Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014

Băng số 51

HỌC VÀ TRAU DỒI GIỚI HÀNH (TIẾP)

Con cũng quan sát từ tóc đến mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi, cổ, họng, tim, gan, bao tử, thận, mật, ruột già, ruột non. Đều quan sát như trên, đều là vô thường, các pháp hoại diệt cho đến tham, sân, si cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có.
Ở đây, con về cái sự mà quán này, thì con hơi có cái sự lộn xộn, nghĩa là bây giờ các con phải quán như thế nào để đúng. Bây giờ mình quán từ cái tóc, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình từ trên xuống đến chân và từ chân trở lên trên. Tức là mình quán nó bất tịnh hoặc là mình quán nó vô thường, phân biệt cho nó rõ ràng. Nếu là mình quán nó vô thường, thì tức là mình quán bây giờ như tóc của mình, mình phải quán từng phần. Tóc bây giờ còn nhỏ thì tóc nó đen nó vô thường, bây giờ nó bạc là nó vô thường, nó thay đổi. Phải không? Hồi nhỏ thì tóc nó dài, nó rậm, bây giờ nó thưa, cái đầu gần sói hết, tóc rụng gần hết. Cho nên đó là nó vô thường, quán vô thường từng phần, con nói nó vô thường mà con không có nói ra được cái vô thường của nó, cái thay đổi của nó thì nó không có thấu rõ được cái vô thường. Nói con mắt của mình là vô thường thì con phải quán nó, trước là con mắt hồi còn nhỏ thì sáng suốt, nó không có mờ, bây giờ thì con mắt nó mờ. Hồi nhỏ thì đó đen, bóng, mà bây giờ thì nó trắng bạc, nó vàng đi nó không còn như trước. Do cái sự trắng bạc, vàng đi đó là cái sự vô thường. Nếu mà con nói như vậy là không phải...
TU SINH THƯA HỎI VỀ CÁCH THỨC TU TẬP
 (câu hỏi của tu sinh).
À không phải, Thầy muốn nói đây để cho con quán từng phần. Từ cái tóc như thế nào là vô thường, từ cái mũi, cái tai, cái lưỡi của mình vô thường như thế nào? Từ cái cổ, cái họng như thế nào là vô thường? Tim, gan, phèo, phổi, mật, ruột già, ruột non, như thế nào là vô thường? Do đó con phải quán. Như vậy, tức là đặt ra cái niệm rồi con phải suy xét nó, con sẽ tìm thấy vô thường.
Còn nếu mà con quán nó là bất tịnh, thì nó hôi nó thối như thế nào, thế nào thì nó lại cái phần khác nữa. Cho nên ở đâu nó ra cái phần nấy cho nó rõ ràng. Ở đây Thầy chỉ hướng dẫn thêm để cho thấy các pháp mà nó là vô thường thì phải thấy cho rõ cái sự vô thường của nó. Chứ mình dùng cái chữ vô thường mà mình không thấy từ cái tóc nó bạc, từ cái tóc nó đen nhánh cho đến nó bạc. Thì như vậy mình chỉ nói cái vô thường là cái vay mượn mà không thấy thật của vô thường của nó, sự thay đổi của nó.
Chỉ vì vô minh mà không cảm nhận lấy sự thương ghét, hơn thua, ham muốn, ở đây con nói luôn cả tham sân si. À, cho nên ở đây không phải, về cái phần mà tham sân si thì nó không phải là cái xác thân của con mà nó là các pháp. Muốn được như vậy thì tức là phải quán cái phần mà tâm của mình tham sân si mạn nghi, tức là ngũ triền cái.
Chỉ vì vô minh mà cảm nhận lấy sự thương ghét, ở đây con nói thuộc về cái tâm. Quán cái thân thì mình quán cho rõ. Cho nên phân biệt nó rõ phần nào thì cho nó rõ ra phần nấy, quán về tâm là tâm mà quán về thân là thân, quán về xác thân của mình. Quán về tâm tức là quán về thọ, quán về tưởng, quán về hành, quán về thức.
À cái phần nào con phải quán, quán như vậy về cái định vô lậu thì cái phần nào nó ra cái phần nấy để chúng ta phá sạch các lậu hoặc. Con nhớ kỹ cho rõ ràng. Nhưng cuối cùng là ảo giác giả tạo, con đặt niệm trước mặt là thọ vô thường, con gọi 6 căn bám vào niệm thọ vô thường trước mắt đừng để thất niệm.
Ở đây thì theo Thầy thấy con gọi 6 cái căn mà bám chặt vào một cái tụ điểm, để cho nó nằm yên ở trên cái tụ điểm đó mà nó không hướng ra 6 trần, nó không dính mắc 6 trần. Còn bây giờ con quán 6 căn này như là mắt tai mũi miệng hồi nãy đó, là con thấy cái sự thay đổi vô thường của nó. Như mắt hồi nhỏ thì xanh, lớn lên thì vàng và bạc, mờ không thấy rõ nữa, thì đó là vô thường của nó.
Còn về cái phần mà con nói ở đây là bảo cho nó bám chặt vào cái niệm thọ, niệm thọ nếu nó bám chặt vào niệm thọ sao được. Bởi vì luôn luôn, thí dụ như cái ý thức mà nó bám vào cái thọ, thì cái thọ là cái thân của con, cái chỗ nào đau nhức nó mới sanh ra cái thọ nó câu hữu với cái sắc, nó làm cho con khổ sở như cái đầu nhức, thì bây giờ con bảo nó bám vào cái đầu để con biết nó nhức thì nó nhức chết còn gì. Cho nên cái này không có được, mà bảo 6 căn phải bám vào cái tụ điểm, đừng có bám vào cái chỗ đau nhức của cái xác thân của con, ngay chỗ đó nó sẽ không còn đau nữa. Thì như vậy, con sẽ phá đi cái thọ của con, không còn làm cho con đau đớn trước cái thọ và cái niệm đó luôn luôn, 6 cái thức của con, 6 cái căn của con nó nằm chặt ở trên chỗ cái niệm, nó làm cho cái tâm con không duyên qua cái thọ, nó không còn làm cho con khổ nữa.
Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu Định vô lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xen vào, rất sáng suốt. Không phải, cái chỗ này con lộn. Khi mà con tu cái Định vô lậu thì luôn luôn có một tri kiến giải thoát, hoàn toàn nó theo những cái niệm mà của con đã đặt trước mắt nó, nó thấy từ cái niệm này đến cái niệm kia, nó vô thường như thế nào của cái thân của con, thì như vậy trong đầu óc của con không thể nào mà không có niệm, nó phải có một cái sự suy tư đó, nó có dòng tư tưởng liên tục, chứ không thể nào mà con như thế này.
Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu định vô lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xem vô, không được. Có nghĩa là bây giờ, ở đây con nói con không có cái niệm khác xen vô, bởi vì khi mà con dùng cái trí tuệ con nó quan sát thì cái niệm đó là cái động của tâm con rồi, chứ không phải ở trong cái đầu óc của con là cái tịnh, con hiểu không? Bây giờ cái tịnh nó trống rỗng, nó không có cái niệm, cho nên vì vậy nó không có xen vô. Ở đây đọc thì người ta hiểu rằng, trong cái đầu của con lúc bấy giờ, con đang quan sát cái thân của con là vô thường, thì tức là cái dòng tư tưởng, cái tri kiến giải thoát của con nó thuộc cái dòng, nó đi theo các pháp nó vô thường, phải không. Cho nên cái niệm khác không thể xen vô được, không có niệm gì xen vô được thì nó đúng. Nhưng mà đây là một cái dòng của tư tưởng thì nó có cái niệm nào khác hơn thì cái niệm này. Đó là cái thứ nhất, cái sai thứ nhất của con.
Nếu mà cái đầu óc của con bây giờ nó hoàn toàn nó không có niệm thì bây giờ nói không có niệm nó xen vô thì mới được, thì nó đúng. Còn cái rất sáng suốt và tỉnh thức, nó bây giờ nó đi theo một cái dòng tư tưởng của nó để quan sát cái thân của nó là vô thường thì nó đi theo cái dòng của nó không có còn một cái niệm gì mà làm cho nó quên cái đó được. Đó là cái phép quán, cái thiền quán, nó làm cho con phá đi cái thân vô thường mà không dính mắc, chớ không phải con khéo lầm ở chỗ này, là vì cái đầu óc nó rỗng rang, nó không có một cái niệm gì xen vô mà đây nó đang có cái niệm, cho nên làm sao có cái niệm xen vô được. Hãy phân biệt ở chỗ này.
(tu sinh hỏi Thầy)
Không phải, con phải phân biệt như thế này, khi mà có một cái niệm mà cái niệm của mình đưa ra một cái dòng tư tưởng niệm, thì không có cái niệm nào xen vô được, phải không? Cho nên nó không niệm. Còn bây giờ trong cái đầu óc chúng ta ngồi đây mà giữ cái tâm nó không có một cái niệm nào hết, hoàn toàn nó thanh thản, hoàn toàn nó không có niệm thì đây là nó ở trong nhất niệm, nó hoàn toàn ở trong cái tâm thanh tịnh không có niệm, nó vô niệm. Thì bây giờ cái niệm gì không xen vô thì chúng ta biết là chúng ta đang ở trong một cái nhất niệm thanh tịnh của tâm. Cho nên không có cái niệm nào xen vô, mà cái niệm nào xen vô đó thì gọi là cái vọng tưởng. Còn bây giờ trong tâm của chúng ta đang có một cái niệm, chớ không phải là cái tâm, nó niệm từ cái tóc tai mắt mũi miệng nó, nó suy tư ra, cho nên lúc bây giờ không thể nào mà có một cái niệm khác xen vô, nghĩa là không làm sao…, vì đó là cái niệm rồi, mà cái niệm khác không thể được, không có cái niệm nữa. Còn cái này là nó vô niệm, cho nên vì vậy mà cái niệm khác dễ xen vô. Con phân biệt rõ không?
Cái niệm mà bây giờ nó đang có cái niệm thì nó sẽ không có cái niệm thứ hai nữa được. Cũng như đức Phật ví dụ “Một bậc A La Hán chỉ ra đời, chỉ có một bậc A La Hán, không thể đồng thời có hai bậc A La Hán được”. Thì chúng ta nói rằng trong đầu chúng ta có một cái niệm thì không thể có một cái niệm khác được, trừ ra trong đầu chúng ta không có niệm thì nó mới có xen vô cái niệm khác, hiểu vậy chưa?Còn bây giờ nó có niệm thì không thể nào có cái niệm khác được vì trong đầu chúng ta luôn luôn lúc nào nó có cái niệm, mà cái niệm đó là chúng ta điều khiển, chủ động cái niệm đó nó khởi ra, chứ không phải để cho nó tự động nó khởi ra. Vì nó tự động nó khởi ra, đó là cái niệm vọng tưởng. Còn bây giờ mình điều khiển cái niệm đó, vì vậy cái niệm đó gọi là thiền quán hoặc là Định niệm vô lậu. Chúng ta dùng cái niệm để quan sát, để thấu suốt cái lý lậu hoặc để mà chúng ta dẹp cái lậu hoặc đi, đó là cái niệm, cho nên khi đã có cái niệm thì không còn cái niệm thứ hai được nữa. Các con hiểu không?
Cho nên trong đầu óc của chúng ta, khi nào mà nó không có niệm thì mới gọi là có cái niệm khác xen vô hoặc là không có niệm khác xen vô. Còn bây giờ nó đã có niệm thì không thể nào có cái niệm thứ hai nữa, cho nên không thể nào nói có cái niệm thứ hai mà xen vô được.
Thì tự thấy được toàn thân là vô thường, đó là cái niệm quán xét vô thường, cho nên mới thấy nó toàn là vô thường. Từ dòng máu lưu thông toàn cơ thể đều là vô thường, nó hằng sanh diệt, hằng diễn biến, hằng thay đổi không ngưng nghỉ, thấy từ cọng tóc, từ lỗ chân lông, từ các tế bào, thớ thịt đều sanh diệt vô thường. Nhưng ở đây con dùng một cái số từ, cái số từ để chỉ cho sự vô thường, chứ chưa phải chỉ cái hành tướng, cái trạng thái vô thường của các pháp của thân con. Cho nên con chỉ suông suông cũng như là một người mà biết cái lý mà không có cái hình tướng để thấy sự vô thường.
Thầy muốn nói, mình muốn nói lên cái danh từ đó để chỉ thấy sự vô thường cho nó rõ ràng, thì bây giờ cái dòng máu ở trong thân của chúng ta vô thường, lúc thì đỏ, lúc thì đen, đó là sự thay đổi vô thường; lúc thì nhiều lúc thì ít, đó là sự vô thường. Cho nên khi mà nó nhiều thì nó lại căng đầu chúng ta lên, khi mà nó ít nó làm chúng ta giảm xuống như thế này thế khác, thì đó gọi là vô thường. Còn nói về cái sự vô thường của cái tóc của chúng ta thì đen, trắng thì đó là sự vô thường. Những cái hình ảnh mà trạng thái nó thay đổi, còn con nói cái danh từ không “nó là vô thường” thế này thế khác mà không diễn tả được cái trạng thái vô thường, cho nên nó không thấm được cái lý, con hiểu chưa?
Cho nên, không phảiThầy muốn nói đây, thà là con nói ít, bây giờ con chỉ quan sát cái tóc con vô thường thì con nhớ hồi nhỏ, tóc mình dài và đen mượt, rất là đẹp, bây giờ già rồi, bạc trắng rồi mà thưa mà rụng. Đây là tóc vô thường. Bấy nhiêu đủ để thấy chúng ta nó vô thường mà nó rõ nét phải không? Còn bây giờ mình nói vô thường mà mình không diễn tả được cái sự trạng thái vô thường của nó thì mình không thấm sâu được cái vô thường đó, cho nên mình nói suông, rồi đây rồi nó sẽ không thấy vô thường, phải không các con? Dùng cái danh từ nói vô thường thì cũng như Thầy nói bây giờ thân của tôi là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nhưng mà tôi nói danh từ như vậy, nhưng mà tôi chưa biết nó vô thường. Nhưng mà tui nói cái thân tôi vô thường, tôi nhớ lại hồi nhỏ của tôi, lúc mà tôi 20 - 25 tuổi thì sức tôi khỏe, tôi có thể làm nó không biết mệt, thuyết giảng nó không mệt. Còn bây giờ tôi đã 60 tuổi, gần 70 tuổi, nói trong một cái thời pháp như thế này, tôi thở hết muốn ra hơi, do đó tôi thấy cái thân tôi nó kém rồi, do đó tôi biết nó là vô thường. Hồi nhỏ thì mặt tôi nó thẳng, nó không có da nhăn, nó không có cái xấu xí, những cái trên mặt của tôi. Còn bây giờ thì già, da nhăn rồi răng rụng thế này kia thì đó là cái sự vô thường của thân tôi. Con hiểu cái đó. Quán vô thường là phải quán như vậy để cho mình thấy thật vô thường để cuối cùng mình mới không có chấp cái thân của mình là cái ngã của mình nữa. Mình thấy nó là vật vô thường, nó làm cho mình rất khổ và mỗi lần vô thường vậy nó xảy ra như thế nào? Từ nhỏ, từ cái sức khỏe tôi dần dần mất đi, nó trải qua bao nhiêu lần bệnh đau. Mỗi lần bệnh đau vậy nó làm cho thân của chúng tôi kém cái sức khỏe xuống dần dần. Cho đến bây giờ nhiều lần đau, mà cho đến bây giờ tôi thấy sức khỏe tôi gần như là kiệt quệ, làm cái gì nặng tôi thở quá nhiều. Đó là sự vô thường của thân tôi.
Đó con thấy không, mình cũng quán vô thường mà quán đúng cách thì nó thấm được cái lý, mà thấm được cái lý cho nên mình không chấp cái thân mình là ngã nữa, mình chấp cái thân là của mình nữa. Ở đây là có những cái phần mà có thể rằng con phải thấu suốt để không khéo mình dùng một cái danh từ, mình chỉ nó vô thường, nó thế này kia để mình nhai đi nhai lại vô thường mà trở thành mình không thấy được cái tướng vô thường của nó. Đó, thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc. Đó, bây giờ con ngồi thiền thì con thấy đau, xả ra thì an lạc thì con quán cái thọ vô thường, con đặt cái niệm thọ. Cho nên dưới đây, con nói chung chung là từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, con gộp chung ở  chỗ này con nói chung, chứ lẽ ra con viết bài này con phải nói: à bây giờ con quán cái sắc, từ cái sắc đó con phải quán từ tóc, tai, mũi, miệng. Cũng như cái bài kệ của vị ni mà người ta quán tóc của mình, rồi tới cái mặt cái mũi của mình lần lượt người ta quán như vậy, để mà thấy được cái tướng vô thường của nó. Đó là Thầy có nêu lên những cái gương hạnh của những người mà tu cái Định vô lậu đó, quán vô thường.
Hỏi: Thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc. Thưa Thầy nhận thấy như vậy có phải là tri kiến giải thoát hay không?
Đáp: Chưa đúng đâu. Tri kiến giải thoát nó lột sạch ra tất cả những cái gì gọi là vô thường, nó thấu suốt rất là thấu suốt, cho nên từ đó nó nhìn cái thân của nó nó ghê gớm lắm, hễ nhìn bất tịnh là nó ghê gớm vô cùng, mà nhìn tất cả những sự thay đổi của cái thân, nó thấy được cái đường đi nước bước của nhân quả chi phối từng phút giây rất rõ ràng. Vì lúc bấy giờ, cái người mà quán được cái Vô lậu, thấy được cái thân vô thường thì người ta thấy được đường đi của Nhân quả, thấy rất rõ ràng. Do vì cái sự quán xét mà thấu suốt như vậy đó, nó làm cho trí tuệ giải thoát của chúng ta, còn ở đây con quán như vậy chỉ là một cái số từ để mà nói lên cái sự vô thường của nó, thế nhưng mà sự thật không thấy cái hình ảnh vô thường.
Thầy muốn nhắc ở đây là nhắc chung cho các con, lấy cái bài của cô Minh Cảnh để làm chung cho cái bài học của các con để tu cái định Vô lậu, làm chúng ta diệt sạch các lậu hoặc của chúng ta.
Hỏi: Con vẫn tiếp tục tu Định Vô lậu, cho đến khi chứng đạt được tâm bất động mới thôi hay sao, kính mong Thầy chỉ dạy thêm và tiếp tục?
Đáp: À, bây giờ con tu cái Định Vô lậu này, con thấy là nó đã vô lậu thì như thế nào? Tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Con thấy tới bữa ăn con không thích ăn đâu, con không thèm cái món ăn nào nữa hết. Con thấy là con ly được cái tâm ham muốn ăn rồi, con thấy mọi vật xung quanh con, thậm chí như cái lời dạy trong băng của Thầy con cũng không ham thích nữa, con chỉ còn biết tu biết giải thoát mà thôi. Hiểu được cái gì làm cái nấy chứ không muốn nghe nữa, bởi vì nghe nhiều khi nó còn gợi cho chúng ta những lời ham thích ở đó, nó còn chưa ly được dục đâu. Cho nên ở đây Thầy nói là một lẽ, lời Thầy dạy thì các con đúng cái pháp nhưng mà khi mà cái người tu cái Định Vô lậu rồi, họ không còn thích nghe gì hết, họ chỉ muốn âm thầm sống trong trầm lặng để giải thoát tâm hồn của họ, chứ họ không bao giờ họ mà có thể còn nghe, thích nghe băng nghe này nghe kia hoặc là còn thích pháp này, pháp kia. Họ biết cái gì tu được, cái gì không tu được là họ nỗ lực cái đó họ tu chứ họ không thích nữa. Hoàn toàn họ buông xuống hết, họ không còn một vật gì, hoàn toàn chỉ con hai bàn tay trắng mà thôi.
Đó thì như vậy là cái Định Vô lậu đã sạch mà cái định vô lậu giúp để chúng ta ly dục, ly ác pháp để chúng ta nhập được Sơ thiền. Cái Định Vô lậu tu để chúng ta nhập được Sơ thiền và từ cái chỗ Sơ thiền đó mà chúng ta tiến vào để chúng ta nương vào hơi thở để chúng ta đi tới cái chỗ mà chúng ta nhập Tứ thiền, làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta. Đó như vậy là mới xong.
Còn bây giờ chúng ta còn thấy dính mắc một chút nào đó, tối mà chúng ta nằm ngủ, chúng ta còn thấy chưa tỉnh thức thì tức là Vô lậu chúng ta chưa hết. Tại sao vậy? Tại vì nằm ngủ, cái thân ngủ mà cái tâm chúng ta luôn luôn biết hơi thở thì tức là tỉnh thức trong hơi thở. Vì vậy mà cái người tu thiền mà theo đạo Phật mà tâm ly dục ly ác pháp rồi, thì họ rất tỉnh thức, họ rất tỉnh thức thì họ không ham ngủ, họ không ham ngủ thì không bao giờ có chiêm bao mà không bao giờ mệt nhọc. Còn bây giờ chúng ta không ngủ một đêm là chúng ta đã mệt nhọc, đã muốn bệnh rồi thì như vậy là chúng ta chưa tỉnh thức. Do mà tu cái Định Vô lậu này thì nó chứng minh cho cái sự mà đạt thành. Mà hết tu cái Vô lậu thì lúc bấy giờ chúng ta hoàn toàn là phải ly dục ly ác pháp, hoàn toàn là phải không có mộng mị, chiêm bao, phải thức tỉnh suốt trong đêm trong ngày, ngủ mà như không ngủ. Đó như vậy là cái Định Vô lậu chúng ta đã đạt được.
Hỏi: Con tu Định Vô lậu trước để quét sạch cái đau nhức, khó chịu rồi sau đó con mới tu định niệm hơi thở có chất lượng?
Đáp: Đúng vậy, cái Định Vô Lậu, nó vừa phá cái thọ, nó quét sạch cái thọ làm cho cái tâm của con trước cái thọ đau khổ mà nó không dao động, không có nghĩa là cái Định Vô Lậu nó làm cho con hết đau khổ, nó vẫn đau khổ nhưng tâm của con không dao động trước đau khổ của cái thọ. Con hiểu chưa? Không phải cái Định Vô Lậu nó làm cho con như một liều thuốc tê mà chấm dứt cái sự đau khổ, nó không phải làm cho con hết đau khổ, nó có đau khổ nhưng vì tâm của con Vô lậu, cho nên trước cái Thọ đau khổ đó, con không có dao động tâm con, con không sợ hãi, mặc nó đau là nó đau, kệ nó, con chỉ biết giữ cái tâm con nằm chặt ở trên một cái tụ điểm, nằm chặt ở trên một cái đối tượng của 6 cái thức mà thôi. Đó là nó đau là mặc đau.
Rồi sau đó con mới tu Định niệm hơi thở, tu Định niệm hơi thở mới đầu vô con tu hơi thở bình thường khoảng 5 phút, bắt đầu hướng tâm thở hơi thở chậm nhẹ, 6 căn bám nhẹ vào tụ điểm và từ từ vận dụng hơi thở chậm nhẹ hơn nữa. Có hơi thở nhẹ và chậm như không thấy hơi thở mà vẫn vận dụng 6 căn bám chặt tụ điểm, tai con còn nghe âm thanh quá rõ, cho nên con gọi nhĩ thức câu hữu với thân thức bám chặt tụ điểm thì bắt đầu nhĩ thức mới bám vào tụ điểm.
Hỏi: Thưa Thầy hiện giờ con nên phá âm thanh trước rồi sau mới tịnh chỉ hơi thở sau, hay là hướng tâm tác ý đồng một lượt mà phá âm thanh và tịnh chỉ hơi thở?
Đáp: Không phải. Bây giờ con không nên phá hơi thở mà nương hơi thở, nằm ở trên hơi thở chậm và nhẹ rồi bắt đầu mới phá âm thanh trên hơi thở đó, rồi sau đó mới tịnh chỉ hơi thở để mà phá thọ. Nghĩa là phá thọ sau khi phá âm thanh. Đó thì nương vào cái hơi thở để mà tịnh chỉ hơi thở cho ngưng nghỉ để nhập tứ thiền, thì đó là phá thọ. Còn bây giờ nằm ở trên cái hơi thở, thở biết hơi thở ra, hơi thở vô, nhưng luôn luôn lúc nào cũng kêu gọi cái nhĩ thức phải tập trung, phải nằm chặt ở trên tụ điểm và luôn luôn lúc nào cũng không được nghe âm thanh bên ngoài. Phải nghe cái hơi thở, phải nghe cái tụ điểm, không được nghe ra ngoài. Thì dùng cái pháp hướng mà nhắc như vậy thì cái nhĩ thức nó mới bám chặt trên cái tụ điểm, nó mới không nghe ra ngoài, từ đó con mới phá được âm thanh, còn không khéo thì con cứ nghe âm thanh mà âm thanh thì nó dễ lôi cuốn cái thọ, nó câu hữu với cái thọ, nó làm cho cái thọ tác động cái thân, làm cho cái thân bị thọ, mà cái thân mà bị thọ rồi thì cái thân nó tác động cái ý thức và cái ý thức nó bị chao động, cái tâm của con nó chao động theo cái thọ. Cho nên ngồi đau quá chịu không nổi phải xả ra phải lôi chân xuống thì cái đó nó sẽ làm cho con mất định, mất cái định đi. Cho nên, muốn mà được cái định là phải phá âm thanh trước, âm thanh nó không câu hữu với cái thọ, cái thọ nó không câu hữu với cái thức, cái thức nó không câu hữu với cái tâm, thì cái tâm con nó bất động, nó yên lặng ở trong trạng thái định. Nhớ chưa? Từ bắt đầu tu như thế nào mà tập luyện như thế nào để phá âm thanh trước.
Tu định Chánh niệm tỉnh giác, con tu trong mọi hành động và lúc nào cũng kèm theo tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và hướng tâm gọi ý thức hãy sống trong hiện tại, Chánh niệm tỉnh giác, khi ăn uống, nói, nín đại tiểu tiện, luôn luôn phải tỉnh giác. Tỉnh giác ở đây thì các con sẽ nghe lại lời dạy trong băng của Thầy thì mới thấu rõ cái Chánh niệm tỉnh giác. Chánh niệm tỉnh giác nó có nhiều cách thức tu, mà nó phải lợi dụng ở trong cái hành động đi kinh hành như thế nào, lợi dụng trong cái hành động làm hằng ngày chúng ta tu cái Chánh niệm tỉnh giác, thì tất cả mọi hành động hằng ngày thì chúng ta đều phải tu cái Chánh niệm tỉnh giác. Nhưng mà tu cái Chánh niệm tỉnh giác thì chúng ta phải tu nhiều, tu nhiều hơn. Và lúc nào chúng ta cũng thực hiện tu cái Chánh niệm tỉnh giác để cho cái sức tỉnh cho đến khi mà chúng ta phải tu cái thức tỉnh của chúng ta ở trên cái hơi thở để chúng ta ngủ mà không ngủ. Cái đó là cái cuối cùng mà các con phải tu tập để chúng ta phá 18 cái loại tưởng và đồng thời chúng ta phá cái mộng tưởng, không còn chiêm bao nữa, luôn luôn tỉnh giác.
Hỏi: Dưới đây con xin Thầy chỉ dạy cho con cách thức tu Định Sáng suốt cho đúng?
Đáp: Định Sáng suốt có nghĩa là, khi chúng ta thực hiện cái Định Vô lậu mà xong thì ngồi lại thì cái tâm nó sáng suốt, cho nên chúng ta giữ cái tâm nó thanh thản, cái tâm yên lặng, cái tâm vô sự, tức là cái pháp môn thư giãn làm cho thân tâm chúng ta trở về trạng thái an ổn nhất không có mệt nhọc, không đau khổ. Chứ không phải ngồi mà tập trung trong cái sáng suốt, trong cái vô sự, trong cái thanh thản thì nó sai. Cái người mà tu Định sáng suốt, Định thanh thản này là cái người thư giãn cả thân tâm chúng ta cho nó trở về trạng thái an ổn, nó không bị mệt nhọc, không bị rối loạn. Vì như vậy nó không phải là Định sáng suốt này là cái định mà tập trung làm cho nó mệt thêm, thì không phải là sáng suốt nữa.  
Hỏi: Muốn tu tập buổi khuya, ngồi ghế bình thường mà tỉnh táo không bị buồn ngủ, xin Thầy chỉ dạy cho con biết tu đúng cả 4 loại Định, không chênh lệch?
Đáp: Bốn loại Định đó, thì cái định mà Chánh niệm tỉnh giác định phải tu nhiều, cái Định vô lậu thì phải tu ít hơn cái định Chánh niệm tỉnh giác, Định hơi thở, Định hiện tại an lạc trú thì tu rất ít, một ngày thì tu có 1 lần hoặc 2 lần thôi, còn hoàn toàn tất cả các loại định kia phải tu nhiều. Và đồng thời trong mỗi loại định, như Định hiện tại an lạc trú này, định Chánh niệm tỉnh giác này, Định vô lậu này, mỗi cái loại định như vậy đó, sau khi tu rồi thì chúng ta nên thư giãn cái thân tâm chúng ta bằng cái Định sáng suốt. Nghĩa là cái Định sáng suốt xen kẽ vào để thư giãn nó, làm cho thân tâm chúng ta trở về cái sự an ổn và bình thường, phục hồi lại cái mệt nhọc của chúng ta, rồi chúng ta tiếp tục tu các định khác thì rất dễ dàng và sáng suốt hơn. Cho nên nó mới có cái tên là Định sáng suốt, là làm cho chúng ta khỏe khoắn ở trong người trở lại mà tu tập cái khác, coi như là, sau một thời gian làm việc mệt thì chúng ta được nghỉ ngơi đó. Cái Định sáng suốt có nghĩa là cái định để nghỉ ngơi, chứ không có gì hết.
Hỏi: Thưa Thầy, từ ngày Thầy dạy giáo án đến giờ tâm con xả sạch, tâm con an ổn, ngày một bữa không còn thấy đói gì cả, không bao giờ nghĩ đến chuyện ăn uống hay thèm khát gì hết, cứ đến giờ là đi ăn. Thân thanh tịnh, tâm dục tự nó mất tiêu không bao giờ hay, con thương mà chẳng ghét ai cả, thích thú sống độc cư, sống trầm lặng, không nghĩ đến làm việc gì hết, nhưng bổn phận phải làm. Không muốn đến chỗ đông người ồn ào, bất đắc dĩ ra nghe băng và ra ăn cơm. Thường hướng tâm ám thị phải sống trong thiện pháp, đến ngủ, ngủ ít khi có chiêm bao. Hằng ngày con sống như vậy, có phải là Sơ thiền không?
Đáp: Không phải đâu. Tất cả những cái này không phải là Sơ thiền, mà là cái cuộc sống của con, nhiều khi mình cứ nghĩ tưởng là mình sống như vậy là đúng nhưng sự thật sai. Cái hoàn cảnh hiện giờ, cái trí tuệ của người tu rất sáng suốt, chúng ta nhận được cái hoàn cảnh của chúng ta, không phải sống như vậy đúng. À, bởi vì các con tưởng mình sống như vậy là mình giải thoát, nhưng mình nhìn xung quanh mọi người, họ đang khổ sở với mình, mà mình cứ thun thút ở trong thất, mình tưởng là vậy sống đúng. Phải chi trong cái thời đức Phật, người ta đi xin ăn, người nào cũng xin ăn, thì ông Phật cũng xin ăn mà các vị tỳ kheo khác cũng đi xin ăn, thì mình sống luôn luôn ở trong cái độc cư, ở trong thất mình tu như vậy là đúng.
(mất tiếng)
Vừa rồi Thầy có trả lời cho bên nữ cô Minh Cảnh có hỏi về cái vấn đề tu tập, nhưng Thầy thấy rằng, hầu như đó cũng là cái sai, cái sai đây cũng là cái sai chung cho tất cả chúng chứ không phải riêng cho một người, cho nên cái sai này hầu như người ta trạch cái pháp ra, cái câu ra dùng nó làm pháp hướng, mà cái pháp hướng nó khác và cái pháp quán nó khác, hai cái pháp này nó khác. Khi chúng ta quán mà chúng ta lại quán chung chung, nó không có đúng cái tánh cách của cái sự quán xét, nó không thành cái hiện trạng của một cái sự quán, mà nó trở thành một cái danh từ suông. Hầu hết là những người tu hành trong cái thời đại này thì đứng trên cái chữ nghĩa mà nói suông mà thôi.
Thí dụ, chúng ta nói cái thân này là vô thường, khổ, vô ngã thì người ta nói suông cái danh từ như vậy chứ người ta đâu thấy được cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã như thế nào? À, cho nên muốn mà được thấy cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã đó thì chúng ta phải có sự quán xét và suy tư cho nên gọi là quán pháp. Còn đằng này thì quán chung chung như làm biếng, không có chịu suy tư, sợ động não nó mỏi mệt. Cho nên cứ vay mượn đờm dãi của người khác mà nhai đi nhai lại gọi là quán vô thường, khổ, vô ngã thì Thầy thấy cái chuyện quán đó thì bây giờ suốt ngàn năm đi nữa quý vị tu cái Định vô lậu nó cũng không hết lậu hoặc đâu.
Do cái chỗ sai đó mà Thầy quá mất cái thì giờ rất nhiều cho cái giáo án này, vì sự thật ra cái tu hành chúng ta phải hiểu khi nào mà chúng ta phải quán, khi nào mà chúng ta phải hướng. Khi nào mà nó đã quán xong rồi, chúng ta thấu triệt rồi thì chúng ta mới dùng pháp hướng để đoạn dứt, chặt đứt nó đi, lìa bỏ nó đi, từ giã nó đi. Cái pháp hướng là cái pháp để mà đoạn dứt, pháp hướng là cái pháp ra lệnh để cho tâm chúng ta nó không còn bám dính cái đó nữa. Còn cái pháp quán là cái pháp phải thông suốt, phải thông hiểu. Cho nên, Phật nói đầu tiên mà cái người vào đạo Phật “Những gì chưa thông hiểu phải thông hiểu”. Mà bây giờ mình nghe cái danh từ suông mình chưa có rõ, chưa có rõ được cái trạng thái. Cũng như bây giờ nó hôn trầm, thùy miên thì ai nói danh từ đó cũng được nhưng mà không có biết hôn trầm thùy miên nó ra sao? Cái trạng thái hôn trầm, thùy miên đó nó làm cơ thể chúng ta mỏi mệt, lười biếng, nhã nhợt, nó làm cho chúng ta bần thần không có tỉnh táo, thì cái đó nó gọi là hôn trầm, thùy miên. Còn bây giờ chúng ta nói hôn trầm, thùy miên suông không thì không hiểu gì hết, cái người khác người ta không hiểu.
Mình muốn nói được cái đó thì mình phải diễn tả ra được, phải suy tư ra được, phải quán xét ra được, phải có cái trạng thái hôn trầm, thùy miên mới biết được nó. Còn nếu mà không có thông rõ như vậy thì chúng ta tu hoài nó cũng vô ích. Bởi vì tu nó khó, khó là cái chỗ thông hiểu, phải thông hiểu. Cho nên cái vấn đề quan trọng của đạo Phật thì như quý thầy cũng đã thấy rằng cái vấn đề nó rất rõ là phải thông hiểu. Mà không thông hiểu thì không có làm sao mà tu được hết, mà cứ vay mượn, vay mượn cái đờm dãi, nước miếng của người ta mà nhai đi nhai lại hoài thì nó không có ích lợi gì; mà mình phải thông hiểu, mình quán tức là làm cho cái tri kiến của mình nó thông suốt. Rồi cái tri kiến của mình tự nó phóng ra những cái sự hiểu biết đó, nó làm cho mình thấu rõ được cái pháp đó nó như thế nào đúng và như thế nào sai?
Đó là những điều kiện mà Thầy giảng hôm nay. Đâu có phải trong một cái Định vô lậu mà quý thầy đã sai thì cái Định hiện tại an lạc trú về hơi thở thì quý thầy còn sai biết là bao nhiêu nữa. Cho nên Thầy nhắc nhở rồi cái Định sáng suốt Thầy nghe quý thầy cũng chẳng trình bày cho Thầy cái đúng, cái sai trong sự tu hành, mà nhìn vào cái sống của quý thầy thì biết quý thầy tu chẳng tới đâu hết. Tại sao vậy? Tại vì trong ba tháng này xét ra cái người nào tu được, tu không Thầy đã biết. Mà người nào tu không được mà tu như thế nào mà không được, tu như thế nào là được Thầy đều biết. Tại sao vậy? Tại nhìn thấy qua cái sự sống trầm lặng của người đó biết được người đó sẽ tu được, mà cái người mà sống phóng dật, tâm chạy theo luận bàn cái này, nói chuyện kia thì những người đó không tu được gì hết.
Thì nhìn lại ở đây chúng ta thấy được mấy người mà sống trầm lặng, đã là đi tu rồi thì chúng ta phải quyết tâm, phải giữ gìn không cho phóng dật. Rồi đây thì quý thầy sẽ thấy rằng tâm Phật không phóng dật, tâm ta niệm Phật cũng không phóng dật vì phóng dật là một pháp rất ác, rất độc, nó nối tiếp sự sanh tử luân hồi chúng ta mãi mãi là do cái tâm phóng dật. Mà muốn cho nó đừng phóng dật, thì chúng ta phải làm sao? Đó là một cái điều kiện mà rất khó, cho nên ở đây chúng ta nhìn lại chúng, nhìn lại một số quý thầy thì chúng ta thấy cái người mà không phóng dật là được mấy người. Đó, mà sống trầm lặng, sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình người đó mới không phóng dật. Bởi vì, cái tướng không phóng dật thì cái tâm lần lượt nó sẽ nguội lạnh và nó sẽ không phóng dật. Mà cái tướng mà không giữ được thì cái tâm không thể nào mà giữ nó được hết. Mới đầu chúng ta giữ được cái thân của chúng ta không phóng dật, sau lần lần cái tâm nó theo đó nó không phóng dật. Còn nếu mà cái thân mà chúng ta không giữ nó được đó, thì nó phóng ra nó chạy tứ tung binh tàn thì cái tâm chúng ta ngồi lại, cái tâm của chúng ta nó còn nhiều hơn nữa, hết chuyện này tới chuyện khác, nó như một cái chợ ở trong đó vậy.
Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để rồi chúng ta tiếp tục học cái Tứ Bất Hoại Tịnh.
Mới bắt đầu vào học Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta đã thấy thời gian quá dài là vì gần hai ngày học rồi mà chưa hết một pháp này, rồi quý thầy còn học biết bao nhiêu thứ khác nữa chứ đâu phải ít, đâu có đơn giản. Cho nên ở đây có một số quý thầy cũng xin Thầy để tóm lược lại những cái điều mà quan trọng để cho quý thầy nắm cho vững những cái điều quan trọng đó để mà tu tập, đây Thầy xin đọc một cái bức thư gởi cho Thầy, có một vị thầy gởi cho Thầy một bức thư:
BỨC TÂM THƯ THỈNH CẦU THẦY
“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Thầy!
Hôm nay, chúng con trong đại chúng xin cung kính, thành tâm có lời thỉnh nguyện:
Kính thưa Thầy!
Thời gian còn quá ngắn, giáo án còn dài, sức khỏe của Thầy lại kém, chúng con cầu mong ngưỡng vọng Thầy từ bi hoan hỷ dành thời gian còn lại giảng cho chúng con về phần căn bản then chốt, cốt lõi của Tứ Thiền và Tam Minh để chúng con nắm được phần quan trọng này. Sau khi qua hạ vì chúng con không còn đầy đủ duyên lành, may mắn để tiếp tục theo Thầy để tu học, để lấy đó làm phương châm trên bước đường tu đạo, để cầu thoát ly sanh tử sau này. Cúi xin Thầy từ bi hoan hỷ chấp nhận hứa khả cho chúng con, đồng thời Thầy hoan hỷ cho chúng con được nghe những lời thỉnh nguyện của Thầy với Hòa Thượng Trúc Lâm mà không được Hòa Thượng chấp nhận trợ duyên cộng tác với Thầy để mở cửa, xiển dương con đường thiền giải thoát cho con người ở trong hiện tại, mà Thầy đã khổ công nhập thất tu hành suốt mười năm không nói một lời, sống trong cô đơn, trầm lặng đã khám phá thực hiện thành công kết quả chiến thắng dành lại quyền sanh tử sống chết của kiếp con người mà hiện nay trên thế giới này chưa có ai làm được.
Hôm nay chúng con đầy đủ duyên lành từ ngoài Bắc và ở trong Nam tụ hội về đây cũng là phước duyên lành của chúng con vun bồi từ quá khứ. Cho nên hôm nay chúng con được nghe lần đầu cũng như lần cuối những lời quý báu này, lợi ích cho chúng con nói riêng, nói chung cho tất cả người sau. Đó là những lời tha thiết, chân thành của chúng con cúi mong Thầy từ bi, hoan hỷ chấp nhận cho chúng con.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”
“Sẵn dịp Thầy cho chúng con được nghe dự thảo của Thầy thành lập Trung tâm Khu an dưỡng ở Phước Hải. Có lý do gì khó khăn hay không mà Thầy lại không tiến hành mà lại bỏ dở. Đó là những gì mà chúng con muốn biết những việc làm của Thầy tốt đạo, đẹp đời, là phương châm của Phật giáo hiện nay, cũng là nhân duyên chấn hưng Phật giáo lợi ích cho chúng sanh, nhân loại. Với hoài bão và tâm nguyện của Thầy từ khi ra thất luôn luôn tâm nguyện canh cánh nỗi lòng và sự tồn vong của Phật giáo của hiện tại và tương lai, cho đến hôm nay mà hoài bão của Thầy vẫn chưa thực hiện được. Mà hôm nay Thầy lại ra đi ẩn bóng để lại cho chúng con một nỗi niềm thương nhớ, một bậc Thầy khả kính làm gương hạnh cho chúng con trên bước đường tu học.”
À, qua hai bức thư mà thỉnh cầu:
TỨ THẦN TÚC
Thứ nhất là về cái phần giảng về bốn thiền và cái Tam minh. Sự thật ra thì cái căn bản nhất của cái bốn thiền là cái sống, là tu tập Định vô lậu, để làm gì? Để cho cái tâm nó ly dục, ly ác pháp, đó là cái căn bản nhất chớ không phải là cái hơi thở để mà chúng ta vào thiền định. Khi cái tâm mà chúng ta thanh tịnh được rồi thì cái thời gian mà tu tập cái Định vô lậu chúng ta thường dùng cái pháp hướng. Nếu không có pháp hướng thì chúng ta khó mà đoạn dứt được cái tâm ham muốn của chúng ta. Các cái duyên ở bên ngoài dễ lôi cuốn chúng ta, chẳng hạn như cái tâm phóng dật đó là một. Nếu không hằng ngày, không rèn luyện cái pháp hướng mà diệt cái tâm phóng dật đó, thì như vậy chúng ta đã thấy được cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, mà nếu mà chúng ta không tu tập thì chúng ta không thấy được cái tâm phóng dật là cái tâm rất là khó và vi tế, rất là vi tế.
Chúng ta nghĩ rằng mình không có ham muốn như cái người thế gian, tức là không phóng dật. Nhưng ở trong tâm của chúng ta thật sự là cái gốc phóng dật vẫn còn là chúng ta biết rằng có chứ không phải không. Tại vì chúng ta xả chưa hết mà, mà chưa hết thì tức là còn phóng giật. Dù là một cái bát đi, một vị sư đó có ba y một bát không, dù cái bát mà chưa có bỏ được, còn tiếc nó nghe một vị khác gõ cái bát sợ bể thì ngay đó còn cái tâm phóng dật, chưa có dừng lại, nó khó như vậy.
Cho nên khi bắt đầu mà chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh đó, là cái điều kiện tiên quyết đầu tiên là chúng ta tu tập như thế nào để chúng ta có một cái niềm tin, cái niềm tin đó đối với Phật. Cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh đó, nó giúp cho chúng ta có một niềm tin đó, đó là những cái cơ bản của thiền định. Chứ không phải thiền định của đạo Phật bằng cách ngay đó mà dạy cho quý thầy bằng cách này, bằng cách kia là thiền định đâu, nó không phải đâu. Nếu mà sự thật ra đây Thầy giảng cái bài về bốn thiền rất là rõ ràng, cụ thể. Nhưng mà cái căn bản nó không có, không có ngay từ cái lúc đầu đó thì bốn thiền và những cái danh từ mà diễn tả cách thức mà nương hơi thở thế này cách khác, thì quý thầy không làm sao quý thầy bước vào được hết. Biết nó như vậy nhưng mà cái tâm của mình còn phóng dật, chưa ly dục, chưa ly ác pháp thì chắc chắn là không bao giờ mà có thể đi vào được bốn cái định này. Rồi quý thầy thấy khi mà yêu cầu Thầy dạy Tam minh, nếu muốn dạy Tam Minh không phải đơn giản như chúng ta nhập Tứ thiền rồi, từ đó chúng ta có Tam Minh đâu. Mà Thầy còn phải dạy Tứ Như Ý Túc, bởi vì khi mà nhập Tứ thiền mà muốn hướng dẫn mà tâm đến Tam minh đó thì nó phải có Đại Thần Lực. Mà có Đại Thần Lực thì chúng ta mới có đủ cái sức của nó, đủ cái sức của nó mà điều khiển, ra lệnh mà điều khiển, chứ nó không còn có cái sự vận dụng của một cái người mà đang vận dụng cơ bắp nữa, mà chỉ còn có cái ra lệnh mà thôi. Mà như vậy là Thần lực chớ không thể nào là cái sức lực của chúng ta nữa, mà đây gọi là Thần lực, cái lực vô hình gọi là Thần lực. Mà cái thần lực này nó do cái pháp hướng mà ngay từ lúc đầu mà chúng ta ly dục ly ác pháp được, tu cái Định vô lậu chúng ta phải rèn luyện nó hết sức ở trong cái pháp định vô lậu, chứ không phải là khi mà vào hơi thở thì chúng ta luyện tập nó thì chẳng nhằm nhò gì, chẳng kết quả gì hết.
Đó là những cái cơ bản, nếu mà ngay từ Tứ thiền mà dạy hướng Tam Minh thì chắc chắn là quý thầy sẽ không bao giờ mà có thể hướng đến Tam Minh vì con đường này Thầy đã đi qua Thầy biết rất rõ. Tại sao vậy? Tại vì khi mà chúng ta nhập được Tứ thiền rồi thì cái đầu tiên mà chúng ta biết được, làm chủ được là cái chúng ta ra lệnh là hơi thở ngưng nghỉ các hành trong thân chúng ta. Chúng ta thấy nó có cái Thần lực như vậy đó thì chúng ta biết. Bắt đầu bây giờ chúng ta như thế nào? Nếu mà hơi thở ngưng như vậy, tức là chúng ta đã nhập định, mà đã nhập định thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, quý thầy thấy chưa nó trong Tứ Như Ý Túc, cái Định Như Ý Túc, thì tức là bây giờ chúng ta thực hiện cái muốn của chúng ta hiện giờ muốn như thế nào? Muốn mình phải nhập định, muốn cho hơi thở ngưng, muốn cho nhập được tứ thiền thì cái muốn đó nó phải thực hiện qua cái lực, cái thần lực của nó, nó bảo hơi thở ngưng thì nó ngưng, nó bảo các hành về hơi thở phải ngưng thì các hành ở trong thân của chúng ta về hơi thở ngưng. Đó là cái mà gọi là Định Như Ý Túc và bây giờ nó thường hay bị bung ra và bị âm thanh tác động, bị thọ. Chúng ta bảo âm thanh hoàn toàn không được tác động vào tâm của chúng ta vào cái định này nữa, thì từ đó âm thanh không tác động. Thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, an trú như ý của mình trong đó gọi là Định Như Ý Túc. Và khi mà Định Như Ý Túc được như vậy đó thì chúng ta, nó có cái sự siêng năng, rất là siêng năng mà siêng năng như ý túc, chúng ta muốn nhập bao lâu nó cũng được hết, nó không có làm cho chúng ta lười biếng cho nên gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc.
Đó quý thầy thấy khi mà đến chỗ này rồi chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc trước đã, rồi sau đó chúng ta mới thực hiện, mà muốn được vậy thì chúng ta phải lần lượt từ cái chỗ nào, bắt đầu bây giờ, đây là cái định như ý túc rồi, thì bắt đầu bây giờ mình muốn kéo dài cái thời gian mà nhập định này thì nó là Tinh Tấn Như Ý Túc. Quý thầy phải hiểu ở đây Thầy giảng đơn sơ, chứ còn sự thật ra mà để dạy cho nó thì cách thức thì chúng ta phải như thế nào để tập luyện khi mà ở trong cái trạng thái của định đó. Mà bây giờ chúng ta chưa biết nó như thế nào thì Thầy nói cũng như là chẳng qua là lý thuyết suông mà chơi, chứ nó cũng không có cái nghĩa lý gì. Nhưng mà vì cái giáo án thì phải nói cho hết, chứ sự thật ra nói để mà nói, chứ cái người mà tu tới đây mà khi mà tâm chúng ta chưa có được vô lậu mà chúng ta thực hiện nó thì chẳng bao giờ mà chúng ta nếm được cái mùi vị của bốn thiền. Nó không phải khó nhưng mà khó là từ khi chúng ta bước vào đầu mà Giới luật không nghiêm chỉnh, đời sống không độc cư, không trầm lặng đó, thì chắc chắn là chúng ta chẳng nếm được cái mùi vị này.
Mười năm trong thất Thầy chẳng hề có một lời nói, không phải là sống độc cư trầm lặng một mình sao? Ai dám làm điều này không? Chắc chắn khó có người làm được điều này lắm! Nhưng mà Thầy đã làm được điều này. Vì vậy mà Thầy thấy rất là rõ ràng và cụ thể. Đâu phải trong một năm, hai năm mà có thể mười năm, hai chục năm nếu mà chưa thành tựu vẫn phải sống độc cư suốt đời chúng ta, chứ còn chưa nói rằng trong mười năm. Mà đây mười năm là thành tựu thì Thầy mới ra thất. Còn cỡ mà nó chưa thành tựu thì chắc chắn còn kéo dài năm năm nữa, hay là mười năm nữa không chừng. Vậy mà nguyện trọn đời là khi nào mà thành đạo thì mới ra khỏi thất, còn không đạt được cái sự làm chủ sanh tử thì Thầy không ra khỏi thất. Chừng nào mà Thầy ra lệnh rằng cái hơi thở ngưng và các hành ngưng thì chừng đó là Thầy mới ra khỏi thất chứ bây giờ chưa ra khỏi thất, chưa có bao giờ, chưa làm chủ được cái này thì không ra khỏi thất.
Nhưng mà khi mà đã làm chủ được có thần lực như vậy rồi thì không lý nào mà Thầy không đi đến những cái điều mà quan trọng mà trong Tứ Như Ý Túc. À, bây giờ thí dụ như Thầy đang ngồi đây Thầy bảo rằng, không lẽ bây giờ Thầy nhập vào cái định đó, Thầy bảo cái đồng hồ này phải hiện một cái nữa cho Thầy, thì ngay đó Thầy ra lệnh thì nó có một cái nữa nó nằm bên đó, hai cái hoàn toàn,  hai cái rõ ràng. Ai lấy xài cũng được hết, trừ ra Thầy bảo hai cái này trở lại một thì nó trở lại một, thì như vậy gọi là Dục Như Ý Túc. Muốn cái gì được cái nấy, phải không? Như bây giờ, Thầy nói tấm gạch tàu này là một miếng vàng thì nó bắt đầu nó là một cục vàng hẳn hòi đàng hoàng, bây giờ đem ra chợ, đem tới đâu thợ kim hoàn nào đục ra cũng làm đồ trang sức y như là vàng như vậy. Nhưng mà Thầy bảo cái cục vàng đó phải hồi lại là cục gạch tàu thì nó trở lại là cục gạch tàu. Cái lệnh của Thầy ra làm sao thì nó y như vậy gọi là Dục như ý túc. Các thầy thấy chưa? Rồi bây giờ khi mà Dục Như Ý Túc được rồi thì phải Tuệ Như Ý Túc, cái trí tuệ của Thầy muốn như thế nào thì nó phải theo như thế ấy. Cho nên từng đó Thầy mới từ cái chỗ mà Tuệ Như Ý Túc Thầy đã phát hiện được rồi thì bắt đầu Thầy mới nói bây giờ đó phải thực hiện Túc Mạng Minh, minh là cái trí tuệ của mình mà. Cho nên bảo nó một cái là ngay đó là chúng ta biết được nhiều đời, nhiều kiếp liền tức khắc. Đó quý thầy thấy rất rõ không? Cho nên ở đây chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc. Như vậy là chúng ta đã biết rằng Tuệ Như Ý Túc.
Bởi vì có bốn Như Ý Túc như thế nào thì Dục Như Ý Túc là đầu tiên rồi Định Như Ý Túc, rồi Tinh Tấn Như Ý Túc rồi mới Tuệ Như Ý Túc. Thì bốn cái này đều phải được giảng rất là kỹ, khi mà chúng ta nhập tứ thiền rồi thì cái mà đầu tiên của chúng ta là như thế nào? Chẳng hạn bây giờ mình bảo hơi thở mình ngưng, nhưng nó ngưng có một chút à, nó không có chịu ngưng lâu đâu. Thì như vậy nó chỉ có Thần lực có một chút xíu à. Thời gian này chúng ta phải tu như thế nào để cho nó ngưng, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, rồi đến thời gian dài ra, đâu có phải là chuyện dễ, lực của chúng ta mới tu tập, cái Thần lực chúng ta mới tu tập nó còn nhỏ, nó đâu bằng cái người tu 10 năm. Còn nếu mà chúng ta tu 20 năm, cái Thần lực của chúng ta còn dữ tợn hơn nữa, bởi vì hằng ngày chúng ta trui, rèn luyện mình trên cái pháp hướng thì Thần lực nó càng ngày càng vĩ đại hơn. Chớ không phải như mấy ông thầy mà ngồi tu mà tập trung cái tâm, tư tưởng trên cái đầu của chúng ta để làm cho nó quay cuồng ở trên đó, nó rối loạn thần kinh, nó tiêu luôn, chứ không phải dễ. Ở đây chúng ta đâu có tu tập cái gì đâu, chúng ta đâu có đụng tới cái thân của chúng ta mà nhăn mặt hoặc là cắn chặt răng hoặc là gồng mình lên để mà gom tâm mình bằng cách này bằng cách kia. Cho nên nó đâu có rối loạn cơ thể chúng ta, chúng ta chỉ nhẹ nhàng khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu chúng ta chỉ nhẹ nhàng.
Ví dụ như bây giờ, cái tâm phóng dật là một cái pháp ác, làm cho thân tâm chúng ta luôn luôn tái sanh luân hồi, sanh tử, đau khổ. Vậy thì cái tâm phóng dật này phải lìa đi không được ở đây nữa. Bình thường, mình nhắc như vậy thôi, chứ mình đâu có bảo nó làm sao được, mình đâu có lôi nó được, như mình sống ở trong cái hạnh độc cư đó thì tức là mình ly nó rồi, tức là mình lìa nó rồi. Nhờ cái thân mình chịu khép mình trong cái khuôn khổ độc cư, trầm lặng đó thì nó đã ly đó, cho nên mình nhờ đó mà mình không phóng dật. Nhưng mà cái tâm của chúng ta nó vẫn còn phóng dật chứ chưa hết. Cho nên chúng ta hằng ngày phải nhắc: à cái tâm phóng dật phải dứt đi, không có được, vì phóng dật là đau khổ, nối tiếp cho ngọn đuốc sinh tử luân hồi, làm cho đời người tiếp tiếp nối nhau mà khổ ở trên 6 nẻo luân hồi. Cho nên mình thường nhắc nó, cứ nhắc đi nhắc lại đuổi nó đi hoài, đuổi riết nó, mình sống đúng hạnh mình đuổi riết thì nó phải hết trong tâm. Còn mình sống mình tiếp giao với dục lạc, mình phóng tâm mình chạy theo nào là rượu chè, hút thuốc, nào là xem video, tivi rồi xem ca hát, rồi nhảy nhót, nhảy đầm, đăng-xê gì đủ loại, thì thử hỏi cái cách thức đó thì làm sao mà chúng ta bảo cái tâm phóng dật đừng có phóng dật không? Hàng ngày chúng ta muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia, muốn ngủ hồi nào ngủ, muốn thức hồi nào thức, thì bảo đừng phóng dật thì nó làm sao nó không phóng dật. Mình đã sống phóng dật mà mình bảo nó đừng phóng dật là làm sao? Còn mình sống mình khép mình ở trong cái khuôn khổ, không phóng dật và đồng thời mình nhắc cái tâm của mình riết nó sẽ hết phóng dật. Quý thầy có nghĩ điều đó không? Nếu quý thầy nghĩ điều đó là cái sống của quý thầy phải đi trước, đó là cái cơ bản để chúng ta thực hiện thiền định.
Cho nên cái giáo án thì lần lượt Thầy sẽ dạy hết, mà dạy hết là một cái điều cũng rất nguy hiểm cho cái người sau. Tại sao vậy? Tại vì nó có sẵn hết, người ta chỉ lợi dụng nó để mà bán pháp, bán Phật mà sống, chứ không phải để thực hiện sự giải thoát. Họ hiểu biết rồi, họ hiểu cách hành trì rồi, họ ra họ nói dóc, chứ sự thật ra họ chạy theo dục lạc, họ chạy theo danh lợi, họ lấy cái hiểu biết đó họ nói như họ là Thánh vậy đó.
Như từ lâu tới giờ quý thầy thấy trong kinh sách không có nói những cái hành trì, những cái pháp hành, Phật có nói những cái danh từ rất là cô đọng lại, chúng ta khó được hiểu, như Phật nói: “Như lý tác ý là pháp hướng tâm”. Nhưng bây giờ Thầy triển khai ra những cái pháp này, nó trở thành những trạch pháp, như Phật dạy là Trạch pháp giác chi này, rồi Niệm giác chi này, Khinh an giác chi này. Thầy triển khai ra những cái này nó trở thành những cái pháp tu, trở thành cái pháp hành của chúng ta rất rõ. Và từ đó nếu cái người mà quyết tâm tu, thì chắc chắn là phải được, còn cái người mà quyết mượn nó để buôn Phật bán pháp thì chắc chắn cái số này rất lớn chứ không phải ít. Đó, người ta cứ ngỡ rằng mình hiểu như vậy là mình giải thoát, nhưng sự thật ra họ chưa làm chủ, họ chưa làm cái gì được hết nhưng mà họ mượn cái chỗ mà Thầy nói đây, họ sẽ nói ra tùm lum đủ thứ hết.
Nhưng cuối cùng thì cuộc đời họ cũng chỉ trôi lăn ở trong lục đạo. Chỉ gạt được cái người mà người ta chưa có nghe được giáo án này. Chớ còn những người mà được nghe rồi, được hiểu rồi thì ông cũng nói ở trong cái này thôi, chứ ông đâu có nói cái chuyện gì khác của ông đâu. Nhưng trên bước đường tu tập chúng ta có nhiều kinh nghiệm của chúng ta lắm, chứ nó không phải như ở chỗ Thầy nói. Thầy nói đây là một cái phần rút tỉa từ những ưu khuyết điểm của quý thầy, rồi đến những cái ưu trong cái sự tu tập của Thầy so sánh để rồi mới lấy ra cái pháp hành cụ thể, để giúp cho quý thầy sau này. Rồi quý thầy sẽ tu, quý thầy có những cái kinh nghiệm của quý thầy nữa. Nhưng kinh nghiệm đó nó không xa lìa cái cốt lõi của Phật pháp, nó không trật. Cho nên ở đây thì Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy, con đường mà chúng ta còn đang học và còn đang hiểu, con đường cho đúng đạo Phật cái đã. Mà muốn học hiểu đúng Đạo Phật thì chúng ta phải đi từng bước, chứ không thể nào mà đùng cái chúng ta hiểu.
Quý thầy thì muốn hiểu bây giờ phải nhập từ Sơ thiền phải như thế nào, trạng thái? Lần lượt quý thầy sẽ được nghe Thầy diễn tả tất cả những cái này. Nhưng tu hành được hay không là do quyền của quý thầy chứ không phải là của Thầy nữa, Thầy chỉ làm hết bổn phận của mình dựng lại những cái giáo lý của đức Phật và qua những kinh nghiệm của Thầy, qua những cái lời của Phật dạy quá là cô đọng làm cho người ta không có hiểu cái pháp hành và cũng chính vì vậy mà đạo Phật tới ngày nay người ta mới không triển khai nổi. Chỉ có những người mà hành thì người ta mới triển khai nổi. Còn những người mà không hành, mà lý thuyết không thôi thì không triển khai được. Mà Thầy hôm nay đã phá vỡ cái này.
Thật là đối với Phật Thầy cũng có một cái tội, lẽ ra ông Phật ngày xưa thì ông phải khai triển cái này rất rõ, nhưng ông chỉ ngầm để mà ông đến với các đệ tử của mình, để chỉ cái pháp hành đó mà thôi, chớ không có nói ở trong kinh sách. Và các ngài thuật trở lại như ông A-Nan thuật lại, cái dạy riêng cho từng người để mà nhập được cái định thì không có nói cho mọi người nghe những pháp hành đó. Tại sao vậy? Như đức Phật thể hiện thần thông đến với ông Mục Kiền Liên thì chỉ nói à ông nhập cái Sơ thiền nó không được do cái tâm ông như thế này thế khác hoặc là ông bị hôn trầm, thùy miên, vô ký thì ông Phật đến để giúp cho ông ta phá đi. Có 5 cái điều kiện phá hôn trầm, thùy miên. Rồi đến cái khi mà ông nhập Sơ thiền không được, hoặc là nhập Nhị thiền không được, luôn luôn cái tâm ông bị dao động ở trong đó thì đức Phật đến nhắc ông phải im lặng như Thánh, trụ như Thánh, nói những danh từ như vậy thôi. Nhưng mà ngoài những cái danh từ đó, chắc chắn là đức Phật có kê tai nói với ông Mục Kiền Liên “Ông phải như thế này nè, ông nằm ở chỗ đó”. Cho nên mình phải xét thấy khi mà nó có những cái định. Tại sao từ cái khoảng từ Sơ thiền cho tới Nhị thiền, nó có những cái định khác nữa, chứ đâu thể nào mà nói Sơ thiền, Nhị thiền không. Nó có cái định, cái định mà Sơ thiền thì nó có Tầm, có Tứ, rồi tiếp đó thì cái định thì nó vô Tầm mà nó hữu Tứ. Chúng ta phải tu tập như thế nào? Vậy thì cái mà có Tứ này là cái Tứ gì đây? Ông Phật không nói, cho nên người ta không biết mà cái vô Tầm mà có Tứ này là cái gì? Còn Sơ thiền thì mới ly dục, ly ác pháp thôi. Cho nên nó còn Tầm còn Tứ, nhưng mà ở trong Tầm Tứ thiện. Bây giờ muốn đi đến Nhị thiền thì diệt Tầm Tứ, mà diệt Tầm Tứ thì không thể ngay một lúc mà chúng ta diệt được. Cho nên vì vậy chúng ta phải rõ được cái chỗ mà muốn vô Tầm mà còn Tứ, nó là một cái định để mà chuyển qua một cái định diệt Tầm Tứ.
Đó thì quý thầy thấy rất rõ, mà muốn chuyển qua như vậy là gì, nếu không phải pháp hướng trong đó thì ông Phật không kê tai nói nhỏ với ông Mục Kiền Liên thì chắc chắn bây giờ chúng ta biết được không? Nói định vô Tầm mà hữu Tứ thì chắc chắn ai nói cũng được. Nhưng mà chúng ta biết làm sao đây là hữu Tứ đây? Chưa ai biết hết. Hữu Tứ là như thế nào? Nếu không phải là Như lý tác ý ra lúc bấy giờ thì làm sao mà diệt Tầm được. Bởi vì Tầm Tứ, trong cái Nhị thiền nó có Tầm Tứ rồi, phải không? Nhưng mà nó sống ở trong ly dục, ly ác pháp thì nó phải có Tầm Tứ thiện rồi. Nhưng bây giờ muốn diệt Tầm, không phải ngồi ức chế tâm đâu. Các thầy phải nhớ, các thầy ngồi mà ức chế tâm là các thầy dùng hơi thở, các thầy tập trung, các thầy gom, các thầy gồng mặt, gồng mình lên cho nó căng thần kinh lên, thì cái điều đó là điều sai rồi. Cho nên Phật nói ở đây vô Tầm mà hữu Tứ, cho nên có bảo mình gồng mình không? Quý thầy phải hiểu rõ cái điều này, vô Tầm mà hữu Tứ thì cái Tứ nó còn tức là Tác ý nó còn chứ gì? Mà Tác ý còn tức là pháp hướng chứ gì? Cho nên chúng ta thí dụ như bây giờ chúng ta muốn cái tâm của mình diệt Tầm Tứ thì chúng ta phải giữ cái đối tượng của nó là cái niệm. Nhưng mà bây giờ mình chưa có biết cái niệm nào, tức là trong Tứ niệm xứ mình chưa có học thì ngay Tứ thiền mình dạy mình có biết cái niệm nào, nó ở chỗ nào đâu? Bây giờ nó ở thọ hoặc là ở thân, ở tâm của mình hay ở pháp. Bởi vì nó có 4 cái chỗ để mà chúng ta thực hiện cái Niệm, vậy thì nó ở chỗ nào đây mà để thực hiện cái niệm đó đây? Cho nên vì vậy chúng ta phải học Tứ niệm xứ để chúng ta biết cái niệm đối tượng của nó để mà chúng ta tác ý. Vậy thì khi mà chúng ta trạch pháp ra nó phải có đúng ở trên cái đối tượng cái niệm của nó để mà chúng ta dùng cái đó, đối tượng đó để mà chúng ta tác ý để mà chúng ta diệt Tầm. Cho nên nói vô Tầm mà hữu Tứ, phải không? Cho nên bây giờ chúng ta tu 5 phút, 10 phút hay 30 phút, thì cái lúc bây giờ nó không có Tầm mà nó còn Tứ. Rồi bắt đầu bây giờ muốn diệt Tầm Tứ thì bây giờ Tầm nó đã hết rồi, thì cái Tứ phải diệt như thế nào? Không tác ý nữa, mà không tác ý nữa thì cái gì mà chúng ta phải xả nó đi để cho nó không tác ý? Thì tức là cái niệm. Vậy thì cái niệm nào mà xả được? Bây giờ chúng ta niệm Phật, chúng ta xả được không? Xả gì mà nó ngồi nó cứ niệm ở trong đầu nó hoài, thì làm sao xả được? Đó là những cái mà khi chúng ta học Tứ niệm xứ thì chúng ta mới thấy rõ cái điều này. Nhưng mà Thầy thấy cái thời gian mà chúng ta dạy đến đây thì chúng ta thấy nó còn nhiều cái sự học.
Bây giờ chúng ta, Thầy nói Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rõ này: Nếu mà chúng ta không học 5 cái Căn, tức là ngũ Căn, ngũ Căn tức là 5 cái gốc, 5 cái gốc để cho nó thực hiện được con đường Thiền định này, thì chúng ta không biết cái gốc ở đâu mà chúng ta tu, thì làm sao mà có cái sự này được? Thì 5 cái gốc đó như thế nào? Tín căn này, Tấn căn này, Niệm căn này, Định căn này, Tuệ căn này, cái gốc ở đó nó sinh ra Tuệ này, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái Định này, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái Niệm này, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái sự siêng năng này, tức là Tấn căn đó, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái lòng tin của chúng ta này. Chúng ta phải biết 5 cái Căn này. Mà 5 cái Căn này thì chúng ta phải tu tập mà làm sao cho có 5 cái Lực, gọi là ngũ Lực.
Cho nên có nhiều người người ta Thầy nói Niệm lực, họ nói chỉ có Thầy đặt thôi chứ làm gì Phật pháp có cái Lực. Đó là những người chẳng hiểu Phật pháp. Phật có 5 Lực chứ đâu phải 1 Lực. Ví dụ Thầy nhắc cho quý thầy thấy nè, nào là: Tín lực này, rồi Tấn lực, rồi Niệm lực này, rồi Định lực này, rồi Huệ lực này. Nó phải đủ 5 cái Lực của nó, nó mới gọi là Phật pháp. Mà 5 cái Lực này nó hợp lại, nó gọi là Thần lực.
Đó, thì như vậy chúng ta mới thấy con đường tu. Mà bây giờ bắt đầu Thầy dạy Tứ bất hoại tịnh này, xong rồi Thầy sẽ dạy cho quý thầy thấy được ngũ Căn như thế nào, rồi ngũ Lực như thế nào? Thì cái thời gian mà dạy ngũ Căn, ngũ Lực quý thầy thấy đâu có phải là thời gian ngắn được, chắc gì mà trong cái thời gian 5 đến 10 ngày nay mà nó hết được, nó còn nhiều quá. Và đồng thời Tứ niệm xứ thì quý thầy thấy, bốn cái chỗ mà để chúng ta đặt cái Niệm, lúc nào mà chúng ta tu cái Định gì mà chúng ta đặt cái Niệm gì ở trên cái xứ sở nào cho nó đúng cái xứ đó chứ? Nếu mà trật cái xứ đó thì chúng ta tu bậy rồi. Bây giờ cái đầu đang nhức mà cứ nói cái thân bất tịnh, cái thân vô thường, cái thân như thế này thế khác, thì ăn thua nhằm nhò gì khi cái đầu, cái thân của chúng ta đang bệnh.
Cũng như có nhiều vị ở đây đang bệnh đau, đang nhức nhối, đang khổ sở mà cứ ngồi quán cái thân như thế này, ngồi hít thở, thử hỏi chịu nổi không? Đó là tu sai, tu ở trong những cái nào mà nó đang thể hiện. Bây giờ cái tâm chúng ta tỉnh táo này chúng ta sẽ tu cái gì này? Bây giờ chúng ta cái tâm nó mờ mịt, nó thiếu tỉnh thức này thì chúng ta tu cái gì nè? Chúng ta tu từng cái tâm Niệm của chúng ta mà. Bởi vậy Phật nói tâm có tham biết tham, tâm có tỉnh biết tỉnh, tâm có sân biết sân, tâm không sân biết không sân, tâm không tham biết không tham. Mỗi tâm niệm của chúng ta đều biết và trong khi đó chúng ta sẽ tu cái gì? Bây giờ tâm có tham thì chúng ta biết, chúng ta tu cái gì, mà tâm không tham thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Tâm có tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Mà tâm không tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Vì vậy nó mới có kết quả. Còn bây giờ tâm mình không tỉnh mà mình cứ ngồi mình hít thở thì làm sao mình tỉnh? Chỉ có ngủ luôn chứ ở đó mà tỉnh.
Thầy muốn nói như vậy để chúng ta học rất là kỹ mọi cái pháp hành của Phật để biết từng tâm niệm của chúng ta, chúng ta mới thực hiện được, chứ không khéo chúng ta làm sao thực hiện được? Quá khó khăn.
Cho nên ở đây Thầy xin nhắc lại trong cái điều kiện mà thầy Thiện Thiền muốn hỏi là để thấy được cái sự việc trải qua cái thời gian của Thầy muốn chấn hưng lại Phật pháp, muốn nương vào Hoà Thượng, giúp Hoà Thượng để xây dựng lại Phật pháp, vì Thầy là một người tu, không còn có chấp danh chấp lợi, không còn có muốn mình là bậc Thầy ai hết, chỉ muốn núp sau lưng Hoà Thượng để mà giúp Hoà Thượng xây dựng lại cái ngôi nhà Phật giáo như ở trong băng Thầy đã nói. Ở trong băng của Thầy đã được nói ra rất là rõ ràng. Nếu một ngày gần đây Thầy sẽ đọc lại những lời đó mà trước đây 3 năm Thầy đã có giảng cái lời nói đó. Tức là trong hai cuộn băng đó, cái cuộn thứ nhất là Phật Môn Bảo Huấn. Thầy muốn khuyên quý thầy là trở về với cái sự chơn chánh của đạo Phật, đừng có lợi dụng cái chiếc áo Tôn giáo mà làm lệch đi con đường của đạo Phật. Đó là cái cuộn băng thứ nhất. Cái cuộn băng thứ hai là Thầy muốn so sánh giữa cái Thiền Đông Độ và cái thiền của bốn Thiền của Phật để cho Hoà Thượng thấy cái đúng, cái sai, để cho Hoà Thượng hiểu được Thầy, rồi thầy trò hiểu nhau, Thầy sẽ núp sau lưng Hoà Thượng mà cố gắng đào tạo tìm lấy một số người quyết tâm tu hành giải thoát. Sau khi mà đào tạo được cái số người này rồi thì đương nhiên là đệ tử Hoà Thượng chứ không phải là đệ tử của Thầy, họ chỉ là huynh đệ của Thầy mà thôi. Để cuối cùng thì người ta nhìn thấy Phật giáo của Việt Nam do Hoà Thượng đã chấn hưng lại, có người tu chứng làm chủ sanh tử như vậy như vậy, kết quả như vậy. Riêng Thầy thì âm thầm rồi Thầy thị tịch khi mà đã có những người mà Thầy đã hướng dẫn được thì Thầy thị tịch. Thầy ra đi, không để lại một vết tích nào, công lao nào của Thầy đối với con người, đối với Phật giáo ở trong thế gian này. Nhưng cuối cùng thì không được, cho nên buộc lòng Thầy phải nói lên cái Giáo án này để cho mọi người sau này hiểu biết được con đường của đạo Phật, nó không phải như người ta đang tu tập hiện bây giờ như người ta đang hiểu Phật giáo bây giờ.
THẦY TÂM SỰ VỀ MỐI QUAN HỆ THẦY TRÒ VỚI HÒA THƯỢNG TT VÀ DUYÊN CHƯA ĐỦ THÀNH LẬP TRUNG TÂN AN DƯỠNG TỪ THIỆN CHƠN LẠC
Trước tiên, Thầy xin thuật lại khi mà tu xong làm chủ được cái sự sanh tử, sự sống chết rồi thì Thầy trở về thăm Hoà Thượng ở trên Chơn Không. Thì lúc bấy giờ trong cái bài mà thỉnh nguyện thì Thầy có nhắc lại một cái phần đó. Để cho quý thầy hiểu rõ hơn thì Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện này để cho quý thầy thấy rõ. Cái bài này cách đây 7 năm, năm đó là năm 1990, ngày 26 tháng 03 năm 1990. Còn cái ngày mà âm lịch, thì đó là ngày 3 tháng 02 âm lịch, năm Canh Ngọ, Thầy về Thường Chiếu, Thầy thỉnh nguyện cái bài này, trong khi cái Tu viện Chơn Lạc, Hoà Thượng Thanh Từ đã giao cho Thầy cái khu đất đó để xây dựng cái Tu Viện Chơn Lạc đó, thì lúc bấy giờ nó có những cái duyên rất là khó khăn mà chính bây giờ Trung Tâm An dưỡng ra đời cũng muốn xây dựng ở trên khu đất đó, để mà thực hiện cái hoài bão đem cái đạo đức của Phật giáo đến với mọi con người, làm cho con người giải thoát từ bàn tay của họ, từ khối óc của họ. Họ làm điều thiện, họ đem lại sự hạnh phúc đó cho họ, họ làm điều ác thì họ phải mang lấy hậu quả khổ đau của chính họ. Vì biết rõ đường đi nhân quả cho nên Thầy có cái hoài bão đó.
À, đây Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện mà cách đây 7 năm, chứ không phải mới đây đâu. Đây quý Thầy nghe cái bài thỉnh nguyện:
“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Con tỳ-kheo Thích Thông Lạc, hôm nay có duyên sự xin đê đầu thành đảnh lễ tác bạch sám hối.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Từ ngày con về Chơn Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu tập như thế nào?
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Trong ba tháng hạ năm ấy, năm 1970. Con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến câu: “Bồ tát độ chúng sanh trong bốn loài mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật”. Thầy giảng câu này cho chúng con nghe, đó là vọng tưởng, độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng tức là thành Phật.
Lại nữa, cũng Kinh đó Thầy giảng câu: “Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc và quá khứ tâm bất khả đắc”. Con ngộ câu này: “Tâm quá khứ và vị lai là vọng tưởng, tâm hiện tại là tác ý”. Ngộ hai câu kinh này con đặt trọn niềm tin ở Thầy là một Thiền sư đắc đạo mới hiểu được như vậy.
Quét hết vọng tưởng, dùng tác ý để thành Phật, bấy giờ tâm con đều buông xuống hết. Con không còn tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc. Dẹp sạch, cả ngủ nghỉ con cũng không còn ham thích nữa. Con không còn ham học hay tìm hiểu về Kinh sách nữa. Con từ khước dịch thuật khi Thầy giao cho con một tập kinh trong bộ Đại Tạng, con từ giã tất cả những gì của thế gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.
Trong chúng chỉ có mười huynh đệ cùng nhau tu học, con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện tào lao, nghị luận, tìm nơi vắng vẻ, năng nổ tu hành.
Con tự nghĩ người xưa chỉ ngộ một câu rồi dẹp tất cả, tìm lấy con đường giải thoát cho mình như ngài Đại Mai ngộ câu “Tức tâm, tức Phật”, rời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu hành. Lục Tổ Huệ Năng ngộ câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, từ giã mẹ già đến chùa Quỳnh Mai nỗ lực thực hiện, quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng học tập gì hết. Ngài Dược Sơn ngộ câu “Nhướng mày, chớp mắt, không nhướng mày, chớp mắt”, ba năm không làm một điều gì hết, da mỏng da dày đều hết sạch”. Bởi vậy ngộ là để tu chứ không phải để tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải sâu. Ngộ là để thực hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Suốt mười năm trong thất con quét sạch vọng tưởng, dùng tác ý. Đầu tiên con được Thầy dạy pháp môn Tri Vọng; biết vọng liền buông. Nhờ pháp môn này con đã dẹp gần hết vọng tưởng, nhưng thật chưa sạch. Năm cuối cùng con dùng pháp hơi thở nhiếp sạch, nhiếp mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình. Con thành tựu dùng Tác ý kéo dài thời gian này bảy ngày đêm liên tục không biết đói khát.
Tiếp tục suốt hai tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài và không còn cảm giác đau nhức, nóng lạnh khó chịu. Duy nhất con không mất tâm thức của con, rất tỉnh táo.
Rồi một hôm ngón chân con đụng vào bàn Phật, hơi thở con bắt đầu thở trở lại. Biến cố xảy ra trong con, toàn thân con có sự thay đổi. Con có cảm giác như toàn thân con nhẹ nhàng thanh thản. Các công án, các tắc ở trong Bích Nham Lục con đều hiểu rõ. Con thấy các Tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng? Con biết sạch! Cũng như hiện giờ Thầy và con là một hay là hai con cũng đều biết. Con đã có trí tuệ và có thiền định. Thầy nói con, con đều đáp đúng như ý của Thầy, không bao giờ con đáp sai ý Thầy. Thầy lấy kinh Lăng Già ấn chứng cho con. Sau này con có về trình thầy hai lần nữa. Những trạng thái trong định, Thầy đều cho rằng tất cả những điều mà con nhập định là đúng.
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Khi về trình Thầy lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh, con khéo léo xin Thầy ra đi. Trước là để niềm tin cho chúng thấy sự Nhập định và làm chủ sự sống chết của con, để họ theo Thầy tu tập và con sẽ ghi lại những kinh nghiệm để lại cho Thầy. Nhưng Thầy yêu cầu con ở lại giúp Thầy chấn hưng thiền Lý, Trần. Do sự yêu cầu này con ở lại đem hết sức mình giúp Thầy giữ gìn con đường Thiền Tông phát triển lâu dài.
Mười năm làm Phật sự đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn. Con chẳng sờn lòng, miễn Thầy trò hiểu nhau như lời Thầy đã dạy con: “Chẳng sợ ngại gì, chỉ Thầy trò hiểu nhau là hơn hết”, con tin ở lời này.
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Con chẳng tự xưng mình chứng quả A-La-Hán, nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Khi gặp thầy đắc pháp ở Thường Chiếu, Thầy có giảng nói về trạng thái của Sơ thiền cho đến Tứ thiền, con đáp lại lời Thầy: “giống thì có giống, nhưng có chỗ không giống”. Cũng như là Tứ Không, Diệt Tận Định, chẳng có ai trực tiếp dạy con nhập các thiền, các định này. Nên làm sao dám xác định nhập các thiền các định. Chỉ dò theo trạng thái lúc nhập, lúc nhiếp tâm nhập định, phỏng chừng theo kiến giải chữ nghĩa trong kinh điển mà nói ra. Đó là kiến thức chứ không phải thiền định.
Và con cũng chẳng bao giờ tự khoe mình có thần thông phép lạ xuất hồn, nói Túc mạng minh. Thế mà người ta đồn đại, nhất là từ ngày thầy Thông Huyễn (Chân Quang) trú tại Chơn Như, sự đồn đại ấy càng ngày càng nhiều.
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Sự hiểu biết của Trí tuệ học hỏi làm sao hiểu được Kinh điển, nội tâm tu hành của kẻ khác. Thầy Thông Huyễn là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt và có học thức. Nhưng kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao không xây dựng trên ảo tưởng huyền thoại, và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyễn.
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Hôm nay nhân duyên làm Phật sự của con không đủ, nên xin Thầy và đại chúng chứng minh, kể từ ngày nay con sẽ không chỉ dạy kinh nghiệm này cho ai nữa. Nó là một thứ thiền ngoại đạo như lời Thầy đã dạy. Đất nước này, thời điểm này, Thầy là người có công chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam. Con là đệ tử của Thầy, trợ giúp Thầy, vô tình đã làm Thầy buồn. Vậy con xin sám hối Thầy và đại chúng. Từ nay về sau con không làm phiền lòng Thầy nữa. Mỗi tháng con sẽ về xin thỉnh nguyện sám hối một lần để có những lỗi lầm nhờ Thầy và đại chúng chỉ dạy cho, để được con làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn sâu dày.
Kính bạch Thầy và đại chúng!
Ơn nghĩa Thầy khai ngộ con thấu suốt được lý giải thoát sanh tử, làm sao con quên được. Lời khích lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai “Phật pháp còn mãi thế gian là vì còn người tu chứng”. Những lời này ghi khắc mãi trong tâm con. Ngày nay, con đã làm chủ được thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn đức của Thầy. Ơn đức này sánh dường trời biển, hơn cả công sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Biết lấy chi so sánh được. Một lần nữa con cúi xin Thầy mở lượng từ bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau con sẽ làm Thầy vui lòng để đền đáp ơn sâu dày trong muôn một.
Sau cùng con xin phép Thầy, khi Thầy ra đi con sẽ cùng Thầy, cùng với Thầy ra đi nếu chẳng còn ai theo con tu học nữa. Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì, nếu lưu lại con tự nghĩ là một việc làm bất nghĩa.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Bài thỉnh nguyện sám hối này ngày 30 tháng 2 năm Canh Ngọ, tức ngày 26 tháng 3 năm 1990 tại Thiền viện Thường Chiếu.
Đó là cái bài mà Thầy đã thỉnh nguyện để xin sám hối qua cái vấn đề mà Thiền viện Chơn Lạc đã có cái sự làm cho rối loạn ở cả cái Tu Viện Thường Chiếu. Hầu hết là tu sĩ lúc bấy giờ xin đăng ký ra ngoài đó, làm náo loạn. Cho nên đó là cái  sự rất là đau lòng, mà quý Thầy không thấy rằng cái sự đang chuyển tiếp để mà Thầy âm thầm giúp cho Hoà Thượng. Nhưng quý thầy nghe đến cái sự làm chủ sanh tử thì quá ham. Cho nên từ đó quý thầy không thấy rằng do chính quý thầy đã tạo những cái điều kiện này, vì vậy mà Tu Viện Chơn Lạc bị đổ vỡ. Khi đó nó có cái sự làm cho Thường Chiếu nó vắng vẻ đi, làm cho Thường Chiếu không còn người nữa đi, thì lúc bấy giờ Hoà Thượng làm sao đây, nghĩ gì đây? Quý thầy không thấy điều đó, người nào cũng đăng ký ra Chơn Lạc hết. Nhất là những thầy mà cao thủ, những thầy mà hiện bây giờ gọi là cấp lãnh đạo. Trừ ra những thầy mà đang giữ gìn rường mối của Thiền Viện Thường Chiếu thì không nói, còn những thầy trẻ trẻ tuổi nhỏ sau này mà bây giờ là nòng cốt của các Thiền viện đó thì các Thầy đều xin đi hết, đi theo Thầy ra ngoài đó.
Cho nên do đó mà cái duyên nó không đủ, buộc lòng Thầy phải về xin sám hối cái bài thỉnh nguyện này thì quý thầy thấy đã cách đây 7 năm. Do đó nó sẽ không đem đến một cái kết quả, thay vì cái lần đầu tiên khi Thầy về, Thầy trình bày như trong cái lời thỉnh nguyện này thì nếu mà Hoà Thượng đã nhận được cái điều kiện đầu tiên thì Thầy xin nhập diệt. Và trước khi nhập diệt Thầy cũng xin Hoà Thượng Thầy sẽ nhập định 7 ngày đêm ở tại Chơn Không để cho tất cả tăng ni đệ tử mà đang theo Hoà Thượng tu hành chứng kiến được cái sự nhập định. Và vì vậy, họ thấy được cái sự tự tại và cái mà Như ý túc, Định như ý túc, nghĩa là muốn như thế nào là đạt được như thế nấy. Đó gọi là thực hiện cái định. Và sau khi mà nhập định 7 ngày đêm, Thầy xuất Định ra, và trong khi có đủ mặt chúng ở đó, Thầy sẽ từ giã thầy và đại chúng và nhập diệt, bỏ thân tại đó. Và sau đó Thầy xin Hoà Thượng thiêu xác thân của Thầy rồi đem đổ xuống biển, đừng xây tháp xây gì hết. Coi như hoàn toàn không còn cái vật gì mà để lại. Thầy chỉ còn lưu lại cái tài liệu cho Hoà Thượng, mà theo cái tài liệu đó mà hướng dẫn người ta từ cái Giới luật của Phật, phải sống như thế nào để giữ giới hạnh và tu tập những cái thiền định như thế nào để mà làm chủ được, nhập được định mà làm chủ được sống chết như vậy, một cách rất tự tại như vậy?
Đó là cái điều kiện mà Thầy đã muốn giúp Hoà Thượng. Ngay từ khi mà mình thành tựu 10 năm ở trong thất, thì Thầy thấy không còn- đối với Thầy danh lợi không còn nữa, mà Thầy chỉ còn có tình nghĩa Thầy trò để mà giúp nhau, để mà xây dựng lại Phật pháp đem lại Thiền Tông mà thôi. Mà lấy bản thân của Thầy, lấy kinh nghiệm của Thầy để làm cái đó cho mọi người sáng suốt được Phật pháp, làm cho người ta thấy được Phật pháp.
Nhưng rồi Hoà Thượng lại không có cái ý đó, mà lại muốn Thầy ở lại để cho có một người đệ tử một bên thầy mà giúp đỡ. Từ đó khi mà Thầy về thì Hoà Thượng có nhắc “Trong cái chuyến về này thì Thông Lạc hãy ghé thăm các Chiếu”. Nhưng mà Thầy không có ghé thăm, Thầy đi về luôn. Do đó thì khi Hoà Thượng hỏi lại, Thầy có về thăm không? Thì trong các Chiếu nói không có, Thầy Thông Lạc không có về. Cho nên Hoà Thượng nói quý thầy cử mỗi thầy ở mỗi cái Chiếu đại diện về thỉnh Thầy thì Thầy mới về, chứ còn không thể nào mà Thầy về đâu. Do đó thì có một cái chuyến xe, mà mỗi Chiếu đều có một vị đại diện về đây để Thỉnh thầy. Sau khi được thỉnh thì Thầy mới về thăm Thường Chiếu và các Chiếu.
Sau chuyến thăm đó thì có nhiều cái tư tưởng chống đối, rồi cũng có nhiều tư tưởng kê là ganh tị đó. Thầy nói rõ ra là hầu hết là cái người mà phàm phu thì họ chưa thấy. Như vậy Thầy đã hiểu biết cái tâm trạng đó, cho nên đến đó hỏi Thầy, Thầy chỉ nói qua loa, không bao giờ mà nói lộ ra một cái gì mà gọi là cái kinh nghiệm tu hành của mình. Tại sao vậy? Tại vì người ta không có tin mình, mà người ta có lòng ganh tị. Tại sao Thầy được Hoà Thượng cho rằng Thầy tu chứng như thế này, thế khác. Do đó, từ đó khi chuyến thăm về rồi thì Thầy đã thấy nảy nở ở trong tâm huynh đệ của mình có những cái sự chống đối chứ chưa phải họ quyết tìm con đường giải thoát. Cho nên khi mà về thăm, khi Thầy tu xong Thầy về thăm, Thầy cũng đã hiểu được tâm của chúng sanh rồi, cho nên Thầy chỉ muốn làm cái niềm tin cho họ đối với Hoà Thượng hơn là ở Thầy. Còn Thầy mà ở lại mà giúp Hoà Thượng thì chẳng qua là một sự tranh chấp mà thôi. Họ đâu có muốn Thầy về mà làm Thầy của họ đâu? Cho nên vì vậy đó, họ muốn họ bao giờ cũng phải có một cái sự điều khiển hoặc là được Hoà Thượng giao cái sự điều khiển đó chứ không phải giao cho Thầy. Cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều khó. Nhưng lần lượt thì Thầy không thể nào mà sống ở trong các Chiếu với Hoà Thượng để giúp đỡ các huynh đệ được là do cái tâm đó.
Vì vậy sau này Hoà Thượng giao cho Thầy cái khu đất ở Phước Hải được người Phật tử cúng dường, rồi Hoà Thượng đặt cho nó cái tên là Chơn Lạc để lấy cái tên của nó. Do đó mới giao khu đất, giao khu đất thì Thầy ra Thầy cất những cái thất nhỏ nhỏ như ở đây mình vậy, cũng bằng tầm vông trúc tre vậy. Mỗi thầy đều đăng ký xin một cái thất, ở trong khu rừng núi mà vùng biển như vậy thì có khí hậu rất tốt. Cho nên quý thầy ai cũng thích, nhất là những thầy mà có cơ thể bị bệnh tật thì thích ở cái vùng đó để cơ thể khỏe hơn. Cho nên họ đều đăng ký đi hết, vì vậy mà Thường Chiếu dường như trống. Do vì vậy mà có một sự xảy ra không hay. Từ đó coi như Hoà Thượng không có chú ý đến cái vấn đề của tu viện Chơn Lạc nữa, và Hoà Thượng thường thường cứ nhắc “Bây giờ Hoà Thượng Huệ Hưng thì đang yêu cầu Thông Lạc thì Thông Lạc giúp đỡ Hoà Thượng Huệ Hưng một tay đi”. À, đẩy Thầy qua một bên góc độ.
Mà Hoà Thượng Huệ Hưng là một người chỉ có biết Thầy chứ Thầy chưa phải là một đệ tử của Thầy Huệ Hưng, cho nên Thầy làm sao mà Thầy giúp cho Hoà Thượng Huệ Hưng. Nhưng Hoà Thượng Huệ Hưng là người có sự đối đãi với người tu hành rất lịch sự, rất là tốt. Hoà Thượng không có thấy cái ngã của mình là Hoà Thượng, là một vị lãnh đạo tăng cả nước, coi như là Hoà Thượng đứng ở trong mặt Giáo hội thì Hoà Thượng coi như là Trưởng Ban Tăng Sự, coi Tăng Ni trong cả nước lận mà, chứ đâu phải là ít. Hoà Thượng muốn cấp giấy cấp tờ gì cho Tăng Ni đều là quyền của Hoà Thượng hết. Thế mà Hoà Thượng hạ mình đến mà mời Thầy. Thì thậm chí đến đây, Hoà Thượng có ý rằng, những công phu tu hành của Thầy như vậy đó, chỉ có Thầy mới có thể giúp cho Phật giáo sống lại được mà thôi. Cho nên qua cái ý đó và đồng thời Hoà Thượng có muốn xây dựng cái Tu Viện chuyên tu ở Tùng Lâm nơi mà của Hoà Thượng Thiện Hòa để lại đó, để mời Thầy về đó, để mà giúp.
Nhưng mà Thầy thấy quý Thầy ở Tùng Lâm cũng như quý Thầy ở Ấn Quang họ cũng chẳng có tâm tha thiết với cái sự đó đâu. Họ chỉ nhắm vào cái phần sống về danh, về lợi hơn là cái chỗ mà tu hành giải thoát. Cho nên cái ý của Hoà Thượng là một lẽ. Khi mà Hoà Thượng tịch rồi thì kể như cái ý đó nó cũng không đi đến đâu. Nhưng mà Thầy thì Thầy không phải nhắm vào cái chỗ đó, mà Thầy nhắm vào Hoà Thượng để giúp cho Hoà Thượng (Thanh Từ). Vì một ngày đi nữa cũng là Thầy của mình, làm sao cho cái con đường thiền của thầy của mình sống mãi. Đó là mình đền đáp ơn Thầy mình. Nếu mình không nhận Thầy của mình thôi, mà đã nhận Thầy của mình thì mình phải làm sao cho xứng đáng là người đệ tử.
Như các thầy đã nghe cái lời thỉnh nguyện của Thầy, dù như thế nào đi nữa tình của Thầy với Hoà Thượng không bao giờ mà có thể ai ngăn cản được. Ai làm gì thì làm nhưng mà tâm của Thầy đối với Hoà Thượng vẫn là một bậc Thầy đáng kính, khả kính của Thầy. Luôn luôn Thầy kính trọng, không bao giờ mà Thầy coi Hoà Thượng dạy Thiền như thế nào thì Hoà Thượng có quyền dạy. Nhưng mà Thầy chỉ cần có những cái kinh nghiệm giúp thêm Hoà Thượng cần, chứ không bao giờ mà Thầy nói Hoà Thượng như thế này, thế khác. Nhưng có nhiều người họ lại lấy những cái lời của Thầy dạy đúng đắn, mà họ lại nói rằng Thầy bài bác Hoà Thượng thì cái điều đó là họ hiểu như thế nào Thầy cũng chẳng hiểu.
Như quý thầy thấy, Thầy đem cái Thiền Đông Độ, Thầy so sánh với cái bốn Thiền của Phật là mục đích Thầy muốn cho Hoà Thượng nhận xét được, cái nào mà thực hiện được, cái nào mà không thực hiện được. Có như vậy để giúp Hoà Thượng có những sáng kiến. Từ đó Hoà Thượng đi dần dần. Cũng như một bức thư của Thượng Toạ Nhất Hạnh gửi cho Hoà Thượng, nhắc Hoà Thượng như thế này “Chúng ta hãy trở về với cái con đường nguyên thủy”. Có nhắc Hoà Thượng cái điều đó mà. Các con có thấy bức tâm thư của Thượng Toạ Nhất Hạnh nhắc Hoà Thượng Thanh Từ “Hoà Thượng hãy trở về với con đường nguyên thủy”.
Đúng vậy! Sự thật ra những cái điều mà Thầy nêu lên trong cái lời băng đó là muốn cho Hoà Thượng trở về với Phật giáo chơn chánh, để giúp cho một số người đang theo Hoà Thượng đạt được cái kết quả. Sự thật nó là sự thật, không thể nào mà sai. Nhưng không kết quả. Lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai Thiền Viện Chơn Lạc không kết quả. Lần thứ ba, hai cuộn băng ra đời, nhằm mục đích để mà âm thầm giúp cho Thiền viện Trúc Lâm. Nhưng lần trở về Thầy đưa cái dự thảo phương án Trung Tâm An Dưỡng, xin Hoà Thượng đứng ở trong đó để giúp đỡ cho con làm công việc này. Hoà Thượng nói Hoà Thượng chỉ lo dạy Thiền tu học thôi, chứ không làm công việc xã hội.
Sự thật ra cái hình thức thì phải nhìn cái Trung tâm An dưỡng từ thiện, nó là công việc từ thiện xã hội thật sự đó. Nhưng mà bên trong nó lại lồng vào một cái đạo đức của đạo Phật rất là lớn, và lợi ích rất lớn cho con người. Nó không nhắm vào một cái số mà tu Thiền để mà giải thoát sinh tử tầm thường, mà nó nhắm vào tất cả mọi người có mặt ở trên hành tinh này. Để đem lại cái đạo đức Nhân quả, để mọi người thông suốt nó, thì xã hội này rất là trật tự, an ninh, không bao giờ mà có ai làm cái tội ác nữa hết. Đó là cái Trung Tâm An Dưỡng ra đời là nhằm cái mục đích đó. Nhưng mà lại một lần nữa, lại không được Hoà Thượng chấp nhận. Như quý thầy cũng đã biết, không được chấp nhận. Do đó, bây giờ đứng ở trong một cái vấn đề làm việc lớn này mà nhân sự của Thầy không có, đệ tử của Thầy cũng chẳng có, thì bây giờ Thầy còn làm cái gì hơn? Rồi cái khu đất đó thì để cho cây cỏ mọc chứ làm gì hơn? Bây giờ còn ai hơn nữa?
Cho nên vì vậy mà gần đây Thầy có ý nghĩ, Thầy chỉ di chúc lại cho những mầm non của tổ quốc, cho những mầm non sau này. Cái Dự thảo phương án này sẽ có những đứa bé mới sanh, cũng như đã sanh 5-7 tuổi, những người này đều là những người có trí tuệ, có thông minh đang học hỏi rất giỏi, nghĩa là rất thông minh. Chúng nó đang được cha mẹ cho sang ngoại quốc học vì được học rất giỏi, học giỏi hơn cả trong nước, rất là giỏi. Nghĩa là được tuyển chọn, được cấp học bổng hẳn hòi đàng hoàng. Thầy di chúc lại, giao lại cho những đứa bé này. Sau này nó sẽ thay Thầy tuyên hoá. Học xong nó trở về, nó phục vụ cho dân tộc, cho đất nước thì nó sẽ làm những công việc này. Đó là những mầm non tương lai của Phật giáo và cũng là mầm non tương lai của đất nước này. Nó sẽ đem lại cái đạo đức cho dân tộc này. Còn Thầy thì già rồi và đồng thời thì cũng không có đủ duyên hợp tác với Giáo hội cũng như với Hoà Thượng thì Thầy đâu có làm được gì nữa hơn? Cho nên Thầy thấy đúng lúc là 3 cái giai đoạn mà mình cố gắng để giúp cho đời tu hành đạt được sự kết quả, làm cho Phật pháp sống lại thì 3 cái giai đoạn đó không đạt.
Rồi bây giờ về cái phần mà đem cái đạo đức Nhân quả để dạy con người, thì cũng chẳng thành, thì còn bây giờ làm cái gì? Thì còn bây giờ còn những giờ phút này ẩn bóng để chờ cho những đệ tử của mình tu tập cho xong mà thôi. Còn nếu không, mà không có những người đệ tử đang theo Thầy tu tập thì chắc chắn là Thầy đã nhập diệt. Chứ mang cái thân này, các con thấy ngày ngày nó mệt mỏi, mỗi một lần ho, mỗi một lần bệnh, một lần nhức đầu, mỗi một lần là một cái nghiệp, thọ cái khổ, bỏ nó đi cho rồi, có gì mà tiếc nó đâu. Ăn thì các thầy thấy là ngày một bữa, có gì mà phải ngon, mà phải béo bở đâu nữa, mà lại ham. Người ta ở đời người ta còn ăn ngon, ngủ ngon, người ta còn chạy theo cái này, cái kia, còn Thầy còn cái gì nữa mà ham. Cho nên đối với Thầy đã hết rồi. Chỉ còn buông mà thôi.
Nhưng đáng thương cho mấy con, đi theo Thầy lỡ dở, cho nên không lẽ mà Thầy bỏ các con. Cho nên Thầy ẩn bóng, ẩn bóng để theo dõi trên cái sự tu tập của các con, cho đến khi nào các con thành tựu, thì lúc bấy giờ Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn. Đó là cái nguyện vọng của Thầy.
Chứ bây giờ Thầy đâu có còn mong mà để Thầy núp sau lưng Hoà Thượng để giúp cho Hoà Thượng nữa. Hết rồi, ba lần, mà ba lần là quá sức rồi. Các con chưa từng nghĩ thầy Chơn Tịnh thường thường đưa Thầy về Thường Chiếu, phải nửa đêm, mà thầy trò chiều thì phải đi về thành phố ngủ. Muốn ra 7-8 giờ thì ở Thường Chiếu người ta sám hối rồi, người ta thỉnh nguyện rồi thì mình phải ra cho đúng giờ, chứ phải đâu phải. Cho nên cả thầy trò phải đi 4-5 giờ phải thức dậy đi, từ thành phố thức dậy đi ra ngoài đó, rồi sám hối rồi trở về, chứ không phải ở ngoài đó. Bởi vì khó khăn lắm chứ không phải dễ. Cực khổ lắm chứ không phải dễ. Thế mà mỗi tháng đều là Thầy về sám hối như vậy, chứ không phải không có. Nhưng cuối cùng thì Hoà Thượng cũng nói rằng “Ở xa xôi quá cứ về như vậy thì rất là vất vả, thôi từ cái ngày mà hiểu biết được rồi thì ở tại chỗ đừng có về nữa, rất cực khổ”.
Đó là Hoà Thượng nói với Thầy như vậy. Cho nên Thầy không có về sám hối nữa. Để mà làm cho cái tình hòa hảo giữa huynh đệ cũng như giữa Thầy, nhưng họ rất là áy náy là vì họ không biết Thầy là cái hạng người nào, như thế nào mà luôn luôn hạ mình đến mức độ, hạ, không có tưởng tượng được. Thầy Chơn Tịnh mà đi theo Thầy đó, thầy nói thầy không chịu nổi được cái lối hạ mình của Thầy. Với huynh đệ cũng vậy, mà với thầy Viện chủ cũng vậy. Thầy tu hành như vậy mà Thầy hạ mình đến mức. Thậm chí như thế này này, khi mà đến mà xin sám hối đó, mà Hoà Thượng ở bên Linh Chiếu, Thầy phải đi qua bên Linh Chiếu, qua bên Linh Chiếu gặp Hoà Thượng rồi, thì Hoà Thượng ngoe nguẩy, Hoà Thượng bỏ đi về không nói một lời nào. Thầy vẫn đi theo sau Hoà Thượng, để chứng tỏ một cái tình người của một người đệ tử rất là hạ mình, biết tôn trọng Thầy mình, chứ không phải như quý Thầy đâu. Nói hơi nặng lời là quý thầy bỏ đi liền à. Còn Thầy không có đâu. Hoà Thượng ngoe nguẩy, chống cái gậy khi mà Thầy qua bên Linh Chiếu gặp Hoà Thượng rồi, thì Hoà Thượng ngoe nguẩy không nói một lời nào nữa, ngoe nguẩy đi về. Hất hủi một cách rất là hất hủi, chứ không phải không. Thầy nói nhắc lại đây, các con chưa có từng thấy đâu. Thầy Chơn Tịnh đi sau Thầy “Thầy chịu đựng nổi chứ con chịu đựng không nổi, chịu không có nổi”. Thầy nói “Đã là Thầy của mình là ông cha của mình rồi, tại sao lại là mình chịu không nổi”?
Đó là những cái hành động, rồi những khi mà Hoà Thượng tìm mọi cách tránh né không gặp Thầy, Thầy vẫn bền bỉ ngồi chờ đợi, ngồi chờ đợi có những khi mà mưa dầm tầm tã. Có những khi chờ đợi để gặp Hoà Thượng xin một lời sám hối rồi trở về thì có thể nói rằng từ 5 giờ 6 giờ, có thể 7 giờ mà vẫn còn ở Thường Chiếu. Mà gặp Hoà Thượng được rồi thì lúc bấy giờ Thầy với Thầy Chơn Tịnh mới về trong đêm tối, không ở lại Thường Chiếu. Bởi vì mình biết, ở lại Thường Chiếu thì chẳng có một sự đối xử nào nghĩa tình với mình cả. Thì các con biết thì lúc bấy giờ nó không phải là một cái đơn giản. Nhưng mà Thầy vẫn giữ là người đệ tử rất là biết trọng ơn Thầy. Nhưng mà Thầy nhìn hết những người đệ tử của Thầy, khó mà tìm được cái người đệ tử mà đối xử với Thầy như Thầy đối với Hoà Thượng. Khó lắm, khó có lắm, khó bền bỉ. Cho nên hôm nay Thầy nhắc lại để cho các con thấy rằng, cái người mà có tình nghĩa, mà có tình nghĩa thầy trò, Thầy thấy mình nó đã diệt mòn.

(Hết băng 51)

1 nhận xét:

  1. Bài 51 trống không có gì. Xin vui lòng chỉnh sửa lại. Cám ơn nhiều

    Trả lờiXóa