ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC + ĐỊNH VÔ LẬU + KẾT LỘ
TRÌNH THỨ NHẤT
(Cho người cư sĩ, người tu sĩ mới tu, người đang ở lộ trình thứ nhất)
Sau khi tu tập TỨ CHÁNH CẦN xong các thầy nên tiếp
tục tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC định. Ở lộ trình này các cư sĩ đang tu phải tu
tập theo từng hành động việc làm của mình, hằng ngày làm bất cứ việc gì quý vị
chú ý việc ấy, không được sao nhãng hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn
chú ý hành động làm, tu trong tất cả việc làm. Đó là luôn luôn người cư sĩ hiện
bây giờ đang thực tập để cho mình bước qua một giai đoạn mới, cái lộ trình mới,
lộ trình của người tu sĩ thì mình luôn luôn tu tập ở trong các việc làm của
mình để tập cho có sức tỉnh thức ở trong đó, cho có một cái CHÁNH NIỆM TỈNH
GIÁC ở trong đó. Điều này rất khó nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó
đâu. Nghĩa là bây giờ bảo mình cứ tu tập theo hành động của mình, chú ý theo
hành động của mình, tu sao mà chút có vọng tưởng, chút có vọng tưởng à. Trời đất
ơi làm sao mà tỉnh thức được. Cho nên không có cách thức tu, cho nên từ lâu tới
giờ có nhiều người dạy tu trong mọi công việc, nhưng kết quả cho người ta tu mà
được kéo dài từ ngày này tới ngày khác không bị vọng tưởng, không có vô ký
trong đó thì ít có ai mà làm được hết. Còn đến đây Thầy dạy cho quý thầy sẽ làm
được cái điều đó, mà có thể giúp cho quý thầy tỉnh thức suốt ngày này sang đến
ngày khác, trong mọi công việc mà không cần phải có sự tập trung quá cao độ,
quá tập trung trong các hành động.
Quý vị nên lưu ý tu trong hành động có 2 điều cần
tránh. Ờ bây giờ mình phải biết tu trong hành động, việc làm của mình có 2 điều
cần phải tránh:
Một là tránh suy tư chuyện khác, nghĩa là trong hành động đó mình tránh suy tư vọng tưởng ở
trong đó. Đừng để vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là vừa làm
việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động.
Hai là tránh vô ký. Đó hành động mình vừa làm mà vừa nghĩ chuyện này chuyện kia
đó là thiếu tỉnh thức rồi, thì phải lưu ý cái phần nhứt. Cái phần 2 là tránh vô
ký, tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm. Lúc bấy giờ đang rơi vào trạng
thái không nghĩ tưởng, đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.
Tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC phải biết dùng 2 pháp.
Nghĩa là trước Thầy nêu lên 2 cái lỗi ở trong sự tu tập đó: cái thứ nhất là vọng
tưởng ở trong hành động, cái thứ 2 là vô ký ở trong hành động. Thì 2 cái đó phải
tiệt trừ, phải tiêu diệt nó, không được để trong sự tu tập thì như vậy là không
đúng. Chứ không phải bây giờ tôi tu tôi giữ tỉnh thức được năm, ba phút rồi kế
đến nó có vọng tưởng, rồi tôi tu năm, ba phút nữa kế đến có vọng tưởng. Hàng
ngày tôi tu trong công việc mà nó cũng có vọng tưởng xen ra, thì người đó dậm
chân tại chỗ, tu ngàn đời không được. Tức là chúng ta phải biết tu như
thế nào để làm chủ tuần tự cái thời gian chúng ta tăng dần, tăng dần lên, chứ
không phải ngày nào cũng tu trong hành động, lúc nào cũng làm trong hành động,
rồi tu có vọng tưởng ra vô ra vô hoài. Cũng tu vậy mà tu Chánh niệm tỉnh thức kiểu
đó là tu dậm chân.
Còn bắt đầu bây giờ chúng ta cho một thời gian nhất
định là chúng ta tu 30 phút ở trong hành động làm, hoặc là quét sân, hoặc là gì
đó, đúng giờ chúng ta nghỉ, rồi bắt đầu chúng ta xả, chúng ta làm theo suy nghĩ
gì của nó kệ nó, nhưng mà đúng giờ chúng ta tu. Chúng ta tu chừng năm phút hay
mười phút mà chúng ta đạt kết quả chất lượng của tỉnh thức ở trong 5 phút hoặc
3 phút thôi rồi hoàn toàn chúng ta xả nghỉ. Chứ sức của chúng ta không thể suốt
ngày mà công việc mà chúng ta giữ nó được. Cho nên phải hiểu được sức của mình.
Nhiều khi nói tu trong hành động, điên khùng mà tu suốt ngày, lúc nào cũng có vọng
tưởng hết mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì. Chúng ta tỉnh thức được 5 phút,
3 phút là may lắm rồi, từng đó mà chúng ta tập dần mà tăng dần lên rồi chúng ta
có chất lượng cao và chừng đó chúng ta sẽ siết tất cả thời gian tỉnh thức trong
mọi hành động.
Bởi vì tu phải biết chứ, còn tu mà không biết, cứ
tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời. Cũng là nói tu trong công việc làm, ai nói cũng
hay hết, cuối cùng thì chẳng có tỉnh thức gì hết. Bởi vì luôn luôn có xen kẽ vọng
tưởng ra vô làm sao tỉnh thức được.
Đó thì hôm
nay Thầy dạy để quý thầy biết cách mà tu tập pháp tỉnh thức. Cũng như nghe thầy
nói tu pháp Chánh niệm tỉnh thức, thôi đi kinh hành lung tung lung tung, suốt
ngày thấy đi chăm chăm, thôi thì cái kiểu này là tu ngu. Tu ngu! Tu như vậy là
không bao giờ có tỉnh thức. Cho nên cuối cùng Thầy nhìn thấy quý thầy càng ngày
là càng sai, càng sai là nó không có tập trung được cái độc cư, mà nó lại xuyên
qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra rất rõ cái điều mà quý thầy…
Bây giờ tiếp tục bài học vừa rồi là tu CHÁNH NIỆM
TỈNH GIÁC. Vậy thì phải tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như thế nào? Như Thầy đã dạy ở
trong cái vừa rồi đó… ở cái sức của mình, sức của mình nó ở cái mức thời gian
nào thì mình nên tập luyện thời gian đó, chớ không phải luôn lúc nào ở trong mọi
hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh thức được liền. Mà ngay trong thời
gian đầu tiên mới tu thì mình chọn thời gian ngắn nhất với sức của mình, mình tập
sao cho có chất lượng cao, trong lúc đó mình giữ gìn mọi hành động của mình, mà
sức tập trung của mình ở trong mọi hành động đó thì sức tỉnh thức nó mới có.
Muốn như vậy thì chúng ta phải nương vào 2 pháp: là
pháp tùy và pháp hướng. Tùy pháp là nương theo cái hành động, bởi vì
cái hành động của chúng ta gọi là pháp. Hàng ngày cái đối tượng hành động của
chúng ta là pháp hành, cho nên chúng ta lấy cái hành động đi đứng hàng ngày hoặc
công việc. Thì đó là pháp tùy theo hành động đó. Cho nên cái tâm chú ý vào hành
động đó gọi là tùy pháp.
Còn hướng pháp là chúng ta nhắc nó, cho
nên chúng ta tu tập thế nào mà nó tự nhiên, chớ không phải là tu tập theo cái
kiểu mà thiếu tự nhiên. Ví dụ là tùy pháp: cái thân của chúng ta làm công việc
đó nó nhanh nhẹn thì chúng ta tùy theo sự nhanh nhẹn đó mà tập luyện, hoặc là
chúng ta làm chậm chạp thì chúng ta cũng tùy theo sự chậm chạp mà tập luyện cho
nó tự nhiên. Chứ còn bây giờ chúng ta phải chú ý hành động thân của mình thì bắt
đầu mình phải làm chậm cho thật chậm mới chú ý được hoặc làm cho nhanh mới chú
ý được thì cái đó là mình mất tự nhiên, mình làm sai pháp hành của mình đi. Cái
thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm chậm. Như bây giờ có người
thì đi nhanh, có người thì đi chậm. Nhưng mà cái người đi chậm thì tùy theo
pháp hành đi chậm của mình, mà mình tập tỉnh thức ở đó. Mà cái người đi nhanh
thì cũng tùy theo cái đi nhanh mà mình tu CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC ở chỗ nhanh. Chớ
không phải là bắt buộc mình, mình đi nhanh mà tu tập mình phải đi cho chậm trở
lại, mà đi chậm như vậy thì nó không thể là đúng cách tự nhiên của nó. Cho nên
chúng ta tu, nhiều khi chúng ta không biết chúng ta tu, có người thì nhanh nhẹn
thanh thoát mà tu riết rồi thì đi chậm như con rùa, thấy coi cũng không được.
Đó là những cái sai.
Rồi có nhiều người lại thấy mình đi chậm quá như
vậy là sức tập trung của mình tu tập như vậy thấy nó quá lâu, cho nên lại là chạy
nhảy nhanh nhẹn để là nương theo cái chỗ nhanh nhẹn như vượn đó để mà tu tập,
thì nó cũng trật. Tùy theo cái pháp hành của thân chúng ta, nhanh thì chúng ta
tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ không phải bắt buộc nó vào khuôn khổ
nào chậm nhanh theo cái ý của mình được. Bởi vì đây là cái pháp tự nó nó có cái
pháp của nó cho nên mình chỉ hướng theo mà thôi, nương theo, tùy theo cái pháp
mà tu tập.
Đó là tùy pháp theo hành động công việc làm sống hằng ngày mà tu tập
sức tỉnh thức. Muốn đạt sức tỉnh thức này người tu sĩ phải dùng pháp hướng tâm
NHƯ LÝ TÁC Ý. Bây giờ mình kèm theo pháp hướng tâm, mình nhắc để cái tâm của
mình luôn luôn nhớ được cái hành động việc làm của mình, như mình nhắc: tôi
đang làm việc gì thì tôi nhắc tôi đang làm việc đó. Nghĩa là mình làm
việc gì thì mình nhắc theo nó. Ví dụ như bây giờ mình đang quét nhà, thì tôi
chú ý hành động đang quét nhà và hướng tâm nhắc tôi đang quét nhà. Bây
giờ mình dùng câu pháp hướng của mình: tôi đang quét nhà. Bây giờ
mình đang quét nhà nên nhắc tôi đang quét nhà. Như vậy mình sẽ nhắc cái tâm nhớ
hành động mình đang quét. Như đang nấu cơm thì mình lại nhắc tôi đang nấu
cơm.
Đó là những cái mình hướng theo để giúp cho ý thức của mình tỉnh
thức trong hành động của nó, mà nó không bị thất niệm, nó ở trong chánh niệm của
nó. Cho nên chánh niệm của nó là cái hành động. Vì chúng ta đặt lấy cái hành động
để làm cho sức tỉnh giác của chúng ta có, cho nên lúc bấy giờ cái chánh niệm
không phải là cái niệm nào mà nó thông suốt cái nọ cái kia gọi là chánh niệm mà
chính hành động đó là chánh niệm của chúng ta, đã đặt ở trước mắt của chúng ta,
trước ý của chúng ta. Cho nên cái đó gọi là chánh niệm. Mà nó chánh niệm
luôn luôn lúc nào nó cũng biết hành động đó thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.
Hiểu như vậy thì chúng ta biết cái niệm của chúng ta là cái niệm
gì, cái niệm hành động, cái niệm đang làm cái gì đó, đang làm công việc gì đó.
Đó là cái niệm. Mà cái niệm đang hiện tiền trước mặt mình đó gọi là chánh niệm,
chớ không phải là mình đặt cái niệm khác vào chỗ đó được, hay là mình đặt hơi
thở vào chỗ đó được. Chánh niệm ở trên hành động thì phải là cái hành động
chớ không phải cái hơi thở.
Còn nếu mà chúng ta vừa đặt cái đi kinh hành vừa biết chân đi mà vừa
biết hơi thở thì như vậy là chúng ta đã đặt 2 cái niệm 1 lượt, thì như vậy là
chúng ta sai. Đó không phải là chánh niệm, mà nó là niệm đôi ở trong đó
thì nó trật. Cho nên chúng ta chỉ có biết mình đi kinh hành mà thôi, thì như vậy
là mình đặt chánh niệm, thì lúc bấy giờ nó tỉnh giác ở trong chánh niệm đó, cho
nên cái định gọi là Chánh niệm tỉnh giác. Hiểu như vậy thì chúng ta không có đi
hàng hai và không có đặt sai cái niệm. Nếu mà trong khi đi kinh hành có niệm gì
nghĩ ở trong đầu thì cái đó là sai, tại vì là cái niệm khác chứ không phải niệm
hành động của chúng ta, cho nên nó đâu có chánh niệm, bởi vì cái niệm đó không
phải là niệm mình đặt, nên nó là tà niệm.
Đi trên hè phố thì nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố.
Đó thì mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc: tôi biết tôi đang đi trên
hè phố. Đó là pháp hướng của mình để cho cái chánh niệm của mình đang
đi trên hè phố.
Đó là những cái mà chúng ta cần phải hướng theo để cho cái tâm,
cái ý chúng ta lúc nào nó cũng tỉnh thức trên hành động mà chúng ta đang đi. Mà
hành động đó là cái chánh niệm. Chứ nghe chánh niệm mà chúng ta nói: ờ thì bây
giờ nói về cái niệm chơn chánh của chúng ta thì nói: đời là khổ là cái niệm
chơn chánh, thì vậy là nó sai đi, nó thuộc về cái loại khác, nó thuộc về cái loại
định khác chứ không phải là cái định chánh niệm tỉnh thức ở đây. Mình nghe
chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này thì nó là sai. Mình phải
hiểu được cái chánh niệm trong khi đi kinh hành cái niệm nó như thế nào, mà thất
niệm, tức là mất cái niệm đó đi, đức Phật gọi là thất niệm. Thí dụ mình đang đi
kinh hành mà mình quên mình đang đi kinh hành là bị thất niệm.
Thầy giải thích như vậy để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để
chúng ta biết chỗ tu chúng ta đúng hay là sai. Cũng như một người đang tu định
vô lậu mà đang quán cái thân bất tịnh, bỗng dưng nhớ chuyện gì khác đi, không
có quán thân bất tịnh mà lại quán câu kinh: ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm, suy
nghĩ về câu đó, thì như vậy là thất niệm. Đang có cái niệm đó nó nói về tâm của
mình như thế này như thế khác ở trong kinh điển mà trong khi đó mình đang quán
bất tịnh của cái thân này. Mà cái thân này đang quán bất tịnh là cái chánh niệm,
mà quán một câu kinh nào đó thì nó là thất niệm. Nó là cái tà niệm chứ không phải
chánh niệm của người đang tu pháp môn vô lậu. Phải hiểu mặc dù niệm đó không phải
là niệm thế gian, nhưng nó vẫn là niệm không đúng vị trí nó đứng. Mà mình đặt
niệm đó ngay chỗ mình đang tu pháp, nó không đúng cái pháp, do đó niệm đó thuộc
về tà niệm chớ không phải là chánh niệm. Mà cái niệm như vậy xen vào thì đương
nhiên xem người tu hành đó bị thất niệm.
Đang xúc miệng thì nhắc: tôi biết tôi đang xúc miệng. Nghĩa
là mình đang xúc miệng rửa mặt đó thì mình nhắc: tôi xúc miệng tôi biết tôi
xúc miệng. Đang ăn cơm thì nhắc: tôi biết tôi đang ăn cơm. Đang nhai
thực phẩm: tôi biết tôi đang nhai thực phẩm. Như vậy là lúc nào chúng ta
cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của cái hành động đang nhai. Đang mặc áo
thì tôi cũng nhắc: tôi biết tôi đang mặc áo. Mình nhắc như vậy tức là
pháp hướng của mình kèm theo để cho mình biết hành động của mình đang xỏ tay vô
cái tay áo, rồi đang gài nút. Thì cái đó là những cái nhắc chúng ta biết đang,
trong hiện tại đó, chúng ta đang làm cái việc đó. Cho nên ý chúng ta luôn luôn
bị cái pháp hướng mà nó không chạy ra khỏi cái chánh niệm của nó. Cho nên luôn
luôn lúc nào nó cũng ở trong cái chánh niệm của nó.
Như vậy hôm nay quý thầy đã biết chánh niệm của nó là cái niệm gì,
khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của chúng ta. Cho nên Phật bảo, ví dụ như mình
đang ngồi tu cái định nào thì mình cứ đặt cái niệm trước mặt. Thì bây giờ mình
đặt cái niệm chánh niệm tỉnh thức, cái niệm hành động, thì tức là trong hành động
thì mình phải đặt nó trước mặt của mình. Luôn luôn phải biết giữ nó, đừng cho
thất niệm. Thì như vậy là chúng ta mới có sức tỉnh thức, tỉnh giác cao. Còn nếu
bị thất niệm thì nó không có sức tỉnh giác cao đâu.
Đó là người tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC định luôn luôn dùng pháp tùy
và pháp hướng để giúp cho tâm có thời gian kéo dài sức tỉnh giác ra. Mình cứ nhắc
vậy thì nó kéo dài thời gian tỉnh thức. Nhưng như vừa rồi Thầy cũng nhắc quý thầy
là chúng ta phải khéo, phải khéo như thế nào? Vì cái sức của chúng ta nó không
thể giờ này đến giờ khác mà nó tỉnh thức nổi đâu. Cho nên chúng ta tập chừng 5
phút chúng ta nghỉ, nghỉ xả 30 phút hoặc là 15 phút. Bắt đầu chúng ta tu lại 5
phút.
Chúng ta tu lại cái sức tỉnh rất cao, cái chánh niệm của chúng ta
nó hoàn toàn an trú trong hành động, chánh niệm nó không có thất niệm, nó không
có mất. Còn chúng ta tu nhiều quá nó lờ mờ, mặc dù chúng ta có cái chánh niệm,
tức là niệm hành động của chúng ta nó không mất, nhưng nó không rõ, do đó cái sức
tỉnh nó không cao. Vì vậy mà chúng ta tu mất thì giờ rất lớn. Lưu ý phần này
thì các thầy tu ít nhưng mà đạt cái chất lượng cao. Rồi từ cái sức tỉnh của
chúng ta ngày càng cao thì chúng ta lại tăng dần lên, thì chúng ta sẽ thấy rất
là tỉnh. Thà là mình tu ít mà lúc bấy giờ mình tập trung vào cái gì đó, lúc đó
cái sức tỉnh mình rất cao, và cái sức tỉnh rất cao thì nó mới có cái tri kiến
giải thoát nó mới phóng ra, nó mới tu định vô lậu, nó mới quét sạch những cái lậu
hoặc. Còn cái sức tỉnh mình nó thấp quá, mình ngồi lại mình dùng cái niệm vô lậu
để mình quán xét thì mình ngồi hoài mà nó không phóng ra được, đó là cái sức tỉnh
mình không có nên cái tri kiến giải thoát không phóng ra được. Khi mình chưa có
đủ sức tỉnh thì mình dùng cái tri kiến, tri kiến tức là cái sự hiểu biết vay mượn
của người khác để rồi mình suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách
này bằng cách khác. Còn khi mà chúng ta đã có sức tỉnh thức rồi thì chúng ta
không cần vay mượn của ai hết mà chúng ta chỉ cần đặt cái niệm trước mặt: chẳng
hạn niệm thân bất tịnh hay niệm thân vô thường vô ngã. Chúng ta đặt cái niệm
trước mặt, chúng ta ngồi im lặng một chút xíu, tự ở trong tâm chúng ta phóng ra
tri kiến giải thoát, từ đó nó quán xét, thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh
như thế nào, tự nó nó quán sát không vay mượn của ai hết, mà nó thông suốt như
vậy đó gọi là tri kiến giải thoát.
Nhưng vì sức tỉnh thức của chúng ta không có, cho nên chúng ta ngồi
lại nó ỳ đó mà nó không phóng ra được, bởi vì tỉnh thức không cao. Vì vậy mà
khi chúng ta tu tập chừng 5 phút hay 10 phút mà cái sức cao rồi thì tự chúng ta
ngồi im lặng là nó phóng ra liền. Bởi vì người ta nói Định thì có Tuệ. Mà mình
chưa có đủ cái Định, tức là cái tỉnh thức, cái sức tỉnh thức tức là cái sức định
chứ đâu phải là cái gì, nó là cái sức nhiếp tâm của chúng ta, cho nên chúng ta
chưa có nó thì cho nên cái Tuệ nó không phóng ra được, mà nó không phóng ra được
thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến giải thoát không có thì tâm chúng
ta còn biết bao nhiêu cái ràng buộc dính mắc. Cho nên chúng ta muốn giải quyết
sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng ta phải dùng cái tri kiến, tức
là cái vay mượn, cái hiểu biết của kinh điển, của quý thầy dạy bảo để chúng ta
hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô thường như thế nào để chúng ta quán
xét theo sự hiểu biết của vay mượn, chứ không thể có tri kiến giải thoát được.
Đó thì sự tu tập nó phải rõ như vậy, chứ nếu mà không biết thì
chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà tri kiến giải thoát nó không phóng ra, rồi cứ nương
theo hơi thở, tưởng đó là mình thiền định, chứ thực ra mình bị thất niệm. Mình
thất niệm là vì cái định này nó không thể nào ở trong hơi thở được. Rồi mình tưởng
là ở trong hơi thở nó không có vọng tưởng, đó là mình không có thất niệm; nhưng
thật sự là mình tu lầm lạc, rồi mình tu sang qua một pháp khác, mà mình không
có chủ động điều khiển được, tức là thiếu sự làm chủ.
Nhưng quý vị chú ý, ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp
hướng. Cái phần này chúng ta cũng phải rõ là chúng ta hướng tâm, chứ không phải
là niệm, để không rồi chúng ta cứ liên miên mà niệm thì nó cũng lại trật. Ở đây
hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Vì hướng tâm phải có cách khoảng
thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia, nghĩa là chúng ta phải có khoảng
thời gian.
Ví dụ bây giờ chúng ta hướng này: tôi quét sân tôi biết tôi
quét sân.
Thì không thể nào chúng ta lặp lại một lần thứ 2 kế tiếp nữa: tôi
quét sân tôi biết tôi quét sân. Rồi nói: tôi quét sân tôi biết tôi quét
sân… Mình lặp lia lịa vậy gọi là niệm. Còn mình nhắc một câu: tôi quét
sân tôi biết tôi quét sân, rồi chúng ta cứ tự nhiên mà chúng ta quét, để
cho cái sức ý thức của chúng ta tập trung nơi hành động chánh niệm của nó đang
quét. Thì một khoảng cách độ chừng 3 phút, 5 phút chúng ta lại nhắc một lần nữa.
Thì cứ có khoảng cách để tâm nó lặng theo hành động tập trung mà không cần tác
ý ra nữa, do đó gọi là pháp hướng. Còn nếu mà cứ liên tục niệm thì đó là niệm
pháp hướng chứ không phải là hướng tâm.
Cho nên chúng ta ở đây cũng phải hiểu được cái điều này. Người mới
tu họ không biết thì cứ tu liên tục lúc nào cũng nhắc. Thí dụ đi kinh hành thì
họ cứ nhắc: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, rồi lúc nữa
họ cũng nhắc liên tục nữa, thì cái đó là cái sai, cho nên khi mình nhắc rồi thì
họ phải tuần tự để cho có thời gian lắng tâm xuống trong cái Chánh niệm, trong
cái hành động đi của chúng ta. Thì khi mà lắng tâm trong cái khoảng thời gian
đó, cái sức tỉnh nó tăng lên, đồng thời thời gian mà lắng tâm đó nó sẽ bị vơi
đi, tức là sức tập trung của chúng ta, dần dần ý thức nó chưa quen cho nên nó
không có tập trung chặt vào đó được, cho nên nó lơi lỏng. Nó lơi lỏng thì chúng
ta lại dùng 1 cái pháp, câu hướng nữa, lại nhắc nó một lần nữa: tôi đi
kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Thì từ đó nó lại tập trung vào
hành động đi nữa, thì nó lại tỉnh thức cao hơn nữa, do đó chúng ta cứ tiếp tục
như vậy thì cái sức tỉnh nó lại càng cao.
Nhưng mà rồi nó có trường hợp, là tại vì quý thầy đã tu tập cái
hơi thở nhiều quá thay vì chúng ta chưa nên tập hơi thở trong cái lúc này,
mà phải tu các định khác. Bây giờ nó lại quen hơi thở, vừa đi mà lại vừa biết
hơi thở. Cho nên Phật dạy tất cả các pháp chúng ta đều có thể nương hơi thở mà
tập được, do đó chúng ta nhắc câu ám thị, nó vừa là có hơi thở mà vừa có chánh
niệm tỉnh thức của hành động chúng ta đi nữa. Thì: hơi thở vô
tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra. Hơi thở vô tôi biết tôi đi
kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành.
Đó là những câu nhắc để lấy dùng hơi thở làm cho tập trung xuống với
hành động đi, chớ không phải tập trung hơi thở. Nhưng tại vì cái tâm của mình
nó đã quen với hơi thở nên vừa đi mà vừa biết hơi thở, cho nên mình nhắc: hơi
thở vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh
hành. Mình dùng cái hơi thở mình tập trung xuống hành động liền, nó làm cho
mình tỉnh thức ngay liền và đồng thời bỏ hơi thở được. Đó là những cách có thể
nương hơi thở mà tu vào cái Chánh niệm tỉnh thức để cho chúng ta càng tỉnh thức
hơn.
Đó, đó là những cách thức tu tập để chúng ta tu chánh niệm tỉnh thức
cho nó đạt được cái mức tỉnh thức cao. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời
gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia, người mới tu 30 phút mới hướng một
lần, còn người tu lâu có sức tỉnh thức nhiều, một phút hoặc 2 phút hướng một lần.
Nghĩa là người mới tu mà tu 30 phút thì họ phải tu trong 1 phút họ phải hướng 1
lần hoặc 2 phút họ hướng 1 lần. Còn người tu lâu thì có thể khoảng 5 phút hay
10 phút họ mới hướng 1 lần. Nếu mà thấy sức tỉnh thức của mình mà nó luôn luôn
tập trung ở hành động đi của mình thì lúc bấy giờ lâu lâu mình mới hướng, mà thấy
nó lờ mờ, nó bị hàng hai, nó nương hơi thở hoặc nó bị âm thanh tác động, nó đi
hàng hai trong đó thì ngay đó mình phải hướng liền cho nó gom lại, chớ không
khéo nó lờ mờ. Nó đi hàng hai là nó lờ mờ rồi đó, nó không tập trung được rồi,
nó không tỉnh thức đâu.
Cho nên khi đó người tu thì người ta thiện xảo lắm, người ta phải
khéo léo ở trong sự tu tập. Người ta biết cái tâm của mình lúc ấy nó lờ mờ rồi,
người ta biết lúc bấy giờ nó rất tỉnh rồi. Mà lúc lờ mờ người ta biết, cho nên
người ta rất khéo léo dùng pháp hướng là cái chỗ lờ mờ, chỗ tỉnh thì người ta
không dùng pháp hướng nữa để cho nó tập trung ở trong sức tỉnh. Mà nó lờ mờ thì
ngay đó chúng ta phải dùng pháp hướng để phá liền để cho ý thức của chúng ta nó
gom lại cho nó mạnh. Biết rõ như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả.
Ở đây không được nhắc liền miệng, vì nhắc liền miệng là niệm câu
trạch pháp hướng, như vậy sẽ tu sai, sau này sẽ rơi vào định tưởng, lạc đường
tu giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là rơi vào những định tưởng, niệm riết rồi nó
sẽ rơi vào những định tưởng, nó làm cho chúng ta có sự an lạc trong khi niệm mà
nó không có đúng cái pháp hướng.
Bây giờ quý vị tu ĐỊNH VÔ LẬU, ban đêm tối đến quý vị chọn giờ nào
yên tịnh nhất, ngồi kiết già lưng thẳng, rồi đặt niệm trước mặt quán xét cha mẹ,
anh em, bà con ruột thịt, vợ chồng con cái, xét qua nhân quả khổ vui, giận hờn,
thương ghét, đầy rẫy một cuộc sống đau khổ và bằng nước mắt do nghiệp nhân quả
tạo nên.
Đó khi bây giờ mình còn là người cư sĩ trong gia đình thì mình đặt
cái niệm gì, cái niệm của một cuộc sống chung nhau trong gia đình cha mẹ anh em
ruột thịt, con cái của mình, của cải tài sản mình đặt ra trước mặt mình quán
xét nhân quả. Mình mới suy tư lại từ ngày mình mới lập gia đình cho đến khi mà
mình sống có con có cái như thế này, sự vui sự khổ như thế nào, mình phơi bày
ra tất cả các cái cuộc sống của mình, để mình thấy đó là bằng mồ hôi nước mắt của
mình, sự đau khổ. Mà do nhân quả nghiệp báo nó đưa đẩy chúng ta quá nhiều sự khổ
đau đó, vui thì ít mà khổ thì nhiều.
Do cái sự tu tập như vậy mà chúng ta đặt cái niệm như vậy, tức là
càng ngày chúng ta càng hướng về cái hướng cái lối đi giải thoát, càng ngày cái
tâm của chúng ta càng thấy rõ nét ở trên hướng giải thoát. Còn nếu mà không chịu
đặt như vậy thì chúng ta bị sự vô minh che mờ, nó làm cho chúng ta tưởng cái cuộc
sống của chúng ta là cái hạnh phúc, nhưng nó là cái hạnh phúc giả, rồi tiếp tục
trên con đường nghiệp báo nhân quả, rồi chúng ta cũng trôi lăn ở trong 6 nẻo, rồi
những người thân của chúng ta cũng chẳng còn là người thân, mà chỉ còn là những
người nhân quả, những người vay nợ với nhau, chớ không có nghĩa lý gì ở trong
cuộc đời của chúng ta nữa.
Như vậy là người cư sĩ mà chúng ta muốn bước qua một giai đoạn của
người tu sĩ thì chúng ta nên đặt niệm đó để chúng ta quán xét cuộc sống sinh hoạt
của gia đình, của tất cả những người thân để xem coi có phải là thân thật hay
là thân giả, có phải là nợ vay hay là không nợ vay, có phải là nghiệp báo gặp
nhau để mà trả nghiệp báo hay không? Cho nên quán xét cuối cùng thì chúng ta thấy
tâm chúng ta dửng dưng mà không còn bị trói buộc những cái dây thương, dây ghét
nữa, cho nên chúng ta được xa lìa để tìm con đường giải thoát của Phật. Đó là
người ở trong lộ trình thứ nhất này, người cư sĩ chuẩn bị cho mình bước qua một
giai đoạn tu tập của lộ trình thứ 2 của tu sĩ thì chúng ta nên đặt cái niệm đó ở
trước để tu tập Định vô lậu.
Ở đây đầu tiên Thầy dạy cái định chánh niệm tỉnh giác định, kế đó
thì cái định vô lậu, 2 cái này là người cư sĩ ở giai đoạn đầu tiên phải tu tập.
Khuya thức dậy cũng ngồi kiết già, đặt niệm trước mặt, quán xét lại
như buổi tối, sáng chiều cũng thế, cứ mỗi lần quán xét là nó lại rõ thêm nhân
quả. Nghĩa là mỗi lần mình ngồi mình tu, thì càng ngày mình thấy đường đi nhân
quả rất rõ ràng. Tại sao mà Thầy biết như vậy?
Tại vì trước kia Thầy cũng có tu cái này rất nhiều, cho nên tại
sao mà Thầy biết được đường đi lối về của nhân quả, tại vì mình có đặt được cái
nhân quả đó mà mình quán xét về cuộc đời mình, quán xét của mọi người cho nên
càng ngày nó làm cho thấu rõ được cái đường đi của nhân quả. Vì vậy mà bây giờ
mà viết ra một cái giáo án của NHÂN QUẢ tức là đạo đức NHÂN QUẢ thì Thầy viết
ra rất dễ dàng, bởi vì Thầy đã thấu suốt đường đi của nó rồi, mỗi một cái hành
động mà chúng ta làm thì nó sẽ có cái quả nào Thầy đã biết rồi, còn như quý thầy
không chịu quán xét, cho nên hành động của mình làm đây nhưng mình chưa biết
cái quả nó ra sao hết. Còn cái người mà đã thông suốt NHÂN QUẢ, thì người ta ngồi
lại người ta biết hành động làm cái điều đó là sẽ có cái quả gì nó đến đó, nó
không có sai chỗ nào hết, nó không có trật bởi vì NHÂN QUẢ mà. Cho nên từng xét
như vậy thì cái tri kiến giải thoát của chúng ta nó thấu suốt được cái lý của
NHÂN QUẢ, cho nên nó thông suốt được đường đi của NHÂN QUẢ, nó không có sai.
Còn nếu không chịu tu cái ĐỊNH VÔ LẬU mà dùng cái pháp quán thì chúng ta khó
lòng mà thấy được đường đi nước bước của NHÂN QUẢ.
Đến đây Thầy cho thêm vài đề mục thiền vô lậu. Nghĩa là Thầy cho
thêm một vài đề mục, tức là cái niệm để tu ĐỊNH VÔ LẬU.
Đặt niệm của cải tài sản, nghĩa là đem của cải tài sản của mình đặt
trước nó, để mà quán của cải tài sản của mình nó vô lậu như thế nào. Quán xét
xem cho thấu lý của của cải tài sản làm cho ta bất an, phải lo lắng bảo vệ và
còn phải liên tục chạy theo để mà tạo nó ra nữa. Đó thì ở đây Thầy cho cái đại
khái để chúng ta hiểu rằng khi mà chúng ta đặt niệm của cải tài sản trước mặt,
thì chúng ta quán xét của cải tài sản kia mà chúng ta làm ra có nó, rồi khi mà
nó có rồi chúng ta phải bảo vệ giữ gìn nó như thế nào, mọi mặt đủ cách làm cho
chúng ta đau khổ ở trong cuộc đời chúng ta như thế nào đối với của cải tài sản.
Quán xét đến khi chết có mang theo được không? Nghĩa là khi mình
chết rồi mình có mang theo được vật gì không? Tức là quán xét bây giờ phỏng chừng
mình chết rồi, bây giờ cái gì quý nhất, vàng bạc hay cái gì quý nhất, có thể
mang theo được mình không. Đó mình quán xét cái vật chất, tiền của, châu báu mà
mình đã làm ra được, thì khi mình mất đi rồi, mình có mang vật gì theo được
không? Để cho mình thấy nó, nó không phải là những người thân thương của mình
luôn luôn ở bên mình được, cho nên mình phải thấy được điều này là do mình đã đặt
cái niệm đó mình quán xét mình mới xả ly nó ra được, mình mới có vô lậu được với
những đối tượng này.
Đặt niệm thân bất tịnh để quán xét. Vì mình thường chấp cái thân của
mình, cho nên mình phải đặt cái niệm thân bất tịnh để cho thấy nó thật sự là bất
tịnh. Vì vậy mà mình ngao ngán, mình không còn dính vào cái thân này, chấp cái
thân này nữa.
Đặt niệm thân vô ngã. Nghĩa là mình đặt niệm thân trước mặt của
mình vô ngã để mình quán xét coi cái ngã của mình ở đâu mình tìm. Khi mình thấu
được lý vô ngã của nó, thấu suốt được lý vô ngã nên trong thân của mình không
có cái gì gọi là có ngã ở trong đó.
Đặt niệm thân vô thường quán xét. Nghĩa là mình đặt niệm thân vô
thường của mình rồi mình quán xét.
Đặt niệm thân khổ quán xét. Mình đặt cái thân khổ của mình mình
quán xét.
Đặt niệm thực phẩm quán xét bất tịnh. Những thực phẩm ăn hằng ngày
của mình mình cũng đặt cái chánh niệm đó trước mặt rồi mình quán xét nó, dùng
pháp quán mà quán xét để thấy thực phẩm mình ăn có bất tịnh đúng hay là sai. Từ
đó mình thấu suốt được cho nên mình không có ham ăn ham uống nữa.
Đặt niệm vợ con quán xét có phải là NHÂN QUẢ vay nợ không? Đó mình
đặt cái niệm vợ con, bởi vì vợ con là những người gần gũi với mình nhất và dễ
làm cho mình dính chặt ở trong cuộc đời của mình. Cho nên mình đặt cái niệm đó
để quán xét xem có phải là cái NHÂN QUẢ vay nợ hay đó là một tình cảm thiêng
liêng nào để mà có thành vợ thành chồng với nhau. Đó là mình phải đặt cái niệm
mình quán xét. Vì vậy mình phá được cái lậu hoặc đó.
Đặt niệm danh quán xét cái danh, ai cũng lại ham danh này kia, do
đó mình đặt niệm danh, danh đó có thật hay giả. Do đó mình phải đặt niệm danh để
mình quán xét nó.
Đặt niệm sắc dục mình quán xét. Thí dụ như sắc dục nó gợi cho mình
ham thích tình dục. Do đó mình đặt cái niệm đó để mình xem coi có cái niệm đó
có thật sự là hạnh phúc không hay đó là một cái giả để tạo cho chúng ta nhân
tái sanh luân hồi. Những hành động bất tịnh, những hành động không có sạch sẽ.
Đó là những cái như vậy chúng ta phải đặt niệm quán xét, và quán
xét thì chúng ta sẽ thấu triệt được tất cả những cái này, và do đó chúng ta phá
được những lậu hoặc ở trong tâm của mình.
Đặt niệm ngủ, mình cũng đặt niệm ngủ để quán xét cái ngủ từ đâu đến,
cái ngủ đưa đến những cái gì, tai hại sao sao. Tức là mình thấu suốt được cái
ngủ thì mình không còn ham ngủ nữa.
Đặt niệm ăn, đặt niệm về ăn tức là mình quán xét về cái ăn của
mình coi nó ngon chỗ nào, rồi nó hết ngon chỗ nào, rồi nó bất tịnh chỗ nào, nó
dở chỗ nào, nó như thế nào cho nên mình thấu suốt được cái ăn của mình.
Đặt niệm thân của người phụ nữ để mình quán xét. Vì hầu hết là
mình thấy thân của người phụ nữ là đẹp, là tốt, là cám dỗ, là mềm mại, là thích
thú cho nên mình đặt cái niệm đó, mình xem thử coi nó như thế nào. Do mình thấu
suốt được, mình thấy thân người phụ nữ mình thấy sợ và mình ghê gớm và mình xem
như là thân của một con rắn độc, mình quá sợ hãi.
Đây là một số chánh niệm để chúng ta đặt để tu cái ĐỊNH VÔ LẬU. Đó
thì hôm nay quý thầy thấy rằng trên bước đường tu tập thì chúng ta phải biết
cách để đặt cái niệm cho đúng cách để mà quán cái vô lậu, để diệt trừ cái
tâm lậu hoặc của chúng ta.
Đến đây quý vị chỉ có siêng năng thì quý vị đã vượt qua lộ trình
thứ nhất. Mà quý vị phải tu tập hết sức thì mới thoát ra khỏi lộ trình này. Vì
lộ trình này biết bao nhiêu dây mơ, rễ má chằng chịt buộc chặt quý vị. Khó mà
quý vị thoát ra được.
Nếu không có lộ trình giáo án này thì quý vị khó lòng mà thoát khỏi
nhà lửa đang hừng hực cháy. Nghĩa là quý vị không có được cái giáo án này, quý
vị chấp tưởng mình đang sống trong lộ trình thứ nhất này là hạnh phúc, là chân
thật. Nhiều khi chúng ta đi tu rồi, chúng ta xuất gia rồi, chúng ta vẫn còn ở
trong lộ trình thứ nhất này. Nào là của cải tài sản, nào là chùa to tháp lớn,
nào là những vật chất xung quanh vây quanh chúng ta, rồi trong đó anh em dòng họ,
Phật tử đủ loại đủ cách ở trong đó nó vây quanh còn hơn là một người ở ngoài đời
đang sống có một vợ hai ba con nữa. Mình còn đông hơn nữa, Phật tử thì thôi
không biết là bao nhiêu, đệ tử cũng không biết là bao nhiêu. Nó trói chặt mình
còn hơn cái gì nữa.
Do chỗ tu hành mà chúng ta không thấy được lộ trình thứ nhất này,
càng ngày nó càng bị xiết chặt hơn. Người ta có một hai con à, còn mình là ông
thầy mình có cả trăm cả ngàn đứa con, chết được rồi. Bây giờ có đứa nói thế
này, đứa nói thế khác, hỏi pháp này, hỏi pháp kia. Dạy hoài tu không giải thoát
mà đem cái thứ này, đem cái thứ kia. Hầu hết là nó trói chặt mình thêm. Chẳng hạn
là bây giờ có một số đệ tử cư sĩ, thì ông thầy mà, đệ tử cư sĩ họ đem tiền
cúng, ông thầy này có tiền nhiều thì ông sài cái kia nọ, tạo ra đủ thứ tội lỗi.
Rồi nó đem máy móc này kia cúng dường, thương thầy nó cúng dường, thì cũng như
đứa con mà, do đó nó đem của cải tài sản riết, ông thầy quá nhiều. Rồi nó thấy
cái nhà ông thầy, cái thất ông thầy xấu. Bỏ tiền ra nó cất thất ông thầy cho tốt.
Rồi nó thấy ông thầy sao mà mệt nhọc quá, không có khỏe, cho nên nó đặt máy điều
hòa không khí, rồi quạt máy, rồi tủ lạnh, đủ thứ gì cho ông thầy hết. Cuối cùng
thì nó đem bao nhiêu sự trói buộc ông thầy chặt càng chặt thêm. Còn ở ngoài đời
người ta có 1 vợ, 2,3 con, nó không có tiền nhiều như vậy đâu, bởi vì nó ít cho
nên ông cha nó bị trói buộc ít. Còn cái ông thầy coi vậy bị trói buộc nhiều. Do
vì vậy mà càng ngày chúng ta càng bị trói buộc mà giải thoát thì không có. Từ
đó chúng ta càng ngày càng sa lầy xuống cuộc đời mà không thấy được giải thoát.
Cho nên ở đây lộ trình thứ nhất chúng ta phải thấy cho được rõ
ràng để mà chúng ta dứt khoát, chúng ta bước qua lộ trình thứ 2 là không có còn
một cái gì mà trói buộc chúng ta được hết, trắng bạch như vỏ ốc, ba y một bát
cho nên nó còn gì đâu mà trói buộc mình, đó là giải thoát hoàn toàn. Không có
chùa, cũng không có đệ tử. Người ta đến hỏi đạo thì dạy người ta tu thôi, chứ đừng
có bày mà cúng cái này, cúng cái kia, đủ thứ y áo cả đống mà còn cúng nữa, thì
cái đó là cái trật. Thầy thấy các Phật tử họ thương Thầy lắm, họ mua cái này
cái kia, từ cái cây kem, từ cái bàn chải họ mua cũng đồ tốt, từ cái khăn tốt mà
cũng cho ông thầy nữa. Họ sắm cho ông thầy đủ thứ hết, họ coi từ cái đôi dép nữa.
Sắm đủ thứ, cho đến khi mà cái mền, cái mùng của ông thầy họ cũng sắm đồ cho tốt
nữa chứ không sắm đồ xấu. Và cũng từ đó ông thầy bị nhiễm. Nhiễm cứng ngắc à,
không có ra được.
Để kết thúc cái bài này, cái lộ trình thứ nhất này của người cư sĩ,
thì Thầy sẽ tóm tắt lại toàn bộ bài Thập thiện để kết luận cái buổi giảng hôm
nay. Chúng ta từ cái tu TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, TỨ CHÁNH CẦN rồi đến cái CHÁNH NIỆM TỈNH
GIÁC định, cho đến ĐỊNH VÔ LẬU thì đây là một sự đơn sơ, thô sơ nhưng nó cũng
có được cái phương pháp tu tập. Còn về cái phần sau này, lộ trình của người tu sĩ
thì thầy sẽ dạy kỹ hơn về các cái pháp này. Vì ở đây là chúng ta sơ lược để cho
người cư sĩ họ biết cách hành của họ một cách đơn giản mà đạt được cái chất lượng
tu tập của họ để cho họ tìm mọi cách mà họ dứt ra được cái lộ trình thứ nhất để
họ bước sang qua lộ trình thứ 2. Hoàn toàn là phải trắng bạch như cái vỏ ốc mà
không còn bị cái sợi dây mà trói buộc họ nữa. Để rồi đi vào một con đường giải
thoát chơn thật của đạo Phật. Khép mình ở trong những khuôn khổ giới luật của
Phật sau này, để thực hiện được sự giải thoát hoàn toàn. Đây cái phần để kết luận
của cái lộ trình này thì Thầy tiếp tục.
Để kết luận cái lộ trình thứ nhất thì Phật đã dạy chúng ta, muốn
thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Bây giờ chúng ta đã thông hiểu cái
lộ trình thứ nhất rồi thì đó là chúng ta đã muốn thông hiểu những gì cần phải
thông hiểu, đó là cái giai đoạn của những người cư sĩ cũng như những người tỳ
kheo hữu học, họ phải học, phải hiểu biết, họ thường xuyên quán xét vạn pháp,
tâm họ phải rõ nguồn gốc vô minh, phá trừ những tư tưởng dính mắc chấp trước,
hàng ngày tinh tấn tiến bước trên đường về nội tâm của mình để đập tan những
màn vô minh đen tối. Cho nên để kết luận cái lộ trình thứ nhất này thì chúng ta
như Phật đã dạy, cái điều kiện thứ nhất ở trong 4 cái điều kiện thì sự thông hiểu
là phải thông hiểu thứ nhất. Thì bây giờ chúng ta đã thông hiểu thì phải, thông
hiểu tức là những bậc hữu học mới thông hiểu, còn nếu mà chúng ta không
có chịu học hành, không có chịu nghe, không có chịu hiểu thì làm sao mà chúng
ta hiểu. Cho nên ở đây qua giai đoạn mà quý thầy đã được nghe thầy giảng thì đó
là cái chỗ mà thông hiểu để cho quý thầy rõ sự thông hiểu tất cả những điều kiện
mà chúng ta cần thông hiểu trên con đường tu tập, lộ trình mà chúng ta phải tu
tập. Cho nên khi mà thông hiểu như vậy đó là chúng ta đã tập tan màn vô minh
đen tối mà từ lâu nó đang phủ dày ở trong tâm tư của chúng ta. Quý thầy hãy
lấy thập thiện làm vũ khí. Bây giờ thầy mới kết luận về cái...Bởi vì lộ
trình của người cư sĩ là phải lấy thập thiện mà làm cái điều kiện chiến đấu chống
lại những sự si mê của mình. Cho nên ở đây quý thầy phải lấy thập thiện làm vũ
khí phá trừ si mê, sẽ thành tựu 10 công đức mà kinh thập thiện đã dạy. Tức là
kinh 10 điều lành đã dạy.
Một là không si mê, được ý vui chân thiện. Nghĩa là
mình phải lấy thập thiện mình tu tập đó thì mình không có si mê, cái ý vui mà
thiếu cái sự thiện ở trong đó. Nghĩa là bây giờ mình làm điều ác mà mình vui
theo đó là nó không đúng. Cho nên mình phải lấy một sự vui chân thiện, mà không
được có si mê ở trong cái điều ác, mà phải vui theo cái sự thiện chứ không phải
là vui theo cái sự ác. Bởi vì Thầy có phân tích cho quý thầy thông rõ đõ, nó có
4 cái hỷ lạc của ác pháp, mà nó có 4 cái hỷ lạc của pháp xuất thế. Tức là nó có
những cái vui, mà những cái vui đó là những cái vui ác. Còn cái vui mà vui của
đạo, cái vui vượt ra, nó là thiện, cho nên ở đây nó ly ra. Tất cả các pháp ác
thì nó có cái vui của các pháp ác, nó vui đó, làm cho chúng ta lầm chấp. Vậy
chúng ta lấy thập thiện để chúng ta kê vào, để thấy biết cái vui nào chân thật
mà cái vui nào không chân thật.
Cho nên ở đây cái thứ nhất là chúng ta không được si mê theo những
cái vui của ác pháp mà hãy vui theo cái chơn pháp, cái thiện pháp. Đó là cái thứ
nhất.
Cái thứ hai là người cư sĩ phải tin sâu nhân quả. Mình phải
tin ở cái nhân quả. Bởi vì nhân quả nó sẽ là trở thành một cái nghiệp, mà nghiệp
thì nó trở thành một cái nơi mà nó sản sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nhân quả
đó mình mới tạo ra những cái nghiệp, rồi từ cái nghiệp đó đó khi mà sản sinh ra
mình rồi mình tạo ra cái nghiệp thì tức là mình bỏ cái thân này mình cũng trở về
nghiệp. Rồi từ cái nghiệp đó nó lại sản sinh ra mình nữa. Đó là mình đi trong
cái lòng vòng của nhân quả mà mình không biết. Đó là mình tin sâu nhân quả để
cho mình nó sẽ là trở thành một cái nghiệp, mà nghiệp thì nó trở thành một cái
nơi mà nó sản sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nhân quả đó mình mới tạo ra những
cái nghiệp rồi từ cái nghiệp đó đó khi sản sinh ra mình rồi mình tạo ra cái
nghiệp thì tức là mình bỏ cái thân này mình cũng trở về nghiệp. Rồi từ cái nghiệp
đó nó lại sản sinh ra mình nữa. Đó là mình đi trong lòng vòng của nhân quả mà
mình không biết. Đó là mình tin sâu nhân quả để cho mình thực hành cho đúng cái
nhân thiện mà không làm cái nhân ác.
Ba, tin sâu ba ngôi Tam Bảo. Bởi vì
Phật Pháp Tăng là cái nơi mà chúng ta phải nương tựa để chúng ta thoát ra khỏi
cái nhân quả. Nếu chúng ta không có nương tựa tin sâu ba ngôi Tam bảo này thì
chúng ta khó mà thoát ra nhân quả. Vì ba ngôi Tam bảo này đều đặt ở trên nền tảng
của nhân quả cho nên cái hành động của Phật, Pháp và các vị Tăng là cái hành động
không có ác pháp, cái nhân lành không có cái nhân ác ở trong đó. Vì vậy mà
chúng ta tin sâu ba ngôi nhân quả tức là chúng ta đã thực hiện được cái nhân quả
tốt không phải là cái nhân quả xấu. Đó thì ở đây thứ nhất là chúng ta tin nhân
quả rồi, thứ hai chúng ta tin ba ngôi nhân quả tức là những cái người mà, những
cái pháp mà dạy chúng ta thoát ra nhân quả, những cái người đã sống vượt thoát ra
nhân quả, đó là Phật, là Tăng và những cái Pháp mà dạy chúng ta để vượt thoát
ra nhân quả, đó là Pháp.
Bốn, tâm được Chánh kiến. Nghĩa là khi mà chúng ta
dùng cái Thập Thiện mà chúng ta dùng nó làm vũ khí thì chúng ta sẽ có 10 cái điều
mà chúng ta cần phải lưu ý là vui theo cái sự thiện, tin sâu nhân quả, tin sâu
ba ngôi Tam Bảo. Tâm thì nếu mà chúng ta tin sâu ba ngôi Tam Bảo thì luôn luôn
lúc nào chúng ta cũng thấy cái đúng chứ không còn thấy cái sai nữa. Bởi vì tin
nhân quả, rồi tin ba ngôi Tam Bảo thì những cái gì mà ở trong ba ngôi Tam Bảo
này dạy thì đó là những chính kiến của chúng ta.
Năm, không đọa ba đường ác. Nghĩa là
cái người mà có Chánh kiến rồi thì lúc bấy giờ ba cái đường ác họ không có rơi
vào trong đó. Còn nếu chưa có Chánh kiến thì lúc thì sân, lúc thì phiền não,
lúc thì làm điều này lúc làm điều kia thì đều là tạo cho chúng ta có những đau
khổ liên tục ở trong hiện tại chứ không phải là ba đường ác là chờ chúng ta để
chết đi rồi mới đọa xuống địa ngục mới gọi là ba đường ác đâu. Trong cuộc sống
hiện tại của chúng ta nó đã có ba đường ác ở trong đó rõ ràng. Cho nên vì vậy
khi tâm được Chánh kiến rồi thì chúng ta đoạn dứt được ba cái đường ác này. Và
khi mà ba cái đường ác này nó không có thì cái phước huệ của chúng ta không lường
được, nghĩa là cuộc sống của chúng ta hạnh phúc vô cùng, nó rất là an vui.
Bảy, thấu rõ đường tà, tiến vào đường chánh. Lúc bấy
giờ chúng ta thấy rõ đường nào là tà đường nào đường chánh chúng ta thấy rõ, vì
vậy mà trên con đường chúng ta tiến tới nó thuộc về nhân lành chứ không bao giờ
có nhân ác ở trong đó.
Tám, xả ngã diệt tâm, chuyển hết nghiệp ác. Nghĩa là
lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta lần lượt nó xả được cái ngã, nó diệt được cái
tâm ham muốn của chúng ta, nó chuyển được hết các nghiệp ác nghĩa là tất cả những
cái nghiệp ác từ lâu mà chúng ta đã tích trữ mà khi chúng ta chưa có biết được
Phật Pháp đó, chưa có biết nhân quả đó, chúng ta đã có những cái nhân ác nhiều
đời nhiều kiếp của chúng ta ở trong cái nhân ác đó mà nó tạo thành cái quả của
chúng ta mà hiện giờ chúng ta đang ôm ấp những cái quả đó đó, thì khi mà tới
khi mà rõ được thấu suốt cái này thì chúng ta chuyển được cái, xả được cái ngã
diệt được cái tâm thì chuyển được tất cả những cái nghiệp ác, cái quả ác ở
trong cái cuộc đời chúng ta đang nhận, đang thọ lãnh đó. Nó chuyển sạch ra hết,
làm cho chúng ta không còn khổ đau nữa. Mặc dù đứng trước mọi cảnh nào, mọi cái
tình huống nào chúng ta cũng không còn khổ nữa.
Chín, luôn luôn trụ Chánh kiến. Lúc nào
chúng ta cũng ở trong cái sự hiểu biết, luôn luôn lúc nào cái hiểu biết của
chúng ta cũng chơn chính chứ không phải bị chấp cái này, chấp cái kia chấp cái
nọ.
Và cái cuộc sống của cái người này, thứ mười, là cuộc sống người
này không còn bị tai nạn nữa. Nghĩa là thay vì người ta bị
nhân quả thì người ta sẽ gặp tai nạn này tai nạn khác hay là hoặc chuyện này hoặc
chuyện khác thậm chí như bệnh tật thì đó là những cái có thể nói đến là làm cho
con người đau khổ đó, thì cái người mà người ta thực hiện được, người ta lấy mười
điều lành này mà người ta làm vũ khí để người ta chiến thắng thì người ta có được
mười điều lợi như vậy đó thì cuộc đời của người ta kể từ đây người ta chuyển
hóa được cái nhân quả, chuyển hóa được cái nghiệp ác của người ta thì do đó trước
những cái hoàn cảnh nào, trước những cái đối tượng nào thì những cái tai họa,
tai nạn mà xảy đến, họ hoàn toàn họ vượt ra được hết, không bao giờ còn có một
cái gì mà bủa vây làm cho họ khổ sở trong tâm hồn của họ được. Thậm chí như
cái bệnh họ đau nhức đến mà có thể nói rằng cái sức tận cùng chịu đựng của thân
họ, họ cũng vẫn thản nhiên, bởi vì họ đã thực hiện được đúng Thập Thiện cho nên
họ thấy hoàn toàn tâm họ bất động trước những cái đau khổ nhất của cái thân của
họ, họ vẫn thản nhiên. Cho nên họ thoát khỏi tai nạn là như vậy, họ chuyển hóa
được cái nghiệp, cái nghiệp ác của họ, cái quả ác của họ cho nên họ không còn
thấy đau khổ nữa.
Người tu Thập Thiện thường chế ngự lòng buông lung, phóng dật, bỏ
các nghiệp dữ, thành tựu các nghiệp lành, chuyển đời khổ đau, bất an, bất toại
nguyện thành đời sống an vui hạnh phúc, mọi việc đều được toại nguyện như ý, đời
sống luôn thuận theo chánh đạo. Tu Thập Thiện chỉ có người trí mới có ý thức hiểu
được sự lợi ích của nó đối với cuộc sống. Tâm thường
quyết thực hành, sống cho bằng được. Nhờ có quyết tâm sống đúng mười điều lành
chúng ta mới chuyển được kiếp sống địa ngục lầm than đầy khổ đau phiền muộn biến
thành cảnh thiên đàng, an lạc, hạnh phúc, an vui.
Đó thì, nội cái Thập Thiện không thì quý thầy đã thấy rằng Thập
Thiện nó thuộc về nhân quả cho nên nói nhân quả thiện tức là cái nhân quả ác nó
sẽ bị diệt đi, mà nó diệt đi thì nó đem lại cái đời sống an lạc hạnh phúc cho
con người. Do thế cái điều kiện mà quan trọng cho cái con người ở trên cái hành
tinh này là cái điều kiện là phải họ phải thực hiện những điều lành từ cái bàn
tay, cái khối óc, cái hành động của họ, cái miệng của họ mà thực hiện điều lành
thì họ mang lại cái sự an lạc, hạnh phúc cho đời sống của họ. Mà nếu họ từ cái
hành động thân khẩu ý của họ mà họ thực hiện điều ác thì tự họ họ cũng đem lại
cái sự đau khổ, cái sự bất an, cái sự bất toại nguyện cho họ và chính cái chỗ
này cho nên đó là cái vấn đề trọng đại của Đạo Phật chứ không phải cái sự trọng
đại của Đạo Phật là chúng ta ngồi thiền, nhập định, làm chủ sự sống chết, chấm
dứt sự tái sanh luân hồi. Cái đó là cái thiểu số, cái đó là cái số ít, cái số
ít người, còn cái chỗ mà Thập Thiện này là cái chỗ đông người, mọi người làm
được, đem lại một cái hạnh phúc cho mọi người an vui thanh bình, đem lại cho một
cái xã hội có trật tự, cho con người biết thương nhau, cho con người không xa
lìa với nhau, đem lại cho con người sống chan hòa một tình thương phủ trùm bên
nhau. Đó là Thập Thiện đó.
Vì vậy mà cho nên cái lộ trình thứ nhất này á mà quý thầy đã thấy
là cái người mà theo đạo Phật người ta phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm: Từ Bi
Hỉ Xả. Để làm gì? Để thực hiện cái tình thương chan hòa với nhau, để xây dựng
một cái đời sống biết thương nhau, biết giúp đỡ nhau, biết an ủi nhau. Vì con
người sinh ra là do nhân quả cho nên nhân quả là phải có sự khổ đau, mà đã thực
hiện được tâm Từ Bi Hỉ Xả thì do đó nó mới hết khổ đau, con người mới chấm dứt
sự khổ đau. Cái mục đích đó là cái mục đích chính của Đạo Phật, để đem lại sự
thoát khổ cho con người chứ không phải cái mục đích mà nhắm vào chỗ mà tu tập
cao siêu đến cái mức độ mà có dùng Tứ Như Ý Túc là biến hóa thần thông phép tắc,
không phải là mục đích đó đâu. Mà cái chính của đạo Phật là cái chỗ Thập Thiện
này, là cái chỗ nhân quả lành này chớ không phải là nhân quả ác.
Muốn hưởng được phước báu trời người thì hãy dứt trừ, từ bỏ, xa
lìa, viễn ly mười nghiệp ác, mười điều dữ đó. Hàng ngày trau dồi tu tập mười điều
lành, cứ mỗi lần bỏ xuống một nghiệp ác thì ngay đó nghiệp lành hiện ra. Thiện
nghiệp càng nhiều, thân tâm càng được thanh thản an vui, sống không biết khổ,
không biết khổ đau, không biết chán chường. Biết được sự lợi ích và quả giải
thoát lớn cho kiếp sống con người và xã hội, người cư sĩ phải quyết tâm nỗ lực
thực hiện bằng mọi cách để sống đúng mười điều lành mà đức Phật đã đem hết tâm
huyết mình truyền lại cho đời sau để người đời, để con người trong cuộc sống được
an vui, hạnh phúc bên nhau.
Kinh Thập Thiện dạy cứ tiếp tục mãi xây dựng, trên đường xây dựng
tư tưởng và cuộc sống toàn Thập Thiện không còn một chút Thập Ác thì sẽ được
4 ưu điểm trong cuộc sống:
Một, thân tâm thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, thường hiển lộ một niềm
vui bất tận. Đó là cái thứ nhất lợi ích thứ nhất của Thập Thiện đó, nó làm cho
thân tâm của mình nhẹ nhàng, thanh thản, tâm hồn lúc nào cũng an vui với cái sự
an vui của 10 điều lành. Hành động thân khẩu ý biểu lộ đầy đủ đạo đức nhân quả
không làm khổ mình khổ người. Lòng hiếu sát, hung hăng xưa kia biến mất, lòng từ
bi bác ái hiện rõ. Đối với người khác và loài vật đều thương, thường lấy câu “lấy
ân trả oán” thì oán sẽ trở thành ân nghĩa và thương yêu nhau.
Hai, tâm không còn giận hờn thì dù oán, dù bất cứ sự việc gì cũng
tiêu tan, con người đối với con người không còn sự đấu tranh, giết hại lẫn nhau
chỉ còn một lòng tương thân tương ái, xã hội con người không còn biết ghét nhau
giận nhau, chỉ có một lòng thương yêu duy nhất.
Chúng ta hôm nay có đủ duyên lành mới được nghe lời thuyết giảng dạy
của đức Phật để thông hiểu, và trau dồi, và dứt bỏ, để tu tập Thập Thiện. Pháp
môn Thập Thiện rất cụ thể, thực tế, có thứ lớp trong khi thực hành rất khoa học
để cho mọi người dễ dàng thực tập sống đúng Thập Thiện đạt được cuộc sống hạnh
phúc an lạc đầy đủ. Đã quyết tâm tiến bước lên đường về đất Phật nếu không
khởi hành bằng đường Thập Thiện thì đừng mong đến xứ Phật được. Ba đời chư
Phật và các bậc Thánh hiền thoát vòng sanh tử chứng quả vô thượng bồ đề, sống
và tu tập đúng Thập Thiện. Các Ngài lấy Thập Thiện làm nền tảng vững chắc để
xây dựng ngôi nhà thiền định của mình.
Thập Thiện có công năng giúp ta ngăn ngừa các hành vi độc ác thân
khẩu ý của mình, nhờ thế tất cả hoàn cảnh đều được yên vui, an lành và hạnh
phúc. Thập Thiện giúp cho 3 nghiệp thân khẩu ý của chúng ta lần lần tiêu tội và
được thanh tịnh. Nhờ thân khẩu ý thanh tịnh, thân tâm chúng ta mới thanh tịnh.
Nhờ thân tâm thanh tịnh, chúng ta mới tịnh chỉ các hành trong thân. Nhờ tịnh chỉ
các hành trong thân, chúng ta mới nhập định. Nhờ nhập định, chúng ta mới khai
triển trí tuệ Tam minh. Nhờ Tam minh, chúng ta mới diệt sạch lậu hoặc. Nhờ diệt
sạch lậu hoặc, chúng ta mới làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Người biết tu Thập Thiện và sống đúng Thập Thiện là người đầy đủ hạnh
phúc nhất trần gian. Nhờ tu Thập Thiện, vạn pháp không còn là chướng ngại của
tâm thì sự đau khổ phiền não đoạn dứt, thân tâm thường được an ổn, thanh thản,
đời sống hạnh phúc và phước báu rõ ràng. Thập Thiện là cái nhân đoạn dứt ba đường
ác khổ trong thân tâm, tuy ta còn ở cõi Ta bà nhưng cuộc sống của chúng ta như ở
cõi trời, cõi thiên đàng.
Thông hiểu rõ sự lợi ích lớn của pháp môn này, chúng tôi thành tâm
khuyến khích mọi người cư sĩ cũng như tu sĩ đừng thấy pháp môn Thập Thiện chê
nó là pháp môn thấp bé, cho nó là những người ngu mới tu hành pháp này. Hiểu
như vậy rất là lầm lạc. Thập Thiện là pháp môn tu tập rèn luyện đạo đức nhân quả
cho mỗi con người trở thành tốt đẹp và xây dựng xã hội thanh bình an lạc. Vì vậy
trước tiên quý vị phải tu tập Thập Thiện, đừng ngồi thiền như cây, như đá chẳng
ích gì cho mình, cho người, cho xã hội. Ngồi thiền riết không thành Phật mà
thành cóc, hễ ai đụng tới thì tham sân si mạn nghi nổi lên ầm ầm như sóng bủa,
hở ra một chút thì chướng tâm ngại ý, luôn luôn tâm hồn bất toại nguyện, sống
trong cảnh nào cũng bất an.
Đó thì quý thầy thấy có nhiều người tu thiền rồi cứ dính mắc cảnh
này cảnh kia. Bây giờ ở trong cảnh này xe cộ rần rần, nhà máy chạy xình xịch
như vậy đó thì cảnh này tu hổng được đâu, tui đi tìm rừng rú không tiếng động
tui mới tu được. Đó là mình bất an, bất toại nguyện ở trong trước cái cảnh của
mình rồi, tu thiền thì đâu có động tâm như vậy? Cho nên cái người mà thực hiện
Thập Thiện người ta không có động tâm cái điều đó đâu, cho nên lúc bấy giờ người
ta thực hiện thiền định ở cảnh nào người ta tu cũng tốt hết. Còn mình thì cứ lo
tìm cái cảnh yên tịnh để mà tu thiền định nhưng mà cuối cùng thì đụng cảnh nào
cũng bị động hết, không có cảnh nào mà gọi là toại nguyện cho mình. Tu như vậy
không giải thoát mà địa ngục mở cửa đón chờ, quỷ sứ hầu hạ.
Thập Thiện là đường lối, là pháp môn rèn luyện con người sống đạo
đức không làm khổ mình khổ người, không làm rối loạn xã hội, đem lại sự an vui
cho người, cho mình, cho xã hội. Vậy quý thầy cần phải siêng năng tu tập và rèn
luyện thân tâm mình trong pháp môn Thập Thiện này, nó là pháp môn rất quý báu ở
thời đại trong thế gian hiện đại của chúng ta.
Để kết thúc cái giai đoạn tu Thập Thiện bằng một bài kệ,
phàm con người ở đời, đây là cái bài kệ đây:
Phàm con người ở đời
Búa rìu từ trong miệng
Sở dĩ giết chết mình
Là do lời nói độc
Người đáng chê thì khen
Người đáng khen thì chê
Đây thuộc nghiệp ác khẩu
Mà thân chịu hành khổ.
Đó là bài kệ trong kinh Thập Thiện, khi mà đến kết luận của bài Thập
Thiện thì Thầy rút ra một bài kệ trong tất cả các kệ ngôn của Phật nói về những
điều mà làm ác của mình thì Phật lại lấy lời nói của chúng ta mà cho đó là bởi
vì ở trong Thập Thiện thì về cái hành động của khẩu nó có 4 cái hành động ác khẩu
chứ không phải 1, mà về thân thì nó có 3, về ý có 3 mà về khẩu rất nhiều cho
nên Phật mới nhắm vào cái chỗ khẩu nghiệp, mà tạo cho con người ta đau khổ nhiều
nhất là cái khẩu nghiệp, nói ra thì có chuyện này nói ra có chuyện kia đó.
Cho nên ở đây bài kệ đó đức Phật lấy từ chỗ khẩu nghiệp mà nói ra
để chúng ta biết rằng chúng ta khổ sở là do cái nghiệp khẩu của chúng ta rất
nhiều.
Phàm con người ở đời
Búa rìu từ trong miệng.
Đức Phật nói lời nói của mình như búa rìu đó, sở dĩ giết chết
mình, nó giết mình chết mà nó giết người khác nữa chứ không phải là nó giết
mình đâu.
Là do lời nói độc
Người đáng chê thì khen
Người đáng khen thì chê
Đây thuộc nghiệp ác khẩu
Mà thân chịu hành khổ.
Chỉ lấy Thập Thiện mà lấy về cái khẩu nghiệp, về 4 điều thiện, 4
điều ác của cái miệng mà tạo con người quá khổ, mất hạnh phúc ở trong cuộc đời
này. Cho nên kế tiếp thì Phật có đem ví dụ:
Dùng chú thuật đạt lợi
Tội ấy cũng còn nhẹ
Nghĩa là mình dùng bùa chú mình làm để mình lấy của người ta đó
thì đức Phật xem như là cái tội đó còn nhẹ hơn là cái tội mà mình dùng ác khẩu
của mình đó. Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai thì đức Phật cũng đem so sánh nữa:
Nếu lấy kinh điển Phật
Hiểu không thấu nghĩa lý
Thành hủy báng Thánh hiền
Tội ấy rất là nặng.
Nếu mà đem kinh điển của Phật mình dạy cứ thiền định không đó thì
tức là người ta không có hiểu được cái nghĩa lý của những cái điều mà tạo ra những
cái đau khổ cho con người như thế này thì đó là mình phỉ báng Phật Pháp rồi.
Cho nên hầu như người ta cứ lấy kinh điển Phật mà người ta cứ lo tu thiền mà
người ta không có tu thiện cho nên từ đó mà con người khổ vẫn hoàn khổ, cho nên
đó là chỗ cái bài kệ này đức Phật đem chúng ta thấy để chúng ta nhận cho rõ.
Nếu lấy kinh điển Phật
Không hiểu thấu nghĩa lý
Tức là mình không hiểu cho nên mình lấy đó để mà mình tu thiền mà
mình không thấy được cái Thập Thiện vì vậy thành ra hủy báng Phật Pháp đó. Bởi
vì bài kệ này nó liên tục để đức Phật thấy cái chỗ mà chúng ta hiểu sai, mà
không hiểu Thập Thiện mà lại hiểu về thiền định, hiểu về 4 thiền, 8 định hay hoặc
là Tam minh mà không hiểu được cái chỗ căn bản nhất của đạo Phật, mà lợi ích nhất
của đạo Phật đối với con người. Bởi vì đạo Phật nhằm ra đời là để giải quyết nỗi
khổ của con người chứ đâu phải giải quyết Tam minh, đâu phải giải quyết cái sự
vi diệu thần thông phép tắc đâu, đâu có giúp con người làm cái chuyện đó mà
giúp cho con người thoát cảnh khổ, biết thương nhau, biết đùm bọc nhau để biết
xoa dịu sự khổ của nhân quả nghiệp báo mà mỗi con người đều đã có mang theo nó ở
trong thân tâm của mình rồi. Cho nên ở đây mà hiểu kinh điển của Phật theo cái
kiểu mà cứ biết thiền, biết định không thì cái đó là cái hiểu sai, cái đó thành
hủy báng Phật Pháp, cái tội đó rất nặng. Cho nên chúng ta phải trở về với Thập
Thiện thì chúng ta mới hiểu đúng Phật Pháp, mà không trở về với Thập Thiện thì
chúng ta hiểu sai Phật Pháp.
Đây bài kế nữa, đức Phật cũng nhấn mạnh chỗ này để chúng ta thấy:
Nếu lấy kinh điển Phật
Không thấu hiểu nghĩa lý
Không thực hành viên mãn
Lại đem dạy người khác
Thành hủy báng Thánh hiền
Tội ấy còn nặng hơn.
Bây giờ mình thực hiện Thập thiện chưa được, mình còn làm chạy
theo ham muốn, mình còn làm những điều ác bằng những cách này bằng những cách
khác, thế mà mình thực hiện chưa xong rồi mình đem mình dạy người khác, người
khác người ta cũng thực hiện chưa xong, đó là mình phỉ báng Phật pháp. Thay vì
kinh điển của Phật đem ra dạy người để cho người ta được cái hạnh phúc an vui,
được cái sự thương yêu nhau thì cái đó là cái đúng, mà bây giờ người ta không
thương nhau mà người ta theo đạo Phật mà người ta giày xéo lên nhau bằng cách
này bằng cách khác thì thử nghĩ đạo Phật bây giờ là đạo cứu khổ mà bây giờ cứu
ai đâu bây giờ? Càng ngày họ càng học Phật pháp họ lại càng huênh hoang nữa thì
cái điều đó là điều càng lúc càng sai và cái người mà không hiểu Phật pháp đem
kinh điển của Phật pháp dạy như vậy đó thì cái người đó phải thọ lấy những
cái tội còn nặng hơn.
Đó là kết thúc bài kinh mà cái lộ trình thứ nhất tu tập về Thập
thiện - mười điều lành để dứt trừ mười điều ác là lộ trình thứ nhất để chúng ta
biết được cái đúng của đạo Phật. Mà chính cái chỗ này là mục đích của đạo Phật
muốn đem cái giáo pháp này để giúp cho đời thoát khổ chứ không phải để giúp cho
chúng ta có những thiền định cao siêu làm chủ sống chết, để làm cho người ta thấy
ờ cái ông đó nhập định không có thở nữa, hay hoặc là biến ra nhiều thân hay hoặc
là hóa lửa, hóa hào quang. Điều đó không phải là chỗ mục đích của đạo Phật đâu
cũng như không phải là ngồi đó mà thực hiện Tam minh nhớ lại nhiều đời nhiều kiếp
của mình gọi là cái đó hay đâu. Cái chính của đạo Phật là cái chỗ làm sao
cho con người ở trên thế gian này, trên hành tinh này là không còn khổ nữa.
Cuộc sống không có cần thánh thiện gì hết mà chỉ biết thương nhau,
chỉ đừng làm khổ nữa, mà chính những bàn tay khối óc của họ họ hành đúng ba
hành động thân khẩu ý của họ toàn là thiện thì họ sẽ gặt được cái quả tốt của đời
sống của họ. Từ đó họ chấm dứt được sự đau khổ, chính bàn tay của họ cho nên Phật
gọi là “tự thắp đuốc lên mà đi”. Đi ở trong con đường thiện để
cứu lấy mình chứ đâu phải đi trên con đường thiền định để mà cứu có một mình
mình. Bây giờ Thầy nhập định được, thử hỏi bây giờ quý thầy bây giờ quý thầy
muốn chết như Thầy được không, mà Thầy có làm gì cho quý thầy chết được không?
Có đâu được. Thầy bảo hơi thở Thầy ngưng, còn quý thầy, Thầy bảo dùm cho các thầy,
Thầy bảo hơi thở của các thầy ngưng, có ngưng được không? Thầy chỉ ngưng có
mình Thầy hà. Còn bao nhiêu người đó muốn chết không có được. Bây giờ nó gần dở
chết dở sống, đau khổ gần chết mà bảo ngưng hoài nó ngưng không được. Thầy đâu
có bảo được, Thầy chỉ có bảo một mình Thầy, cái đó là cái ích kỷ của Thầy chứ
không phải là cái thực hiện tốt đâu, còn cái Thập Thiện là cái chúng ta
đem lại nguồn hạnh phúc chung cho mọi người, mà cái đó cái dễ, đâu có
phải là cái khó. Bởi vì chúng ta biết cái ác thì chúng ta đừng làm, chúng ta biết
cái thiện thì chúng ta làm, thì cái điều đó là cái điều đem đến hạnh phúc cho mọi
người, và cái tầm vóc của con người nào cũng có thực hiện được hết, không có
người nào mà làm không được. Một trẻ con bây giờ 5-6 tuổi, 7-8 tuổi bảo nó đừng
có giết mấy con kiến đi, những con vật đó nó biết đau lắm, con đừng có giết nó.
Những đứa trẻ nó nghe vậy nó thấy vậy nó không bao giờ nó giết đâu. Cái chuyện
đó con nít làm được mà, nó vẫn tu được mà, đâu có gì mà khó đâu. Đó là những
cái điều kiện mà chúng ta dạy nó, từ đó nó không giết hại chúng sanh, nó không
làm đau khổ chúng sanh, thì cái hành động đó nó sẽ đem lại cho nó sau này nó
không có được cái quả, nó không có cái quả khổ đối với cái hành động của nó làm
tốt, thì tự nó nó đã làm chứ mình đâu có làm cho nó được đâu. Nó không giết hại
thì nó không khổ, mà nó giết hại thì nó phải chịu lấy cái thọ khổ đó.
Đó là những điều mà hôm nay nó thực tế và cụ thể như vậy thì con
nít bây giờ 5 tuổi 10 tuổi nó vẫn tu tập được theo đạo Phật, mà nó đem lại cái
hạnh phúc cho nó sau này, đâu có gì mà khó đâu. Thập thiện Thầy nói không khó
đâu, chứ không phải ngồi thiền hít thở như chúng ta bằng cách này hay cách khác
thì con nít làm không được, hay hoặc là bảo ngưng hơi thở thế này thế khác thì
nó làm không được chứ bảo nó đừng giết chúng sanh, đi coi chừng đừng đạp kiến đồ
đó thì có thể nó làm được. Mà nó làm được, tâm nó chừng đó nó biết thương tất cả
chúng sanh thì nó phải thương tất cả mọi người khác. Từ đó chúng ta tập luyện
nó, mà những hành động hằng ngày làm như vậy thì nó huân lại những điều đó thì
cái đời nó không có còn khổ nữa, chính cái đó là cái tốt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét