chồng con cái cha mẹ...
Nghĩa là giải thích hai cái chữ xuất gia để chúng ta thấy rõ, chữ xuất là ra khỏi,
chữ gia là nhà của cải, tài sản, anh em, chị em vợ chồng con cái cha mẹ,...
Xuất gia nghĩa là từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ,
từ bỏ bà con quyến thuộc lớn sống không gia đình, không nhà cửa chỉ còn ba y
một bát mới gọi là xuất gia, chứ không phải xuất gia theo kiểu mình như bây giờ
đâu. Như Thầy bây giờ cũng chưa chắc gọi là xuất gia, chùa gì mà dữ tợn như thế
này thì còn gì mà xuất gia, xuất gia là bỏ hết không có cái chùa gì mới gọi là
xuất gia chứ. Thầy còn có được Tu Viện Chơn Như làm sao gọi là xuất gia, còn
cái nhà rõ ràng mà, rồi còn cái này cái kia cái nọ. Bây giờ ai dám nói cái này
là của quý vị đâu, có ai mà dám lấy cái máy này mà của Phật tử đem đến cho Thầy
mượn quý vị có dám lấy xài không, chỉ có Thầy dám xài thôi, họ giao cho Thầy,
Thầy dám xài chứ quý vị dám xài không? Có ai mà dám rinh cái máy Thầy đem lại
thất chơi không? Mà như vậy đâu phải của quý thầy, mà Thầy dám đem chỗ này chỗ
kia được thì tức là của Thầy chứ còn của ai. Nói bằng cách của Phật tử chứ thật
sự mình sử dụng là của mình rồi, như vậy là Thầy có phải là xuất gia không,
chưa, chưa xuất gia đâu, còn dính mắc cả đống, bàn ghế này, tủ bàn ông Phật còn
ngồi trên bàn của Thầy hết chứ của ai vô đó vì vậy là Thầy cũng chưa hẳn là
xuất gia đâu, chừng nào mà thầy ba y một bát mà ẩn bóng nay chỗ này, mai chỗ
kia mới gọi là Thầy chân thật xuất gia đó. Cho nên cái hình ảnh đó là cái hình
ảnh Thầy sắp sửa bước đi để cho mình thực hiện là cái người xuất gia, chứ đừng
có nói xuất gia mà nghe cái kiểu mà danh từ đó thì không có đúng đâu. Đó thì
cho nó đúng cái chỗ mà chúng ta còn ba y một bát nó mới gọi là xuất gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét