1. Niệm và tỉnh giác
Một là có hai pháp có
nhiều tác dụng. Hai là có hai pháp cần phải tu tập. Ba là có hai pháp cần phải
biến tri. Bốn là có hai pháp cần phải đoạn trừ. Năm có hai pháp chịu phần tai
hại. Sáu có hai pháp đưa đến thù thắng. Bảy có hai pháp cần được sanh khởi.
Tám, có hai pháp cần được thắng tri. Chín, có hai pháp cần được tác chúng.
Mười, có hai pháp rất khó có thể nhập. Tất cả những cái này chúng ta cần phải
hiểu rõ để mà chúng ta biết cái nào mà khó thể nhập, chúng ta phải cố
gắng tu tập thế nào để chúng ta có thể nhập với nó. Thí dụ như bây giờ nói,
Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp cho chúng ta, mà thân, thọ, tâm, pháp là vô
thường, khổ, không, vô ngã. Nhưng mà chúng ta làm sao mà có thể nhập được cái
vô thường, khổ, không, vô ngã này. Cái đó là cái khó.Nhưng mà chúng ta phải tập
luyện, hàng ngày phải tu tập, trau dồi thì nó sẽ thấm được cái lí đó. Mà thấm
được cái lý đó tức là chúng ta đã chứng được cái lý đó chớ không phải ngộ. Còn
bây giờ chúng ta nghe nói thân này là vô thường, là khổ là vô ngã thì chúng ta
biết như vậy tức là ngộ như vậy là đúng như vậy thôi. Còn chúng ta chưa có thấu
được cái lý, chưa thấm được cái lý, cho nên chúng ta chưa chứng được cái lý vô
thường, khổ, không, vô ngã. Bây giờ chúng ta trải qua một thời gian tu tập thì
chúng ta mới chứng được cái lý. Và chứng được cái lý thì bây giờ người ta chửi
mình mình không giận là vì mình thấy vô ngã.
Bây giờ mình chứng được
cái lý thì mình không có còn dính mắc các pháp. Cho nên, do đó thì chúng ta mới
thấy vô thường, các pháp là vô thường. Do cái chỗ mà chúng ta cần phải tu tập
và cần phải thể nhập, cần phải chứng cho được. Đó thì những cái điều kiện mà ở
đây để chúng ta thấy hai cái pháp nào mà nó có thể mà khó thể nhập thì chúng ta
phải hiểu hai cái pháp đó để chúng ta nỗ lực chúng ta tu cái đó nhiều hơn. Chứ
còn nếu mà chúng ta nói dễ, chúng ta bỏ qua, chúng ta tu sơ sơ rồi thì nó không
có chứng được cái lý đạo, không chứng được cái pháp. Không chứng được các Pháp
thì chúng ta chỉ ngộ, rồi chúng ta lý luận chúng ta tranh cãi với nhau. Cuối
cùng, đụng đâu chúng ta vẫn có phiền não, vẫn có giận hờn, tham, sân, si vẫn
còn chưa có hết được.
Bây giờ thì bắt đầu trở
lại câu số một. Thế nào là hai pháp có nhiều tác dụng? Thì đáp: niệm và tỉnh
giác, đó là hai pháp có nhiều tác dụng. Niệm là gì? Thì chúng ta biết rằng
trong tứ niệm xứ á, có bốn cái chỗ niệm. Trong tứ bất hoại tịnh thì nó cũng có
bốn cái chỗ niệm. Bởi vậy cho nên chúng ta lấy thân, thọ, tâm, pháp của mình mà
niệm bốn cái chỗ gọi là tứ bất hoại tịnh. Thì bắt đầu đây chúng ta sẽ học về
cái giới hành á, chúng ta đi vào ba cái giới đầu tiên của chúng ta là Phật,
Pháp, Tăng và giới bổn chúng ta đã học đó.
Thì do ba cái chỗ mà
chúng ta đã thọ tam qui á, là ba cái giới đầu tiên của chúng ta, Phật, Pháp,
Tăng á. Người ta nói niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Vậy niệm thì nó có 4 chỗ
niệm: Tứ niệm xứ, Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm. Vậy thì tứ bất hoại tịnh thì dùng
Tứ bất hoại tịnh để trau dồi cái giới luật đầu tiên mà chúng ta đã thọ, tức là
tam qui, Phật, Pháp, Tăng. Vậy thì, thân Phật như thế nào thì thân của chúng ta
phải sống như vậy. Tâm Phật như thế nào thì tâm chúng ta sống như thế nấy. Thọ
của Phật sống như thế nào thì thọ của chúng ta sống như vậy. Các pháp đối với
Phật như thế nào thì các pháp đối với ta cũng như Phật vậy. Đó là chúng ta niệm
Phật.
Rồi chúng ta niệm Pháp
nó cũng vậy, niệm Tăng nó cũng vậy. Niệm như thế nào? Cái đó lần lượt Thầy sẽ
dạy các pháp hành để chúng ta thực hiện ba cái giới đầu tiên Phật, Pháp, Tăng.
Rồi kế đó chúng ta sẽ niệm giới. Thì ở đây chúng ta thấy cái đầu tiên á, mà
cái pháp có nhiều tác dụng đó là niệm. Vậy thì chúng ta biết tứ niệm xứ là bốn
cái chỗ để chúng ta niệm, vậy thì niệm cái gì? Sau này tới đó yhì chúng ta sẽ
biết.
Và cái nữa, Pháp hành
gọi là ở trong này Phật nói niệm là một cái pháp và hai là tỉnh giác. Nếu mà
muốn được chánh niệm thì phải có tỉnh giác. Mà nếu không có tỉnh giác thì làm
sao chánh niệm. Mà cái niệm với tỉnh giác đó là luôn luôn nó đi đôi. Cho nên
Phật gọi là chánh niệm tỉnh giác định. Thì muốn cho được chánh niệm ở trong cái
niệm và tỉnh giác thì chúng ta phải tu tập cái định gì? Cái định chánh niệm
tỉnh giác. Vì cái định chánh niệm tỉnh giác nó làm chúng ta có sức tỉnh thức,
nó làm chúng ta tỉnh táo ở trước các pháp.
Cho nên cái niệm của
chúng ta nó thành ra là cái niệm chơn chính, nó không có tà niệm. Vậy thì chúng
ta phải tu tập như thế nào để cho cái sức tỉnh chúng ta có? Tức là, cái pháp
tỉnh giác. Và đồng thời, tu như thế nào để mà chúng ta học hiểu như thế nào để
cho cái niệm của chúng ta nó luôn luôn là chánh niệm? Đó thì hai cái pháp đầu
tiên mà nó có nhiều tác dụng sau này để trên bước đường tu tập của chúng ta nó
có rất nhiều lợi lạc, có cái lợi ích rất lớn cho sự giải thoát thân tâm của
chúng ta. Vì vậy mà chúng ta phải nhớ niệm và tỉnh giác.
Hàng ngày thường khi
trên lộ trình của người cư sĩ mà thầy giảng dạy đó, họ bước đầu theo đạo Phật
để mà trở thành vị đệ tử của Phật đó, thì họ cũng phải ở trong cái niệm và cái
tỉnh giác. Cho nên, họ dùng tứ vô lượng tâm, họ đặt cái tâm từ của họ trước
mặt,Cho nên họ bước đi, họ nhìn xuống đất để mà họ tránh cái sự vô tình mà đạp
côn trùng, con kiến hoặc là tất cả những loài chúng sanh dưới chân họ. Do cái
tâm từ đó, nó làm cho cái sức tỉnh giác của họ mà không có sự gò bó tâm bằng
cách ức chế tâm tập trung.
Cho nên, nếu mà chúng ta
cứ tập trung ở trên cái bước đi của chúng ta mà không tạo cái tâm từ nơi đó,
thì coi như chúng ta bị ức chế trong sự tỉnh thức. Cho nên vì ức chế lâu ngày
chúng ta sẽ rơi vào cái trạng thái vô ký. Nó làm chúng ta mê chứ không tỉnh
nữa. Còn cái này, chúng ta thư thản, với tâm thương yêu, lòng từ của chúng ta
cho nên chúng ta sợ đạp chết con kiến, côn trùng, mà chúng ta đi từng bước,
từng bước để tránh không đạp. Do đó mà chúng ta đi mãi mà chúng ta không cần
phải dùng pháp hướng. Mà rất là tỉnh thức với cái lòng thương yêu của chúng ta.
\
Từ đó chúng ta nuôi được
cái tâm từ của chúng ta, sống mãi, lớn dần và tăng trưởng theo cái chánh niệm
tỉnh thức. Do đó cái lòng từ của chúng ta thực hiện, thì nó đối trị được cái
tâm sân của chúng ta. Đứng trước các pháp ác thì tâm sân của chúng ta không nổi
lên được. Do chúng ta tu một pháp mà chúng ta đạt được nhiều pháp là cái chỗ
kết quả như vậy cho nên Phật nói:” Có hai pháp có nhiều tác dụng”. Đó thì quí
thầy thấy cái lời của Đức Phật dạy: “Có nhiều tác dụng”, chúng ta tu niệm,
chánh niệm và tỉnh giác nó sẽ có nhiều tác dụng cho sự giải thoát cuộc đời của
chúng ta.
Nếu chúng ta biết áp
dụng. Biết áp dụng nó như thế nào? Biết áp dụng dựa vào tứ vô lượng tâm, từ bi
hỷ xả vào cái tứ chánh cần, các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh mà đã sanh
thì đoạn dứt. Các pháp thiện chưa sanh thì cho sanh mà đã sanh thì tăng trưởng.
Đó là chúng ta là những người cư sĩ thì chúng ta nên tu những cái đó. Để chúng
ta đi vào lộ trình của nhân quả thì nó rất có lợi ích. Ở đây mới có hai pháp là
niệm và tỉnh giác là hai pháp nó có lợi ích cho tác dụng trong cuộc sống tu
hành giải thoát của mình. Nếu mà người nào đừng có vội vàng mà cứ ngồi thiền,
nhập định. Mà cứ ở trong chánh niệm tỉnh giác mà tu thì cái chánh niệm này cũng
vẫn đưa đến cho họ một cái tâm hồn giải thoát sống an lạc, thanh thản, không
còn khổ đau nữa, không còn tham sân si nữa. Ngũ triền cái họ sẽ quét sạch ra
khỏi tâm của họ, không còn nữa và thất kiết sử cũng không có còn trói buộc họ
được nữa.
2.
Hai pháp cần phải tu tập: Chỉ và quán
Cần phải tu tập bây giờ
kế tới có hai pháp. Thế nào là hai pháp cần phải tu tập? Thì bắt đầu chúng ta
biết, có hai pháp nó có nhiều tác dụng cho cái đời sống tu sĩ của chúng ta, lợi
ích cho sự tu tập của chúng ta. Thì bây giờ kế tới thì có hai pháp cần phải tu
tập, vậy thì cần phải tu tập như thế nào đây? Thì ở đây Phật dạy: “Chỉ và quán,
đó là hai pháp cần phải tu tập”. Chỉ và quán.
Chỉ là cái gì? Chỉ là ngưng lại,
như chúng ta dùng hơi thở mà chúng ta tu tập để chúng ta nương vào hơi thở
chúng ta chỉ hơi thở. Tại sao chúng ta chỉ hơi thở được mà chỉ cái khác không
được? Tại vì, cái hơi thở bây giờ nó có thể thở bình thường, tức là chúng
ta bảo nó thở chậm thì chúng ta có thể theo cái sức thở chậm của chúng ta,
chúng ta có thể thở chậm được. Cho nên nó có chỉ thì nó không thở bình thường,
tức là nó chậm rồi. Nó đang thở mạnh thế này, chúng ta bảo thở nhẹ. Chúng ta
thở nhẹ xuống một chút nữa, không sao hết.
Bây giờ chúng ta sẽ dừng
lại đây, là vì cái đoạn băng này Thầy muốn nói tiếp cho nó hết cái phần đoạn
băng thứ 33 vì nó còn một đoạn nữa mà chúng ta phí thì nó rất uổng. Cho nên
Thầy nói tiếp về các pháp, để chúng ta biết là có hai pháp, nó có nhiều tác
dụng, có hai pháp nó cần phải tu tập,,,
3.
Tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ
Hôm nay thầy xin nhắc
lại qua cái vấn đề của thầy Minh Tông, trong cái vấn đề tu tập để làm chủ ở
trong giấc ngủ. Tức là tỉnh thức ở trong giấc ngủ. Ở đây Thầy có nhắc nhở cái
phần này, để hầu như quý thầy có thể rút tỉa những kinh nghiệm để có thể
tu tập.
Tu tập tỉnh thức trong
lúc ngủ là phải tu tập từ từ. Nghĩa là mình tu tập ở trong lúc ngủ để cho ngủ
mà tỉnh thức á, thì phải biết cách tu tập thì nó mới biết được. Chứ còn
không khéo thì nó không có biết được. Mà nếu mình cố gắng mình tu nhiều thì cơ
thể mình mất ngủ, nó sẽ sinh bệnh nó rối loạn cơ thể. Cho nên, chúng ta cái gì
tu tập thì nó cũng phải lần lượt. Rồi nó sẽ quen, rồi nó sẽ tỉnh thức ở trong
cái giấc ngủ.
Còn nếu mà không tu tập,
thì đương nhiên chúng ta cũng sẽ không bao giờ mà có thể tỉnh thức được. Muốn được
vậy, Thứ nhất chúng ta tập ngủ có giờ giấc rõ ràng. Nghĩa là muốn ngủ thì phải
điều khiển cho nó ngủ. Ví dụ, giờ này tập làm sao cho nó ngủ cho được. Thứ nhất
là chúng ta phải tập cho nó muốn ngủ thì phải cho nó ngủ. Thì chúng ta phải
dùng cái pháp hướng để cho khi nằm lên, chúng ta nương chỉ 10 hơi thở, 20 hơi
thở là nó ngủ. Nghĩa là tập cho nó ngủ hẳn hòi giờ giấc rõ ràng. Muốn ngủ là
cho nó ngủ. Đó là cái thứ nhứt.
Cái thứ hai, tập tỉnh
thức trong khi ngủ phải tu tập vừa với sức của mình. Không được thái quá. Nghĩa
là lúc bấy giờ mình tập được cho nó ngủ giờ giấc nó rõ ràng. Thí dụ buổi trưa
mình ngủ 30 phút hay 1 giờ, còn tối mình cho nó ngủ 2 tiếng hoặc là 1 tiếng cho
nó rõ ràng. Và khi nằm lên thì mình điều khiển sao cho nó ngủ chứ không khéo thức
cho tới khi mình sắp sửa mình dậy nó mới ngủ. Thì cái kiểu đó nó trật hết rồi.
Thì nó không thể nào mà tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ được. Phải hiểu như vậy
thì mới có thể tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ.
Và khi mà điều khiển
được giấc ngủ rồi á, thì lúc bấy giờ chúng ta mới tập tỉnh thức ở trong giấc
ngủ. Còn lúc nó ngủ vầy, lúc nó ngủ khác, giờ này nó lộn qua giờ kia thì tập
tỉnh thức ở trong giấc ngủ không có được đâu. Nó sẽ sai hết, không đúng. Cho
nên ở đây phải hiểu được cái chỗ cần thiết mà khi tập á, chúng ta phải tập như
thế nào cho đúng cách.
Ba, tập dần từ 5 phút
đến 10 phút rồi tập cho nó ngủ lại. Nghĩa là thí dụ như bây giờ mình muốn tập
cho nó tỉnh thức thì mình tập từ 5 phút đến 10 phút. Rồi bắt đầu mình biểu nó
ngủ đi. Không có cho nó thức nữa, chứ không khéo nó lại thức thì nó lại làm cho
mình mỏi mệt thì nó rối loạn cơ thể. Phải biết cách tập chứ còn không biết cách
tập thì không có thể tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ được.
Bốn, khi mới tu tập nên
siêng năng dùng pháp hướng để giúp cho sức tỉnh nhiều hơn. Nghĩa là lúc tập
mình nằm đó, mình đặt cái niệm hơi thở ở trước mặt của mình. Do vì vậy
mình biết rằng khi mình nằm 5 hay 10 hơi thở thì nó dễ thiếp đi trong cái giấc
ngủ của mình. Bởi vậy mình dùng cái pháp hướng mình kéo dài từ 5 phút đến 10
phút hay là 30 phút để mà tỉnh thức ở trong đó. Nhưng mà Thầy thiết nghĩ tới 30
phút thì nó dài quá, nó sẽ mệt mỏi cơ thể. Đó thì phải tập từ từ. Rồi tăng dần
lên, để cho lúc bây giờ tới cái lúc mà chúng ta ngủ thì chúng ta cho nó ngủ.
Chúng ta cũng hướng tâm
nhắc thì 5, 10 hơi thở nó bắt đầu nó ngủ. Cho nên trước khi mà tập tỉnh thức ở
trong giấc ngủ thì phải tập ngủ trước. Ngủ có giờ giấc cho nghiêm chỉnh thì tập
tỉnh thức mới được. Chớ không phải muốn tập thì lúc nào cũng tập được. Nó khó
là khó chỗ đó. Và nhớ điều kiện nữa đó là trong cái bước đường mà tu tập về
định hiện tại an lạc trú á. Tức là từ sơ thiền đến tứ thiền, cái mục đích của
tứ thiền á là phải phá sạch âm thanh, không còn cái âm thanh xen vào.
Do đó vì vậy mà lúc nào
mà chúng ta thấy cái tâm nó lặng lẽ, nó yên lặng tức là nó thanh tịnh á, thì
chúng ta nằm ở trên cái sự thanh tịnh đó mà chúng ta nhẹ nhàng mà hướng tâm để
cho nó phá âm thanh. Mặc dù là nó yên lặng, vắng lặng nhưng nó vẫn là có âm
thanh tác động. Chúng ta còn nghe âm thanh chứ chưa phải sạch, cho nên ở trong
cái không gian, thời gian lúc bấy giờ nó rất là vắng lặng. Nhưng nó chưa có
sạch sự vắng lặng đó. Cho nên chúng ta muốn cho nó tạo cái không gian, cái thời
gian đó cho thật là vắng lặng, nghĩa là lúc bấy giờ chúng ta mới thấy nó yên
lặng chứ chưa phải vắng lặng. Muốn cho nó được vắng lặng, nó không còn được âm
thanh tác động vào á. Thì chúng ta luôn luôn phải dùng pháp hướng để mà
phá âm thanh
Có như vậy thì chúng ta
mới có thể phá được cái âm thanh. Chớ còn không khéo thì bị âm thanh tác động.
Vì vậy á cái âm thanh còn tác động nó sẽ câu hữu với cái thọ do vì vậy mà chúng
ta không có thể dừng các hành ở trên thân chúng ta được. Nó luôn luôn nó hoạt
động và nó hoạt động thì chúng ta không thể nào mà nhập tứ thiền được. Cho nên
ngay từ khi mà chúng ta nương vào hơi thở, rồi nắm chặt, gom chặt ở trên tụ
điểm hoặc là chúng ta dời cái tâm đi xa cái âm thanh để phá. Nhưng mà sau khi
dời nó đi xa để phá hết âm thanh á thì chúng ta lại nằm ở trong cái chỗ mà xa
vắng, cái chỗ mà vắng lặng.
Trong cái chỗ mà sâu
sắc, vắng lặng đó, không có âm thanh đó, chúng ta lại nằm im ở trên chỗ
đó. Thì cái chỗ đó nó không phải là cái tụ điểm mà chính là cái tụ điểm của cái
trạng thái vắng lặng. Nếu mà nó nằm ở trên một cái tụ điểm mà chúng ta không
phá được thì chúng ta hãy đưa cái tâm chúng ta cách xa, rời xa cái âm thanh.
Còn nếu mà nó bám chặt được cái tụ điểm mà nó phá được âm thanh thì chúng ta
nằm im ở trên đó mà liên tục hướng tâm nhắc để phá âm thanh. Để cho cái nhĩ
thức của chúng ta bám chặt vào đó, mà nó không có tác động ra ngoài, nó không
có tiếp nhận cái âm thanh.
Nhớ như vậy thì chúng ta
sẽ lần lượt phá cho được âm thanh. Và khi phá cho được âm thanh thì chúng ta dễ
dàng phá được các hành ở trên thân, không còn khó nữa. Và vìì vậy mà cái thọ
chúng ta sẽ xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh tịnh, chúng ta nhập tứ thiền rất dễ
dàng.
Đến đây, về cái phần trả
lời câu hỏi cho thầy Minh Tông là xong, do đó còn có phần rút tỉa kinh nghiệm
bản thân của mình để mà tu tập mà thôi. Bây giờ chúng ta tiếp tục qua cái phần
học về cái giáo án.
4.Giới luật (tiếp tục)
Tỳ kheo có 3 y, tỳ kheo
ni có 5 y. Ở đây thì chúng ta sẽ thấy cái vị tỳ kheo chỉ có 3 y mà thôi, còn tỳ
kheo ni có 5 y. Bởi vì cái người nữ á thì họ phải nhiều hơn chúng ta, vì cái
thân của họ bất tịnh lắm cho nên họ phải có sự thay đổi để giặt dịa hơn. Do đó
ở trong giới luật của Phật cũng có cho ở bên ni nó có rộng rãi hơn ở bên nam
của chúng ta. Cho nên tỳ kheo có 3 y mà thôi, tỳ kheo ni có 5 y còn sadi có 2
mảng y mà thôi. Một là y trên, hai là y dưới. Nó có 2 y mà thôi chớ nó không có
3 y.
Tỳ kheo và tỳ kheo ni
không được lìa 3 y ngủ, nghĩa là không có được lìa cái đại y của mình. Nghĩa là
cái y lớn, y thượng của mình đó, không được lìa xa, luôn luôn lúc nào mình cũng
giữ gìn. Bởi vì chỉ có cái đại y á, nó mới có giữ cái thân của mình kín đáo.
Còn cái y trung và y hạ như cái bộ đồ ngắn của mình trong thân á, thì nó không
có kín đáo, nó không có kín đáo lắm. Nhất là bên ni á, thì cái y thượng cái đại
y cần phải sát ở bên mình. Khi mình ngủ thì mình cũng giữ gìn cái y đó, mình
phủ trong người của mình.
Nói trời nóng nực quá,
tui bỏ cái y đó thì không được. Bởi vì cái người phụ nữ, mặc cái bộ đồ ngắn quá
thì nó để thân người nó không có tốt, cho nên vì vậy mà cần phải giữ kín đáo.
Dù có nóng nực gì cũng phải giữ cái đại y. Tỳ kheo cũng vậy, không được lìa cái
y thượng của mình. Vì khi ngủ trong khi đó mình không có cìòn chủ động được.
Cho nên do vì vậy mà quần áo, y áo nó xốc xếch, nó hở hang á. Mà mặc có cái y
hạ và cái y trung không á thì da thịt nó bày ra. Nó không tốt cho nên cần phải
có cái y thượng mà phủ lên, để cho nó kín đáo cái thân hơn.
Sadi không có đại y nên
không phạm. Bởi vì tỳ kheo và tỳ kheo ni có cái y như vậy á là tại vì mình lớn
rồi. Nếu mình bỏ cái đại y đi thì mình để cái thân của mình nó bày ra thì nó
rất là có tai hại của người lớn, nó có thể đi đến phạm vào cái tội dâm, nó nguy
hiểm. Còn cái chú sadi nó còn trẻ cho nên nó chưa có đại y, vì vậy mà nó không
có cần mà phải phủ cái y thượng lên. Do đó nó chỉ mặc cái bộ đồ ngắn, cái y hạ
và y trung mà thôi. Nó không có phạm
Ba, tỳ kheo không được
nhóm lửa. Nghĩa là cái vị tỳ kheo, tỳ kheo ni không có được nhóm lửa, nấu
ăn cái này cái kia, không có được làm cái đó. Sadi có thể nhóm lửa, nấu cháo
hoặc nấu cơm cho đại chúng dùng. Ở đây, ở trong cái giới luật thì nó chế, nó
chế ra như vậy đó. Để cho cái vị tỳ kheo, tỳ kheo ni thì không có nấu, nhưng mà
mấy chú sadi thì nấu cho đại chúng ở trong chùa ăn cái này, cái kia được. Nhưng
mà đúng là trong giới luật của Phật không được, dù là sadi cũng không được nấu
nữa. Chỉ đi xin ăn mà thôi. Tức là giới kinh á, thì nó cấm rất ngặt, nó hoàn
toàn không có cho nấu nướng gì hết.
Bởi vì khi mà mình bước
đầu mình vào tu mình nấu nướng như vậy nó quen đi. Cho nên, ngay từ lúc đầu chú
sadi mới vào như La hầu la cũng đi xin ăn mà thôi, chớ còn hổng có được nấu.
Còn ở đây giới luật, nó chế ra thì nó có sự thay đổi. Nó thay đổi để làm cho nó
nhẹ nhàng hơn cho nên bắt mấy chú sadi này chẻ củi, nấu cơm hoặc là lặt rau,
hoặc là làm thực phẩm, đủ thứ, nhất là mấy chú Sadi.
Bốn, tỳ kheo giả sử sau
khi đã ăn bữa ăn chính từ sớm rồi mà thí chủ có đem đồ ngon đến cúng dường.
Trong bụng có thể ăn thêm cũng không được ăn nữa. Đây gọi là túc thực
nghĩa là ăn biết đủ chứ không được ăn thêm. Nếu như nhất định muốn ăn thêm,
phải nhờ một tỳ kheo khác, họ chưa có ăn, làm lễ dư thực. Bằng cách nhờ tỳ kheo
kia ăn trước một miếng, rồi sau đó mình mới ăn được. Sadi tuổi nhỏ không bị hạn
chế của túc thực, nghĩa là ở đây khi mà vị tỳ kheo đó ăn rồi, nhưng mà có
người đem cúng đồ ăn ngon nữa, thì cái vị tỳ kheo đó muốn ăn nữa thì phải nhờ
cái vị tỳ kheo chưa có ăn đó, nhờ họ ăn ở trong cái tô, hoặc cái bát thực phẩm
đó, thì nhờ họ ăn một miếng, rồi bắt đầu mình mới ăn lại được. Còn nếu mà không
có thì không có được ăn.
Thiệt ra thì cái chế như
thế này, Thầy thấy một vị tỳ kheo mà còn thèm ăn như vậy đó, thì làm sao gọi là
ly dục, ly bất thiện pháp cho nên cái giới luật chế ra Thầy thấy nó không còn
đúng cái chỗ, cái pháp để mà chúng ta ly dục ly bất thiện pháp. Nó sai hết rồi.
Nhưng mà đọc ra để cho quý thầy nghe để biết rằng cái giới bổn của cái người
sau họ chế tầm bậy, tầm bạ là như vậy đó. Bởi vì cái mục đích của chúng ta giữ
gìn giới á, là lúc chúng ta ly dục ly bất thiện pháp, chớ đâu phải là còn muốn
ăn. Thế mà vị tỳ kheo thấy đồ ngon còn muốn ăn. Muốn ăn vậy phải nhờ vị tỳ kheo
khác, bởi vì giới luật cấm không cho ăn như vậy, cho nên mới nhờ tỳ kheo khác
ăn một miếng rồi.
Cũng như bây giờ, người
ta đem đến một cái tô hủ tiếu, ngon quá, muốn ăn cái tô này. Do đó nhờ cái vị
kia: “Anh làm ơn anh múc anh ăn giùm tui miếng đi, rồi tui mới ăn cái tô này
được”. Thầy thấy nghe nó kỳ cục quá, thế mà họ dám chế như vậy. Để rồi sau này,
các vị cũng nhờ như vậy để mà mình cứ thỏa thích trong cái sự ăn uống chứ đâu
có cái gì khác hơn hết.
Đó là cái giới bổn trong
kinh giới mà Thầy thấy hầu hết là các ngài chế giới ra một cách quá rộng rãi,
và mục đích cũng sợ phạm giới. Cho nên chế ra những cách này cách kia, để mà
nuốt cho trôi ba cái thực phẩm cho nó trôi vô cổ. Còn cái chú Sadi thì không có
hạn chế, nghĩa là chú muốn ăn thì ăn, chú muốn không thì không. Thì thiệt là
Thầy thấy thập giới Sadi quá rõ ràng rồi chứ không còn gì nữa hết, cho nên ở
đây nói chú tiểu chứ Thầy thấy chú tiểu không hẳn là làm cái chuyện mà như vậy
được. Thế mà ở trong giới luật thì coi như chú tiểu, về ăn uống muốn ăn hồi nào
ăn.
Năm, sanh chủng là hạt
giống và ngũ cốc, tỳ kheo không được trồng và làm tổn hại. Sadi có thể thay tỳ
kheo xử lý, tức là cầm hoặc là xay, giã nấu các hạt ngũ cốc đó được. Thí dụ như
bây giờ người ta cho mình một ký hột đậu xanh. Thì cái vị tỳ kheo đó không được
mà đem ký hột đậu xanh đó xay ra rồi nấu chè ăn được. Bây giờ chỉ sai cái chú
Sadi thay xử lý cái này được. Chú đem cái này vô cái cối xay chú xay ra đi, tụi
tui thì làm không được đâu, tụi tui giới luật nó nhiều hơn chú rồi. Chú xay bể
hột này đi, rồi chú đem ngâm đi, rồi chú nấu chè đi, rồi tụi mình xử lý với
nhau đi. Thì cái chuyện đó là cái chuyện ở trong các giới bổn nó chế ra như
vậy.
Thì thiệt ra thì mấy chú
sadi này thì không còn cái giới hạnh nào nữa hết. Bởi vì phải thay các vị tỳ
kheo mà làm những cái điều phi giới luật.
Sáu, Bất tịnh là chỉ cho
các vật nhơ bẩn như đại tiểu tiện và đàm giải. Nghĩa là phần thứ sau này khi mà
những vật bất tịnh như là đồ ăn của chúng ta mà ăn thừa, chúng ta không nên bỏ
trên cỏ rác, bỏ trên các loại cây. Nó làm cho các loại cây chết. Cũng như khi
đại tiểu tiện, đừng có đại tiểu tiện ở trên các loại cỏ cây, mà làm cho nó
chết. Ở cái giới thứ sáu này, cái người tỳ kheo phải giữ gìn như vậy và cái chú
Sadi cũng giữ gìn như vậy.
Bảy, Leo lên cây làm mất
oai nghi. Tức là vị tỳ kheo cũng như tỳ kheo ni không được có leo lên cây, chỉ
có chú Sadi mà leo mà thôi. Nhưng mà ở trong giới luật thì nó có chế thêm ra
như thế này, là vì cái trường hợp cần thiết phải có cái điều kiện leo cây thì
chúng ta cũng phải leo cây nó cũng có chế ra những cái phần này. Thí dụ như bây
giờ trong chùa có những cái cây xoài hay cây mít thì đâu ở ngoài người ta trèo
trong chùa người ta hái được. Do đó thì mấy chú Sadi thì trèo trên đó hái mấy
trài xoài, còn tỳ kheo và tỳ kheo ni không có được trèo. Bởi vì lớn rồi, trèo
mất oai nghi của một vị làm thầy. Chỉ có mấy chú nhỏ là trèo được.
Tám, tỳ kheo không được
cầm nắm vật báu, chỉ có Sadi có thể thay tỳ kheo cầm nắm và giữ vật báu. Trong
khi đó chúng ta thấy thập giới Sadi có cho cầm nắm và giữ vật báu không? Thế mà
ở đây, thì ở trong giới bổn á, cái gì cũng đổ thừa cho Sadi làm được hết à, chỉ
có tỳ kheo và tỳ kheo ni thì không có làm được thôi.
Chín, đồ ăn còn thừa để
cách đêm, tỳ kheo và tỳ kheo ni chẳng được ăn lại. Chỉ có Sadi thì có thể
được ăn lại. Sadi thì ăn lại được, chứ còn tỳ kheo và tỳ kheo ni không ăn
lại được.
Mười, tỳ kheo không được
đào đất chỉ có sadi thì có thể đào đất hoặc là vun trồng chứ tỳ kheo thì không
có được làm cái điều đó.
Mười một, các vật thực
không do người khác đưa cho, tỳ kheo không được ăn. Sadi không bị hạn chế và
làm người dâng thực phẩm cho tỳ kheo. Nghĩa là bây giờ cái vật thực đó đó,
thường thường là người đi khất thực á, người ta đem người ta cúng dường, người
ta xớt bát cho cái vị tỳ kheo thì cái vị tỳ kheo đó được ăn. Mà nếu mà người ta
không có xớt bát, cúng dường cho cái vị tỳ kheo thì cái vị tỳ kheo đó không
được lấy thực phẩm mà ăn. Bây giờ ở trong chùa chúng ta đó, có những người
người ta đem cúng Phật cúng trái cây hay cái gì đó, thì cái vị tỳ kheo
hay tỳ kheo ni không được lấy ăn, bởi vì người ta cúng Phật chứ không phải là
người ta cúng cho vị tỳ kheo đó hay hoặc là cái vị tỳ kheo ni.
Chỉ có mấy chú Sadi đó,
mới lấy ở trên bàn Phật những trái cây người ta cúng đó, mới đem vô dâng lên
cho các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, thì bấy giờ thì các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni mới
được ăn. Bởi vì mấy chú đó mới lấy ra, mới dâng lên còn nếu mà không có lấy thì
để thúi đó thôi chứ vị tỳ kheo, tỳ kheo ni không có được lấy cái của người ta
cúng Phật ở trên bàn mà ra ăn. Bởi vì trong giới luật của Phật người ta cúng
dường, người ta sớt bát của mình cái gì thì mình ăn, mà người ta không cho thì
thôi mình không được lấy ăn. Lấy ăn như ăn cắp, ăn trộm. Do vì vậy đó, thì chỉ
có mấy chú Sadi, lấy cái của mà cúng đó thì đem dâng lại cho các vị tỳ kheo và
tỳ kheo ni thì các vị mới có được ăn.
Mà hầu hết thì cái giới
luật này Thầy thấy là không có. Vì mấy chú Sadi họ lấy họ ăn hết chứ họ không
có để cho mấy ông thầy lớn. Vậy cho nên mấy ông thầy lớn cũng lo bưng xuống để
mà chia nhau ăn chớ đâu có để cho mấy chú. Hoặc là sai mấy chú sadi lên bưng
cái dĩa trái cây ở trên bàn Phật á, đem xuống đây rồi thầy chia cho. Tức là ông
thầy ông chia cho ông mớ, rồi mấy chú sadi 1 mớ chứ hổng phải là chia hết cho
mấy chú Sadi không.
Đó, thì trong giới luật
thì nó có ghi như vậy, nhưng mà nó làm không có đúng tính cách của cái giới
kinh để chúng ta thực hiện cái tâm ly dục, ly bất thiện pháp. Tuy rằng những
cái vật nhỏ mọn mà nó vẫn còn những cái chút chút làm cho chúng ta khó ly lắm
chứ không có dễ. Mà giới bổn mà viết ra như vậy đó thì là nó cũng nuôi lớn cái
tâm dục của chúng ta chứ không phải ly. Cách thức từ cái ăn cái này cái kia, đủ
cách như vậy đó, đó là tạo cho chúng ta cái thế chạy theo cái dục lạc của thế
gian.
Mười hai, tỳ kheo không
chặt cây, không nhổ cỏ. Sadi thì không hạn chế nhổ cỏ, chặt cây. Cho nên, tất
cả những gánh nặng ở trong chùa phải nói gánh nặng về Sadi. Nào là nhổ cỏ dẹp
cho sạch này nọ. Còn tỳ kheo với tỳ kheo ni là khỏe lắm, không có làm gì hết,
khỏe lắm. Phật dạy không có động cái gì hết, chỉ có mấy chú là làm thôi, chứ
còn tụi tôi lớn rồi, không có làm gì hết. Cho nên mấy thầy lớn thì ngồi không
chứ không có làm gì. Không có được nhổ cỏ, hoặc là quét nữa. Quét đây rồi kiến
nó lăn nó chết nó tội. Còn mấy chú thì quét được không có sao hết.
Thì tất cả những cái tội
lỗi mà phạm giới đều đổ cho Sadi hết, còn tất cả các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni thì
không có làm những cái điều kiện đó. Nhưng mà cứ chạy theo dục thì không làm
sao mà tránh khỏi được. Bởi vậy, Thầy thấy cái vấn đề tu học theo đạo phật nó
rất khó, là đời sống nó phải như thế nào cho đúng cách của giới luật thì nó mới
có ly được dục, nó mới có ly được ác pháp. Chứ nếu mà không có đúng cách của
giới luật thì chúng ta sẽ bị phạm giới hết không có người nào mà không phạm, dù
ít dù nhiều chúng ta vẫn bị phạm hết. Nhất là chúng ta trụ thế tăng đó, ở đâu
một cái chùa mà ở mãi á, thì nhất định là chúng ta bị dính hết, không có thể
nào mà chúng ta giữ gìn giới luật cho trọn vẹn được.
Chánh ngữ học tức là
thức xoa ma ni. Ở bên ni khi mà vào tu học nó có chia làm những cái giai đoạn,
khi mà vào xuất gia gọi là sadini. Khi muốn lên làm tỳ kheo ni á, thì họ còn
một cái giai đoạn nữa gọi là thức xoa mani. Họ phải có 2 năm ở trong cái thức
xoa ma ni này. Sau đó mới được thọ tỳ kheo. Chánh ngữ học tức là thức xoa ma
ni. Trong 12 điều này, 7 điều trước không trì không phạm. 5 điều sau, không trì
thì phạm. Tức là 12 điều ở trên đó thì cái chú sadi cũng như cái vị Tỳ
kheo nói chung là Thức xoa sadi, sadi ni mà trong cái 12 điều này thì 7 cái
điều kiện ở trên không trì thì không phạm, mà năm cái điều ở dưới á thì không
trì vẫn bị phạm, đó thì cái chỗ để mà trong kinh giới nó chỉ như vậy
chúng ta học để biết sơ qua mà thôi . Mục đích của chúng ta học để làm sao mà
chúng ta tu cho được giải thoát chớ không phải học giới luật theo cái kiểu này.
Nhưng ít ra chúng ta cũng biết, biết cái sai của giới bổn để mà chúng ta không
có chấp nhận nó. Mà chúng ta lấy những cái oai nghi của nó, cái nào đúng để mà
chúng ta sửa mình, để mà chúng ta ly dục ly ác pháp, để mà chúng ta đi đến con
đường giải thoát chớ không phải chấp vào cái giới bổn đó, mà nó khô cằn
khô cỗi đó, bằng cách mà chế cái này chế cái kia để chúng ta không có ly được
dục, không có ly được ác pháp thì suốt đời chúng ta theo đạo Phật cũng chẳng có
lợi ích gì cho cuộc đời tu hành của mình.
5.
Oai nghi sadi
Bây giờ, thầy đọc về oai
nghi. Tới đây chúng ta cũng học sơ về oai nghi của sadi và sadini để chúng ta
biết sơ qua cái phần này. Nếu không thì chúng ta là những người tu sĩ của đạo
Phật mà không biết cái oai nghi của nó như thế nào. Nhưng ở đây Thầy xét qua,
nếu mà cần phải soạn ra cái oai nghi này thì phải có thời gian. Còn ở đây, thì
họ đã soạn sẵn cho chúng ta từ các kinh giới, họ đã soạn sẵn oai nghi của sadi
và sadini. Nhưng mà Thầy đọc thì Thầy thấy hầu hết là các vị tổ ở bên luật họ
chế ra những cái oai nghi này đều là họ nằm ở cái trong giai đoạn phong kiến
vua chua mà họ chế ra. Cho nên nó cũng không phù hợp với đạo Phật lắm.
Nhưng chúng ta thấy hiện
giờ thì chưa có một vị nào mà soạn ra những cái oai nghi của sadi, sadini cũng
như tỳ kheo, tỳ kheo ni để cho chúng ta thực hiện cái oai nghi của vị tu sĩ đạo
Phật. Chính Đức Phật đã dạy chúng ta qua cái oai nghi của chúng ta là Thánh
phòng hộ sáu căn. Tức là chúng ta thực hiện ở trên pháp phòng hộ sáu căn đó sẽ
đầy đủ oai nghi. Nhưng vì đi vào những chi tiết á, thì ít ra chúng ta phải có
thời gian Thầy mới có thể nghiên cứu oai nghi mà khi đi đứng trong khi
phòng hộ 6 căn như thế nào gọi là cái oai nghi của nó. Bởi vì nó rất
nhiều những cái điều kiện mà chúng ta sẽ gặp phải mà nó sẽ làm mất
cái oai nghi của chúng ta đi khi chúng ta phòng hộ.
Còn ở đây thì họ dựa vào
cái phong kiến, vua chúa, cách thức mà những cái đối xử, tiếp xử với nhau. Cũng
như là chú sadi đối với thầy nó như thế nào, hầu thầy như thế nào thì cái lối
đó là lối của phong kiến chứ không phải là của một vị tu xuất gia. Cho nên Đức
Phật cũng là một vị thế tử, cũng ở trong một cái vai trò của thời đại phong
kiến vua chúa, thế mà đi tu rồi mà còn phải có người hầu, kẻ hạ, rồi còn phải
có này kia. Thì chắc chắn là đức Phật không có đồng ý cái điều đó đâu.
Nhưng mà ở đây thì chúng
ta thấy rằng trong cái giới thì nó nói về cái oai nghi, chúng ta xét qua thì
chúng ta thấy rằng các vị tổ mà ở trong giới luật mà viết ra thì họ là những
người chịu ảnh hưởng của phong kiến của nho giáo. Cách thức mà đối xử với vua
như thế nào thì cách thức mà vị học trò đối xử với ông thầy cũng na ná gần
giống như là đối xử với vua. Oai nghi của sadi và sadini, quan hệ của sadi và
sadini trong Đại chánh tạng có 5 bộ sách sau đây, có thể dùng nghiên cứu tham
khảo. Một, sadi thập giới tinh oai nghi. Hai, sadi oai nghi. Ba, kinh Phật thuyết
thập giới sadi nghi tắc. Bốn là sadini giới kinh. Năm là sadini ly giới văn.
Nhưng vì nội dung của 5
bộ sách này trước sau trùng lặp không có cương lĩnh thống nhất, người sơ học
rất khó nắm được đầu đuôi, đầu mối. Vì cuối đời nhà Minh có đại sư Liên Trì,
chỉnh lý và biên tập thành một quyển sadini luật nghi yếu lược. Về sau lại có
ngài Hoằng Tán, làm chú thích thêm. Cuối đời nhà Minh còn có đại sư Ngẫu Ích
biên tập một quyển sadi thập giới oai nghi luật yếu. Quyển trước kĩ càng, quyển
sau giản dị sáng suốt. Mỗi quyển đều có chỗ hay
đều có giá trị đáng cho chúng ta tham khảo việc học. Hiện nay ở Đài Loan ấn kinh xứ có bản đơn hành
lưu thông, Trong sadi thập giới tinh oai nghi nói, sadi có 72 oai nghi gồm có
14 việc. Trong sadini ly giới văn nói, oai nghi 70 sự kiện, trừ những oai nghi
có quan hệ riêng, nam nữ bất đồng ra, oai nghi của sadi và sadini phần nhiều
tương đồng quan hệ.
Nay tui xin đem một vài
oai nghi được xem là trọng yếu không làm thay đổi nam nữ trích lục như sau. Oai
nghi của sadi. Pháp Thầy dạy sadi, phải kính đại sa môn, không được kêu tên của
đại sa môn. Lúc đại sa môn thuyết giới kinh không được lén nghe, không được tìm
điều hay dở của đại sa môn. Đại sa môn có lỗi lầm không được nói với người
khác, không được nói xấu đại sa môn khi vắng mặt. Không được khinh dễ cười cợt
trước mặt đại sa môn và nhái theo ngôn ngữ hình tướng của đại sa môn.
Thấy đại sa môn lập tức
đứng dậy trừ khi đọc kinh, ăn cơm, công tác. Giữa đường gặp đại sa môn phải
đứng nép qua một bên. Nếu lúc cười đùa thấy đại sa môn liền phải ngưng ngay. Đó
là cái oai nghi đầu tiên của sadi. Phải học cái lòng cung kính đối với bậc đại
sa môn như vậy.
Oai nghi thứ hai của
sadi là thờ thầy. Phải xem thầy như cha, phải dậy sớm. Muốn vào cửa phòng thầy
trước phải búng ngón tay ba lần. Phải chuẩn bị đồ súc miệng, rửa mặt cho thầy.
Phải rảy nước khi quét đất. Phải sắp xếp y phục, dọn dẹp lau quét giường chiếu
cho thầy. Thầy đi chưa về không được bỏ phòng ra đi. Nếu có lỗi, thầy răn dạy
không được cãi lại, phải cúi đầu lắng nghe lời thầy và phải ghi nhớ để vâng
làm. Đi ra phải đóng cửa lại cẩn thận. Đó là cái oai nghi thứ hai.
Oai nghi thứ ba, pháp
sadi bạch thầy. Ngoại trừ năm việc súc miệng, uống nước, đại tiện, tiểu tiện và
lễ kính pháp Phật trong vòng 49 tầm. Mỗi tầm là 8 thước tàu (mỗi thước là một
cánh tay của mình) của phạm vi kiết giới. Có làm việc gì đều phải bạch với
thầy. Nghĩa là cách thức của vị sadi đó phải cách xa vị thầy hoặc phải cách xa
tháp tượng Phật khi mình đảnh lễ, tức là mình phải đứng cách 8 thước tàu
tức là 8 cái cánh tay của mình như vậy. Khi mà thuyết giới cũng như khi đảnh lễ
thầy hoặc đãnh lễ Phật thì phải cách 8 thước như vậy. Đó là cái oai nghi khi mà
đảnh lễ. Và khi mà đang súc miệng thì đảnh lễ không được, uống nước thì không
được, đại tiểu tiện không được. Cho nên, khi đảnh lễ hoàn toàn những việc làm
đó thì không có được làm. Vừa làm vừa đảnh lễ không được.
Thứ tư, Pháp sadi nhập
chúng. Phải học cho rõ, phải tập làm việc, phải vì chúng phục vụ, phải vì đại
sa môn mà đưa vật dụng, phải lễ Phật, phải lễ tỳ kheo tăng, phải chào hỏi bậc
thượng tọa, hạ tọa. Phải nhường chỗ ngồi cho bậc thượng tọa, không được dành
chỗ ngồi, không được ở trên tòa ngồi kêu gọi, cười giỡn. Không được luôn luôn
đứng dậy đi ra ngoài, nếu trong chúng có gọi đến tên mình thì liền dạ. Tỳ kheo
chấp sự có sai làm việc gì thì trước phải bạch lại với thầy. Nghĩa là cái vị tỳ
kheo chấp sựcũng như là vị tri sự ở trong chùa đó mà sai mình làm cái việc gì
đó thì mình phải thưa với thầy trước rồi mình mới nhận cái sự chấp sự của vị đó
sau mình, thì dụ cái vị đó bảo mình phải tri duyên để giữ giường thì trước đó mình phải xin bạch với vị thầy của mình. Coi thầy
mình có đồng ý không. Nếu đồng ý thì mình mới chấp sự đó mình làm tri duyên.
Còn nếu mà không có thì không có được làm. Thì đó là cách thức cái oai nghi của
chú sadi.
Năm, pháp sadi làm tùy
thực. Phải tiếp thực của chúng tăng, chẳng được ở giữa đường mà làm việc. Làm
việc chưa xong chẳng được giữa chừng mà bỏ đi. Đang lúc làm việc nếu bị
thầy gọi phải thưa cho tỳ kheo chấp sự biết, phải phục tùng sự chỉ đạo và giáo
lệnh của thầy tỳ kheo chấp sự. Chẳng được cãi nghịch, Đó là cái oai nghi
của chú Sadi mà tùy thực
Thứ sáu, pháp sadi vào
phòng tắm. Phải cúi đầu vào nhà tắm. Trong nhà tắm phải tránh chỗ của bậc
thượng tọa, không được đùa giỡn tạt nước lên nhau. Không được tạt nước cho lửa
tắt. Không được cười giỡn trong phòng tắm. Không được làm hư hại vật dụng trong
phòng tắm. Không được dùng nước quá phí. Không được để nước và xà bông đổ vào
hồ tắm.
Thứ 7, pháp sadi vào cầu
xí. Muốn đại tiểu tiện, phải đi liền. Lúc đi không được liếc ngó hai bên, đi
đến cầu xí trước hết phải búng tay 3 lần cho người bên trong biết. Không được
hối thúc người bên trong cầu ra, bước lên cầu tiêu rồi phải búng ngón tay 3 lần
nữa để cho quỉ thần ăn phân biết mà tránh đi. Không được cúi đầu nhìn xuống bộ
phận sinh dục, không được rặn ra tiếng. Không được nhổ nước miếng đàm giải làm
dơ vách. Không được vẽ lên vách hoặc dưới đất. Không được ngồi lâu ở trong cầu
xí. Trong lúc đi cầu xí gặp người không làm lễ. Phải lánh đường đi. Lúc ra khỏi
cầu xí phải rửa tay. Chưa rửa tay không được cầm đồ vật, phải lấy nước rửa
đường tiểu tiện gọi là tẩy tịnh. Không tẩy tịnh không được lễ Phật. Phải dùng
nước trong xúc miệng, không xúc miệng chẳng được tụng kinh. Đó là cách
thức dạy ở trong cầu xí của người sadi. Như vậy nó có nhiều cái mà Thầy
thấy một cái người bị bệnh kiết mà trong khi bảo họ ngồi đó mà họ hổng rặn thì
chắc chắn là họ chịu sao nổi.Cho nên những cái này đều là chúng ta phải có sự
chỉnh đốn lại, chứ không khéo cứ bắt như vậy á, thì có thể nói rằng nó có những
cái mà nó chưa có hợp. Vì vậy mà khi mà nghiên cứu lại những cái oai nghi của
sadi thì hầu như là chúng ta phải dựa vào cái kinh giới của Phật thì chúng ta
mới có thể viết ra những cái oai nghi cho thực tế dúng cái hạnh của người tu
hơn là những cái oai nghi này, quá là rườm rà.
Thứ 8, Pháp sadi lễ
thầy. Thầy tọa thiền không nên làm lễ, thầy kinh hành không nên làm lễ. Thầy
đang ăn không nên làm lễ. Thầy thuyết kinh không nên làm lễ. Gặp bên tay trái
thầy không nên làm lễ. Không nên làm lễ thầy nằm bệnh đất nhơ. Nghĩa là khi
thầy đang đi như vậy, rồi cúi xuống lễ thầy ở dưới đất dơ như vậy thì cái đó
không nên. Nghĩa là muốn lễ thì xin thỉnh thầy đến cái chỗ sạch sẽ đàng hoàng
rồi lễ thầy ở cái chỗ sạch sẽ đàng hoàng đó chứ không phải đụng đâu lễ đó.Cho
nên có nhiều người Phật tử họ chưa có biết cái oai nghi này. Cho nên họ đụng
đâu họ lễ đó, quần áo lấm lem đất cát hết. Đó là những cái không đúng.
Chín, sadi vào nhà cư
sĩ, đến cửa nhà phải tự xét oai nghi của mình, cũng không được thấy người mà
làm oai nghi. Nhà không có người nam, không được vào cửa. Nhà có thờ Phật, lúc
bước vào trước tiên phải lễ Phật. Vào nhà nếu ngồi trước phải xem chỗ có binh khí
không nên ngồi. Chỗ có vật báu không nên ngồi. Chỗ có y phục, đồ trang sức của
phụ nữ không nên ngồi. Không được một mình ngồi với người nữ ở chỗ có ngăn che,
cùng ngồi cùng nói chuyện. Không được cố đùa với trẻ con, không được nói nhiều,
không được đùa cợt, phải ngồi yên lặng, phải ngồi ngay thẳng. Không được
kết thân với cư sĩ làm cha mẹ, chị em. Nghĩa là mình không được làm thân vớ cái
gia đình của người khác. Nghĩa là đừng có kết làm em nuôi hay chị em nuôi hoặc
là cái này kia. Cho nên hầu hết là có một số quý thầy cũng nhận cư sĩ làm người
nuôi giúp cho trên bước đường học tập của mình đó, bằng cách này cách khác thì
cái đó theo ở trong cái oai nghi của sadi thì không có chấp nhận cho mình kết
mình kết thân như vậy. Bởi vì mình là cái người cắt ái ly gia. Bởi vì ở
đời cái tình cảm người ta nó còn lưu luyến, còn mình căt đứt thì nó không còn
lưu luyến ai. Nhiều khi do cái chỗ đó mà mình làm khổ. Và đâu biết chừng vì cái
sự lợi dụng mà để cho mình mình có cái sự cung cấp cúng dường, mà gia đình đó cung
cấp cúng dường cho mình trên bước đường tu học thì tức là mình còn chạy theo
dục lạc mất rồi. Thì như vậy là nhận làm cha nuôi, hay là em nuôi hay chị
nuôi thì cái điều đó là cái điều là không đúng của cái người tu rồi.
Mười, pháp sadi vào chợ
phải cúi đầu đi thẳng đến nơi và đi thẳng về, không được cùng người nữ, trước
sau đi theo nhau. Không được ngó qua ngó lại, không được cố nhìn người nữ.
Không được đến chỗ náo nhiệt. Mua đồ không được tranh giành, đắt rẻ. Không được
ngồi ở trong cửa hàng của người nữ. Nếu bị người giành phải khéo lánh đi. Đừng
theo trả giá. Nếu đã mua vật ở chỗ A đắt, chỗ B tuy rẻ cũng không được bỏ chỗ A
mà mua chỗ B làm cho chỗ A sanh giận hờn.
Thật sự ra thì cái chỗ
này, ở đây cái oai nghi chỗ này trong cái kinh giới bổn thì cho phép Sadi đi
mua sắm cái này cái kia là vì cất giữ tiền bạc. Còn trong giới luật của
Phật thì đâu có cái chuyện này mà làm sao đi mua. Cho nên nhiều cái nó không
sai, nhưng cái oai nghi của một vị mà đã cất tiền bạc để đi mua cho nên cái oai
nghi này nói như vậy là chúng ta thấy rằng cái vị tu sĩ mà đi ra chợ, phải mua,
phải giữ gìn như thế này, như thế khác. Nhưng mà đã đi mua như vậy đã là sai
cái giới luật rồi, thì nó không có đúng tính cách của vị tu sĩ mà đi khất thực
xin ăn.
Mười một, pháp sadi vào
chùa ni. Phải có đồng bạn vào chùa ni nghĩa là đi phải có 2,3 người chứ không
phải đi một mình vào chùa ni được. Vào chùa trước lễ Phật, nếu không có chỗ
dành riêng cho khách, thì không được ngồi, không được thuyết pháp không hợp
thời. Nếu từ chùa ni trở về, không được nói sự đẹp xấu của chùa ni. Không được
thư từ qua lại với ni. Không được nhờ may vá và giặt giũ quần áo. Nghĩa là khi
mà vào chùa ni thì phải đi 2,3 người, mà cũng không có được mà đến đó mà tự
mình thuyết pháp thế này thế khác nó không hợp. Khi nào mà có người ta mời
thỉnh, bên ni họ mời thỉnh mình thuyết pháp thì mình thượng tọa thì mình mới
thuyết pháp, chớ còn không đụng đâu mình nói đó thì cái chuyện đó là cái sai,
coi như là mình khoe khoang cái này kia thì cũng không có đúng. Nhất là cái
giới nữ, và khi về rồi, thì chùa người ta người ta trang trí, người ta làm gì
thì làm mình cũng không có nói mà đẹp xấu, khen người ta đẹp xấu này kia. Do
đó, mình coi bình thường thôi. Đó là 11 cái oai nghi của sadi nam thì chúng ta
vừa học xong .
Bây giờ đến cái phần
oai nghi của sadini.
6.
Oai nghi của sadini
Một, pháp sadini đi ra
ngoài không được đi một mình phải cùng đi với đại ni hoặc là 2,3 ni cùng đi.
Nghĩa là cái sadini không có được đi một mình phải đi có nhiều người hoặc là đi
với một người đại ni là một người ni lớn tuổi để bảo vệ cho. Nếu không có ni
phải cùng với thân tín ưu bà tắc di, đồng đi. Nếu không có ni đi thì phải có
người cư sĩ nữ đi với mình. Phải nhìn thẳng trước 6 thước, 6 thước tầm của mình
á thì chỉ có 2 mét mà thôi. Nghĩa là khoảng cách từ chỗ mình đi tới chỗ mình
nhìn xuống như vậy là 2 mét. Không được đi cùng với nam hoặc là theo nhau đi
chung đường. Đó là cách thức ở bên sadini á.
Hai, là pháp sadini ngủ.
Không được nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng bên trái. Phải nằm kiết tường nghiêng
bên phải. Không được để lộ vai ở trần. Không được đặt tay ở chỗ kín. Đó là pháp
của sadini.
Ba, pháp sadini vào nhà
cư sĩ. Không được vào phòng của phụ nữ nói cười. Không được ngồi ăn dưới bếp.
Không được cùng người giúp việc nói chuyện riêng. Không được đi một mình đến
cầu xí. Không được cùng người đồng lên cầu xí. Không được lên chỗ cầu xí của
người nam. Không được lấy tay cầm đồ vật cho người nam, phải để ở trên đất hoặc
chỗ thích đáng để người đó tự lấy. Không được đùa giỡn với trẻ con. Nghĩa là
hầu hết là bên ni hay thích con nít lắm, nên trong oai nghi cấm người ni không
có được mà ẵm, bồng, giỡn hay đùa hay cười cợt với trẻ con.
Bốn, pháp sadini vào nhà
tắm, không được lõa lồ tắm chung với ưu bà di tức là nữ cư sĩ đó. Không được
bàn luận về việc tắm rửa. Không được cùng ưu bà di kì cọ lẫn nhau. Không được
tắm chung với trẻ con. Không được dùng nước rửa của người khác để rửa. Không
được tự mình nhìn chỗ kín của thân mình.
Năm, pháp sadini vào
chùa tăng. Phải theo đại ni hoặc 2,3 người cùng đi. Nghĩa là sadini vào chùa
tăng phải đi nhiều người. Vào chùa trước phải bạch tri sự tăng. Không được cùng
tỳ kheo ngồi chung trong một nhà. Không được cùng tỳ kheo ngồi chung trong một
tòa. Không được cùng tỳ kheo cười đùa. Không được nằm ngồi trên mền nệm của
sadi, sadi nam á. Không được cùng tỳ kheo ăn chung bát, không được mặc lầm y
của tỳ kheo.
Trên đây tóm lược oai
nghi của sadi và sadini. Thật ra cũng là toát yếu oai nghi của tỳ kheo và tỳ
kheo ni. Sadini cũng phải đồng học những phần chung của sadi và oai nghi của
sadi... Cư sĩ cũng nên học trì oai nghi sadi. Đây là điều cần phải biết. Tăng
ni ngày nay, trừ sự phục sức khác người tục ra, có thể không phạm dâm dục và
không ăn thịt, uống rượu, đã kể là khá rồi. Đến hạng chân thật, tỳ kheo không
làm sao thấy giới hạng sinh hoạt của nam nữ tăng và tục gần như không còn. Các
cô ni nhận người giàu sang thế tục làm cha mẹ nuôi, lấy đó làm vinh phục dịch
cho người thế tục có tiền. Cho đó là hạnh.
Cho đến ẵm bé con, đùa
giỡn đã là việc thường thấy. Phẩm cách của tăng ni như vậy đâu có hi vọng là
trụ trì Phật Pháp và chấn hưng Phật giáo. Như băng đóng 3 thước đâu phải là do
cái lạnh của 1 ngày. Đâu chỉ trách tăng ni ngày nay, đây cũng là thói tệ đã
tích tập qua nhiều đời nhiều kiếp. Nghĩa là hiện giờ thấy tăng ni mà phạm giới
luật có những cái oai nghi nó không đúng đắn như vậy thì nó không phải là mới
bây giờ mà đã nhiều đời nhiều kiếp nó đã quen đi rồi. Bây giờ rất là khó sửa.
Cho nên ở đây cái vị Thánh Nghiêm nói, băng mà đóng dầy 3 thước thì đâu phải là
trong 1 ngày mà nó đóng được.
Mình muốn mà cho nó thực
hiện cái oai nghi này á, đâu phải một ngày mà làm xong được. Nhưng mà cứ để như
thế này thì Thầy nghĩ rằng bây giờ có muôn kiếp đi nữa thì cũng không có thành
được, phải bắt đầu ngay từ khi người ta bước chân vào đạo. Cái gì ra nghiêm túc
cái nấy. Người nào được thì được, người nào không được thì thôi. Chứ đừng có
tập dần dần, để rồi nó lần lượt, ngày nó thêm, lạnh một chút lạnh chút nó mới
đóng được vài ba thước thì cái chuyện đó nó khó quá.
Cho nên từ bao nhiêu thế
kỉ này, giới luật bị sai phạm rồi. Thì từ người trước cho đến người sau đều là
tiếp nhau mà sai phạm. Chứ chúng ta đâu có thấy sửa được đâu. Không thấy sửa
được thì Phật giáo làm sao còn và cái con đường tu không có giải thoát được vì
giới luật nó giúp ta ly dục ly ác pháp. Chớ còn nếu không, không thể nào ly dục
ly ác pháp được.
Đây là hết cái phần oai
nghi. Do đó, chúng ta chỉ có một phần nhỏ như vậy. Chứ còn thật sự ra, mà nói
ra cái oai nghi của một vị tu sĩ, một vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, sadi cũng như
sadini thì phải nói rất nhiều để chúng ta có phương pháp phòng hộ sáu căn, giữ
gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình nó không bị dính mắc sáu trần làm
cho tâm chúng ta được ly dục ly ác pháp. Làm cho tâm chúng ta được giải thoát nó
mới chính là giới luật của Phật. Chớ không phải là những cái oai nghi trong cái
vừa đọc rồi, nó chưa có đủ chút nào hết. Mà nhiều khi nó nêu lên những cái sai
phạm ở trong đó rất lớn nữa. Chứ chưa hẳn đã đúng trong cái giới các bộ kinh
của Phật.
7.
Thức xoa ma ni
Bây giờ, thầy giảng tiếp
để chúng ta hiểu thêm về cái phần thức xoa ma ni. Thức xoa ma ni là gì. Thức
xoa ma ni không phải là nữ cư sĩ, tịnh nhân ở tại chùa, công quả làm cái này
cái kia. Thức xoa ma ni là một sadini sắp sửa thọ cụ túc, nghĩa thọ tỳ kheo ni
á. Ở đây phải hiểu cư sĩ chia làm 4 thứ. Tại vì có người nhầm thức xoa ma ni là
cái người tịnh nhân, ở tại chùa làm công quả. Mà ở tại gia thì gọi là cận sự
nam, cận sự nữ. Nghĩa là họ còn ở nhà của họ hay đến chùa cúng dường hoặc là
lâu lâu họ đến họ phụ ở trong chùa thế này thế kia đó.
Thì những người cư sĩ
nam, cư sĩ nữ đố đó gọi là cận sự nam, cận sự nữ. Mà nam, nữ cư sĩ ở trụ tại
trong chùa, luôn luôn làm công quả này kia, coi như mình tập sự để sau này mình
thọ sadi á, thì những cư sĩ vậy gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ. Quý thầy phân
biệt được cho rõ. Cái người cư sĩ còn ở trong gia đình thì gọi là cận sự nam,
cận sự nữ. Mà cái người ở trong chùa tập sự, cái người tịnh nhân á, gọi là cận
trụ nam, cận trụ nữ.
Vì thể tính của nữ, để
tóc tu hành tại chùa thì gọi là cận trụ, cận trụ nữ. Họ chỉ là một trong
4 chúng cư sĩ để trau dồi, tu tập để cho chuyển qua cái lộ trình thứ hai, xuất
gia mà thôi. Nghĩa là cái người mà cận trụ nam, cận trụ nữ này, họ luôn ở trong
chùa. Coi đương nhiên là họ xuất gia rồi, nhưng mà vì tóc tai họ còn, họ chưa
có cạo, họ chưa có mặc y áo như quý thầy, như sadi. Họ chỉ còn mặc đồ đời,
nhưng mà họ tập sự để họ trau dồi thân tâm của họ, để họ thấy được thì họ mới
xin xuất gia. Còn họ thấy chưa được thì họ chưa có xin xuất gia.
Ở tu viện, không
cạo tóc, không đổi trang phục, họ vẫn mặc đồ cư sĩ đó, và sống và hành động
giới luật theo giáo pháp của Phật họ rất là nghiêm túc. Họ rất đáng được kính
phục và đáng được noi theo. Cái hạng cư sĩ mà cận trụ nam với cận trụ nữ họ giữ
gìn giới luật nghiêm túc hơn là các vị tỳ kheo chúng ta nữa. Họ giữ gìn giới
luật rất là nghiêm túc. Thí dụ như họ ở vậy, họ vô vậy mặc dù họ có quyền cất
giữ tiền bạc. Nhưng mà họ tập sự, họ không cất giữ tiền bạc. Họ chỉ làm công
quả trong chùa, coi như cho họ ăn là họ ăn chứ họ không cất giữ tiền bạc. Đó là
những người cận trụ nam, cận trụ nữ đó là những cái gương rất đáng cho chúng ta
kính phục.
Bởi vì hầu hết các thầy
tỳ kheo, tỳ kheo ni vẫn cất giữ tiền bạc. Vẫn ăn phi thời. Còn họ, họ không ăn
phi thời. Cũng như bây giờ chúng ta nhìn thấy á, như các thầy về đây hầu hết là
cận trụ nam á, rồi quý cô ở đằng trước là cận trụ nữ á chứ không phải tu
sĩ đâu. Chưa có xuất gia mà, chưa có đi qua cái lộ trình này. Nhưng mà ăn một
ngày một bữa nè, không cất giữ tiền bạc nè. Rồi sống không xem ca hát này, cái
quyền của các cư sĩ vẫn có cái quyền xem hát xem ca, thế mà vẫn sống đúng những
cái giới hạnh của một người tu sĩ. Thì cái này đáng phục chứ sao. Rất là đáng
phục những gương hạnh các cư sĩ mà các con về đây tu tập. Đó là cái chúng ta
đáng noi gương và đáng phục nữa.
Còn bây giờ, hiện giờ
chúng ta nhìn quý thầy, có bằng cấp, có bằng cận trụ nam, cận trụ nữ này không.
Không, bởi vì họ ăn phi thời, họ cất giữ tiền bạc này, họ lái xe họ chạy ào ào
nè, thì họ đâu có bằng những cận trụ nam, cận trụ nữ này. Những người này người
ta tập sự, người ta giữ gìn giới luật nghiêm túc như vậy á, thì người ta có cái
giá trị rất lớn. Và đồng thời,người ta thực hiện trên con đường tu tập á, thì
có người, giống như bây giờ chúng ta nhìn Minh Tông nè, có phải là 1 vị cư sĩ
đâu. Cũng vẫn còn tóc tai, cũng vẫn còn ăn mặc y phục như ngoài đời. Thế mà bây
giờ người ta đã tịnh chỉ được cái hơi thở người ta tu tập được những cái mà có
thể cái vị tu sĩ chúng ta chưa làm được.
Bắt đầu người ta đến tu
tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ của người ta. Còn bây giờ, tu sĩ chúng ta nằm
xuống ngáy pho pho rồi. Từ ông lớn đến ông nhỏ, làm sao sánh với một cái người
cận trụ nam này nổi. Và như vậy chúng ta phải thấy đáng kính phục những cái
người đó, rất là đáng kính phục.
Cho nên, nhìn thấy nó ở
ngoài chiếc áo, cái đầu của cái người tu tập. Cái người cận trụ nam, cận trụ
nữ, chúng ta thấy tuyệt hơn chúng ta nhiều. Khi đức Phật chấp nhận cho nữ giới
xuất gia, ngài chế ra bát kỉnh pháp, nhờ pháp này mà giáo đoàn tỳ ni ra đời.
Như vậy là nữ xuất gia chỉ y cứ vào bát kỉnh pháp mà thành tỳ kheo ni, không
trải qua sadini và cũng không có thức xoa ma ni. Nghĩa là trong cái thời đức
Phật, khi mà ông A nan xin Đức Phật mà chấp nhận cho ni rồi. Thì đức Phật chế
ra bát kỉnh pháp. Từ đó bên ni người ta lấy bát kỉnh pháp người ta làm cái chỗ
mà người ta quy hướng, người ta đi vào trong cái tỳ kheo ni. Chứ người ta không
có trải qua sadini hoặc là thức xoa. Người ta không có trải qua những cái cấp
bậc đó, mà ngay đó người ta là tỳ kheo ni liền tức khắc, lấy bát kỉnh pháp chớ
không phải lấy đức Phật.
Cho nên đức Phật không
có qui y cho bên ni, mà chính là bát kỉnh pháp đó đã qui y đã cho cái giới nữ
xuất gia là bát kỉnh pháp. Trong giới bổn, người xưa có nêu lên câu chuyện thế
này. Có một vị tỳ kheo ni, độ một người mới xuất gia không biết có mang thai.
Sau khi xuất gia thọ tỳ kheo rồi, thì bụng to ra và sanh em bé, khiến cho người
đời, người ta phỉ báng rằng tỳ kheo ni phạm giới dâm. Do đó, đức Phật mới chế
ra cái giai đoạn thức xoa ma ni.
Thiệt ra thì những cái
này theo Thầy nghĩ là kinh giới nó đặt ra. Chứ khi mà người ta muốn đi tu rồi
không lẽ nào người ta mang thai mà người ta vô chùa người ta xin làm tỳ kheo
ni? Không có có được, thầy nói không có có được đâu. Bởi vì ít ra người ta muốn
vàođể mà thành một vị tu sĩ, tỳ kheo ni như vậy mà người ta biết người ta mang
thai như vậy thì ai mà vô đó mà xin làm tỳ kheo ni như vậy. Cho nên đây cũng là
một câu chuyện bịa đặt mà ra để gài vô chỗ mà đức Phật chế ra thức xoa ma ni và
bắt cho bên ni, nó có một giai đoạn nữa. Chớ không được từ sadi mà lên cấp bậc
là tỳ kheo ni liền. Mà làm cho họ chậm trễ ra một chút nữa.
Cho họ không được đi vào
cái tỳ kheo ni mau hơn, bắt buộc họ như vậy, bằng cách là đặt điều như vậy. Chớ
thật sự ra Thầy thấy, nếu một người nữ mà mang thai thì có ai mà dám vô chùa
xin đi tu bao giờ. Chờ cho mình sanh nở rồi xong rồi giao con cho ai nuôi rồi
mới vô chùa tu chứ. Cái đó là một cái bịa mà thiệ ra mình thấy vô lý, hết sức
vô lý. Không lẽ vô đó rồi sinh con, rồi ẵm con nuôi. Một vị tỳ kheo ni mà giờ
ẵm con nuôi làm sao đây. Đó là những cái nó khó khăn, hơn nữa đi xin bữa đói
bữa no rồi làm sao mà nuôi con được, đó là những cái khó.
Mà ở đây nó vẽ ra câu
chuyện chúng ta thấy, một vị tỳ kheo ni mà như vậy. Thọ tỳ kheo rồi mà bây giờ
sanh đứa con ra rồi bây giờ ẵm rồi bao nhiêu ni đó xúm vào nuôi đứa nhỏ đó. Rồi
bắt đầu đây bao nhiêu cô này cứ nựng nịu đứa nhỏ này còn thứ gì tu hành. Bởi vì
bên ni thấy con nít nó khoái lắm. Cái bản chất của nó như vầy mà. Mà bà này
sanh con rồi thì coi như đứa nào cũng giành hết bởi vì nó đâu có con. Cho nên
nó giành. Từ đó, nó sai phạm hết không có đúng cách thức của một vị tu sĩ nữ.
Thức xoa ma ni chỉ hơn
sadini ở chỗ lục pháp, nghĩa là sadi với sadini chỉ có thập giới mà thôi. Mà
bây giờ thức xoa thì nó thêm cho cái lục pháp nữa để cho nó hơn sadi, sadini
một chút thôi. Nhưng mà sự thật ra nó cũng lấy từ trong cái thập giới của sadi
mà nó vẽ ra cho thêm chứ đâu khác gì hết. Và đồng thời, nó vẽ vời ra một cái ví
dụ như, đây, thầy đọc lục pháp để cho thấy đây:
Một, cùng với người nam
không được xúc chạm. Thì lẽ đương nhiên, trông thập giới có không có dâm dục,
không có dâm dục thì làm sao mà cùng với người nam xúc chạm. Thì cũng lấy từ
cái giới dâm mà nó ghi ra đây, thì cũng có gì khác đâu. Mà nói là lục pháp nó
hơn sadi đâu. Rồi, trộm của người từ 4 tiền trở xuống, cho đến 1 cây kim, cọng
cỏ. Trộm thì nó ở trong cái giới sadi nó cũng có trộm cắp rồi. Đây cũng là đặt
thêm thôi.
Ba, giết mạng súc sanh,
khiến cho nó chết. Thì đây là ở trong giới sát sanh sadi nó cũng có rồi. Ở đây
đặt ba cái giới này vô thì chúng ta cũng thấy nó nằm trong cái giới sadi rồi.
Rồi đây, bốn, tiểu vọng ngữ, nói trái lại điều mình thấy hay là mình biết tức
là nó là cái giới thứ tư của sadi là vọng ngữ. Mà giờ đặt ra tiểu vọng ngữ, thì
mình nói trái lại là vọng ngữ chứ gì, còn tiểu vọng ngữ hay đại vọng ngữ nữa.
Rồi, cái thứ 5 là ăn phi
thời. Thì ở trong cái giới sadi không có cho chú sadi ăn phi thời. Thì ở đây,
cũng nói là ăn phi thời có gì khác lạ không? Đặt cái gì không, Thầy thấy đâu có
cái mới đâu. Rồi cái điều thứ 6 thì uống rượu, thì Thầy thâyd ở trong ngũ giới
thì nó đã có cấm không có cho uống rượu, thì nó cũng có cái không uống rượu
rồi. Thì thập giới sadi nó cũng nằm ở trong này, mà còn vẽ vời ra thức xoa ma
ni nó hơn sadi và sadini là sáu cái pháp. Sáu cái pháp này thầy thấy nó cũng
nằm trong thập giới sadi hết, nó đâu có gì khác hơn hêt, nó đâu có mới
mẻ, đâu có hơn chỗ nào đâu.
Cho nên mấy ông tổ của
mình viết kinh nó đặt, rồi cái người sau cứ nhắm mắt nghe chứ hổng có so sánh.
Mà khi so sánh thì chúng ta mới thấy cái điều họ đặt ra, nó vô lý rất là vô lý.
Vậy thì giữ thập giới sadi nó cũng đủ rồi, cần gì phải nặn ra 6 cái pháp này
nữa. Gọi là lục pháp là gì. Cho nên tất cả những cái này là cái bịa của người
sau để làm thêm thắt cái này, cái nọ kia cho nó rườm rà, mà để ghép vào
cho có cái thức xoa ma ni này. Cho nó có cái giai đoạn của nó, cho nó hơn cái
giới luật kia một chút. Nhưng mà giới luật đó nó cũng nằm trong thập giới sadi
chứ có gì khác hơn hết.
Thức xoa phạm bốn giới
trước bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn, thì bốn cái giới trước này rõ ràng là bốn
cái Pháp tứ khí rồi chứ còn cái gì nữa. Cho nên không trục xuất ra khỏi tăng
đoàn thì còn cái gì nữa.
Lục pháp trong căn bản
thuyết, nhất thiết hữu bộ bí sô ni tỳ nại da không giống ở trên. Nghĩa là cái
này là cái bộ giới luật nào đó, nó không giống với bộ giới luật giới. Thầy xin
đọc lại cho quý thầy nghe lục
pháp của bộ nhất thiết hữu
bộ bí sô ni tỳ nại da này thì nó lại khác:
Một, không được đi đứng
một mình. Nghĩa là đây nó lấy ra cái oai nghi á, nó lấy cái oai nghi ra nó cho
rằng ở bên ni cái người mà giữ thức xoa thì không được đi một mình. Hai, không
được qua sông một mình. Ba là không được chạm vào thân người nam. Bốn, không
được ở chung với người nam. Năm, không được làm mai mối gả cưới. Sáu, không
được che giấu tỳ kheo ni phạm tội. Đó là sáu cái điều mà ở trong cái kinh giới
đó nó nêu lên. Mình thấy nghe nó có khác, nhưng mà sự thật ra thầy thấy nó đâu
có gì quan trọng. Đó là cái oai nghi, 100 giới chúng học thì nó đã có trong 100
giới tỳ kheo ni rồi. Mà bây giờ oai nghi của người sadi nó cũng có cái
này rồi.
Thay vì lấy giới của
sadi mà làm ra luật pháp của cái này thì nó bị nhầm rồi. Thầy đã bác rồi. Bây
giờ lấy oai nghi của sadi, sadini mà đem ra làm luật pháp này, thì đây là những
cái oai nghi chứ cái gì. Hồi nãy, thầy đọc oai nghi đó. Thì tất cả những cái
này nó thuộc về oai nghi rồi đó. Nó không thuộc về giới nhưng mà nó thuộc về
oai nghi rồi đó. Thì tất cả những cái này nó thuộc về cái oai nghi rồi. Thì như
vậy là cái bổn kinh giới này lấy thập giới mà nêu lên làm luật pháp. Còn cái
bổn kinh giới này lại lấy oai nghi của sadi mà làm cái luật pháp.Thì Thầy thấy
nếu mà chúng ta ngồi chúng ta so sánh chúng ta thấy. Thiệt là mấy cái ông này,
không biết chỗ nào mấy ông lựa. Mấy ông rút bên này, rút bên kia cũng lẫn lộn
có bây nhiêu đó thôi, cũng nằm ở trong sadi với sadini chứ gì. Không giới luật
của sadi với sadini thì cũng oai nghi của sadi với sadini chớ đâu có gì khác
hơn hết. Cho nên, những cái mà họ đặt ra Thầy thấy không ngoài thập giới mà gọi
là thức xoa hơn cái người sadi và sadini thì nó không có đúng.
Lục tỳ pháp. Một, không
được cầm vàng bạc thuộc về mình. Hai, không được cạo lông mặt, lông mày hoặc là
chỗ kín đáo. Ba, không được đào đất chỗ ẩm ướt có côn trùng. Bốn, không được cố
ý nhổ cỏ, chặt cây. Năm, không được tự mình lấy thức ăn, phải do người khác
đưa. Sáu, không được ăn đồ ăn thừa. Đó là 6 cái tỳ pháp này lại đặt ra ở trên
cái phần mà những cái oai nghi của cái vị sadi, sadini chứ không có cái gì khác
hơn hết.
Cho nên ở đây chúng ta
nghe thấy, các ngài chỉ đặt ra giới luật nó lòng vòng cũng chẳng qua từ giới
bổn,cái giới căn bản, rồi qua cái oai nghi chứ không có mới mẻ. Đặt ra
cho nhiều để thành ra những cái bộ kinh giới nó dầy cộm chứ nó không có nghĩa
lý gì sâu sắc hết.
Thức xoa được quyền ngủ
đồng phòng ba đêm. Nghĩa là thức xoa ngủ với người khác đó, thức xoa ngủ chung
với người sadi hoặc là tỳ kheo á, được ngủ đồng phòng. Mà thử hỏi trong giới
luật, đức Phật có cho sadini và tỳ kheo ni ngủ chung đồng phòng đâu. Ở đây thì
nó cho được quyền ngủ 3 đêm. Sadini cũng chỉ ngủ 3 đêm. Nghĩa là sadini cũng
được ngủ đồng phòng 3 đêm. Mà thức xoa cũng được ngủ 3 đêm. Chắc chắn là không
có cho ngủ đồng giường nhưng được ngủ đồng phòng.
Tăng có 4 ba la di. Tỳ
kheo ni có 8 ba la di. Tức là bên tăng mình có 4 cái giới mà đứt đầu á, còn bên
ni thì có 8 cái giới đứt đầu. 4 ba la di sau nghĩa là bên nữ cùng với người nam
có tâm ô nhiễm bất tịnh, đụng chạm nhau ở trong thân. Nghĩa là cái người tỳ
kheo ni hoặc là cái người sadini mà có sự đụng chạm thân người nam thì đương
nhiên là cái tội đứt đầu, cái tội trục xuất đó.
Hai là cùng với người
nam, có tâm nhiễm, nắm tay nắm chân, vào chỗ khuất cùng đứng, cùng ngồi, cùng
nói chuyện, cùng đi song song, cùng dựa thân vào nhau, cùng hẹn hò. Đó là cái
ba la di thứ hai của bên nữ. Làm những cái chuyện hẹn hò, nắm tay, nắm chân
nhau. Thì đó là phạm vào giới dâm hết.
Ba, biết tỳ kheo ni có
tội trọng mà che giấu, không nói cho người khác biết. Nghĩa là thấy cái vị tỳ
kheo ni đó nói chuyện với người tỳ kheo tăng hoặc là với người cận trụ nam, cận
trụ nữ, nói chuyện với nhau một mình. Mà thấy biết mà mình không nói á, thì tức
là tì kheo ni có tội trọng mà che giấu về cái vấn đề nam nữ á, thì mình
không có nói tức là mình cũng phạm vào cái tội ba la di đó.
Bốn, thuận tòng cúng
dường tỳ kheo, bị tăng cử tội, nghĩa là cái người tỳ kheo tăng bị cử tội mà cái
người tỳ kheo ni tìm cách để mà che giấu cái tội của tỳ kheo tăng đó thì đương
nhiên cái vị tỳ kheo ni đó phạm vào cái tội trục xuất đó. Đó là cái phần thứ 4.
Nếu phạm 19 tăng già bà thi xa trở xuống tăng kỳ bạch, luật tỳ kheo ni có 19 giới tăng tàn, tứ phần
luật chỉ có 17 điều. Tất cả làm pháp sám hối đột cát la. Nghĩa là tất cả các
tội mà nhẹ thì làm cái tội sám hối mà tội nặng thì có thể trục xuất, mà
trong 4 cái điều này thì coi như là bị trục xuất chứ không thể nào mà cái tội
sám hối được. Nghĩa là thay vì ở trên kia, tỳ kheo nó có 4 điều kiện trục xuất
thì ở đây đó, cộng thêm với 4 điều kiện của bên ni là 8 điều kiện. Mà bên ni nó
phải chịu trục xuất khỏi tăng đoàn.
Nếu 5 giới ăn phi thời,
ăn vặt thường nhặt vàng bạc và tiền, uống rượu đeo tràng hoa. Tùy theo
ngày phạm phải thọ và bắt đầu học lại. Nghĩa là ở đây, sau 5 cái giới của sadi
đó, mà nếu mà phạm thì bắt đầu họ phải thọ lại 5 cái giới đó lại. Rồi bắt đầu
họ phải học lại, buộc họ phải sám hối chớ không có cái người nào phá, như bây giờ mình ăn phi thời là bắt buộc phải sám hối nè, bắt
buộc họ phải thọ lại cái giới đó lại, chớ không được mà sám hối suông không
đâu. Mà phải thọ trở lại.
Mà họ nhận tiền bạc, họ
cất giữ á thì cũng bắt họ thọ lại, và bắt họ phải trả lại tiền bạc hoặc là họ
đeo trang hoa, họ xem ca hát thì tùy theo những cái chỗ phạm này, thì tất cả
những cái phạm này đều bắt họ phải thọ cái giới này trở lại hết. Theo trong
giới bổn thì nó bắt buộc như vậy.Chứ không phải đơn giản.
Nhưng mà theo Thầy thiết
nghĩ thì trong cái vấn đề này chúng ta phải hiểu vì 5 cái giới của sadi á, sau
này là giúp cho chúng ta ly dục ly bất thiện pháp. Không lý bây giờchúng ta vào
tu để chúng ta ly được cái tâm ham muốn của chúng ta để chúng ta được giải
thoát mà bây giờ chúng ta cứ giữ gìn nó như thế này thì chúng ta vô tu làm gì?
Cũng như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa, mà chúng ta ăn không được thì thôi
chúng ta vô tu làm gì? Thôi, chúng ta ra đời đi, sống như mọi người. Bởi vì đó
là một cái pháp, cái giới luật đó để ly dục, ly bất thiện pháp mà. Cho nên,
chúng ta xét thấy không cần phải thọ lại. Mà thọ rồi chúng ta vẫn phạm như
thường thì thọ làm gì. Mà bắt sám hối làm gì, sám hối rồi cũng như không thì
sám hối làm gì.
Hơn nữa, thì càng ngày
nó càng phạm những cái sai hơn nữa là chúng ta lại lén ăn phi thời. Bởi vì bây
giờ người ta bắt được, thì mình lại vi tế hơn. Muốn ăn phi thời thì mình phải
lén ăn thế nào để cho người ta không thấy. Do đó càng tội lỗi hơn nữa. Thà là
mình thấy mình không sống ly dục được, ly ác pháp được thì mình nên trở về với
chiếc áo cư sĩ của mình. Sống với đời sống thiện pháp là tốt hơn. Đừng có theo
5 cái giới này mà làm cho Phật Pháp nó suy đồi. Và chúng ta cũng chẳng được
giải thoát gì.
Cho nên, nhìn vào trong
5 cái giới của sadi á, mà chúng ta thấy. Hầu hết là hiện giờ tu sĩ của chúng ta
không có giữ trọn được hết. Cho nên, theo Thầy thiết nghĩ thì những người này
họ nên ra đời hơn là họ ở trong chiếc áo tu sĩ. Bởi vì họ chẳng ly dục được thì
làm sao họ có giải thoát. Mà họ cứ ở trong chiếc áo này mà sống trong dục thì
ngàn đời họ cũng như vậy thôi. Mang tiếng là tu sĩ chứ họ không có gì khác hơn
hết, tâm niệm của họ cũng y như ngoài đời.
Pháp sám hối, của tội
đột kiết la. Tội đột kiết la gồm có 2 thứ. Một là cố ý phạm. Hai là vô ý phạm.
Pháp sám hối cũng có 2 thứ, một là đối trước 1 vị đại đức mà mà sám hối tức là
phát lồ ra mà sám hối. Hai là tự hối trước tâm sám hối của mình. Người
sám hối phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh, hướng về một vị đại đức, 1 vị thượng
tọa, 1 vị hòa thượng. Quỳ gối chắp tay bạch như vầy: đại đức Ức Niệm, con là
sadi gì đó, con phạm tội đột cát la, nay hướng về đại đức phát lồ sám hối, xin
đại đức Ức Niệm xót thương. Đó là mình phát ra mình nói những cái lời xin sám
hối những cái tội trạng của mình để cho cái người đó nghe. Nghe rồi thì mình cố
gắng mình đừng có phạm những cái lỗi đó nữa.
Đại đức thọ sám hối liền
nói, tự trách lấy tâm ngươi. Nghĩa là khi mà mình phát lồ ra thì cái người nghe
cái lời xin mà nhận sám hối á thì cái người đó nói rằng mình phải tự trách lấy
tâm mình để cho mình sửa. Chớ còn xin sám hối mà rồi mình không tự sửa thì sám hối
nó không có nghĩa gì. Thì cái người mà sám hối đó thì lại xin vâng lên: “Con
xin vâng lời”. Nghĩa là tự trách mình để cho mình không còn tái phạm nữa.
Tự trách sám hối tùy lúc
phạm liền hối lỗi. Nghĩa là lúc bấy giờ đó mà nó có 2 phần sám hối. Phần thứ nhứt
á, mình đến với một cái vị thầy, mình trình qua cái tội lỗi của mình rồi mình
xin sám hối. Thì mình phải tự tâm của mình sám hối, chứ không thể nào mà nói
với vị thầy đó mà sám hối hết tội của mình được. Còn cái tự trách sám hối á thì
khi mình làm cái lỗi đó, ví dụ như bây giờ mình lỡ mình uống một cái ly nước
ngọt phi thời rồi, thì bắt đầu mình có sửa lại cái này thì mình phải sám hối
rồi mình sửa.
Mình thấy đó là xấu hổ
cho nên mình tự suy nghĩ ở trong đầu của mình. Cái việc làm này nó không phải
đúng là của một người tu sĩ rồi. Từ nay về sau ta phải sửa. Ta không có phạm
nữa. Do cái đó là tự sám hối. Còn cái kia là phát lồ sám hối với một vị thầy.
Thức xoa ma ni trừ việc
phạm lục pháp có cách xử lý riêng, còn ngoài ra phạm các điều khác cũng chỉ có
một tội đột cát la. Phương cách sám hối đồng với phương pháp sadi và sadini.
Nghĩa là sám hối như hồi nãy Thầy nói có hai phần sám hối đó. Thì cái sám hối
thứ nhứt là mình đến với bậc thầy mình phát lồ ra sám hối. Cái thứ hai là mình
tự trách cái lỗi của mình rồi mình bỏ mình không làm nữa. Không cần phải phát
lồ với ai hết. Đó là tự trách sám hối.
8.
Về giới bổn patimoka
Về giới bổn patimoka,
hôm nay thì thầy muốn nói như thế này, bởi vì về giới thì nó rất là nhiều mà
cái thời gian chúng ta còn quá ít, cho nên Thầy muốn đại khái để mà chúng ta
không có dài dòng nhiều. Để chúng ta hiểu qua cái giới bổn cho nó nhanh chóng
và đồng thời thì cái cần thiết cho cái đời sống tu hành của chúng ta là cái
giới hành. Bước sang qua cái giới hành là rất là quan trọng, vì vậy mà chúng ta
còn cái thời gian rất ngắn cho nên chúng ta dành cái thời gian đó để mà thầy
giảng hết cái giới hành. Để cho quý thầy khi mà rời khỏi đây, quý thầy nắm được
cái giới hành mà về tu tập thì cái điều đó là điều quan trọng.
Còn cái giới bổn thì
chẳng qua nó bổ túc thêm những cái oai nghi tế hạnh của cái giới hạnh của chúng
ta mà thôi. Cho nên, chúng ta học để hiểu và đồng thời chúng ta biết được những
cái sai của các kinh giới mà các bậc tôn túc về tổ viết về các bộ kinh giới đều
là sai, thì chúng ta biết để mà chúng ta không có nhẩm theo các bộ kinh giới
đó. Chúng ta nên lấy những cái kinh giới ở trong kinh điển nguyên thủy của
Phật. Ở trong kinh A hàm của Phật mà làm cái gốc giới để mà chúng ta tu tập.
Chớ không phải chúng ta lấy kinh giới của các ngài, các giới bổn đó, mà
làm cái chỗ mà làm thầy chúng ta.
Cho nên, ở đây cần thiết
là chúng ta chỉ hiểu mà thôi. Để biết được cái sai, cái đúng của giới bổn của
đạo Phật hiện giờ là hầu như các tổ về giới luật đều là viết nó theo cái ý muốn
của mình hơn là dựa vào cái ý của Phật mà viết ra. Cho nên do vì vậy đó mà
chúng ta hiểu thôi. Rồi chúng ta lấy những cái oai nghi chánh hạnh của nó, cái
nào đúng để chúng ta bổ túc cho cái phần mà giới hạnh của chúng ta. Còn về cái
phần mà giới hạnh mà chúng ta tu tập á. Đây là những cái pháp đúng để chúng ta
ly dục ly bất thiện pháp. Và từ đó, chúng ta nhờ cái giới hành đó chúng ta thực
hiện cái đời sống của chúng ta thì chúng ta mới có ly dục, ly bất thiện pháp.
Chúng ta mới nhập thiền, chúng ta mới có trí tuệ siêu việt.
Giới bổn tỳ kheo và tỳ
kheo ni, giới là đại giới trọng yếu trong Phật giới. Giới hạnh rất phong phú,
nhìn từ góc độ trụ thế trong Phật pháp. Tỳ kheo và tỳ kheo ni giới giải thoát
còn ngoài ra giải thoát giới này rất là trọng yếu trong sự trợ giúp về giới
hành. Nghĩa là trong cái giới bổn nó trợ giúp cho chúng ta chỉ hiểu nó để mà
chúng ta tập luyện những cái oai nghi của chúng ta cho đúng cách. Để cho nó trợ
giúp cho cái giới hành của chúng ta là ly dục, ly bất thiện pháp. Một cách rất
là quan trọng trong cái việc mà hành trì giới, định, tuệ của Phật.
Vì giới này rất trọng
yếu và trợ giúp cho giới hành, ly dục, ly bất thiện pháp rất quan trọng trong
việc hành trì giới định, tuệ. Tức là chúng ta trở về tam vô lậu học đó thì
chúng ta mới thấy cái giới bổn nó chỉ là trợ giúp cho cái oai nghi của cái giới
hạnh, mà nó giúp cho cái giới hành của chúng ta tu tập để chúng ta ly dục ly
bất thiện pháp.
Trong đại tạng kinh hán
tạng dịch, có quãng bảng đại luật của tỳ kheo và tỳ kheo ni giới. Có 4 hoặc là
5 trăm quyển, đó là chưa kể đến phần chú sớ, trứ thuật của lịch đại tổ sư về
giới. Nghĩa là trong cái tạng kinh giới nó quá nhiều đó, chớ không phải là ít,
không có thể ai mà đọc hết được. Vì các ngài đặt ra đủ thứ đủ loại trong đó,
rồi lặp đi lặp lại trùng hợp với nhau đủ cách ở trong đó.
Cũng như hồi nãy Thầy
thấy, từ cái giới sadi không mà họ đặt ra lục pháp này lục pháp kia rồi lấy oai
nghi cũng đặt ra thế này thế kia. Để thành ra những cái giới bằng cách này bằng
khác. Nó làm tùm lum đủ thứ hết mà không có cái điểm chính của nó để mà được
giải thoát. Xét qua cái bộ luật, sư Thánh Nghiêm nói “Thật tâm mà nói, chính
tôi cũng chưa thật xứng đáng là một tỳ kheo của tỳ kheo giới. Thậm chí tôi cũng
không phải là một sadi đúng như pháp. Tôi chỉ là một ưu bà tắc hiện tướng xuất
gia mà thôi.” Đó thì giới sư Thánh Nghiêm, khi ông viết đến đây thì ông mới
thấy được rõ ràng, là chính ông chưa phải là một vị tỳ kheo giới rồi. Nghĩa là
chưa phải là 1 vị tỳ kheo của tỳ kheo giới rồi.
Thậm chí ông còn nói
rằng, ông chưa có phải là một sadi mà đúng như pháp nữa. Nghĩa là ông thấy cái
cách thức sống ăn ngày 2, 3 bữa rồi sống trong cái ngôi nhà sang cả như
vậy thì làm sao mà giới luật của ông nghiêm chỉnh được. Cho nên ông nói, ông
chỉ là một ưu bà tắc hiện tướng của xuất gia. Nghĩa là mặc y áo của người xuất
gia chứ ông là một ưu bà tắc mà thôi. Thiệt ra Thầy thấy ông cả gan mà dám tự
nhận mình như vậy là một cái người cũng phải có cái sự nghiên cứu ở trong kinh
sách này. Và chính vì đso mà ông Thánh Nghiêm, ông viết cái cuốn giới luật cương
yếu này á, do cái sự nghiên cứu của ổng, ổng mới viết ra cái cuốn luật này, và
đồng thời ông cũng tự phê bình mình một cách rất là xứng đáng.Tự nói lên những
cái điều mà mình nhận xét qua cái giới luật của mình chưa có xứng đáng là một
vị tỳ kheo.” Dẫu cho muốn thực hành đúng như luật cũng khó khăn biết bao, vì
thế nội dung của thiên này tôi vẫn không cổ động độc giả chưa đầy đủ tỳ kheo và
tỳ kheo ni giới đọc. Nhưng đương nhiên tôi cũng không kịch liệt phản đối.”
Nghĩa là cái ông giới sư Thánh Nghiêm này ổng cũng không phản đối, mà ông cũng
không khuyến khích chúng ta đọc giới. Vì khuyến khích chúng ta đọc giới, thì
chúng ta thấy những cái tỳ vết những cái xấu xa của chúng ta quá đầy đủ, Không
có chỗ nào chúng ta không phạm. Mà ông cũng không có phản đối về vấn đề mà mình
đọc hay không đọc, ông cũng rộng rãi chỗ đó. Còn các tổ của mình á, thì cấm
đoán thôi, không có cho đọc. Còn cái ông này khi mà nghiên cứu giới rồi thì ông
đã suy ngẫm được, ông đã thấy được, trong cái thời đại của chúng ta có những bậc
mà giới sư họ cũng đã thấy được cái chỗ sai, chỗ đúng cho nên sư Thánh Nghiêm
ông có cái lời nói Thầy thấyi rất là chí lí lắm. Ông hiểu mình, hiểu giới luật
được. Nhưng mà ông hổng dám động, coi như ông hổng dám nói là các tổ sai đâu,
ông hổng dám nói là các tổ thêm bớt cái gì. Hổng dám nói.
Nhưng mà ông nói như
vậy, chúng ta đã biết ông đã hiểu được tất cả các giới bổn đúng sai ông đã hiểu
hết rồi. Nhưng mà ông hổng dám động các tổ.
Nguyên khởi của tỳ kheo
và tỳ kheo ni. Một vì sao gọi là tỳ kheo và tỳ kheo ni? Tỳ kheo là dịch âm của
phạn văn là bitxe, ý nghĩa chủ yếu của nó là khất sĩ. Trên thì theo Như Lai
khất, cầu Phật Pháp, để dưỡng dục huệ mạng của pháp thân. Dưới thì hướng về thế
gian, xin cầu cơm áo để nuôi sống sinh mạng của mình, của xác thân. Vì thế gọi
là khất sĩ. Ngoài ra còn các nghĩa phụ, bố ma, phá ác, tinh mạng, tịnh trì
giới. Nhân vì xuất gia học Phật làm tỳ kheo là muốn liễu sanh thoát tử, không
còn bị sự quấy nhiễm và chi phối của ma nghiệp, cùng ma cảnh, ma vương, bớt đi
ma vân để lợi dụng và chi phối. Cho nên ma cảm thấy sợ hãi vì thế gọi là bố ma.
Nghĩa là tỳ kheo đó phải
hiểu là còn có danh từ gọi là bố ma. Chữ tỳ kheo thì gọi là khất sĩ. Trên thì
xin pháp, cầu pháp, dưới thì xin cơm để ăn, sống, để tu hành gọi là khất sĩ.
Nhưng nó còn cái nghĩa bố ma. Bố ma có nghĩa là làm cho tất cả những cái sự sợ
hãi của ma chướng, ma nghiệp nó không còn khuấy động mình nữa. Gọi là bố ma.
Tỳ kheo trì giới khai
phá được phiền não ác nghiệp, ly dục ly ác pháp vì thế gọi là phá ma. Thì cái
vị tỳ kheo đso thì nó còn cái tên là phá ma. Nếu mình không gọi tỳ kheo thì
mình gọi là vị tu sĩ phá ma. Thì nó cũng là tỳ kheo. Hay hoặc là cái vị tỳ kheo
bố ma, hay hoặc là vị tu sĩ bố ma, hay hoặc là vị tu sĩ phá ma. Tỳ kheo không
làm các nghề buôn bán trồng trọt, thợ thuyền mưu sinh mà chỉ thanh tịnh khất
thực để tự sống. Vì thế mà gọi là tịnh mạng hay là tinh mạng, ở trong cái chỗ
đó nếu mà nói về tỳ kheo thì nói là tịnh mạng thì thay vì mình gọi là vị tỳ
kheo thì mình gọi cái vị tu sĩ đó là tịnh mạng. Tỳ kheo đem cả hình tướng thọ
mạng của mình của suốt cuộc đời mình mà kiên trì giới luật thanh tịnh làm
gương hạnh buông xả ly dục ly ác pháp vì thế gọi là tịnh trì giới.
Tỳ kheo còn có cái tên
tịnh trì giới. dịch âm còn gọi là bí xô. Dịch âm của nó là bí xô hay là bố xô.
Người xưa dịch âm là bí xô còn người nay gọi là tỳ kheo. Người ngày xưa người
ta gọi tỳ kheo là bí xô, còn người nay gọi là tỳ kheo. Tỳ kheo ni là dịch âm
của phạn văn, bí xô ni. Ý nghĩa của nó cũng tương đồng với tỳ kheo, chỉ dùng
chữ ni biểu tượng cho nữ tánh mà thôi. Phật giáo nói ba đời chư Phật đều có 7
hoặc 9 chúng đệ tử, tăng, tục, nam, nữ. Tỳ kheo, tỳ kheo ni đứng trong 7 chúng.
Đây là 2 bậc cốt cán trong đạo Phật. Thời đức Phật còn tại thế hoạt động của
Phật giáo lấy đức Phật làm trung tâm.
Sau khi Phật diệt độ,
thay vì 7 chúng, hoạt động của Phật giáo lấy giới luật làm trung tâm, họ lại
lấy những người xuất gia làm trung tâm, do thế Phật giáo càng lúc càng suy
thoái. Người tu sĩ giữ gìn giới luật không còn nghiêm chỉnh chỉ có người tu mà
không có chất lượng tu.
Đó thì bởi vì khi mà đức
Phật còn tại thế, thì tất cả các vị tỳ kheo, những người tu sĩ lấy Phật mà làm
trung tâm của mình. Sau khi mà Phật diệt độ rồi, thay vì Phật di chúc,
thì lấy cái giới luật của Phật làm trung tâm tu tập của mình thì hiện giờ thì
người ta không có lấy giới luật mà làm trung tâm mà người ta lấy 7 cái chúng
này người ta làm trung tâm người ta tu hành. Cho nên từ cái lấy bảy cái chúng
này á, do đó tỳ kheo, tỳ kheo ni. Rồi sa di, sa di ni. Rồi cư sĩ, cư sĩ nam, cư
sĩ nữ đó. Bảy cái chúng đó, họ lấy bảy cái chúng đó mà họ làm cái tăng đoàn của
họ. Họ lấy chúng tăng đó để họ làm cái chỗ trung tâm tu tập của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét