Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Băng số 40

 90 GIỚI ĐỌA ( TIẾP)
Mặt A
Trước khi nghe băng Thầy giảng trong cái buổi sáng hôm qua thì các con nghe Thầy nói một vài vấn đề rất là quan trọng trong cái sự tu hành của Đạo Phật. Bởi vì cái quan trọng của Đạo Phật là vốn chúng ta khi bước chân vào Đạo Phật thì chúng ta phải chọn cái bậc Thầy của mình. Cái bậcThầy của mình là cái bậc Giới Hạnh, mà Giới Hạnh của cái người mà đầu tiên bước vào cái con đường tu tập theo Đạo Phật á là thọ Thập Giới Sa Di. Các quý thầy ai cũng biết thọ Thập Giới Sa Di hết chứ? Cho nên cái hình ảnh một vị Tăng mà ăn ngày một bữa là trong cái Thập Giới Sa Di nó đã có rồi. Mà hiện bây giờ thì hầu hết là quý vị mà theo tu hành theo Đạo Phật đó, thì cứ nhắm cái chùa nào mà có phật tử đông theo quy y á, chứ không nhắm cái ông thầy, xem coi ông thầy mình đức hạnh về cái ăn với cái ngủ của ông có xứng đáng chưa? Rồi về cách mà sống của ông như nhà cửa, chùa chiền của ông có sống đúng không. Bởi vì, năm cái giới của người Sa Di mà cái Giới Hạnh thì không có nằm ở trên giường cao rộng lớn, rồi không có ở trong những nhà cao rộng lớn nữa. Mà tất cả những cái đồ đạc cũng không có nữa. Đó là cái Hạnh của cái người Sa Di chứ chưa phải là người Tỳ Kheo đâu. Thế mà họ là bậc thầy của chúng ta, họ là bậc Tỳ Kheo rồi, thế mà họ không sống đúng cái Hạnh của người Sa Di á, thì đó là mười cái Giới đầu tiên cho cái nẻo, cái lộ trình mà cái người xuất gia bắt đầu.
Nghĩa là Thầy dạy cho các con khi mà chúng ta mà thọ Tam quy á, thọ ba cái Giới đầu tiên là Phật, Pháp, Tăng đó, là của người cư sĩ chứ không phải là người tu sĩ thọ cái đó đâu. Rồi thọ Ngũ giới cũng là người cư sĩ chứ không phải là người tu sĩ đâu, phải không? Ai cũng thấy điều kiện đó hết. Rồi tới mà thọ Thập Thiện, mười cái Điều Lành đó thì cũng là người cư sĩ chứ đâu phải là người tu sĩ đâu.
Đó, do vì vậy mà chúng ta thấy từ cái bước đầu á, cái lộ trình thứ nhất mà Thầy đã vạch ra trong cái giáo án này thì các con đã thấy rõ cái người cư sĩ phải ở trong cái Giới Pháp nào của Đạo Phật. Mà thấy cái đầu tiên mà vô mà thấy cái người cư sĩ mà nói là tín đồ của Đạo Phật mà còn bán phở, bán cháo lòng, hoặc bán bánh canh thì qúy vị có nghĩ đó là người cư sĩ của Đạo Phật không? Bởi vì Phật đã cấm sáu cái nghề không được làm mà, phải không? Nếu mà chấp nhận làm cư sĩ là đệ tử của Phật thì sáu cái nghề đó không được làm. Nghề bán thịt có cấm không, nghề săn bắn, nghề chài lưới có không? Mà giờ cái ông này chài lưới ông cũng xưng ông là Phật tử nữa à. Rồi cái ông bán thịt ở ngoài chợ mà bán thịt mà cắt ký ký bán người ta ông cũng xưng ông là Phật tử nữa, ông cũng tu hành theo Phật được, ông là cư sĩ nữa. Rồi cái người mà bán phở, cháo lòng ngoài chợ họ cũng xưng họ là cư sĩ nữa, đệ tử cư sĩ nữa. Thì cái đó có đúng không?
Rồi bây giờ bắt đầu qua cái nẻo thứ hai thì chúng ta thấy cái lộ trình của người tu sĩ  thì nói Thập Giới Sa Di là bắt đầu, phải không? Thì chúng ta muốn mà được trở thành người tu sĩ thì ít ra chúng ta cũng phải thọ Tam quy này, rồi Ngũ giới này, rồi Thập thiện này, rồi bây giờ mới bắt đầu qua thọ Thập Giới Sa Di chứ. Thì như vậy là cái hành động sống của chúng ta nó sống có giống người thế gian nữa không? Nội Thập Giới Sa Di không chúng ta đã thấy rồi, vậy mà chúng ta nhắm mắt, đui mù không thấy bậc thầy của mình là người nào hết. Chỉ thấy cái bộ áo bệ vệ của ông ta đắp y rồi dữ tợn đội mão từa lưa vô, mang hia mai hia như vua chúa thì coi như là thầy mình rồi, phải không? Tập trung năm mười ông ngồi hàng hàng vậy rồi bắt đầu tổ Giới Đoàn ra cái bắt đầu cho mình thọ Sa Di chứ gì, thọ Tỳ Kheo chứ gì? Mê lắm, làm được như mấy ông đó cũng đội mão từa lưa lên làm vậy là ngon rồi chứ gì? Nhưng mà không ngờ là cái hành động sống của ông ta có phải là đúng là những bậc chân nhân không? Đâu có phải bậc chân nhân, đâu phải bậc Thánh. Ăn uống như phàm phu, ngày ba bốn bữa mà còn dối trá che đậy nữa, dối trá che đậy làm sao?  Các thầy thấy không, ăn sáng họ còn bày đặt nói tiểu thực. Ăn thì ăn chứ còn tiểu thực, tiểu cái gì, ăn cứ nuốt đầy bụng chứ Thầy có thấy ông nào mà nuốt nửa bụng bao giờ đâu mà gọi là tiểu, tiểu với đại phải không? Chiều thì ông nào cũng quất một tô bột lớn vậy đó, cái bụng phình ra như cái trống chầu ấy mà hô là uống bột chứ không có ăn. Có không?
Thầy nói đụng chạm hết cả đám hết. Nhưng mà sự thật phải nói để thấy biết. Một người Sa Di, Phật nói ăn một bữa ăn còn không có ăn nhiều. Bởi vì ăn là nó giúp cho chúng ta sinh ra cái dục mà cái dục tức là con đường sinh tử. Mà Đạo Phật là chấm dứt con đường sinh tử. Chúng ta ăn ít nó mới sinh ít dục. Còn ăn nhiều nó sinh dục. Mà ăn bữa người ta còn không dám ăn nhiều, còn mấy ông ăn ba bữa mà mấy ông còn bày đặt che đậy, người ta nói sáng tôi tiểu thực chứ tôi không có ăn đầy bụng. Mà thấy ông nào cũng quất no hết chứ có ông nào mà. Bởi vì Thầy cũng ăn tiểu thực chứ, Thầy biết chứ. Cũng no cành hông, đi hết muốn nổi làm sao Thầy không biết. Thầy đã từng sống Thầy không biết sao? Chiều uống chừng chén bột vậy không có uống đâu, quất một tô vậy nó mới vừa. Có không? Ít ít thì đâu chịu. Còn thêm đường, thêm sữa đồ trong nữa cho nó bổ. Trong vòng ba tháng hạ thôi, ông nào thấy cũng đi hết muốn nổi. Còn hồi ở chùa mình thì thôi muốn ốm tong, ốm teo. Có không? Bởi vậy! Chọn cái ông thầy như vậy cho nên ở đây á.
Ở đây có một bài kinh. Sau này thì đây là những cái bài mà Thầy sẽ giảng ở trong cái Giới Hành, nó thuộc về Giới Hành rồi, nhưng mà bây giờ chúng ta chưa học Giới Bổn xong. Bởi vì, bây giờ là bắt đầu chúng ta mới học Tam Quy, Ngũ Giới chưa rồi mà làm sao học tới Giới Bổn được phải không? Cho nên khi mà tới Giới Bổn xong rồi thì mới tới Giới Hành. Nhưng mà ở đây Thầy cũng nhắc nhở cho các con thấy rằng trong cái con đường tu hành của Đạo Phật cái gì chúng ta cũng phải có con mắt rõ ràng là chọn những bậc Thánh, những bậc Chơn Nhân làm Thầy của mình chứ. Đâu có đụng ai cũng làm thầy mình được. Làm thầy của mình, ông thầy có vợ con, mình sống chung riết với ổng rồi cũng có vợ con à? Ông thầy của mình họ sống bừa bãi như thế nào đó, riết rồi mình cũng vậy thôi. Bởi vì cái đó là cái ảnh hưởng xấu mà mình không thấy được rồi mình cứ nói: ờ ông tu vậy mà còn vậy thì mình sao, thôi mình cũng vậy được rồi, hay là hoặc mình khá khá hơn ổng chút là cũng ngon rồi. Không ngờ là dẫn nhau cả đám đi tầm bậy hết à. Cho nên vì vậy đó, tất cả những cái này là cái khó.
Các con cứ nhìn thấy đi Phật Giáo Cam-Pu-Chia chứ gì hoặc Phật Giáo Nam Tông chứ gì. Người ta nói Phật Giáo là Quốc Giáo của các nước đó chứ gì? Có đúng không? Các con thấy không? Ăn thịt đống đống mà Quốc giáo. Đem mà chôn sống mấy ông sư đó hết chứ quốc giáo. Phải không? Các con thấy không? Thầy muốn nói như thế nào? Đạo Phật là đạo thiện mà tại sao quốc giáo mỗi người dân của nước đó khi lớn lên phải được vào học ba năm tu ở trong cái chùa, có phải không? Thanh niên là phải đi học hết, đi vô tu hết. Thậm chí ông vua cũng phải vô tu nữa. Thế mà các con thấy không? Họ diệt chủng như thế nào? Cam-Pu-Chia diệt chủng như thế nào? Cái người mà tu theo đạo Phật ấy con kiến còn không dám giết vậy mà con người của nó, dân tộc của nó nó giết cả đống như vậy thử hỏi nó tu theo Phật cái gì đó? Phật của nó là gì? Ác quỷ hay là cái gì? Phải không? Rồi nó giết đồng bào Việt Nam của mình, nó thả trôi sông Cửu Long này, trôi bồng bềnh ở dưới sông Tiền Giang, Hậu Giang này. Có không? Thầy có một ông bác cũng ở gần biên giới Cao Miên, nói chung là ở trong đất Miên chứ không phải ở biên giới gì hết, ông ở trong đất Miên ấy. Tới chừng đó cắp vườn nó chạy không còn xách một cái gì ra nữa hết. Mà con cái đồ chạy không khỏi chặt chết hết, chạy có mình ra khỏi đó thôi.
Đó thì các con thấy mà người ta nói người ta quốc giáo được những cái chùa như là Đế Thiên, Đế Thích, những cái chùa mà ở trên Cam Pu Chia chúng ta thấy vĩ đại. Biết bao nhiêu là mồ hôi, nước mắt, tiền bạc của dân tộc đó đổ vào đó để xây dựng những cái ngôi chùa vĩ đại như vậy. Quốc giáo mà, cái chùa lớn lắm mà. Phải không? Các con thấy không? Nhưng mà cái đạo đức họ có không? Họ giết người không gớm tay. Chính họ diệt chủng họ, họ giết dân họ. Nếu không có quân đội Việt Nam lên trên đó can dự vào thì chắc chắn là ba cái ông cộng sản đỏ giết sạch hết không còn, phải không? Các con thấy không? Còn cái gì không? Vậy mà là Phật Giáo.
Đó thì chúng ta thấy cái chỗ mà nó ăn thịt chúng sanh nó phải hung dữ chứ. Còn Phật Giáo của mình, Đại Thừa chứ coi vậy chứ ăn rau cải chứ nó cũng hiền. Nó tu thiền Đông Độ rồi bậy bạ, nó không có phải là quốc giáo, nó không phải là Nguyên Thủy thật nhưng mà nó không đến nỗi là giết người quá. Trong chiến tranh của chúng ta biết bao nhiêu người Việt bị chết. Biết bao nhiêu là những gia đình mà chúng ta hiện giờ, nhắc lại thì con em của chúng ta đã đổ xương, đổ máu trên quả đất này là vì người ta không có biết Đạo Phật. Nhưng mà Đạo Phật Phật Giáo Đại Thừa không có dạy dân tộc Việt Nam chúng ta đi xâm chiếm đất nước người ta mà giết người như vậy. Các con thấy không. Có không? Cho nên thấy nó cũng đỡ chứ, nó đâu có đến nỗi mà quá tệ.
Còn mình thuộc về quốc giáo mà, quốc giáo nguyên thủy gốc của Đạo Phật nữa. Kinh điển thì kinh điển nguyên thủy nữa mà là không hiểu cái thứ gì hết à. Mà người dân bắt buộc phải là lớn lên mười tám tuổi là phải vô chùa, ba năm tu rồi sau đó muốn tu thì ở luôn mà không muốn tu thì ra đời. Thì ra đời cũng còn mang cái thiện pháp chứ ra đời lại mang cái ác pháp vậy, vác cái rựa ra chém người ta đứt đầu mà không thương chút nào hết. Đó là họ học Giáo Pháp của Phật, họ học Luật của Phật bằng cách nó khô như pháp luật đó. Cho nên vì vậy mà họ ra họ bực quá trời, từ hồi tôi vô trong đó khép ngày ăn một bữa đi xin cực quá, tôi ra tôi chém đầu tôi lấy của tôi ăn có sướng không? Các con thấy không? Phật Giáo mà giáo dục người ta như vậy. Thì như vậy là Chánh Giáo hay là Tà Giáo. Dù bây giờ nói là Phật gì đi nữa Thầy cũng xem đó là Tà Giáo chứ. Bởi vậy Thầy quét sạch ba cái thứ này ra hết. Thà là Thầy như thế nào mặc Thầy, Thầy không quan trọng, ai nói gì nói mặc nhưng mà những người nào phá Phật Pháp thì Thầy đã quét ra hết. Giới Luật của Phật là cái pháp Thiện không phải là các pháp Ác, không thể giết người được. Tứ Vô Lượng Tâm là bốn cái Tâm Vô Lượng của người ta rộng lớn, phủ trùm tất cả chúng sanh thì tại sao không làm được những điều đó.
Cho nên các con thấy không? Trong cái số của chúng ta học tập đây, ai là người có duyên đủ học các Pháp Thiện? Bắt đầu nghe cái Giáo Án thì ai cũng thấy hay hết phải không? Nhưng mà lần lượt các con thấy họ có đủ phước họ ở đây học với chúng ta không? Nó xảy ra đủ việc để cho họ phải dứt đi thôi. Thầy tiếc nhất là thằng Đạt, quá tệ. Một cái người mà đã có công ở đây rất nhiều, giúp cô Út rất nhiều, thế mà rất là tối tăm ngu si, không thấy gì hết. Ít ra các con cũng phải học cho tới tận cùng các con mới biết được cái chỗ nào mà bắt đầu. Chứ từ nào tới giờ Thầy chưa có dám bắt đầu chỗ nào của Phật Pháp. Tại sao không có dám bắt đầu? Bởi vì người ta tu sai hết, bắt đầu người ta không có tin mình. Tại sao vậy? Tại sao Thầy biết là người ta không tin Thầy, Thầy biết rất rõ. Là tại vì lúc bây giờ đó, thì các con thấy, nghĩa là người ta có những cái kiến chấp, chẳng hạn là như mấy con học Thiền Tông chứ gì, các con kiến chấp Phật Tánh. Rồi mấy con học cái Tịnh Độ Tông chứ gì, mấy con niệm Phật, mấy con chấp là có cõi Cực Lạc rồi. Bây giờ Thầy bắt buộc các con phải tu lại những cái gì mà của Đạo Phật các con không tin Thầy đâu. Chắc chắn các con không có làm được. Các con sẽ làm theo các con. Bởi vậy Đức Phật nó là cái kiến chấp của người ta, người ta chấp chặt rồi, mình không làm sao mà cho người ta phá được hết. Chỉ bây giờ chờ cho cái duyên nào mà người ta làm không có được, người ta quá khắc khổ người ta thấy người ta đứng ở trên đó người ta dậm chân mãi, năm năm, mười năm, hai ba chục năm người ta tu không tới nữa đó rồi người ta ngán, người ta không biết cái Pháp đi tới đâu nữa. Cái tâm tư, cái chấp của người ta nó bị vơi bớt đi nó không còn nặng nữa. Thì lúc bấy giờ mình mới chỉ cho họ, lần lượt họ mới từ từ xả ra. Thì lúc bấy giờ mình mới dạy lại.
Như vậy là Thầy chưa có dạy các con ban đầu như thế nào. Tại sao bây giờ Thầy cứ dạy các con là Pháp Hướng hoặc thế này thế khác. Là bởi vì có người hướng có hiệu quả, nhắc các con để các con bắt chước theo thôi. Như thấy Minh Tông hướng bảo hơi thở ngưng hoặc thế này kia hoặc là bảo ngủ hay thức hoặc là bảo đừng có nhức, đừng có đau cái thọ là vậy. Để các con làm thấy nó cũng có hiệu quả các con tin nó vậy thôi, để phá cái chấp của các con thôi. Chứ sự thật ra các con biết không, mỗi cái trạch pháp ấy, là cái bước đầu, các con phải tu cái gì, trạch pháp cái câu nào để cho nó đúng với cái đó. Các con gọi trật cái tên thì trạch pháp nó cũng không có hiệu quả nữa chứ đừng nói. Ví dụ nội như cái Tâm với cái Ý. Mà các con gọi tên Ý với cái Tâm mà các con gọi trật nó cũng không hiệu quả nữa chứ đừng nói. Cũng như cái thằng Xoài, con gọi thằng Mít nó đâu có biết nó là tên gì đâu nó vô. Nó ngó ngó nó đâu có tưởng gọi nó. Nhưng mà con tính con gọi thằng Mít, nhưng mà con cứ gọi Xoài Xoài vô đây biểu thì nó biết ở đâu mà nó vô. Các con hiểu điều đó. Cho nên cái tu hành nó cũng như vậy. Thế mà các con tưởng là học hiểu nội bấy nhiêu Thầy nói đủ rồi. Bây giờ về cứ ở chỗ nào yên tịnh tu. Không có dễ đâu con. Nó không có đơn giản đâu.
Bởi vì ở đây này, các con thấy này. Cư sĩ Visakha,... hỏi, Thầy đọc lại cái chỗ này để cho các con thấy này:
 “Thưa Ni Sư, Thủ ở trong mười hai Thập Nhị Nhân Duyên” - 12 nhân duyên đó, các con biết là Thủ, Hữu rồi Sanh đó, trong mười hai nhân duyên phải không?  “nó có khác với Năm Thủ Uẩn hay không?”.
Đó, ông Visakha này hỏi cắc cớ với cái bà Ni sư này lắm. Bà Ni Sư này tức là vợ của ông. Ở đây Thầy thuật lại câu chuyện của Ni Sư Dhammadinna này. Khi mà ông Visakha ông đến, ông nghe Phật thuyết pháp rồi đó thì ông ngộ được cái lý sanh tử rồi. Cho nên lúc bấy giờ ông về nhà, Thì ông về nhà, thường thường là ông về nhà thì bà vợ đưa cái tay cho ông nắm. Rồi ông nắm tay cái bà vợ ông mới dẫn đi lên trên cái phòng khách đó, hai vợ chồng mới ngồi nói chuyện. Mà hôm nay lạ lùng ông đi đến Phật rồi, ông về, thì bà đưa cái tay ra thì ông không có nắm.
Các con thấy cái câu chuyện nói nghe nó cũng hay lắm chứ không phải là không hay đâu. Ông không nắm. Bà mới ngạc nhiên. Sao kỳ, ông này ông đi nghe Phật rồi ông về ông không chịu nắm tay mình nữa, lạ à. Bắt đầu đó, ông đi trước bà đi theo sau, bà không có đưa tay nắm nữa. Cho nên bà đi lên tới cái phòng khách rồi ông ngồi cái ghế khác, bà ngồi cái ghế khác. Chứ hồi đó hai ông bà ngồi chung cái ghế, cũng như ngồi cái ghế sa-lon dài đó. Còn đây, ông ngồi cái, bà ngồi cái, bây giờ ông ngồi riêng, không có ngồi chung nữa.
Đó, bây giờ đó, bà mới hỏi tại sao lại, ông nay sao lại kỳ quá vậy. Mọi lần thì ông đi đâu thì ông về thì đâu có cái tình trạng như vậy, mà sao nay ông đối xử với vợ con như vậy. Ông nói đâu phải, bởi vì cái đó là cái đường sinh tử. Tôi hôm nay về tôi bàn với bà đó là bà nên đến nghe đức Phật đi, đứcThế Tôn đi. Rồi bà sẽ nghe rồi đó, thì tôi tin rằng bà sẽ theo đức Phật liền. Bà nói, không biết ông Phật ông nói cái thứ gì mà cái ông này ông mê quá trời, xong bảo mình đi nghe ông Phật, ông còn không thèm nói cho mình biết nữa. Thôi bà cũng sửa soạn bà đến bà nghe ông Phật thuyết pháp. Khi bà đến thì bà nghe ông Phật thuyết pháp xong rồi thì bà xin ông Phật xuất gia luôn. Bà đi tu luôn. Bà về bà giao nhà, giao cửa, giao con lại cho ông. Ông nói: được, tôi bằng lòng tôi lo hết bà cứ yên tâm bà tu đi. Miễn là bà tu được là tôi mừng. Do đó cái bà đi luôn, bà cạo tóc bà vô trong giới Ni bà tu luôn ở trong đó.
Sau khi bà chứng quả bà mới trở về bà thăm nhà, đây là hai ông bà mới gặp nhau. Ông Visakha ông cũng là một cư sĩ tài ba của Đạo Phật lắm chứ không phải không, hỏi bà, chất vấn bà nghĩa là sát đáng á, Phật Pháp mà ông rất thông suốt là một cư sĩ á. Rồi sau này Thầy sẽ đọc hết những cái này cho các con nghe toàn bộ. Bây giờ Thầy chỉ đọc một cái đoạn để cho các con thấy ở cái chỗ mà ông hỏi thôi. Ông hỏi cái chỗ này là cái sự phải có hiểu biết mới hỏi á. Làm sao mà cái chữ Thủ này nó ăn khớp gì với chữ Thủ trong Ngũ Uẩn đâu mà ông dám hỏi câu hỏi với cái bà Ni Sư này thì ông cũng không phải là người mà không hiểu.
Bởi vì phải thông những gì đã thông đó. Khi mà mới vào Đạo Thầy đã giảng cái giáo án, các con hiểu không. Bốn cái điều kiện mà phải không? Tức là muốn vào Đạo Phật ấy thì phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu. Cái đó đầu tiên phải không? Rồi kế đó thì các con thấy cái gì nữa này. Trau dồi những gì phải trau dồi này, dứt bỏ những gì phải dứt bỏ này, tu tập những gì phải tu tập. Các con đã nhớ bốn cái điều kiện chưa? Học rồi quên mất rồi.
À, bây giờ ông cư sĩ này là ông đã thông hiểu như vậy đó thì các con thấy ông sẽ đối xử với...ổng hỏi bà, Thầy nói thiệt ra tu sĩ bây giờ chưa biết chắc đã dám biết hỏi câu hỏi này nữa. Đây này nếu mà ông không biết thì làm sao ông hỏi câu hỏi như thế này với bà mà bà trả lời rất đúng.
“Thưa Ni sư” - bây giờ thì ông gọi bà là Ni sư chứ không dám gọi bà nữa đâu. Không dám gọi là bà vợ nữa đâu, coi như bà là một bậc Thầy rồi đó
-“ Thưa Ni Sư, Thủ trong Mười Hai Nhân Duyên này có khác với Năm Thủ Uẩn hay không? Hai Thủ Uẩn này là Năm Thủ Uẩn”.
Đó, ông hỏi. Các con từ lâu đến giờ đã học kinh sách dám hỏi điều đó không? Có biết gì đâu mà hỏi.
“Này hiền giả Visakha” - bà không kêu ông là chồng nữa đâu, kêu là hiền giả thôi - “Thủ trong Mười Hai Nhân Duyên tức là Năm Thủ Uẩn” - Bà xác định như vậy.
Đó, các con thấy chưa. Bởi vì nó có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức này nó mới dính mắc chứ nếu không có cái này thì làm sao gọi là Thủ phải không? Bởi vì dính cái bàn cái ghế này mà nếu không có cái thân này thì nó dính cho ai đây? Bà nói trúng chứ Thủ ở đây là Năm Thủ Uẩn đó. Có Năm Thủ Uẩn đó mới có dính, mới có Thủ đó, mới có Thủ của  Mười Hai Nhân Duyên đó. Đúng không? Các con Thấy bà trả lời có sai không? Bởi vì ông Phật ông nói bà Dhammadinna đó, bà trả lời như vậy thì ta cũng trả lời như vậy thôi chứ cũng không hơn bà nổi. Ông Phật ông xác định bà là một Đại Trí Tuệ, Đệ Nhất Trí Tuệ bên Ni mà đâu có thường đâu.
“Này hiền giả Visakha Thủ trong mười Hai Nhân Duyên tức là năm Thủ Uẩn - Thủ này không khác với Năm Thủ Uẩn, phàm có dục đối với Năm Thủ Uẩn tức là có thủ đối với chúng ở đây”.
Nghĩa là có dục ngay đó, thì nó dính rồi thì cái vật gì nó cũng dính theo hết cả đám thì không phải là Thủ trong Mười Hai Nhân Duyên sao. Đó cho nên mới có nhà cửa, mới có anh em, mới có dòng họ, mới có ruộng vườn, có của cải chứ. Đó, nó mới dính mắc, nó mới có Sinh Tử Ưu Bi chứ.
Bây giờ ông hỏi tới nữa này:
- “Thưa Ni Sư, Thế nào là thân kiến?”
Đó, bây giờ chính cái Thủ này, Năm Thủ Uẩn này nó mới tạo thành cái thân kiến đó. Cho nên ông mới hỏi câu kế đó. Chứ chúng ta chưa hiểu đâu. Cho nên ông mới lần đi tới ông hỏi à.
“Thưa Ni Sư, thế nào là thân kiến?”.
“Ở đây, này  hiền giả Visakha, kẻ vô văn phàm phu không đến chứng kiến với bậc Thánh, không thuần thục Pháp các bậc Thánh, không tu tập các bậc Thánh, không đến yến kiến các bậc Chơn Nhơn, không thuần thục Pháp các bậc Chơn Nhơn, không tu tập Pháp các bậc Chơn Nhơn”. Đó, “thường nghe những tà sư, ngoại đạo nói pháp, giảng pháp không đúng sự chân thật. Không đem lại sự ích lợi nhất thiết cụ thể, thường sống những hành động phi Phạm Hạnh mà các bậc Trí thường không tán thán.” - Đó thì các con thấy, thường thường á, mình không chọn ở đây..(...).
Trước khi tiếp tục nghe giáo án Đường Lối Tu Tập của Đạo Phật, xin quý thầy chấp tay lên niệm Hồng Danh Đức Bổn Sư để tưởng nhớ công ơn của Người:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Bây giờ quý thầy đã niệm Phật xong, phải nghe nối tiếp bài học hôm qua. Hôm qua Thầy đã giảng đến câu: (..)
Một người cư sĩ người ta đã luyện tập được Tứ Vô Lượng Tâm người ta rồi, cho nên hầu hết là nói đến Tứ Vô Lượng Tâm là chờ Bồ Tát Mới có tập luyện Tứ Vô Lượng Tâm. Cái đó là cái không đúng. Ngay từ lúc đầu chúng ta đã luyện tập cái tâm để chúng ta phá cái Sân, cái Si, cái Tham của chúng ta. Nếu mà không có cái Tâm Từ thì làm sao đối trị được cái Tâm Sân của chúng ta được. Cho nên ngay từ đó chúng ta phải tập luyện Tứ Vô Lượng Tâm rồi. Thế mà còn có cái chuyện xảy ra như thế này sao? Cái ông lớn đi ăn hiếp ông nhỏ để mà tranh chỗ nằm chỗ ngủ. Giàu sang gì? Đi ở những cái chòi canh, vách lá, mà còn cái gì nữa mà tranh. Ngủ hang, ngủ hốc, ngủ rừng, ngủ bụi, ngủ đồng mã thây ma, ngủ trong nhà mồ mà còn cái gì bảnh đâu mà giành giật. Mấy ông Thất Thập Tỳ Kheo này, mấy ông này á, mười bảy vị Tỳ Kheo này á, Thập Thất Tỳ Kheo này đi tìm ở trong nhà mồ. Đi tìm xong rồi trải tọa cụ thì mấy ổng vô mấy ổng giành, tưởng là giành cái nhà lầu, nhà đài gì mà giành. Giành cái nhà mồ. Trời ơi, thây ma nó để cả đống trong đó, mà giành ra mà ngủ. Hôi hám, thúi rình ở trong đó mà ham mà giành. Thử hỏi mấy ông này sao ngu quá ngu vậy không biết. Vậy mà Lục Quần, sáu cái vị Tỳ Kheo này sao ngu quá ngu, tưởng là mình lớn mình đi làm chuyện đó đúng sao.
Cho nên ở đây Thầy thấy vô lý đến là vô lý Giới Luật của Phật, Giới Bổn ấy. Đọc đến những cái Giới này Thầy thấy vô lý, mấy cái ông này đặt tầm bậy. Người ta bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ cái sự sung sướng rồi bây giờ còn đi giành cái chỗ nằm như vậy đó. Thì đâu có cái lý nào có cái chuyện đó được đâu. Cho nên Giới Luật, Giới Kinh của Phật dạy chúng ta tu hành các pháp rất là rõ  ràng, đâu có cái tâm mà còn bỉ thử, còn tham cái chuyện mà tham không đúng tham. Bởi vậy, Thầy nói thật, tham là tham như người đời đi, mà không tham thì thôi chứ đừng có vô chùa mà tranh từng cái bàn chải, cái kem, hoặc là cục xà bông. Thì cái đó là, hoặc là tham tranh cái chỗ ngồi trước, ngồi sau. Chỗ nào cũng được, đó cho nên vì vậy mà Thầy thấy cái tâm phàm phu của chúng ta nó quá là phàm phu. Mà đã đi tu rồi mà còn phàm phu vậy sao. Mà học, mà tới các vị này là Tỳ Kheo rồi, mà không thấy được cái chỗ tu tập của mình sao. Tứ Vô Lượng Tâm còn ở chỗ nào. Cho nên đặt Giới như vậy đặt làm gì.
Mười bảy, giới đuổi Tỳ Kheo khỏi phòng.
Vì sao Phật kiết giới này? Phật cũng tại vườn của ông Cấp Cô Độc. Thập Thất Quần vào trong chùa trải tọa cụ ngủ rồi Lục Quần đến sau rồi lôi kéo ra ngoài phòng. Phật nhân đó mà kiết giới. Mấy cái ông mà Thất Quần này, vô trong chùa người ta trải tọa cụ rồi ngủ. Mấy ông này đến sau, lôi mấy ông này ra mấy ông ngủ chật hết, mấy ông ra ngoài nằm ngoài sân đi, tui giành cái thiền đường này, sau ông này giành cái thiền đường ngủ. Làm cái chuyện Thầy nói thiệt ra Thầy nói người tu sĩ mà làm còn hơn ở ngoài đời thì Thầy thấy còn những cái Giới Hạnh này Thầy thấy thiệt là ngoài đời người ta cũng không có mà làm vậy nữa.
À bây giờ này, các con ngoài đời này các con vô đây mà các con thấy cái chùa này trống này, các con trải đồ các con ngủ, thì mấy ông kia có vô sau, thì cũng ờ thôi mình cũng nằm ké ké nhau ngủ chứ đâu mà lôi người ta quăng qua. Chuyện đó là chuyện ngoài đời rồi. Cái bọn này là bọn cướp giật. Cái bọn này không đúng là tu sĩ của Đạo Phật đâu.
Giới mười tám, giới trên tầng gác, ngồi trên giường sút chân.
Vì sao Phật kiết giới này? Phật cũng tại vườn Cấp Cô Độc có Tỳ Kheo ở trên lầu, chân bị xổ, ngồi không vững. Chân bước xuống trúng Tỳ Kheo ngồi tầng dưới bị chảy máu - nói cái chuyện quá là chân tay -  Phật quở trách rồi kiết Giới.
Cái ông này chắc bộ là thương binh rồi. Sao mà họ đặt Giới kỳ cục Thầy không biết sao mà nói. Bây giờ mình ngồi trên giường cao, giường này kiểu mà sinh viên mà nôi trú ở trong các trường đại học mà nội trú, nó có những cái giường cái tầng thấp, tầng cao vậy này. Người ở dưới này, rồi người chun lên trên nữa, ba bốn tầng vậy, một cái giường mà ba bốn người ngủ đó. Do đó là cái ông này cũng cái kiểu là bộ là sinh viên rồi. Cho nên cái ông mà đặt Giới này chắc hồi đó ông cũng học ở trường đại học cho nên ông biết cái này mà ông đặt ra đây chứ gì. Ông Giới sư này kiểu này chứ không phải đâu chứ làm gì mà đức Phật hồi đó có cái giường kiểu đó mà ngồi trên mà chúc chân. Mà trong cái thời đức Phật đâu có lý nào mà gãy chân mà vô xuất gia tu bao giờ. Đi khất thực làm sao được, vậy mà cũng mang cái chân gãy này đi khất thì Thầy thấy cũng dữ tợn đó chứ. Thế mà rồi ông ngồi đó, ông lơ mơ gì đó sút cái dây rớt cái cây làm u đầu người ta chảy máu, cho nên Phật mới chế ra. Cái này cũng là cái ý nói để chúng ta cẩn thận ý tứ thôi. Nhưng mà đây là nó vô lý, rất là vô lý, nó không có phải như vậy. Câu chuyện thì nó buồn cười chứ sự thật ra nó vô lý quá à, nó không có đâu. Vì sao Phật kiết giới này?
Giới mười chín, dùng nước có trùng xối lên bùn cỏ.
Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại nước Câu Diệm Di, Triển Đà Tỳ Kheo cất nhà lớn dùng nước trùng trộn hồ và bảo người trộn. Đức Phật nhân đó mà kiết giới này. Khi có Thầy Tỳ Kheo không biết có trùng sau mới biết nên tác pháp xám hối. Phật dạy, không biết không phạm. Và Phật kiết giới này lại: nếu biết có trùng mà dùng tưới lên bùn cỏ, phạm Ba Dật Đề.
Thật sự ra thì trong khi mà ở đây, thì Phật cấm các vị Tỳ Kheo không có cho mà trộn, không có cho cất nhà tường, nhà gạch. Thì ở đây thì chắc có lẽ các ngài mới trộn đất để trét cái vách đất như líp mình, trét cái đất cho nó mưa đừng có tạt ướt. Thì nhân đó mà cứ múc, thấy cái vũng nước ở đâu đó có  lăng quăng hoặc là có cá nhái, cá cóc gì đó ở trong đó nó lội tùm lum đó. Mấy ông đó nhắm mắt múc lên đổ trộn trong bùn rồi trét. Bao nhiêu cái con trùng đó, con vật đó nó chết đi. Do vì vậy đó mà  Đức Phật nói mình vô tình, mình không thấy không biết mình phạm thì không có tội. Nhưng mà sự thật ra Thầy nói vô tình gì ở đây Thầy cũng quét ra. Mấy ông tu theo Đạo Phật thì mấy ông phải ý tứ rồi. Múc cái vũng nước đó thì mây ông phải coi nó có hay không. Mà bây giờ mấy ông nói mấy ông vô tình thì cái chuyện đó là cái chuyện, là ông đã từng ở đâu ông vô đây, ông đã tu tới bây giờ là ông thọ Tỳ Kheo rồi thì đâu có lý nào mà ông không Chánh Niệm Tỉnh Thức, Tỉnh Giác Định được. Dù ít ra ông cũng phải tỉnh thức chứ. Vì vậy mà ông múc nước ông cũng phải coi biết đó là có trùng hay là không trùng ở dưới đó chứ. Tại sao ông giết hại chúng sanh rồi ông nói rằng ông vô ý, không có phạm.
Điều đó là, Phật mà chế giới này như vậy Thầy thấy.. nếu mà ông Phật chế như vậy là không đúng đó. Nghĩa là cái người tu sĩ của Đạo Phật là cái người phải có ý tứ hẳn hoi đàng hoàng mới gọi là tu sĩ của Đạo Phật. Còn cái người vô ý là cái người mà chưa phải đệ tử của Phật, còn là cư sĩ, còn tập luyện những cái chánh niệm tỉnh thức, tu ở trong những cái hành động hàng ngày. Chừng nào mà người ta có đủ cái ý tứ rồi thì mới chấp nhận cho người ta xuất gia tu hành trở thành tu sĩ của mình, thì đâu có làm cái chuyện phi pháp như vậy, đâu có chuyện mà tàn sát hại chúng sanh như vậy.
Đó thì đọc qua cái này, thì cái Giới này chúng ta phải chế như thế nào để cho đúng cách của một cái người tu sĩ chúng ta phải làm cho đúng. Thì như vậy Thầy chỉ phê phán cái này, sau này mà có dịp Thầy sẽ soạn lại cái bộ Kinh Giới này. Chứ không để ba cái thứ Kinh này được. Không phải Thầy giỏi, nhưng mà tại vì nó nói vô lý quá vô lý rồi không có thể chịu đựng nổi được nữa thì phải dẹp nó đi chứ.
Hai mươi, giới lợp nhà quá ba lớp.
Vì sao Phật kiết giới này?  Duyên khi Phật vẫn ở tại nước Câu Diệm Di. Triển Đà cất phòng xá lớn, tranh dư lợp hai ba lớp không thôi, nhà sập xuống, cư sĩ chê hiềm, Phật nhân đó mà kiết giới. Trời, cái ông này sao mà ông ngu, bao nhiêu tranh dư thì ông chất lên hết trên nhà để cho sập. Thiệt là, Thầy thấy sao mà chế cái Giới sao mà quá ngu vậy thì Thầy không biết sao. Người ta muốn lợp, bây giờ Thầy muốn lợp cái nhà này thì ít ra Thầy cũng phải có cái đầu óc suy nghĩ nó, bây giờ mình để xích vô thì cái cột cây này nó phải như thế nào mới bắt xích vô chứ, còn tôn nó nhẹ thì phải lợp như thế nào, tranh lá nó phải như thế nào, Thầy cũng phải suy tính chứ. Ông này sao mà cái ông Tỳ Kheo này ông ngu đến mức độ, bao nhiêu dư ông đem ông đắp lên trên hết, để cho chuột ở chứ làm cái gì, ông tiếc gì vậy, cho người khác người ta cất cái thất không phải được sao. Cho nên những cái mà Thầy nói Giới gì mà đặt sao, nó làm sao mà thấy Tỳ Kheo sao mà sao mà nó si, nó si sao mà không có thể tưởng tượng nổi, vậy mà đệ tử của Phật nữa. Thầy không hiểu sao hết.
Đó thì các Thầy thấy đọc những Kinh Giới chúng ta mắc tức cười à. Mà các Thầy không nghe Thầy giảng ra thì các thầy chấp nó, các thầy nói nó hay chứ nó không có dở đâu. Mà Thầy giảng rồi các Thầy thấy rõ ràng là cái thứ thiệt là thứ tầm bậy không à. Đem ba cái thằng ngu si vô trong này gọi là Tỳ Kheo, thật sự ra nó ngu, nó ngu hơn là cái người ngoài đời nữa. Người ngoài đời người ta còn khôn ngoan chứ. Ai mà điên gì mà lợp dữ vậy, lợp cho tới sập nhà. Viết gì mà kỳ cục vậy, mà vậy mà đem nêu vô trong này mà nói, đặt cái Giới đó ra, thiệt là quá tệ.
Hai mươi mốt, giới tự đi dạy bảo ni.
Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc. Bà Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni thỉnh cầu Phật cho phép các Tỳ Kheo vì Ni mà giáo giới thuyết pháp. Đức Phật bảo ông A Nan theo thứ tự mời các vị Thượng Tọa đến giáo giới vì Ni nói Pháp. Khi ấy, theo thứ tự nên mời tôn giả Bàn Đà đến dạy, song tôn giả chỉ thuộc bài kệ nên đến nơi, ba phen chỉ nói một bài kệ. Mỗi lần nói xong liền vào để Tứ Thiền, tức là nói xong thì ông nhập Tứ Thiền, chứ còn không nhập Tứ Thiền, người ta hỏi thì ông biết đâu ông nói. Ông chỉ thuộc có bốn câu kệ thôi chứ ông làm sao ông nói. Cho nên,  hễ ông nói bốn câu kệ rồi thì ông nhập vô Tứ Thiền rồi ông ngồi im re đó. Các La Hán ni đều là rất hoan hỉ, còn Lục Quần Ni thì lại kêu giọng giỡn cợt chê bai. Tôn giả liền thăng lên hư không hiện ra các thần thông biến hóa nói pháp mà đi. Lúc khi ấy, Lục Quần Tỳ Kheo tự tiện đến giáo hóa, nói bao nhiêu chuyện khác, không nói chánh Pháp, chỉ nói các chuyện thế tục trong thế gian, Lục Quần Ni rất là hoan hỉ. Bà Đại Ái Đạo biết đến bạch Phật. Ngài bảo, các Tỳ Kheo này từ nay về sau, Tăng phải bạch nhị Yết Ma, sai người đến giáo thọ Ni. Lúc ấy, Lục Quần Tỳ Kheo bèn ra ngoài Giới cùng nhau sai đến. Các Tỳ Kheo bạch Phật. Phật dạy Tỳ Kheo nào thành tựu mười pháp về sau mới được giáo thọ Tỳ Kheo Ni, nhân đó Phật kiết giới này.
Nghĩa là cái ông Bàn Đặc ấy, thì ông có thuộc có bốn cái câu kệ thôi chứ ông không có thuộc nhiều. Cho nên ông A Nan sắp xếp cho ông đi giảng ở cho bên Ni ấy thì ông đến đó ông nói bốn câu kệ rồi ông nhập Tứ Thiền thì những người mà Ni mà đã chứng quả A La Hán thì họ rất là tán thán về cái sự thuyết giảng của ông. Còn trái lại thì những người Ni mà Lục Quần Ni Tỳ Kheo thì lại chê bai ông nói không có hay cho nên sau đó thì ông thấy các vị đó chê vậy thì ông không có đến thuyết giảng nữa. Do vì vậy mà sau này Lục Quần Tỳ Kheo mới tự tiện mình, mới thay phiên nhau đến thuyết giảng cho bên Ni. Thì trong lúc đó, chắc ông A Nan ông ấy ở đâu không biết, chắc ông ngủ quên rồi chứ sao, chứ không lẽ mà ông A Nan ông không phái mà mấy ông này mà dám đến thuyết như vậy thì Thầy thấy đây là những cái chuyện mà bịa đặt nó không có lý đâu.
Phật đã sai ông A Nan sắp xếp những người nào mà đi thuyết giảng cho bên Ni thì nó phải có người chứ. Còn đằng này không có sắp xếp Lục Quần Tỳ Kheo mà thế mà mấy ông này tự nhiên đi mà ông A Nan ông không biết à. À, bữa nay là ông Bàn Đặc đi, thì ông Bàn Đặc ít ra ông về ông ấy cũng trình lại ông A Nan là tôi đến tôi thuyết giảng như vậy mà bên Ni ấy họ được nghe vậy và đồng thời họ không có hiểu được cái thâm ý của tôi là muốn chứng tỏ rằng cái chỗ mà nhập Tứ Thiền là cái chỗ vi diệu nhất, chỗ giải thoát nhất, để cho các người đó nương cái câu kệ của tôi đã học được Phật đó thì bắt đầu lấy cái câu kệ đó mà tu để được giải thoát làm như chính tôi đã làm, nhưng mà các vị đó không có hiểu. Vậy thì ông A Nan phải phái cái người khác thay tôi để trong cái ngày mai đó đến Giáo Giới cho bên Ni. Bởi vì ông này ông thấy bên Ni nó có người chứng quả A La Hán rồi thì họ đâu có cần, họ rất là tán thán rồi, còn những cái người mà còn mê muội chưa chứng đó thì cần phải có cái người giảng như thế nào để cho hiểu. Chứ nhè tôi mà tôi giảng như vậy, tôi chỉ đọc có bốn câu kệ rồi bắt đầu tôi nhập Tứ Thiền rồi thì họ tiêu hết họ làm sao họ hiểu. Vậy thì ông hãy phái người khác đến. Thì do đó ông A Nan phái. Đằng này ông ta về cũng chằng nói gì. Một bậc Thánh Tăng như ông mà ông không biết nói cái điều gì đó thì như vậy là quá phỉ báng ông rồi.
Bởi vì cái nhiệm vụ, cái trọng trách mà khi được mình nhận lãnh cái trọng trách mà đi giảng người ta, dạy người ta để tu tập thì cái nhiệm vụ trọng trách mình có chứ. Nhưng mà mình thấy người ta không có nhận được, cho nên vì vậy đó mình thấy cái duyên nó không có thì mình về báo lại cho ông A Nan biết để ông A Nan ông sắp xếp cho cái người khác người ta thay mình để mà người ta giảng. Thì như vậy mới đúng cái lý của Phật Pháp chứ. Không lẽ mình không giảng thì mình nghỉ à? Mình nghỉ rồi mấy cái ông này thừa nước đục mà thả câu ấy. Kêu là thừa nước mà để mà đi vào đó mà dạy tầm bậy, tầm bạ cho bên đây. Cho nên bên kia mấy cô mà thích ăn, thích ngủ mà nghe  mấy cái ông Lục Quần Tỳ Kheo này nói, nào là Giới này, Giới kia rồi Phật chế rộng rãi rồi bây giờ mình ăn thỏa thích đi. Mình đi coi hát cũng được này, mình mua ra vô ti vi hoặc là video về mình chiếu phim đồ lên rồi coi thỏa thích đi. Thì mấy bà đó phải khoái rồi chứ gì. Mà gặp lục quần Tỳ Kheo này là còn thích nhất nữa. Gặp cái thời đại chúng ta, trong cái thất, trong cái cốc của mấy ông đó, chắc để đầy đủ máy móc hết rồi không có thiếu cái gì cả hết.
Cho nên ở đây, theo Thầy thiết nghĩ là nó đặt cái Giới mà đặt cái Giới nó không có hợp lý. Cho nên là làm sao có những người mà am tường hiểu biết được cái Giới Luật của Phật để chúng ta soạn lại cái bộ Kinh Giới nó đầy đủ hơn, nó đúng với cái nghĩa của nó hơn, để cho cái người mà người ta giữ Giới mà người ta được ly dục, ly ác pháp, người ta được giải thoát là cái nhiệm vụ và trọng trách chứ không thể nào những cái bộ kinh Giới như thế này mà lưu hành ra thì toàn bộ là tai hại cho tu sĩ chúng ta, phá Giới hết chứ không còn nữa.
Chúng ta phải biết được cái bộ kinh nào nó đem đến cái sự lợi lạc cho con người tu hành sau này. Và cái bộ kinh nào nó sẽ tai hại chứ không phải. Bởi vì Thầy đọc toàn bộ Kinh từ Đại Thừa cho đến Tiểu Thừa mà Thầy viết ra một cái bộ sách gọi là Đường Về Xứ Phật. Cái bài Kinh nào đúng của Đức Phật là Thầy để, mà bài kinh nào không đúng của Phật Thầy bác ra hết. Thầy quét sạch ra hết. Cả một cái hệ thống mà toàn cả cái tạng kinh của Phật, mà Thầy hết sức công phu viết nhưng mà Thầy thấy đem ra cái này cũng là cái điều rất là đau khổ cho cái người thời nay, cho nên Thầy chẳng bao giờ mà Thầy cho ai đọc hết. Và cuối cùng thì hôm nay Thầy Giảng như thế này thật sự ra từ lâu đến giờ Thầy có học Giới thật sự, nhưng mà Thầy lo tu chứ Thầy không có nghiên cứu ba cái này đâu. Giữ gìn mình đúng trong những Giới Hạnh mình tu. Đến khi mà đọc mà giảng cho quý thầy, Thầy thấy toàn là tan nát hết rồi. Mấy cái ông ba lăm nhăm này viết tầm bậy, tầm bạ cũng gọi là Tổ này, Tổ kia dữ tợn.
Thật sự Thầy nói tội Thầy đọa địa ngục Thầy chịu chứ Thầy chẳng có thấy cái Giới Luật của Phật như thế này mà Thầy chấp nhận được. Bởi vì Thầy hiểu biết cái Giới Luật của Phật là ly dục, ly ác pháp chứ không phải là cái thứ Giới mà như thế này được.
Đây là mười cái pháp:
- Một là Giới Luật đầy đủ,
- Hai là học rộng hiểu nhiều,
- Ba là thông suốt hai bộ Kinh - hai bộ Giới đó, Tăng và Ni đó,
- Bốn là quyết đoán không nghi ngờ,
- Năm là thuyết Pháp khéo léo,
- Sáu là xuất thân từ chủng tộc cao,
- Bảy là dung mạo đoan trang thấy liền hoan hỉ,
- Tám là có khả năng thuyết pháp khiến Ni hoan hỉ,
- Chín là không vì Phật xuất gia mặc pháp phục mà phá các trận cấm,
- Mười đã đủ hai mươi hạ trở lên.
Thì mười cái điều kiện nêu ra cho một vị thuyết pháp bên Ni là phải như vậy, nhưng có những điều mà có thể chúng ta thấy nó không hợp đâu. Nhưng nói nhiều quá động chạm mấy ông này hết. Thôi Thầy chẳng thèm nói làm gì. Dẹp ba cái này ra nữa thì chịu không có nổi rồi. Khi nào mà Thầy có dịp rảnh Thầy soạn ra rồi Thầy mới kết lại như thế nào mà đúng một cái người đi thuyết giảng cho bên Ni. Cái Phạm Hạnh như thế nào mới được Thuyết Giảng cho bên nữ, còn không đúng thì không có nên mà đến đó, đến đó mà tâm chúng ta còn yếu, cái hình sắc, cái nụ cười, cái hình tướng của cái người nữ nó làm cho chúng ta dao động. Đồng thời thì mấy cái cô này cũng chưa tới đâu đâu, gặp một cái ông thầy mà nói có duyên rồi thì mấy cô đó mai mốt mấy cô đó đến phòng rồi đem cái này kia biếu, câu như là câu cá đó, thì cái điều đó là cái điều còn tai hại lắm đó chứ không phải là thường cho cái sự tu hành mà làm nó càng ngày càng sa đọa trong cái Giới tu hành của Phật Giáo.
Cho nên ở đây khi mà có dịp mà Thầy được rảnh Thầy soạn lại cái bộ Kinh Giới, mặc dù Thầy không phải Giới Sư đâu, nhưng Thầy phải soạn nó để lại cho đời sau có một cái giáo án của Phật, đường lối tu tập của Phật từ dễ đến cao, có cái lý pháp và cái hành pháp nó rõ ràng và đồng thời thì phải có cái bộ Giới Luật rất là cụ thể  rõ ràng cho mỗi Giới, đều mà có một cái Pháp mà chúng ta tập luyện ly dục, ly ác pháp để chúng ta đi thẳng vào con đường giải thoát của Đạo Phật.  Chứ Giới Luật như thế này Thầy thấy nó không phải là cái pháp ly dục, ly ác pháp đâu. Mà nó còn có thể nuôi lớn những cái tâm dục của chúng ta bằng cách nhỏ giọt, làm cho chúng ta ham thích theo cái dục lạc của thế gian thêm nữa.
Giới hăm hai, giới dạy bảo ni đến chiều tối.
Vì sao Phật kiết Giới này? Đức Phật vẫn ở tại vườn ông Cấp Cô Độc. Khi ấy, tôn giả Nan Đà được tăng sai đến giáo thọ ni, ni chúng, Tôn giả âm thanh tốt nói Pháp người nghe ưa thích nên đến mặt trời lặn ni chúng (...) đã đóng, phải ngủ bên ngoài. Sáng thành mở cửa vào trước mọi người, các trưởng giả thấy chê hiềm phỉ báng Ni chúng cùng Tỳ Kheo ngủ đêm. Nhân đó, Phật kiết Giới này.
Ở đây cái câu chuyện đặt ra như vậy là tại vì cái ông này thuyết giảng hay quá cho nên quá giờ rồi mà chúng Ni không có ra về, cho nên về tối rồi cửa thành bị đóng, vì vậy mà phải ở ngoài cửa thành mà ngủ, sáng ra thì mới vào. Thì các vị mà cư sĩ ở trong thành người ta thấy Ni sao mà ở ngoài thành. Có lẽ là trong cái thời Đức Phật mà đọc qua cái chỗ này thì chúng ta thấy có lẽ cái tổ chức của Phật ngày xưa thì các bên  Ni - bên nữ á, thì cái Tịnh Xá hoặc là cái nơi mà các Ni ở thì nó ở trong thành, còn Tăng thì ở ngoài thành, ở trong cái khu rừng nào đó, cho nên các Ni thì thường thường là đến nghe Phật thuyết pháp thì bữa hôm đó thì cái ông Nan Đà này ông thuyết pháp và ông thuyết pháp quá hay làm cho các cô Ni này quên về đi. Vì vậy mà cuối cùng thì ở ngoài cửa thành.
Thật sự ra thì trong khi mà có cái sự tổ chức như vậy Thầy thấy cái nhiệm vụ của cái ông Giảng sư, không có nghĩa là ông Nan Đà mà ông để cho mấy bà này mà ở lại nghe cho tới tối mới về đâu, không phải đâu. Nghĩa là đúng giờ cho mấy người về mấy người còn vô thành. Bởi vì mình ở gần bên thành mình biết mà, đóng cửa lúc nào, mở cửa lúc nào mình biết. Cho nên giờ này là quý cô hãy về, không được ở lại, về để vào kịp ở trong tịnh xá mà nghỉ, không được ngủ ở ngoài đường, ngoài xá, nhất là thân nữ. Cho nên đâu có lý do mà chế cái giới này kỳ cục như vậy. Cho nên ở đây nhiều cái Thầy nói, nó nhiều cái mà cái không thể nào tưởng tượng được hết. Cũng như bây giờ Thầy giảng các con này, buổi chiều này, Thầy giảng cho các Thầy nghe này, mà bây giờ các Thầy không có được ở đây mà ở ngoài Trảng Bàng này phải về ngoài đó, thì lúc bấy giờ đó, khi mà Thầy thấy đúng giờ Thầy phải cho về liền để cho về kịp chứ đâu có lý nào mà ở lại đây. Ở lại đây không có chỗ ngủ làm sao ở lại được. Mà do vì vậy đó, mà tới giờ là phải nghỉ thôi, không có thể nào mà không cho nghỉ. Thì như vậy làm sao mà có cái chuyện mà xảy ra như vậy được.
“Trừ dạy tụng kinh hoặc việc khác, phạm ác tác”. Nghĩa là ở đây còn gặn thêm trừ tụng kinh nữa. Bởi vì tụng kinh bảy giờ tối kia mà. Cho nên cửa thành đóng mất rồi làm sao. Cho nên còn thêm cái trừ tụng kinh mới không có phạm cái tội. Nghĩa là, ở lại tụng kinh chứ nghe pháp là phạm tội. Nghe Pháp nó còn phải hay hơn cái tụng kinh không. Cho nên ở đây Thầy thấy đặt cái Giới chỗ này là đã không có cái nghĩa rồi. Cái người mà thuyết pháp không phải không biết được cái thời gian. Cũng như bây giờ, Thầy nói bây giờ Thầy thuyết pháp này, dù Thầy có ráng đi nữa thì chắc chắn là cũng năm mười phút chứ không thể nào mà hơn cái giờ mà chúng ta ăn cơm được. Cũng phải đình chỉ lại à, chứ không thể nào hơn được. Thì quý thầy thấy đó là cái bổn phận của người mà giảng. Còn quý Thầy có nghe nghe  hay là quý thầy có thích nghe đi nữa, Thầy đình là Thầy đình thôi chứ không làm sao mà nói: Bây giờ con thích nghe Thầy cứ nói thêm nữa đi, Thầy giảng thêm nữa đi. Đâu có được. Giờ này không phải là giờ ngồi đây mà còn, giờ chúng ta sắp sửa ăn cơm rồi thì phải đình, phải không. Cho nên giờ mà mấy cô phải về thì mấy cô phải về.
Mà vả lại Thầy biết rằng khi Đức Phật sai một cái vị Tỳ Kheo mà thuyết giảng á, cho cái bên Ni mà tu tập á, thì chắc chắn là phải có cái giờ giấc hẳn hòi chứ nên Ni nó lộn xộn lắm. Nó tối rồi đây bắt đầu nó ngủ, ở trong cái chùa của mình là tiêu tan hết chứ không phải là lơ mơ đâu, rồi đây rồi mang tiếng cả đám nhau, Tăng Ni nó ngủ chung với nhau đó, đâu có phải chuyện dễ  đâu. Cho nên mình dạy rồi bắt đầu, mấy cô tới giờ này phải đi chứ không có được ở đây, phải nói thẳng à, ở đây nó mang tiếng lắm, Tăng Ni phải đâu ra đó. Cho nên do cái chỗ mà hướng dẫn nghiêm chỉnh như vậy thì cái Giáo đoàn, Tăng đoàn nó mới có thanh tịnh chứ đâu phải mà tối rồi, giờ này tối rồi mà còn ngồi ở đây, ngồi đống đống ở đây, rồi Tăng đi qua đi lại, nó thấy mấy cô nó khoái lắm nên nó đi qua đi lại như diều á. Cho nên như vậy làm sao cái tâm người ta thanh tịnh, người ta tu được, làm sao người ta tu, ác pháp. Bao nhiêu cái hình ảnh đó gợi trong ý, rồi Tăng thì cũng đi qua đi lại mặc áo đẹp đẽ ủi láng coóng đi tới đi lui làm cho mấy bà ngồi đó cũng điêu đứng hết. Ngồi mà không dám nhúc nhích. Thì tất cả những cái này là cái làm cho tâm người ta quá rối loạn, điêu đứng. Cho nên ở đây chúng ta tu hành, chúng ta không thấy cái bóng dáng hình nữ á thì chúng ta thấy cái tâm càng ngày nó càng  thanh tịnh. Mà thấy cái thứ đó rồi nó khó lắm, nó khó móc ra lắm chứ không phải dễ đâu. Nuốt vô thì được chứ ói ra nó khó lắm chứ không phải dễ.
Hai mươi ba, giới chê bàng Tỳ Kheo khác dạy bảo Ni.
Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật vẫn ở tại vườn của ông Cấp Cô Độc, khi ấy các Tỳ Kheo Ni nghe thầy Giáo Thọ đến nên ra nửa, do từng đón rước, phòng xá thoải mái, thức ăn, chỗ ngồi tốt, chỗ tắm rửa khang trang. Lục Quần Tỳ Kheo không được Tăng sai sanh lòng tật đố nói: Các thầy Tỳ Kheo không có chân thật chỉ vì ăn uống nên mới giáo thọ Ni chúng. Các Tỳ Kheo bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết Giới này.
Thầy nói thật sự đây, những cái này viết nó rất sai này. Các thầy thấy này, một vị mà tu sĩ mà Tăng mà đến mà thuyết giảng nơi của người nữ ở đó, thì cái sự tiếp đón họ mình phải công nhận rồi. Phòng xá mà chỗ mà giảng dạy ấy thì nó phải rồi. Thức ăn, chỗ ngồi tốt thì đúng rồi, còn cái chỗ mà tắm rửa khang trang nữa thì ai mà vô cái phòng tắm của người ni mà tắm bao giờ. Các thầy thấy không, ở đây mà nó dám viết cái điều đó. Thầy bây giờ, mời Thầy một trăm ngàn lần mà vô cái phòng tắm của người ni, Thầy chả thèm vô dù ở đó cái phòng có sang trọng thì Thầy cũng không thèm nữa, Thầy nói thật đó. Làm cái gì mà vô cái phòng tắm của họ, Thầy đâu có thèm. Ở đây, nhiều cái nó nói Thầy thấy vô lý thật vô lý. Một ông Tăng mà tu cái tâm thanh tịnh không bao giờ họ thèm đến cái chỗ phòng tắm của người nữ đâu, họ chẳng bao giờ vô phòng ngủ của người nữ đâu.  Nói thật sự đó, Thầy nói đúng cách của người Giới luật mà thanh tịnh rồi họ không bao giờ mà có thể nói rằng: Từ cái chỗ họ biết như thế nào, như cái lý của như thế nào của Pháp rồi thì họ biết cái chỗ nào là bất tịnh, chỗ nào mà không bất tịnh, họ biết rồi. Họ đâu có bao giờ họ ngu si, mà họ đem cái thân, cái Tâm của họ vô cái chỗ bất tịnh đó để mà họ nhồi nhét nó thêm đâu. Họ thoát ra được, họ bỏ ra được họ bỏ chứ đâu có lý nào. Bởi vì viết Giới mà sao không thấy cái chỗ nào, cái ông mà viết Giới này ông cũng muốn vô phòng tắm của phụ nữ rồi, cho nên ông mới viết như vậy đó. Để mà mình thuyết giảng rồi bắt đầu, phòng tắm của phụ nữ nào là xà bông thơm nè, nào là dầu thơm nè, rồi kiếng soi mặt nè, rồi vô trong đó soi mặt ra rồi cái mặt của mình nó đẹp đẽ lên, cho nên mấy ông cũng khoái lắm. Còn cái phòng tắm của Tăng coi, nó kèm hèm, rác rến, cỏ rác tùm lum nó đâu có bằng bên Ni đâu. Viết như vậy là Thầy thấy thiệt là nó không có có cái lý đúng của sự tu tập, cái chỗ mà ly dục, ly ác pháp của người tu.


Giới hai mươi bốn, giới cho y Tỳ Kheo Ni không phải bà con.
Vì sao Phật kiết Giới này? Đức Phật cũng vẫn ở tại vườn Cấp Cô Độc. Trong thành có một Tỳ Kheo khất thực, oai nghi đầy đủ. Khi ấy, có một cô Ni thấy mà thường xin, một cô Ni...
(Hết mặt A)
Trong thời đức Phật có nói như thế này nè: Câu chuyện của bà Hoa Ni Sắc tỳ kheo, trong khi đó, trong khu vực nó bị hạn hán, nó bị đói khổ, rồi bà Hoa Ni Sắc tỳ kheo bà đi xin, bà được cái thực phẩm. Do đó có cái vị tỳ kheo đi tới, thì vị tỳ kheo nói: Bà có xin được thì bỏ vào bát tôi đi. Bà này thì bởi vì bên giới Ni mà Bát Kỉnh, thì khi như vậy thì bà trút hết cái bát, đồ bà xin ăn cho cái vị tỳ kheo này. Vị tỳ kheo này mang bát đồ ăn của bà xin được đem về ăn. Còn bà này đi từ hồi sáng đến bây giờ kiếm được có một bát à, rồi đâu có kiếm được nữa bởi vì người ta nghèo đói hết mà, thất mùa mà, cho nên bà mới ngất xỉu, bà ngất xỉu bà nằm dưới đường bà đi, bởi vì đói mà. Cho nên hồi trưa hôm qua ăn tới bữa nay mà xin được có nhiêu đó, ông này ông trút bát ông sớt ông đi rồi. Cũng như con quạ mà bóp cổ con cò ói ra con cá nó ăn vậy mà. Cho nên do cái hành động đó vì vậy mà chúng ta thấy rằng cái vấn đề mà Bát Kỉnh này nó quá sai. Cái ông tỳ kheo mặc dù ít ra thì người nữ người nam thì nó cũng có sự bình đẳng giống nhau, Bát Kỉnh là Kỉnh ông ta thôi, để cho mình có cái lòng cung kính thôi. Cái này cung kính đến có phải cái ông tỳ kheo ông chơi khôn đó, ông chờ cho mấy bà ni đi khất thực xong rồi về cái kêu bà đó trút vô bát tôi đi. Chơi kiểu đó chết cha! Các con thấy không, cái Giới Luật gì mà đặt kỳ cục kiểu này, mà Thầy nói thiệt đọc Thầy thấy nó bực mình vô cùng. Nó không có chơi cái kiểu đó được, cho nên cái bà này, bà Hoa Ni Sắc tỳ kheo bà xin, bà không có được ăn rồi bà mệt bà đói, bà đi không nổi nữa thì có một vị trưởng giả cỡi con ngựa đi ngang qua thấy sao cái bà ni này sao lại nằm mà gần chết vậy. Mới xuống mới đỡ bà ta, mới đem về nhà, mới cho ăn cho uống bà mới tỉnh lại, mới hỏi ra duyên sự như vậy, do đó mới đến trình Phật. Phật mới chế cái giới này ra.
Thì đây là cái giới, cái giới này, thì như vậy là ở đây cũng có một cái sự kiện như vậy mà mới chế cái giới này ra. Thì thiệt ra Thầy thấy những cái điều kiện mà chế giới của Phật ở trong này, từ khi mình chế Bát Kỉnh ra nó không biết thế nào mà gọi là Bát Kỉnh, người ta không hiểu như thế nào rồi người ta bóp cổ người ta, người ta lấy thức ăn ở trước miệng của người khác. Người ta đi xin cực khổ, mà trong khi mà nó dễ dàng thì không nói mà nó khó khăn thì xin được miếng cơm đâu phải chuyện dễ. Thế mà mấy ông tỳ kheo này ngon lắm, cứ ngồi núp ở trong rào thôi, đợi cho mấy bà ni đi xin mà có đầy bát thì mấy ông ra, thì cái kiểu đó khỏi mình đi chứ gì? Cái giới luật gì mà kỳ cục! Thầy chẳng biết sao mà nói là Bát Kỉnh. Cho nên đọc lại cái chỗ Bát Kỉnh Thầy thấy không có cái điều đó mà mấy ông đó lại đặt trong cái Giới này là có sự kiện xảy ra như vậy, do đó Phật mới chế Giới ra. Thực ra thì cái chuyện họ đặt ra họ đặt sao cũng được khó mà có thể lường được cái tâm con người.
Giới hai mươi lăm: giới may y cho ni không phải bà con.
Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật còn tại vườn Cấp Cô Độc lúc bấy giờ có cô ni muốn may đại y đem đến trong chùa, Ca-Lưu-Đà-Di nhận may và thêu hình nam nữ hành dâm. Ông này chơi may cái y của mình mà may nam nữ hoặc là Thầy nói thôi thêu trái tim thôi cũng thấy chết được rồi chứ đừng nói chi mà thêu cái hình nam nữ, cái đó thì cũng là cái nói tầm bậy tầm bạ, không bao giờ có cái chuyện đó được hết à. Cô ni đến nhận y dặn không được tự tiện. Khi mà cô này đến nhận y thì ông đó dặn, cái ông Ca-Lưu-Đà-Di này dặn, ở chùa mình chắc cũng có nhiều chùa cũng may y lắm, mà cái ông này cũng chơi cắc cớ cái chuyện đó. Dặn không được tự tiện trải y ra xem nghe, khi nào mà có đông chúng rồi mới trải y ra, cũng không được cho cái người nào, khi nào đến giờ mới mặc mà đi sau chúng. Thì cô ni này kia làm theo cái lời dặn, cư sĩ thấy mới vỗ tay cười. Cô này cũng đâu có để ý được, cái ông thầy này chơi cắc cớ, giễu cợt chơi như vậy đó, may y cho người ta mà diễu cợt như vậy đó, phá, kêu là phá đám! Các ni bạch tỳ kheo, tỳ kheo bạch Phật, Phật mới kiết giới này: Nếu tỳ kheo may y cho tỳ kheo ni mà làm cái kiểu đó là phạm Ba Dật Đề.
Thì các con thấy đâu có cái chuyện mà, bởi vậy Thầy nói có nhiều thầy họ làm hề, làm này làm kia thì cái ông này cũng kiểu mà chọc phá trời đất chứ không phải tay thường đâu. Cái kiểu này cũng là cái kiểu quậy trời quậy nước à. Nghĩa là mấy bà ni này đến nhờ ông may y, ông may y rồi ông thêu tầm bậy, ông dặn người ta như vậy để rồi cho người ta cười chơi. Thì Thầy thấy những cái chuyện tiếu lâm, những cái chuyện cổ dân gian có nhiều cái chuyện mà người ta làm những cái chuyện mà gọi là cười cợt. Sự thực ra một người tu sĩ của đạo Phật đâu có những hành động đó. Cho nên Thầy thấy khi mà nhìn cuộn phim nào ở Thường Chiếu lần đầu tiên đó, Thầy thấy có một ông thầy ngồi ôm cái đầu gối mà làm cây đờn mà kêu là cây đờn cò kêu ò e, ò e đó, thì trời đất, lấy cái đầu gối mình mà làm cây đờn mà gảy mà làm cho chúng cười lộn gan, lộn ruột lên. Thiệt là mình làm hề, làm giễu cho người ta thì cái giới hạnh, cái oai nghi của mình còn ở chỗ nào đâu? Cách thức đó là cách thức phá giới, phá Phật pháp bằng cách đó thì cái ông thầy này á, ông Ca Lưu Đà Di này, cũng là cái loại đó đó, cái loại kêu là phá Phật pháp á. Mà phá ngay bên ni nữa chứ, mới độc.
Thì cái Giới mà chế ra như vậy Thầy thấy hầu hết là cái số mà giễu cợt này thì từ khi vô thì đức Phật đã nhắm vào cái số mà hay có trò phá đời như vậy đó thì ít ra thì phải nói rằng ông Phật ông  phải sửa những cái người này ngay từ lúc đầu. Mình là người tu hành phải nghiêm chỉnh không có được giễu cợt, mà giễu cợt thì đâu phải là cái người tu, thì đâu cần phải chế cái Giới này làm gì.
Giới 26: giới cùng với ni ngồi chỗ khuất.
Vì sao Phật chế giới này? Đức Phật cũng ở tại vườn Cấp Cô Độc, Ca-Lưu-Đà-Di đến nơi cửa ngoài của Thâu – Nan - Đà tỳ kheo ni cùng ngồi một chỗ. Cư sĩ chê hiềm. Các tỳ kheo bạch Phật, nhân đó Phật kiết giới này. Bốn chúng ...(?) phạm ác tác, không phạm có bạn, có người trí, không đui, không điếc hoặc đi ngang qua, xỉu té, bệnh liệt, bị nhốt trói, mạng nặng bị thế lực lôi kéo.
Ở đây Phật chế cái người tu sĩ cùng ngồi với người ni ở chỗ khuất thì bị phạm. Đúng vậy. Mình mà một cái người nam và cái một người nữ, nhất là tu sĩ nữ, mà có hai người mà ngồi ở chỗ khuất. Như bây giờ mình ngồi đây này, có ở bên cái thư viện của Thầy đó, có một ông thầy ngồi nói chuyện với một cô ni, thử hỏi các thầy nghĩ sao với cô đó không, với ông thầy đó không? Tức là phải phạm tội rồi. Bởi vì mình muốn nói là phải có phòng khách, phải có nơi có chốn, mà phải nói phải có hai người, ba người chớ không có thể mà có một mình với cô ta được. Mà hầu như là người ta không có hiểu cái Giới này vì đó là giữ cái phạm hạnh cho chúng ta. Vì cái tâm của chúng ta ngồi riêng với một người khác phái nó hay sanh cái dục, chúng ta đâu phải Phật, chưa phải Phật là chưa ly hết dục mà, làm sao chúng ta hết được, thế mà chúng ta không có thấy được cái quan trọng đó mà chúng ta thấy thích, thích với người nữ, thấy thích với người ni, cho nên gặp thấy người ni là muốn nói chuyện à. Rồi người ni họ cũng thích người nam, họ cũng thích như vậy chứ đâu phải không. Mà trong khi thích thì họ muốn nói chuyện một mình chớ họ đâu muốn nói chuyện với nhiều người, vì nhiều người đâu có dám cười tình cười với nhau được, đâu có dám là háy huýt với nhau được. Còn ngồi một mình thì hai con mắt nó đá lia lịa, rồi cái lời nói nó lại nói những cái lời gì có thể, nó không có sợ hãi. Còn có người này người kia thì đâu có dè dặt được. Cho nên đúng là cái nghĩa của cái người tu sĩ Phật giáo là chúng ta phải sống độc cư, cắt ly không có bao giờ mà nói chuyện với cái người nữ. Không phải là chúng ta sợ, ngay bây giờ chúng ta là những người mới tu chúng ta còn yếu, khi mà chúng ta đạt được thành cái sức làm chủ rồi, tâm bất động rồi thì mặc tình chúng ta gặp. Nhưng mà lúc bấy giờ thì chúng ta cũng chẳng thèm gặp làm gì nữa, đi thì mắt ngó xuống có đâu mà chúng ta ngó qua ngó lại. Còn khi mà chúng ta ngồi nói chuyện làm gì mà chúng ta cười tình với người nữ được, cái tâm dục nó đâu còn mà cười tình với họ được. Cho nên chúng ta chẳng còn sợ nữa. Còn bây giờ coi chừng cái tâm của chúng ta khởi lên với cái nụ cười này, với ánh mắt của chúng ta này, coi chừng nó cười tình, nó liếc tình với nhau đó, rồi nó gây cho chúng ta không bao giờ tu tới đâu được hết. Cho nên ở đây cái Giới luật đó cấm là đúng đó. Thầy công nhận. Những cái nào đúng Thầy công nhận, những cái nào không đúng, Thầy thấy rằng cái giới đó chế ra không có đúng cách.
Giới 27: Giới hẹn với ni cùng đi một đường.
Vì sao Phật kiết giới này? Khi đó Phật ở nước Xá Vệ, Lục Quần tỳ kheo với Lục Quần ni du hành trong dân gian, cư sĩ chê hiềm. Nhân đó nên Phật kiết giới. Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này này, bây giờ chúng ta có hai cái tu viện, một cái tu viện nữ, một cái tu viện nam. Rồi bắt đầu quý thầy mới rủ ở bên nữ đi, nay mình đi Vũng Tàu chơi này nghe, tổ chức đi một cái xe. Rồi bắt đầu bên nữ cũng đi, bên nam cũng đi ra ngoài đó. Bởi vì mình nghĩ rằng mình một thầy một trò mà, một thầy mà, các trò đều là một thầy mà, cho nên cứ việc xả láng với nhau đó, thì cái điều đó là cái điều mà mai mốt cái tu viện nó tan nát hết không còn gì nữa. Đó là những cái sai, chúng ta chưa phải là Thánh, nhưng mà khi Thánh rồi chúng ta cũng không bao giờ mà có những cái  chuyện mà đi chơi với người nữ như vậy. Cho nên Thầy thấy hầu như các tu viện thiền á, hầu như có cái dịp mà rảnh rang, bên ni với bên nam họ rủ nhau đi chơi. Điều đó là họ tổ chức họ đi du ngoạn, họ đi chơi, họ đi tham quan chỗ này chỗ kia, đi tùm lum, tà la à. Rồi họ cặp nhau họ nói chuyện tầm bậy tầm bạ cuối cùng về Thầy thấy hai, ba cặp ra đời hết, cái chuyện đó là cái chuyện thường thôi.
Hai mươi bảy, giới hẹn với ni cùng đi một đường.
Vì sao Phật kiết giới này? Khi Đức Phật ở nước Xá Vệ Lục Quần tỳ kheo cùng với Lục Quần ni du hành trong dân gian. Cái này rồi phải không các con. Khi ấy tỳ kheo không hẹn mà trên đường đi gặp ni, vì cẩn thận sợ nên không dám đi, Phật dạy không hẹn thì không phạm. Ngài kiết giới này thêm: cùng hẹn khi ấy tăng ni hai chúng đều muốn đến nước Tỳ Xá Ly, do không cùng đi nên các ni phải đi sau nên bị giặc cướp. Đức Phật lại kiết giới thêm trừ trường hợp đặc biệt.
Nghĩa là khi mà cấm cái giới này ni cùng tăng không cùng đi được, do đó ni không dám đi với tăng, cho nên đi sau bị trộm cướp lấy hết đồ đạc, mấy ông tăng đi trước không có ai mà bảo vệ cho mấy người ni, cho nên Phật kiết giới trở lại.
Thực sự ra ở đây Thầy nói, khi mà muốn đi trên cái đường vắng như vậy thì không phải là ni nó không có cái lực lượng của nó đâu. Thầy cho một vài bà ni có võ nghệ coi ba cái thằng ăn cướp nó bẻ đầu hết chứ nó làm gì mà dám hiếp đáp. Thì trong cái giới ni đâu có phải là khi mà họ xuất thân họ vô tu, có nghĩa là họ ở ngoài đời họ có những người họ cũng có những người rất là thông suốt chứ phải không, cho nên họ đi đâu phải đi một mình. Muốn đến cái tu viện, muốn đến thăm Phật thì ít ra họ đi từ mười người, hai chục người thì làm gì cái bọn cướp ăn hiếp họ được. Cho nên đâu cần phải tăng che chở họ. Do vì vậy đó, thì cấm cái giới này thì cấm cùng đi là đúng, nghĩa là Thầy nói cùng đi là đúng. Họ có thể bảo vệ tự họ được, đừng có nghĩ rằng đàn bà họ yếu đuối đâu, họ cầm súng họ bắn giặc được thì tức là họ cũng làm cái gì cũng được, họ làm tổng thống cũng được chứ đâu phải họ làm không được. Họ cũng lãnh đạo chúng ni cũng hẳn hòi còn hơn tăng mình nữa. Thầy thấy bây giờ mấy cái chùa ni coi đông trùng trùng điệp điệp còn chùa tăng loe hoe có mấy ông à, chưa bằng họ chút nào đâu. Họ tổ chức cất chùa cũng vĩ đại, cũng không thua gì mấy ông tăng đâu. Chùa nào họ cũng cất kiên cố. Thí dụ như sư cô Diệu Hoa đệ tử của sư bà Huyền Ngọc, trên đường đi xuống dưới Hóc Môn, các thầy có thấy cất cái chùa ở Vĩnh Phước không. Quá chừng đồ sộ chứ đâu có phải, cô cũng đâu có thua gì bên tăng bao nhiêu đâu. Thầy Nhật Quang làm bao nhiêu cô cũng làm hơn nữa chứ đâu thua. Đó mà thầy Nhật Quang có sự ủng hộ của Hòa Thượng còn cô ta có Hòa Thượng ủng hộ đâu, cô cũng làm cái chùa cũng vĩ đại chứ đâu có thường. Thì thấy như vậy đâu có nghĩa là bên ni họ thua chúng ta chỗ nào đâu, nói về xây cất thì họ đâu có thua. Nhưng mà về cái sự tu hành thì họ đâu có thua gì, trong những cái Thánh ni mà chúng ta đọc thì chúng ta thấy rằng đâu có thua kém gì bên tăng chúng ta đâu. Cho nên đâu có nghĩa là mấy cô đó sợ ăn cướp đâu mà phải nương nhờ mấy ông tăng, bộ mấy ông tăng mạnh lắm sao, đi lớ quớ ba thằng ăn cướp nó cũng xỏ đầu mấy ông hết chứ ở đó mà.
Cho nên Thầy thấy ni nó cũng có trí tuệ, nó cũng có đủ sức của nó nó phải chiến đấu chứ nó đâu có phải, ở đây chúng ta cứ bắt ni nó phải thường nhường, là tại vì nó cũng có bản ngã dữ tợn, cũng có tài ,có ba, bản ngã nó lớn, nó có tình cảm nó cũng sâu cho nên đức Phật mới đặt ra Bát Kỉnh để nó khép cái mình của nó trong khuôn khổ, để cho cái ngã nó dẹp xuống, chứ còn nếu để cho nó mà lừng lên thử hỏi mấy ông thầy nó vuốt đầu hết á. Thiệt ra mà Thầy nói mà, cô Thủy hồi đó đó, như thầy Thông Quả đó với mấy chú nhỏ nhỏ vậy nè, thầy Thông Quả nói cái kiểu mà cô Thủy cô muốn vuốt đầu mấy chú nhỏ hết. Như thầy Thông Không còn nhỏ nhỏ đó, cô muốn rờ đầu mấy chú đó coi như là em út, coi như là con cháu cô không đó. Như vậy là mấy vị đó thọ tỳ kheo rồi mà cô còn vuốt đầu thì mấy thầy biết à. Thầy Thông Quả nói với Thầy mà chớ đâu phải là không có đâu, Thầy nói cái kiểu cô Thủy cô vuốt đầu mấy thầy nhỏ nhỏ này hết. Mấy thầy này thọ tỳ kheo rồi. Chứ cô có quỳ kỉnh đâu. Cô thò tay cô muốn rờ đầu hết.
Đó thì như vậy là cái ngã của bên ni dữ lắm. Mà khi đó các thầy thấy cô Thủy cô thuyết giảng ai cũng ca ngợi cô hết thì bây giờ cô phải là bậc đại sư rồi còn gì nữa, cho nên cô vuốt đầu mấy ông nhỏ này là phải lắm chứ đâu có thường. Phải hiểu được tâm trạng của người ni như vậy cho nên Phật chế Bát Kỉnh là để dằn cái ngã của họ xuống. Họ là những người mà tu chưa chứng thì cái ngã của họ dữ tợn lắm, thì trong cuộc đời chúng ta, chúng ta cũng thấy được cái chỗ đó chớ đâu phải không thấy. Mà thấy được như vậy mới thấy Bát Kỉnh của Phật.
Giới cùng ni đồng đi một thuyền.
Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại nước Xá Vệ, Lục Quần tỳ kheo ni đi trên thuyền ngược dòng và xuôi dòng, cư sĩ chê hiềm nên Phật chế giới này. Khi ấy tỳ kheo không hẹn mà gặp ni, cẩn thận sợ không dám đi, Phật dạy không hẹn thì không phạm. Bởi vì mình không có hẹn thì làm sao phạm, bây giờ mình lên xe đụng cô ta ở đâu Tây Ninh, cô ta ngồi sẵn đó rồi. Bắt đầu thấy mặt cô ta cái mình nhảy xuống xe không đi không được. Làm quá thấy cô ta như quỷ sứ vậy sao. Đâu có chuyện đó, cô với mình đâu có quen biết. Có ngồi sát lại tìm cách gợi chuyện à, cô cũng đầu tròn, tôi cũng đầu tròn rồi ngồi nói chuyện với nhau thì không có được. Do đó mình lên xe thì mình thấy cô ta ngồi cái băng đó thì mình ngồi lút ở băng sau hoặc ngồi trước làm sao cho đừng nói chuyện với nhau đó là điều tốt. Còn cái này mình sề lại gần bên đó mình kiếm chuyện nói với cô ta thì cái kiểu đó, làm quen hỏi cô ở chùa nào, ở đâu, này kia, mai mốt tôi có rảnh, tôi có dịp về thăm chùa, thăm cô này kia đó là mình kết bạn, kết tình như vậy là sai. Nó gợi tình gợi cảm như vậy đó là mình không có ly dục, ly bất thiện pháp. Mình biết nó là rắn độc thì mình nên tránh. Còn đằng này mình thấy rắn độc mà mình cứ đến để cho nó quấn đầu mình thì mình ráng chịu. Còn ở đây thì mình thấy như vậy không có nghĩa là Phật cấm cái giới đó cái rồi mình bước lên xe đò cái mình vừa thấy cô ni ngồi trên đó mình lật đật nhảy mình xuống, không được, không được, mấy ông tôi đi xe sau chứ xe này tôi không đi. Mấy ông lơ hỏi: gì vậy, ở đây còn chỗ mà sao thầy không đi? Nói: không không, ở đây có rắn độc, tôi không dám đi. Thì như vậy là mình nói tầm bậy rồi.
Đó là cái sai, cái không đúng. Cho nên ở đây thật sự ra khỏi cần chế đi nữa Thầy cũng nói mình không hẹn là không có tội lỗi gì hết, mình cứ đi nhưng mà đừng có nói chuyện với họ thôi. Bởi vậy khi mà đức Phật dạy đó: Lỡ mình gặp thì đừng có nói, lỡ mình gặp thì đừng có nhìn, mà lỡ nhìn rồi thì đừng có nói chuyện. Phật đã dặn mình trước rồi, bây giờ lỡ mình thấy nó rồi thì mình đi ra xa chỗ khác, mình đừng có nhìn nó nữa, và mình đừng có nói chuyện với nó thì đâu có sao. Tới chừng đó mình tới chỗ mình xuống, còn nó tới chỗ nó nó xuống khỏi cần ai nói chuyện với ai hết. Đó là cái phòng hộ sáu căn của mình ngay từ cái đó đó. Đó là những cái pháp Phật dạy phòng hộ sáu căn.  Đó thì những cái giới này có chế đi nữa, có chế qua chế lại đi nữa, hẹn thì tức là lỗi rồi đó, mà không hẹn thì làm sao có lỗi được, cho nên vì vậy mình cứ mặc nhiên không có gì mà lo. Đó là những cái đó khỏi cần chế những cái giới làm gì cho mất công, cho nó nhiều, để rồi mất ngày giờ mà tụng giới, học mất thì giờ.
Giới ni khen ngợi được thức ăn ngon.
Vì sao Phật kiết giới này? Khi đức Phật ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ trong thành có một cư sĩ thỉnh ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dùng cơm, Thâu – Lan – Nan - Đà ni đến trước nhà kia nói với cư sĩ rằng: Hai tôn giả là người hà tiện lắm, khen Đề - Bà - Đạ t- Đa là một bậc rồng, một loại rồng lớn. Khi đang nói thì hai tôn giả đến, cô ta liền đổi lại nói là bậc rồng trong loài rồng đã đến. Cô này khéo miệng dữ lắm. Hai tôn giả thọ trai rồi về bạch Phật. Phật quở trách bè đảng của Đề Bà Đạt Đa cho ni đi khuyến hóa để được ăn, nhơn đó Phật kiết giới. Sau đó có tỳ kheo trước không biết là do ni khuyến hóa ăn rồi cầu sám hối. Phật dạy không biết không phạm. Phật kiết giới này lại thêm chữ biết thay chữ sai. Lúc ấy trong thành La-Dịa có một trưởng giả là bạn thân của tôn giả Lê-Sư-Đạt nghĩ rằng nếu Lê-Sư-Đạt đến ta sẽ vì tôn giả từ đầu đến cuối cúng dường cho chúng tăng. Một cô ni biết việc đó nên thấy tôn giả đến thành liền báo cho trưởng giả hay để sắm phẩm vật cúng dường, tôn giả cho đó là phạm giới, do lời khen của ni mà được ăn nên không dám ăn. Phật dạy nếu đàn việt có định trước thì không phạm. Phật kiết giới này là một lần nữa mới hoàn thành.
Thì cái giới này thì các con thấy, hầu hết là cái giới ni nó hay làm môi giới lắm, nó đến với phật tử nó nói ông thầy đó tu vậy vậy đó, nên cúng dường cho ông ta. Bữa nay mà ông đến đây mà ông thăm gia đình thì phải làm cái gì cúng dường cho xứng đáng, nó giới thiệu này kia để cho ông thầy đó. Tức là nó có cái tình cảm với ông thầy đó nó mới giới thiệu như vậy, nó mới làm cái chuyện như vậy. Do những cái chuyện như vậy đó mà Phật chế giới là khi cái người ni mà giới thiệu như vậy thì ăn chúng ta cũng không ăn nữa, mà lãnh cái gì nhận cúng dường, không có lãnh, mà nếu lãnh thì phạm tội. Thì do như vậy là đức Phật cấm cái điều mà khi mình đến để cho tự nhiên người ta cúng dường mình hơn là có người giới thiệu rồi mình đến thì người ta cúng dường mình bằng cách là thực phẩm ngon, bằng cách là đồ đạc tốt, dược phẩm tốt, thì cái điều đó là có cái người giới thiệu, thì họ phải sắm sửa cái đó. Còn tự nhiên mình đến, họ thình lình, họ cúng dường mình với tư cách là họ không có đặt trước không có nghĩ trước cho nên nó không có phải sắm sửa trước, vì vậy đó là giới của Phật để chúng ta đến một cách rất tự nhiên và tu một cách rất tự nhiên.
Ba mươi: Giới hóa thọ cúng một bữa.
Vì sao Phật kiết giới này? Xưa Phật ở tại nước Xá Vệ, lúc ấy ở nước Câu-Tát-La có một cư sĩ ở nơi không có trú xứ của tăng, thường cung cấp cho tỳ kheo một bữa ăn. Lục Quần đến nơi đó tham đắm thức ăn ngon, ở lại đến đêm thứ hai do không chịu đi, cư sĩ chê hiềm. Đức Phật vì vậy mà kiết giới này. Khi ấy ngài Xá Lợi Phất đến đó rồi mắc bệnh, sợ phạm giới này ngài liền phải dời đi, do vậy mà bệnh nguy kịch, do nhân duyên đó mà Phật kiết giới lại thêm vô chữ: vô bệnh.
Cái giới này là tại vì khi cái du tăng khất sĩ trong thời đức Phật họ đến cái chỗ này rồi vài ba bữa rồi họ xin họ đi chỗ khác, còn mình thấy ở cái chỗ này cúng dường đồ ăn ngon, rồi ở miết ăn đó thì cái người cư sĩ ngày nào họ cũng cung cấp riết họ thấy họ bực mình họ nói: mấy ông này nghe nói du tăng khất sĩ chứ ông có du tăng gì, ông ở đây ông ăn được rồi ông cứ ăn riết hoài không có chịu đi. Đó là do cái chỗ đó mà Phật chế giới này, vì vậy mà khi đó ông Xá Lợi Phất ông đến cái chỗ đó mới có một bữa, hai bữa à mà bây giờ ông gặp bệnh do vì vậy đó mà ông cũng phải đi chớ không dám ở. Ở người ta nói mấy ông này du tăng khất sĩ mà cứ ở đây miết đây ăn hoài, thì mang cái tiếng, cho nên vì vậy đó mà ông Xá Lợi Phất bị bệnh mà đi. Cho nên Phật mới chế trở lại: vô bệnh thì đi mà có bệnh thì ở lại. Đó là như vậy.
Thì trong cái giới này Thầy thấy đó là cái đời sống Phạm Hạnh. Đúng vậy, chúng ta ở một chỗ nào thì chúng ta tiêu phí bao nhiêu cái mồ hôi nước mắt của người khác, mà ở lâu thì người ta nghèo đói, cho nên chúng ta phải đi chỗ khác, không có ở một chỗ. Vì vậy mà cái khi đó, người ta cúng dường mình một ngày, hai ngày là người ta đã thấy cái ngân quỹ của gia đình người ta cũng quá kém khuyết rồi, mình đi chỗ khác để nhờ người khác nữa, chớ còn ở một chỗ thì người ta phải kiệt quệ, gia sản người ta phải tiêu vì cái lòng ngưỡng mộ Phật pháp mà người ta cúng dường mình, cho nên cái đoàn du tăng khất sĩ của Phật có lẽ là qua một cái bài này Thầy nghĩ rằng người ta ở đó chắc cao lắm cũng chừng năm ngày, mười ngày là hết sức chứ không có ở lâu, mà đi chỗ khác.
Mà với một số lượng đông như vậy mà gặp cái chỗ nghèo thì càng đi mau, có thể ở đó chừng một ngày, rồi xin được bữa ăn rồi họ đi chỗ khác vì thấy nghèo quá. Còn chỗ nào mà trù phú, đầy đủ gạo thóc thì chắc có lẽ ở đó lâu, hoặc là an cư kiết hạ đó ba tháng. Chứ còn ngoài ba tháng an cư kiết hạ là lâu nhất, chứ còn chắc ở chỗ này chừng vài hôm hoặc chừng năm mười hôm rồi đi chỗ khác. Đó là trong cái đời sống du tăng khất sĩ thời đức Phật, khi đọc qua mẩu chuyện của thánh tăng và những cái mẩu chuyện mà ở trong kinh giới thì chúng ta thấy đời sống nó rất là phù hợp cho cái sự giải thoát của sự tu hành của mình.
Giới ba mươi mốt: Giới cùng phụ nữ đồng đi một đường.
Vì sao Phật kiết giới này. Khi Phật vẫn ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ tôn giả A-Na-Luật trên đường đi có một phụ nữ cùng với mẹ chồng cãi lộn, muốn về lại phía ngoại, bèn đi theo cùng đường với tôn giả, người chồng của bà ta rượt theo gọi tôn giả dụ vợ mình cùng đi trốn, bèn đánh tôn giả gần chết. Tôn giả liền đứng qua một bên đường nơi chỗ vắng ngồi kiết già nhập hỏa quang tam muội, người đàn ông kia sanh thiện tâm, đợi tôn giả xuất định đảnh lễ sám hối. Tôn giả vì ông mà nói diệu pháp cho nghe rồi đi. Khi về chùa nói lại cho các tỳ kheo nghe. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó mà kiết giới.
Thật sự ra cái câu chuyện này đặt giới này Thầy thấy một vị mà tu sĩ như ông A Na Luật có thiên nhãn siêu nhiên thuần tịnh, thế mà không hiểu được cái nhân quả hay sao? Cùng đi trên một cái đường có một cái người nữ đi cùng bà mẹ chồng, bây giờ đó vì cái hiềm hận nào đó mà bà ta bỏ mẹ chồng đi qua cái nẻo khác với ông A Na Luật thì lúc bấy giờ ông A Na Luật ông điên gì mà ông đi cùng với bà ta sao? Ông là một người trí tuệ, là một cái người hiểu biết nhân quả thì ông biết rằng bây giờ đi với bà ta, cái chuyện này hồi nãy là bà mẹ bà chửi cái bà dâu này dữ tợn rồi, bà này bà buồn bà bỏ đi, mà bây giờ mình cứ đi chung với cái bà này thì biết đâu chừng bà mẹ bà nghi rằng mình dụ con dâu của người ta, có nguy hiểm không? Đây là cái hành động đi trên đường mà tỉnh thức chúng ta vẫn xét qua nhân quả, chúng ta vẫn biết có thể tai họa đến cho chúng ta. Một người ngu si như Thầy nè mà Thầy làm cái việc gì Thầy cũng nghĩ đến hậu quả của nó, đến cái sự suy nghĩ của nó như thế nào để đem đến cái tốt hay cái xấu chứ. Mỗi một lời nói ra Thầy còn phải suy nghĩ à bây giờ lời nói đó nó nằm trong cái nhân nào, cái quả nào chứ, không lý nào ông A Na Luật là một bậc thánh tăng, một vị đệ tử ở thời đức Phật, ông không hiểu đường đi nhân quả hay sao, ông không biết sao? Để tới chừng mà ông chồng ông theo ông đập ông gần chết rồi ông mới ngồi ông nhập định hỏa quang tam muội để ông phục hồi lại thì thiệt là ông này đời cho tới chết rồi ông mới có chuyện làm đó, làm cho ông kia hoảng hồn mà đảnh lễ ông. Thì đây là muốn nói chuyện về thần thông chơi chứ có nghĩa lý gì. Chứ ngay từ đầu là người tu sĩ người ta đã ý tứ rồi, người ta biết là cái bà này là như thế nào rồi, con người này như thế nào rồi, người ta biết ngay cả tâm trạng. Mà có thiên nhãn như vậy rồi thì làm sao mà không biết, tâm tham biết tâm tham, tâm sân biết tâm sân, tâm gì biết tâm gì của người khác hết rồi, thì làm gì đâu có lý nào mà không rõ nhân quả. Cho nên kiết giới như vậy là kiết giới để hạ những bậc A-La-Hán trong thời đức Phật đó, Thầy nói thẳng. Xem người ta là những bậc thánh tăng, phải chi mà đưa cái ông nào khác ra như ông Đề-Bà-Đạt-Đa hoặc là cái ông tỳ kheo nào hoặc như Lục Quần tỳ kheo đi cũng được thì Thầy cũng cho được, đằng này xách cái ông A Na Luật ra mà đưa vô chỗ này thì thiệt là hạ các bậc A-La-Hán trong cái thời đức Phật, những bậc thánh tăng mà chúng ta thường phải là tán thán và ca ngợi những cái hạnh tu.
Các thầy nhớ ông A Na Luật mà sống với ông Kim tôn giả, ông A-Nan-Đà tôn giả, mà ba vị mà sống chung nhau một cái nhà mà độc cư hoàn toàn không nói, ba năm mà không nói chuyện, cái hạnh đó chúng ta thấy phải đâu là dễ làm sao, sống chung nhau mà không nói. Người nào cũng trình bày con sống con tùy theo cái tâm của huynh đệ con, con không sống cho cái tâm của con. Câu nói đó Thầy thấy người mà sống mà tùy thuận ở tâm người ta, ở ý kiến người ta để sống thì làm sao mà lại không có thấy được cái nhân quả. Người ta thấy được nhân quả cho nên người ta sống được với cái ý kiến khác người ta, không sống với ý kiến của mình là người đã hiểu nhân quả. Còn cái người chưa hiểu nhân quả sống với ý của mình không à, cho nên đem lại bao nhiêu cái sự khổ. Còn cái người mà người ta, bởi vì Thầy dạy nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nè. Mà cái tùy thuận thì đó là chúng ta sống trong những cái ý của những người khác, mà ông A Na Luật đã trình bày cho Phật: con sống giữ độc cư, sống không nói chuyện với nhau là con đã sống tùy thuận ở ý của các tôn giả khác, của hai tôn giả kia, cho nên chúng con sống rất là an ổn. Rồi hỏi hai tôn giả kia, thì hai tôn giả kia cũng trình bày, con cũng sống tùy thuận lại cái ý của các tôn giả khác cho nên con rất an ổn không có gì.
Thật ra chúng ta bây giờ ở trong tu viện chúng ta mười mấy vị này, mà chúng ta sống tùy thuận với ý của người khác làm sao chúng ta có nghịch ý không? Tại vì mình không có tùy thuận được ý người ta cho nên mình mới sống không có... Mà lại ở trong luật này lại lôi ông này ra thì Thầy thấy qua cái hạnh của ông là tuyệt vời, tức là ông đã sống trong nhân quả rất rõ. Tùy thuận, tùy thuận tức là chúng ta đã dừng cái ác, cái con đường, cái nhân quả ác mà chúng ta sống trong con đường thiện. Rõ ràng là chúng ta phải thông suốt được cái chỗ sống này mà chúng ta biết được là mấy ông này là những bậc mà thông suốt nhân quả. Bởi vì cái đường đi nhân quả nó vẽ cho chúng ta thấy rất rõ ràng, cái sống của người nào, chúng ta biết cái người đó đã rõ. Vậy mà lôi ông này ra đợi tới chừng đập gần chết ông rồi ông mới nhập cái định hỏa quang tam muội để rồi  phục hồi sự sống ông lại, làm cho ông kia thấy mới hoảng hồn sám hối, thì cái chuyện đó là lấy thần thông dọa người ta chứ người ta có sợ ông đâu. Ông là cái người mà dẫn vợ tôi thì tôi đập ông chứ có tha ông đâu, bây giờ ông làm bộ ông hiện thần thông, ông niệm chú gì đây, ông làm cho tôi sợ. Rõ ràng thì chỉ biết lấy cái thần thông để dọa người ta chứ không phải lấy nhân quả để mà sống đúng. Cho nên giới luật như vậy là Thầy thấy chỉ có người sau mới làm cái chuyện này mà phỉ báng những bậc thánh tăng trong cái thời đức Phật. Qua một cái giới là đã thấy họ đã phỉ báng Phật pháp chúng ta rồi.
Ba hai: Giới lần lượt ăn.
Vì sao Phật kiết giới này? Đức Phật ở thành La Việt, do chuyến du hóa nhân gian, có Sa-Nậu bà la môn chở 500 chiếc xe thực phẩm chở thức ăn, trải qua mùa đông đến mùa hạ đến bên cạnh Thế Tôn chờ đợi được cúng dường mà không có ngày nào mà không có người cúng. Người ấy đến nói với tôn giả A-Nan thay mặt bạch Phật muốn dùng thức ăn này trải nơi đất để đức Phật và tăng đi qua gọi là nhận sự thọ dụng cúng dường. Đức Phật bèn cho phép nấu cháo, làm bánh cúng chư tăng, sau khi ăn sẽ thọ thời thực. Khi ấy nước Tần Già có một đại thần có một chút lòng tin sắm những thức ăn ngon mời tăng, song tăng cũng dùng cháo đặc nên không thể ăn nhiều được, đại thần chê hiềm. Phật chế không cho phép ăn cháo đặc.
Cái đó là cái sai, ông Phật mà chế như vậy là Thầy thấy là quá sai rồi, không có cho ăn cháo đặc. Bây giờ có đồ ăn của ông quan đại thần cúng ngon quá rồi chế giới cấm không cho ăn cháo đặc, cháo dở. Do cái lòng cúng dường của người ta mà như vậy Thầy thấy thật sự cái lòng cúng dường của người cư sĩ này họ kéo 500 cái cỗ xe đến, bây giờ chỉ còn nấu cháo đặc ăn, nhiều đồ ăn quá rồi ăn không hết rồi giờ nấu cháo đặc để cho mấy người này ăn thì như vậy tới chừng có vị đại thần cúng thì lại cấm không cho ăn cháo đặc nữa, đem phí bỏ cái của mà 500 cỗ xe thực phẩm của người này đi. Thì như vậy ông Phật là cái gì? Thầy thấy cái đó là trật. Bây giờ ông A-Nan vô nói bây giờ có một vị cư sĩ đó họ kéo 500 cỗ xe đến để cúng dường trong cái mùa hạ này cho chư tăng ăn, thì như vậy là đức Phật phải phân bố: Bây giờ các ông chưa cúng dường là các ông chưa được nấu, phải không. Các con thấy không, đây là người ta kéo từ xa người ta đến đây rồi, người ta có cái lòng. Bây giờ mấy ông xin cúng dường, ngày hôm nay mấy ông dừng lại, tôi chấp nhận cho cái vị cư sĩ này đem những thực phẩm này nấu, hoàn toàn là 1250 vị tỳ kheo thọ dụng của cái ông này, cái lòng của ông đó từ hôm ấy đến nay ông chờ cả tháng rồi, bây giờ bắt đầu cho ông cúng dường rồi ông về chứ không lẻ ông cứ neo ở hoài lại đây. Còn mấy vị ở đây thì tuần tự mấy vị sẽ cúng dường, không có lật đật gì hết. Cái đó lẽ đương nhiên là đức Phật phải truyền lệnh rồi. Ông Phật gì đến độ gì không thấy gì hết, rồi bắt đầu bây giờ mới cho người ta nấu cháo để mà đổ trên đất để cho các vị  tỳ kheo đi trên đó là đủ rồi để mà coi như thọ dụng cúng dường rồi. Rồi trong khi ăn đồ ăn lại thọ thêm mỗi người bát cháo để cho cái chứng minh vậy thôi, có phải phí của người ta không? Mồ hôi nước mắt người ta làm ra, mà ông Phật như vậy là ông Phật là thứ gì?
Cho nên đối với Thầy nếu mà cái giới này mà do ông Phật làm ra là Thầy cũng quật ông Phật này luôn chứ đừng nói chuyện Thầy tha. Của mồ hôi nước mắt người ta làm ra mà, ít ra mình cũng phải bây giờ người ta có cái lòng tin tưởng mình đến cúng thì mình ngăn mấy người này đi, mấy người khoan nấu đã, ngày mai này tôi chấp nhận cho 500 cỗ xe bò này cho 1250 vị tỳ kheo này thọ dụng cái của này nè, lòng cúng dường của họ nè, thì ngày mốt quý vị sẽ bắt đầu quý vị tiếp tục cúng dường. Đó là cái lệnh của đức Phật mà, đâu có làm cái chuyện đó được. Vì vậy mà đâu cần phải chế cái giới này. Thì Thầy nói đó như vậy là chúng ta phải thấy được cái tổ chức của chúng ta có cái nghiêm chỉnh hẳn hòi, đàng hoàng chớ đâu phải là bây giờ người ta cúng nhiều quá rồi cái mình đem đổ đồ ăn xuống để mình đi trên đó để coi như mình thọ dụng. Phí quá vậy, đâu có được cái chuyện đó đâu. Đó là cái giới đó.
Giới thứ ba ba: Giới riêng cho chúng mà ăn.
Vì sao Phật kiết giới này? Khi đó đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Phật, Đề Bà Đạt Đa bị tiếng xấu truyền khắp, phương tiện sống bị chấm dứt bèn cùng năm tỳ kheo nhà nhà khất thực, Phật nhơn đó mà kiết giới này. Nếu tỳ kheo biệt chúng phạm Ba Dật Đề, khi ấy có tỳ kheo bệnh không dám biệt chúng thực, Phật dạy cho phép tỳ kheo bệnh được ăn riêng. Khi ấy tự tứ xong trong thành Ca Đề khi may y có ưu bà tắc sợ tỳ kheo vất vả không ăn được nên mời ăn, các tỳ kheo nói chỉ thỉnh ba vị ăn, chúng tôi không được biệt chúng thực. Phật dạy cho phép khi may y được phép thọ biệt chúng thực.
Ở đây Thầy thấy cái chế giới như vậy là quá lợi dưỡng cho cái người sau này mà người ta lợi dụng cái giới luật của Phật mà người ta làm không có đúng cái cách mà những cái giới như vậy. Thí dụ như bây giờ đó đức Phật chế ra cái giới là cái người biệt chúng đó là tức là bị phạm cái giới nào đó, người ta cho biệt chúng cái người đó là ở một nơi nào đó. Thì cái người đó họ vẫn đi khất thực hàng ngày họ sống chứ, tại sao không cho họ đi khất thực, rồi ai đem cơm cho họ ăn. Đó là cái riêng. Rồi bây giờ khi mà họ bệnh thì lại cho họ ăn riêng ra, họ bệnh thì họ cũng ăn một bữa. Chừng nào mà, khi nào mà họ thấy rằng bữa trưa họ ăn không được do đó họ cần phải uống thuốc hay cái gì đó để họ ăn thêm hoặc ăn cháo gì đó cho họ khỏe thì họ khai cái giới ra, chứ cần gì mà phải chế giới ra như vậy, nó luộm thuộm, nó đủ cách như thế này. Thật ra chế giới như vậy nó không có đúng cách. Bởi vì khi thí dụ như mình bệnh, ngày hôm nay mình uống thuốc, ngày mai nó bớt thì mình cứ giữ ngọ mình ăn, mình đâu có gì mình phạm mà phải chế tới chế lui, cho nên chế như vậy đó, để rồi người ta lợi dụng bệnh người ta ăn riêng, người ta ăn hai ba bữa, người ta bị bệnh phải ăn cho nó mau khoẻ. Sự thật ra không phải đâu. Ở đây là mấy vị sau này bày đặt ra đủ thứ để mà phá giới của Phật đó, phá giới ngày ăn một bữa. Bởi vì chính nó ăn ngày một bữa là ly dục, vì vậy mà dù chúng ta có uống thuốc, có gì đi nữa thì chúng ta cũng chỉ khai giới ra, bây giờ trong cái buổi chiều này mình không có ăn nè, mình khai giới ra, mà vì uống thuốc đó nó sẽ cào bao tử mình nè, mình khai cái giới ra, khai rồi bắt đầu mình lấy ly sữa hay gì đó mình uống thuốc với cái ly sữa đó, xong rồi thì coi như mình vá lại liền, tức là từ đây về sau không có ăn uống phi thời nữa vì mình uống thuốc rồi và cái ly sữa nó bảo đảm cho cái bụng mình không bị cào, do đó mình khai ra, mình khai rồi mình đóng liền.
Như vậy là đúng rồi còn bày đặt chế... cho ăn riêng, ăn riêng để rồi ăn riêng tư để rồi lát ăn nữa, lát nữa ăn nữa. Cái bụng của mình, cái tham dục của mình mà, biết chừng nào mà cái miệng của mình nó mới dừng lại được, nó khoái ăn lắm. Mà cho nó cái giới riêng biệt như vậy rồi bắt đầu nó lợi dụng cái đó nó ăn lia lịa rồi bắt đầu nó cứ nằm dật, nằm dựa đó nó cứ bệnh hoài đó chặp nó ăn. Cái đó là cái bệnh ăn chứ đâu phải là bệnh. Còn người ta bệnh thật là người ta khai ra rồi người ta uống thuốc rồi người ta vá lại liền, người ta đóng lại liền. Đó là những người bệnh thật mà người ta biết trì, phạm, khai, vá cho đúng cách của nó, thì đó là chúng ta đâu có cần gì phải phạm mà phải đem ra xử phạt tội này, tội kia. Đó thì như vậy là chúng ta thấy được những cái điều kiện mà chúng ta cần phải học giới.
Đến chỗ này thì Thầy xin dừng lại, chiều nay chúng ta sẽ học tiếp nữa.
Bây giờ Thầy tiếp tục giảng cho mấy con nghe tiếp tục về cái giới bổn. Trước khi mà nghe giới bổn thì Thầy cũng nhắc nhở cho các con thấy con đường tu theo đạo Phật. Vừa rồi buổi sáng trước khi mà học về cái giới bổn thì Thầy cũng tóm lược lại cho các con thấy rằng mới bước đầu chúng ta phải tu cái gì, tập luyện cái gì rồi sau đó chúng ta mới tập những cái xa hơn. Thầy có cho về cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Thầy có nêu ra 10 cái điều kiện mà tu tập cái Chánh niệm tỉnh giác định và cái định Vô Lậu thì Thầy cũng có nêu ra 10 cái điều kiện để mà chúng ta tu cái định Vô Lậu. Nếu mà Thầy ngồi mà soạn ra cho các con tu thì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nó không phải 10 điều đâu, cả hai ba chục điều kiện để mà chúng ta tu hàng ngày chứ không phải là ít. Và cái định Vô Lậu cũng rất nhiều chớ không phải ít. Vì các pháp...mà các pháp nó làm cho chúng ta sanh ra lậu hoặc, do đó chúng ta phải tùy theo các pháp mà đặt niệm để mà tu cái định Vô Lậu quét sạch.
Cho đến bây giờ chúng ta khi mà nghe được cái giới bổn thì chúng ta hầu hết các giới là đều có cái sự mà vô lý hết sức, đặt vô lý. Và cái người mà phạm giới thì chỉ có một cái số quanh quẩn, chỉ có một số rất ít, mà tại sao là khi những cái người đó phạm giới như vậy mà không tống cổ họ ra khỏi cái tu viện để cho cái tịnh xá nó bị tiếng tai thế này thế khác, cũng chỉ có bấy nhiêu cái người đó mà thôi. Cho nên vì vậy muốn mà thanh tịnh, muốn không có chế cái giới bổn thì chúng ta đã có những cái giới kinh, những cái giới kinh là những bài pháp chúng ta đã tu học thì nó đã giữ gìn cái thân và cái tâm chúng ta thanh tịnh, ly dục ly ác pháp rồi, cần gì mà phải chế giới bổn. Mà nếu mà có chế giới bổn đi nữa thì cũng phải chế như thế nào để cho nó phù hợp, nó làm cái hàng rào hoặc làm một cái tường đồng để ngăn chặn những cái điều mà các pháp ở bên ngoài có thể xâm chiếm vào tâm của người tu sĩ. Để trở thành người tu sĩ rất khó khăn để ly dục ly ác pháp. Thì như vậy mới chế giới bổn. Còn chế giới bổn gì mà còn rộng rãi rồi còn thêm, còn bớt.
Cũng như bây giờ chúng ta ly dục, ly thì thiệt ly đi, còn không thì còn nhỏ giọt, nhỏ giọt. Cũng như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa mà rồi chế giới để bớt đi, để sáng chúng ta còn ăn tiểu thực, rồi chiều chúng ta còn uống sữa, uống cafe hoặc là uống nước sinh tố, trái cây gì đó. Làm như vậy cũng như là thôi thà chúng ta sống ngoài dục lạc ở thế gian đi, chúng ta ăn uống ăn cho đã đi. Tu thì tu cho thiệt tu đi, còn đằng này cứ nhỏ giọt nhỏ giọt nó thèm thấy mồ à. Uống một ly đâu có đã, nó muốn uống năm ba ly chứ đâu phải uống ly mà cứ nhỏ từng giọt như vậy thử hỏi có gẹo gan không? Thì như vậy làm sao mà tu hành. Thầy nói thật sự thà dứt là dứt mà không dứt thì thôi, còn cho bày đặt uống buổi chiều, uống buổi chiều, uống nhiều thì không dám sợ no bụng ngồi thiền không được, hôn trầm, còn uống ít ít, ít ít nó cứ thèm hoài. Người ta cứ uống, uống đã nó không thèm còn mình uống ít ít nó cứ thèm hoài, nó muốn uống hoài à, do đó coi như là gẹo gan cho dục lạc nó dẫn dắt chúng ta chứ làm cái gì. Cho nên Thầy thấy chế giới kiểu đó riết mấy ông tu sĩ phạm giới hết là phải. Bởi vì những người sau họ chế giới tầm bậy tầm bạ, họ làm cho cái người đời sau tu không được, phạm giới hết.
Do vì vậy đó mà hôm nay thì trước khi học đó, Thầy muốn hỏi các con cũng như bên nam, thì ai có điều gì muốn thưa hỏi Thầy. Bởi vì thời gian Thầy thấy nó quá ngắn rồi, còn có mười mấy ngày nữa mà nó hết cái mùa hạ rồi, hôm nay là 28, 29 rồi, thì con 14...Tới ngày 14 là Thầy giải hạ để cho quý thầy còn về chùa cúng rằm nữa chứ để không cái chùa vắng hoe, không có ai cúng quải gì hết. Thì người ta nói tu thiền riết rồi cái chùa bỏ.
Tu sinh hỏi:
Con tu định vô lậu, trước kia thì con tu như mấy cái bài Thầy dạy mấy vị Thánh ni hồi trước thời đức Phật đó, thì tu định vô lậu như định bốn sự thật, tứ bất hoại tịnh. Con quán hai cai đề tài đó rồi con tu, rồi con ngồi con đặt niệm trước mặt, con ngồi 30 phút rồi con quán thân vô thường, các pháp cũng vô thường, vô ngã không có thật, con quán đủ thứ hết để mà con cho thấu triệt được cái lý đó, con xả bỏ rồi con quét sạch nó ra, con tu như vậy thời gian một tuần lễ thì con thấy kết quả nó không được khả quan lắm cho nên con rồi đổi lại con tu.
Bởi vì con thường thường tối con nằm ngủ con theo dõi hơi thở đó, con để ý con theo dõi hơi thở thì cái tâm nó yên lặng lắm, rồi con đổi lại con ngồi ghế dựa hay là con nằm con quán xét tâm con đó Thầy, coi nó khởi nghĩ những cái gì, nếu nó khởi nghĩ ra rồi con xét coi nó là tham sân, hay là thương ghét, hay là si mê, những cái gì dục lạc thế gian đó, thì con cũng dứt bỏ nó.
Con cũng thường đem tâm ý con quán như vậy thành ra cái tâm nó được yên ổn rồi nó không có còn lăng xăng như trước. Cái tưởng thưa Thầy, cái ý mình không có làm việc thì cái tưởng nó ưa xen vô. Mấy hôm con quán về tâm thì cái ý thức nó làm việc thường xuyên đó, khi con ngồi con thở bình thường con cũng theo dõi hơi thở, rồi cái ý nó cũng nương theo đó nó quán xét cái tâm coi nó nghĩ cái gì, nó khởi cái gì. Mà nó khởi nghĩ lên thì con đoạn dứt nó. Mà khi con quán xét như vậy thì ít có khởi nghĩ, nó cứ theo dõi hơi thở bình thường thì nó yên ổn. Rồi như hôm trước thì Thầy dạy con tu tác ý để cho hơi thở ngừng nghỉ đó.Thì sau này con nghe Thầy dạy như thầy Thiện Thuận mà thầy tu rồi thầy tịnh chỉ được hơi thở mà âm thanh còn nghe, thầy bị tẩu hỏa nhập ma đó, thành ra con sợ âm thanh khi còn nghe, mình tịnh chỉ rồi sợ tẩu hỏa nhập ma cho nên con hổng dám ám thị tịnh chỉ nữa mà con chỉ ám thị cho dừng âm thanh đó, dừng âm thanh cho nó không có tác động vô. Cũng như con biểu cái nhĩ căn nó quay vô trong nó nghe hơi thở đi, thì hôm rày con quán như vậy chứ con không có ám thị tịnh chỉ.
Rồi con ám thị như vậy thì nó có hiệu lực lắm, nó quay trở vô liền Thầy, con vừa ám thị nó gom chặt thật chặt nó quay trở vô,  thì âm thanh những tiếng động nhỏ con cũng hổng nghe như là heo kêu rồi thì con cũng không có nghe nữa. Nó gom thật chặt, gom cứng lại luôn, mà giờ con bảo giờ quay vào trong nghe, nó quay vô liền, đó thì con thấy nó rất là hiệu quả hơn trước nhiều lắm.
Đó thì hôm rày con tu như vậy, con tu hơi về thở chậm nhẹ đó thì ban đầu vô nó chừng hai chục giây, mới vô tu thì con thở ba giây bình thường, con thở chừng năm phút thì con thở chậm nhẹ chừng hai chục giây, lần lần tới chừng ba mươi phút nó nhẹ hơn, nhẹ thật nhẹ, nó chậm thật chậm, thì con thở chừng chắc gần 1 phút/ hơi thở đó Thầy. Thì thấy hơi thở rất là nhẹ, rất là chậm, mà con hổng biết là nó mấy giây, chắc có lẽ cũng gần một phút. Như vậy thì con thấy cái tâm con rất là yên lặng, nó tỉnh thức là nhờ mấy bữa rày con tập hơi thở, mà ngủ con cũng theo dõi hơi thở thưa Thầy, cũng để ý lưu ý theo hơi thở bình thường đó, rồi tâm mình nó tỉnh thức lắm. Tưởng thức nó cũng ít có đánh vào nữa, khi tu thì cũng nhờ mấy hôm rày, mấy bữa mà nó rất là kết quả, nó ít có tưởng vô.
Lúc trước thì con có trình với Thầy, con ngồi có mấy hơi thì tưởng vô, con đưa ra nó dập một cái nó đi ra luôn cả tiếng đồng hồ không có thở vô được đó Thầy. Con tin rằng cái đó là tưởng, cho nên nghe thầy Thiện Thuận mà tịnh chỉ được thì con hiểu chắc đó là do tưởng chứ không phải là do sức Định thật. Cho nên hôm rày con không có dám ám thị. Nếu mà con không trình Thầy, Thầy không có dạy con  thì hôm rày chắc con cũng có tịnh chỉ được cái đó rồi đó, do tưởng chứ không phải do định thật. Tưởng nó vô thật lẹ, thành ra con tu như vậy. Con trình Thầy coi có phải như vậy được hay là không, Thầy chỉ dạy cho con".
Trưởng Lão trả lời:
Bây giờ Thầy sẽ trả lời cho cô Diệu Hồng, cũng là trả lời chung cho các con để các con chuẩn bị cho cái sự tu tập của mình cho nó đúng cách, coi vậy chứ trong cái sự mà tu tập nó không có đơn giản. Còn Thầy ở đây thì các con có nghe cái lời mà thuyết giảng của Thầy á, có Thầy còn sửa, mà nếu mà không có Thầy thì khi đó thì các con không có biết đâu mà sửa hết. Mặc dù cái lời giảng của Thầy nhưng mà tới dù sao đi nữa Thầy Thấy cái trách nhiệm của Thầy mà giảng cái giáo án này thì đến cái giới hành, tức là cái hành động mà tu tập hàng ngày của các con đó, đó là cái điều rất quan trọng, cho nên Thầy đặt thành cái vấn đề là phải trọng yếu cho cuộc đời, phải bỏ hết cuộc đời, chỉ còn có giới hành này mà dẫn các con đi đến nơi đến chốn hay là không đến nơi đến chốn là cái chỗ này.
Còn từ hôm rày Thầy giảng cái giáo án là để biết được cái đường lối của đạo Phật tu tập như thế nào đúng, như thế nào sai, cái gì đúng, cái gì sai của đạo Phật Thầy đã dựng lại cho nó đúng của đạo Phật. Chứ hầu hết là bị người ta đã dùng những cái pháp khác mà người ta ném cái đường lối, pháp môn của Phật quá xa, làm cho người ta bây giờ không biết đường lối của đạo Phật tu như thế nào hết. Vì vậy thì đến giai đoạn giới hành là cái vấn đề rất quan trọng và cũng đồng thời những cái buổi mà học tập như thế này các con được thưa hỏi để mà rút tỉa những cái kinh nghiệm đồng thời để bổ túc sau những bài học giới hành mà Thầy sắp sửa dạy, thì các con cũng biết…
HẾT


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét